Tác giả |
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 41 of 51: Đă gửi: 22 November 2005 lúc 8:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Kế tiếp, pháp tập phi thường có hai phần:
1) pháp du già nhất-vị giữa người biết và vật được nhận biết
2) pháp du già không-thiền-định, nơi đây sẽ hiển lộ cái liên hệ nguyên sơ với toàn bộ tất cả mọi chuyện xảy ra và toàn bộ các ư nghĩa, xuyên qua cái phi ô nhiễm đồng hiện của Tánh Biết.
(ct)
Sửa lại bởi lan25 : 22 November 2005 lúc 8:51am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 42 of 51: Đă gửi: 22 November 2005 lúc 8:53am | Đă lưu IP
|
|
|
I. DU GIÀ NHẤT VỊ
Pháp du già nhất vị như sau: Dùng thí dụ của giấc ngủ và chiêm bao, chứng ngộ rằng vạn pháp chỉ là tánh biết. Dùng thí dụ của nước và băng, chứng ngộ rằng người biết và vật được biết chỉ là nhất vị. Dùng thí dụ của nước và sóng, mang tất cả các pháp về nơi tự nhiên của chúng.
Thứ nhất, chứng ngộ vạn pháp chỉ là tánh biết xuyên qua thí dụ về ngủ và mộng như sau: Bất cứ những ǵ trải qua trong giấc ngủ th́ không tách rời khỏi tâm. Cùng một cách như vậy, những kinh nghiệm trải qua trong khi thức chỉ là những giấc mơ của giấc-ngủ-vô-minh. Cứ để tâm an nghỉ tự nhiên trong khi các ư tưởng, tất cả những kinh nghiệm "bên ngoài" và tâm của học nhân khởi lên, và hăy nhận thức chúng không tách rời nhau, chuyển hóa chúng vào một vị (như vị mặn của biển, bất kể bọt sóng dị biệt thế nào).
(ct)
Sửa lại bởi lan25 : 22 November 2005 lúc 8:54am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 43 of 51: Đă gửi: 22 November 2005 lúc 8:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
Pháp thứ nh́, để thấy người biết và vật được biết chỉ là một, y hệt như nước với băng, th́ như sau: Bởi v́ bất cứ những ǵ khởi lên đều không có tự tánh, cho nên chúng đều là Không. Từng pháp một khởi lên cùng với tất cả các pháp khác. Do vậy, người nhận biết và vật bị nhận biết chỉ là một vị, y hệt như nước và băng. Cho dù học nhân nói là Niết Bàn (hạnh phúc) và Không, Tánh Sáng Hào Quang và Không, Trí Huệ và Không, cả ba cặp này đều là một. Nên kinh nói:
"Nếu học nhân hiểu đầy đủ, vạn pháp là như thế; học nhân không thể t́m thấy ǵ khác chỉ trừ như thế đó.
Nghe (văn), suy nghiệm (tư) và thiền định (tu), chỉ có như thế thôi."
(ct)
Sửa lại bởi lan25 : 22 November 2005 lúc 8:10pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 44 of 51: Đă gửi: 23 November 2005 lúc 12:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thứ ba, mang vạn pháp về trạng thái tự nhiên với thí dụ nước và sóng, như sau: Y hệt như sóng khởi lên từ nước, tất cả kinh nghiệm khởi lên từ Tánh Biết. Và Tánh Biết này th́ có bản tánh là không để một dấu vết để thăm ḍ.
Tổ Sư Sahara nói:
"Như tất cả được sinh khởi từ Tánh Biết,
Tánh Biết tự nó chính là đạo sư."
Lời dạy này được gọi là "một sự thật trải khắp các cơi của pháp giới" và là "một trải ra trong tất cả." Học nhân sẽ chứng ngộ đặc tính vô tự tánh của tất cả các trạng thái.
(ct)
Sửa lại bởi lan25 : 24 November 2005 lúc 10:06am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 45 of 51: Đă gửi: 24 November 2005 lúc 10:09am | Đă lưu IP
|
|
|
PHÁP DU GIÀ KHÔNG-THIỀN-ĐỊNH
Kế tiếp là pháp du già không-thiền-định, sẽ hiển lộ Pháp Thân xuyên qua tính vô nhiễm đồng hiện của Tánh Biết. Khi vô minh đă được tháo tung ra, bất kỳ nỗ lực nào để vượt thắng nó đều ngừng lại, và con đường chấm dứt, chuyến đi đă hoàn tất. Đây là giai đoạn "vượt quá mọi học hỏi" (vô học, hay là cảnh giới Phật) — Đó là quả tối thượng của Đại Thủ Ấn, vượt qua tất cả mọi đau khổ và vọng tưởng để vào cảnh giới vô-trụ.
Tổ Sư Tilopa trong bài Chuyển Hóa đă viết:
"Đây là trí tuệ của Tánh Biết trong tự thể,
nó vượt ra ngoài lời nói và vượt mọi dính mắc của tâm.
Tilopa không có ǵ khác để dạy.
"Hăy biết rằng tất cả mọi hành động đều là hiển lộ của Tánh Biết. Không tưởng tượng, không nghĩ ngợi tư lường, không phân tích, không thiền định, không quán sát, chỉ cứ giữ tâm trong nơi tự nhiên của nó."
(ct)
Sửa lại bởi lan25 : 24 November 2005 lúc 10:53am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 46 of 51: Đă gửi: 24 November 2005 lúc 9:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHẦN KẾT
Phần này gồm có:
1) chứng ngộ Đại Thủ Ấn và diện đối diện với nó,
2) hiểu biết về các chướng ngại và những cơ nguy chệch hướng,
3) hiểu những dị biệt giữa kinh nghiệm, kiến thức thực dụng, và lư thuyết.
Thứ nhất, chứng ngộ Đại Thủ Ấn và diện đối diện với nó, như sau: thiết lập căn bản, thực nghiệm tu tập, phân biệt các kinh nghiệm khác nhau và phẩm chất của các mức độ chứng ngộ và các giai đoạn trên đường tu, chứng nghiệm được những thành quả bốn pháp du già nói trên.
(ct)
Sửa lại bởi lan25 : 25 November 2005 lúc 7:48am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 47 of 51: Đă gửi: 25 November 2005 lúc 7:48am | Đă lưu IP
|
|
|
Thứ nh́, hiểu biết các chướng ngại và chệch hướng, như sau:
Các chướng ngại của hiện tướng được làm sáng tỏ bằng cách nhận biết tính bất dị giữa hiện tướng và tánh biết.
Các chướng ngại của tri kiến sẽ được phá vỡ bởi cách nhận biết tính bất dị giữa các niệm và Pháp Thân.
Những chướng ngại khởi lên do việc nắm giữ trong tâm sẽ được phá vỡ bằng cách nhận biết tính bất dị giữa người nhận biết và vật được nhận biết
Sửa lại bởi lan25 : 26 November 2005 lúc 10:53am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 48 of 51: Đă gửi: 26 November 2005 lúc 10:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Bốn trạng thái sau là các chệch hướng phải cảnh giác:
1) Rơi vào cái Không trống rỗng; cần điều chỉnh bằng cách tập nh́n Tánh Không như là Từ Bi.
2) Tự măn cho là đă thành tựu đầy đủ; cần điều chỉnh bằng cách chứng ngộ Thực Tánh của các pháp như nó là nó.
3) Ưa dùng các pháp đối trị; cần điều chỉnh bằng cách chứng ngộ rằng các pháp đối trị th́ không hề tách ly khỏi các chướng ngại.
4) Rơi vào tâm t́m cầu đạo pháp; cần điều chỉnh bằng cách chứng ngộ tính đồng hiện của các quả chứng nghiệm của Đại Thủ Ấn.
Sửa lại bởi lan25 : 27 November 2005 lúc 11:28am
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 49 of 51: Đă gửi: 27 November 2005 lúc 11:29am | Đă lưu IP
|
|
|
Thứ ba, nhận biết những dị biệt giữa kinh nghiệm, kiến thức thực dụng và lư thuyết, như sau: hiểu được thực tánh của tâm nhờ nghe pháp và tư lường chỉ mới là lư thuyết. Hiểu được tánh nhất vị là bắt đầu có kinh nghiệm (tu tập). Trau luyện vững vàng xuyên qua pháp không thêu dệt nghĩ tưởng mới là bảo đảm chắc thật. Hiểu biết hoàn toàn chỉ đến từ chứng ngộ hoàn toàn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
lan25 Hội viên

Đă tham gia: 05 September 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 137
|
Msg 50 of 51: Đă gửi: 18 December 2005 lúc 12:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phần sưu tầm và post những bài viết về Thiền Tập của Nguyên Giác đến đây là hết. Lan không t́m thêm được bài nào nữa. Bao giờ t́m thêm được những bài viết mới vế Thiền của Cư Sĩ Nguyên Giác và những Vị đi trước Lan sẽ post lên diễn đàn này sau.
Kính,
Lan.
Sửa lại bởi lan25 : 18 December 2005 lúc 12:45pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
kimlong Hội viên


Đă tham gia: 21 October 2005 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 51 of 51: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 12:32am | Đă lưu IP
|
|
|
Giá Trị Độc Đáo Của Thiền
Thiền Tông cũng như tất cả các trường phái Đại Thừa Phật Giáo khác đều lấy Đại Tạng Kinh làm thánh điển căn bản. Nội dung của thánh điển nầy là ghi chép lại những lời dạy của Đức Phật khi c̣n tại thế. Quá tŕnh h́nh thành thánh điển nầy qua những thời kỳ kết tập kinh điển... Sau nầy các đệ tử của ngài dựa vào những điều ghi chép, căn bản để chú thích, diễn giải, nghị luận thêm vào, cuối cùng tạo thành Ba Tạng Thánh Điển.
Ba Tạng Thánh Điển đó là: Kinh Tạng, Luật Tạng, và Luận Tạng.
Nguyên thỉ của Tam Tạng Thánh Điển được ghi chép bằng tiếng Sanskrit và Pali, về sau được dịch ra thành Tạng Hán Văn, Tạng Tây Tạng, Tạng Mông Cổ, Tạng Nhật Bản, và gần đây lại được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, và Đức..v..v.. Các thứ kinh sách đă được phiên dịch và biên chép nầy được xem như những thánh điển, những tài liệu rất quư báu để t́m hiểu hệ thống tư tưởng và nền Triết học sâu xa của Phật Giáo.
Vào đời Đường(618-907) và đời Tống(960-1279) của Trung Hoa các nhà truyền giáo đă đưa Ba Tạng Kinh Điển vào Nhật gồm có 5,048 quyển, và gần đây giáo sư Takakusu đă bổ túc cho những kỳ ấn hành mới nhất nầy gồm các bản văn của Trung Hoa và Triều Tiên cũng như bản văn vừa t́m thấy tại Trung Á và Nhật Bản, một công tŕnh kể cả 13 năm gồm 13,520 quyển, chia làm 100 tập mỗi tập 1000 trang. Hiện nay toàn bộ văn học của Phật Giáo tức là Tam Tạng Kinh Điển được tồn trữ tại Nhật Bản được coi là tương đối đầy đủ và được các giới học giả để tâm khảo cứu.
Như thế Tam Tạng Thánh Điển là một kho tàng văn hóa chứa đựng rất nhiều kinh sách. Có thể nói trên thế giới ngày nay, ngoài Phật Giáo ra không có một tôn giáo nào có một kho tàng kinh sách vĩ đại như thế. Tam Tạng Thánh Điển nầy ngoài tính cách chứa đựng một hệ thống triết lư tôn giáo ra, c̣n có một tính cách quan trọng hơn, là chứa đựng một kho tàng về văn học, nghệ thuật tư tưởng Đông Phương rất dồi dào phong phú.
Từ Ba Tạng Thánh Điển, các đệ tử của Đức Phật y cứ vào lời giảng dạy tạo thành các trường phái khác nhau. Tại Ấn Độ cũng đă hưng thịnh hơn 1500 năm, và sau đó được truyền bá sang các nước khác.
Nguyên Thỉ Phật Giáo hành tŕ giống như Đức Phật c̣n tại thế, và tiếp tục phát triển tại các nước: Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, và Cam Bốt. Đại Thừa Phật Giáo, chú trọng đến sự giải thoát của quần chúng, th́ được phát triển tại Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ, Việt Nam... Có thể nói sự phát triển của Phật Giáo Đại Thừa tại Trung Hoa đă tiến những bước dài và cũng là nơi mà những tư tưởng dị biệt của các tôn phái đại thừa được hệ thống hóa. Những trường phái Đại Thừa Phật Giáo phát triển tại Trung Hoa gồm có:
01- Tỳ Đàm Tôn
02- Thành Thật Tôn
03- Tam Luân Tôn
04- Luật Tôn
05- Niết Bàn Tôn
06- Địa Luận Tôn
07- Tịnh Độ Tôn
08- Thiền Tôn
09- Nhiếp Luận Tôn
10- Câu Xá Tôn
Phát triển tại Trung Hoa trước sau có mười tôn phái, tuy nhiên cho đến thời kỳ hoàn chỉnh trong đời Tùy và Đường th́ Địa Luận Tôn sau trở thành Hoa Nghiêm Tôn, Niết Bàn Tôn trở thành Thiên Thai Tôn, cùng lúc có sự góp mặt của Thiền Tôn, cả ba đều phát triển rất mạnh, sau đó lại truyền sang Nhật Bản. Thời kỳ đầu sự phát triển của Hoa Nghiêm Tôn, Thiên Thai Tôn, và Thiền Tôn phát triển rất mạnh tại Trung Hoa, nhưng sau đó lại suy vi, tuy nhiên tại Nhật Bản các tôn phái nầy vẫn c̣n tồn tại trong đức tin quần chúng, cũng như trong những công cuộc nghiên cứu của giới trí thức. Do đó con đường duy nhất để tŕnh bày toàn bộ triết lư của đạo phật với những tôn phái dị biệt của nó, có lẽ là chúng ta phải thiết lập một tổng cương về Phật Giáo Nhật Bản.
Mặc dầu Ba Tạng Thánh Điển chứa đựng một hệ thống triết lư Phật Giáo, và cũng là chứa đựng một kho tàng về văn học, nghệ thuật tư tưởng của nhân loại. Các trường phái của Đại Thừa Phật Giáo, có những trường phái cho Kinh sách là vật thiêng liêng, tuyệt đối phải tôn trọng tiêu biểu như:
a- Tịnh Độ Tôn: Bảo vật của tôn phái nầy là:
- A Di Đà Kinh
- Vô Lượng Thọ Kinh
- Quán Vô Lượng Thọ
b- Tịnh Độ Chân Tôn: Bảo vật của tôn phái nầy là:
- Vô Lượng Thọ Kinh
c- Nhật Liên Tôn: Bảo vật của tôn phái nầy là
- Kinh Pháp Hoa
Tuy nhiên có những trường phái th́ không phải như thế. Tiêu biểu như Thiền Tôn. Đặc điểm của Thiền Tôn, mặc dầu là có căn cứ vào kinh điển, nhưng cũng vừa phủ nhận giá trị tuyệt đối của văn tự. Theo quan điểm của Thiền, th́ văn tự và ngôn ngữ là những h́nh thức, phương tiện để diễn tả tư tưởng, biểu hiện những khái niệm trườu tượng của tâm linh. Tư tưởng và khái niệm không những chỉ là những vật đă được diễn tả nơi văn tự và ngôn ngữ. C̣n có những cái trong tư tưởng, trong khái niệm mà văn tự và ngôn ngữ không thể diễn tả được, hay chỉ diễn tả được một phần nào thôi. V́ thế văn tự và ngôn ngữ không có những giá trị tuyệt đối. Đối với Thiền, văn tự và ngôn ngữ chỉ là những đối tượng, những ngoại diện. V́ thế không thể cố chấp nơi văn tự và ngôn ngữ, mà phải rời nó đi t́m chân lư. Thiền Tôn cho rằng người mà c̣n chấp trước vào danh ngôn hay luật lệ th́ không bao giờ có thể thấu đáo hoàn toàn ư nghĩa chân thật của người nói. Lư tưởng hay chân lư mà Đức Phật chứng ngộ chắc chắn khác hẳn với những ǵ mà Ngài đă giảng dạy, bởi v́ giáo thuyết nhất thiết bị ước định bởi ngôn từ mà Ngài dùng bởi thính chúng để Ngài giáo hóa và bởi hoàn cảnh xảy ra cho người nói và nghe. Cái mà Thiền nhắm đến là lư tưởng của sự giải thoát và không bị ước định bởi ngôn từ ngoại cảnh, v́ thế Thiền Tôn hay c̣n gọi là Phật Tâm Tôn có những điểm đặc sắc khác với các trường phái khác là như thế.
Thiền Tôn hay c̣n gọi là Phật Tâm Tôn là muốn nói trường phái dùng tâm làm tiêu điểm để tu tập, nên c̣n gọi là tâm giáo hay giáo lư về Tâm. Chữ nầy có lẽ là lược ngữ hay nhất để Thiền Tôn chỉ những ǵ Thiền muốn nói, v́ những ǵ Thiền giảng dạy chính là đường lối để giác ngộ viên măn về tâm. Ngộ chỉ là một tên khác chỉ sự khai mở viên măn của cái tâm nội tại. Ngoài cơi miền sâu thẳm và mênh mông của Tâm th́ chẳng có ǵ để ngộ cả. Do đó mục tiêu duy nhất của Thiền là khiến ta có đủ khả năng để hiểu, thực hiện, và toàn thiện của tâm ḿnh. Tâm là chủ đề và then chốt của việc nghiên cứu Thiền. Phật Giáo và Tâm Lư Học hiện đại đều cho chúng ta biết rằng tâm có nhiều phương diện và giai tầng. Tuy nhiên, Thiền không lưu tâm đến phạm vi dị biệt nầy mà chỉ lưu ư đến việc thâm nhập vào thể, hoặc là bản chất, hoặc cái điểm tận cùng của tâm, v́ Thiền chủ trương rằng một khi nắm được cái tâm điểm nầy, tất cả những cái khác hẳn trở nên có phần không hệ trọng và sẽ rơ như ban ngày.
Thế th́ cái bản chất của tâm là ǵ? Nói một cách cô đọng bản chất của tâm là tự thức. Tự Thức có nghĩa là ư thức được những biến hiện của ư thức, hoặc ư thức được các ấn tượng nhận được hay các h́nh ảnh do ư thức nhận bắt được. Ư thức được sự biến hiện nầy là một kinh nghiệm tuyệt đối thuần túy trong đó không có chủ thể(năng tri) hoặc khách thể(sở tri), năng tri và sở tri hợp nhất vào một thực thể của cảm thức thuần túy. Trong cái cảm thức thuần túy nầy không có chỗ cho sự lưỡng phân của nhị nguyên luận. Tự thức thuần túy th́ thực sự và thực nghiệm có tính chất bất nhị, như các hiền triết Phật Giáo và các tôn giáo khác đă chứng thực cách đây nhiều thế kỷ. Tự thức tức là bản chất của tâm không phải là tác năng của tri thức, mà ta chính là tri thức trong h́nh thức chân thật nhất của nó. Khi một người khám phá ra cái tự thức nầy, th́ người ấy sẽ thấy cả con người ḿnh thay đổi. Trong khi dấn thân vào một hành động nào đó, người ấy sẽ cảm thấy như ḿnh đang vượt qua chính hành động đó, đang nói chuyện và đi lại, nhưng người ấy cảm thấy cái nói và đi của của ḿnh không giống như trước, mà bây giờ chính ḿnh đi với một tâm thức mở rộng. Người ấy thực sự biết rằng chính là ḿnh đang làm cái công việc đi, kẻ chỉ đạo chính là ḿnh đang ngồi ngay giữa tâm của ḿnh, kiểm soát tất cả hành động một cách tự nhiên. Người ấy đi trong ư thức sáng sủa và với tâm linh chiếu diệu. Nói cách khác, người ấy đă thực hiện tự thức cảm thấy rằng ḿnh không c̣n là tên đầy tớ ngoan ngoăn của sự mù quáng, mà là chủ của chính ḿnh.
Nếu cái tự thức nầy được duy tŕ và tôi luyện, chắc chắn chúng ta thể nghiệm được cái phương diện sáng tỏ của tâm mà chúng ta thường gọi là Tỉnh Thức. Khi cái ư thức chiếu diệu nầy được tôi luyện tới mức độ viên măn nhất của nó, chúng ta thấy rơ ràng vũ trụ nằm trong ṿng bao trùm của nó. Hàng nhị thừa đă lầm lạc coi trạng thái nầy là trạng thái cao nhất, trạng thái Niết Bàn. Nhưng theo Thiền, trạng thái nầy vẫn c̣n luân hồi sanh tử. Những đạo sĩ ngoại đạo đă đạt đến trạng thái nầy vẫn c̣n bị ràng buộc bởi cái tư tưởng nhất nguyên đă bắt rễ sâu xa, không đủ khả năng để cắt đứt sợi dây chấp trước vi tế trói buộc, và không thể tự giải thoát ḿnh qua bờ bên kia của tự do hoàn toàn. Do đó tự thức, hoặc cái h́nh thức đă tôi luyện của nó, cái ư thức chiếu diệu là một manh mối của tất cả những thực hiện nội tâm, bản chất và đặc tính của nó vẫn chấp trước. Ngộ của Phật Giáo không đạt được bằng cách bám lấy hay bành trướng tự thức của ḿnh. Trái lại sự giác ngộ đạt được nhờ giết chết hay tiêu diệt bất cứ một sự chấp trước nào vào cái ư thức chiếu diệu nầy, bằng cách vượt qua nó th́ chúng ta mới đạt đến được cái tâm điểm tận cùng nhất của tâm. Cái không hoàn toàn tự do, hoàn toàn vô tướng sáng tỏ. Cái tính không chiếu diệu nầy, trống rỗng nhưng năng động, là thể của tâm. Như thế, Phật tâm vốn cũng chỉ là Tâm người thường, nhưng nếu biết và siêng năng thực tập chỉ cần nh́n thẳng vào tâm địa đó là có thể đưa hành giả đến giác ngộ viên măn.
Chủ ư chung của Thiền Tôn trước sau ǵ cũng đều khuyến khích để chúng ta tự thấy đúng và tự đi đúng. Thấy đúng có nghĩa kiến đạo, khác biệt với đi đúng, v́ đi đúng có nghĩa là tu đạo. Bởi v́ b́nh thường người ta thường đi mà không thấy, do đó Thiền Tôn chú trọng đến thực hành bằng cách trở về với con người thật của ḿnh, tức là đi như thế nào, để đừng xao lăng việc tu tập cho chính ḿnh và việc giáo hóa những hoạt động trí thức, để xác định con đường chân chính tu tập, tức là thấy thế nào. Để phán đoán con đường sắp đi có đúng hay không, chúng ta hăy cứ thử t́m hiểu. Trước nhất trong xă hội hiện tại mọi người ai cũng biết rằng học vấn hay những phát minh của khoa học đang cung ứng cho đời sống hiện tại là quan trọng, nhưng càng thực tập, càng đi chúng ta càng khám phá ra rằng triết lư quan trọng hơn tất cả những thứ khác. Bởi v́ trong xă hội hiện đại, chúng ta thấy đầy đủ tất cả những phương tiện không thiếu thứ ǵ, nhưng giả dụ trong trường hợp mà khoa học không cung ứng một giải đáp thoả đáng nào, th́ con đường duy nhất là chúng ta phải trông cậy vào phương pháp tư duy của Thiền để soi tỏ vào bất cứ vấn đề nào được nêu ra. V́ tính cách quan trọng như vậy cho nên trước tiên chúng ta phải thấy con đường rồi mới bắt đầu đi trên đó. Mỗi bước tiến nhờ vào tư duy sẽ đưa người vượt qua những ồn ào, náo nhiệt, phiền muộn, lo âu, thị phi của kiếp người, để tiến lần đến hư không của thiên giới và cuối cùng đạt đến giác ngộ viên măn như Đức Phật.
Một khía cạnh khác Thiền Tôn dạy chúng ta phải tập Quán. Quán là con mắt nh́n thấu suốt các vấn đề không bị chướng ngại và đồng thời là bước chân trên con đường chân thật. Thiền định và quán là thấu kính trong đó những đối tượng bên ngoài bị tụ hội để rồi phân tán và khắc ấn tượng lên mặt của những âm bản bên trong. Sự tập trung vào thấu kính nầy chính là định, và định càng sâu th́ giác ngộ càng mau chóng. Những ǵ khắc đậm hơn vào lớp phim âm bản là huệ và căn bản của những hoạt động tri thức. Qua ánh sáng trí huệ, rọi bên ngoài hành giả nh́n và thấy lại cái ngoại giới sai biệt rồi theo đó mà hành sự thích nghi vào cuộc sống thực tế.
Đó cũng là lư do tại sao Thiền tôn chủ trương không lập văn tự. Không lập văn tự không có nghĩa là Thiền Tôn không dùng văn tự, mà không lập văn tự ở đây muốn nói là không quan niệm văn tự trong kinh điển là những vật tuyệt đối, là mục đích cuối của con đường đi t́m chân lư. Phải biết rằng ở đây nói không lập văn tự chứ không phải nói là không dùng văn tự. Bởi v́ Thiền Tôn cũng có những kinh điển đọc tụng hằng ngày. Thiền Tôn tuy là đọc tụng kinh sách, nhưng không bao giờ chấp trước, trái lại chú trọng phần thể đắc. Hơn nữa, chúng ta cũng cần nhớ rằng kinh điển phần nhiều là tùy theo sự phán giáo. Phán giáo tức là nương vào những giáo pháp của Đức Phật để phán đoán, phân loại và tổ chức thành từng bộ môn có cao thấp, rộng hẹp khác nhau như Tam Thừa, Ngũ Thừa... Lúc c̣n ở Ấn Độ chưa có sự phán giáo nầy, nhưng về sau khi truyền vào Trung Hoa sự phán giáo mới bắt đầu. Cho nên chúng ta có thể nói: Phán giáo là sắc thái đặc biệt của Phật Giáo Trung Hoa. Mục đích của sự phán giáo là đề cao giáo pháp của Đức Phật bằng cách phân loại kinh điển thành từng bộ loại, từng hệ thống một, rồi tổ chức quy hướng những bộ loại hệ thống kinh điển ấy để phù hợp với thâm ư của Đức Phật. Riêng về các trường phái của Đại Thừa Phật Giáo, phán giáo c̣n có một mục đích đề cao những kinh điển mà trường phái của ḿnh đang tín phụng, nêu tỏ địa vị ưu tú của chủ trương, của đường lối, của trường phái mà ḿnh đang thực hành theo. Đó là nguyên nhân chính trong sự tổ chức Phật Giáo ở Trung Hoa rồi truyền đến Nhật Bản được bổ túc và cấu tạo nhiều thêm nữa. Thiền Tôn là một trường phái chủ trương Bất Lập Văn Tự, nên trong Thiền không có sự phán giáo. Phương pháp truyền đạo của Thiền là Giáo Ngoại Biệt Truyền. Giáo Ngoại Biệt Truyền tức là không căn cứ vào sự phán giáo, không áp dụng theo một phương pháp riêng biệt để truyền thừa chân lư Phật Giáo. Ở đây cũng nên nhớ rằng: Thiền tuy không nương vào sự phán giáo, nhưng không phải cho sự phán giáo là hoàn toàn không có giá trị. Thiền chỉ phủ nhận quan niệm cho sự phán giáo là chân Phật giáo thôi. Hơn nữa cũng phủ nhận luôn cả cho Thiền là tuyệt đối, là chân Phật pháp nữa. Đường lối của Thiền là phá trừ chấp trước, phủ nhận ngoại cảnh và hướng đến nội tâm để t́m lại tự tánh ban đầu đó là Phật Tánh. Trong Kinh Niết Bàn có câu:
- Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh
Đây là câu phương ngôn, là đầu ngữ của Thiền. V́ trong tâm của cả chúng sanh đều có Phật tánh, cho nên chỉ cần phát huy Phật tánh ấy chứ không cần phải đi t́m cầu những vật ở ngoài tâm. Phật tánh ấy Thiền Tôn gọi là chân tánh, tức là chỉ cho tự tánh thanh tịnh, và tự tâm chân thật của mọi loài chúng sanh. Biết rằng tất cả chúng sanh ai cũng có Phật tánh, nhưng nếu chỉ biết như thế mà không thực hành th́ cũng không có lợi ích ǵ. Muốn thực hành theo lư thuyết ấy trước tiên phải có ḷng tin. Nói về niềm tin, trong Phật Giáo bất cứ trường phái nào cũng đều lấy tín tâm làm căn bản. Trong kinh luận thường diễn tả hai con đường đi đến sự thành Phật như sau:
01- Diệt trừ bản ngă vị kỷ, tín niệm phật Pháp, tức quyết định thành Phật.
02- Chánh tín quyết định, tức là Phật tánh hiển hiện. Phật tánh hiển hiện th́ được giác ngộ và thành Phật.
Như thế con đường thành Phật tuy có hai cách nhưng cách nào cũng xây dựng trên niềm tin cả. Đức tin là mẹ sanh của các công đức. Chữ Phật tánh theo quan điểm của Thiền thường gọi là Như Lai Tạng,
Thuyết lư của Thiền là chú trọng đến chỗ trực ngộ. Ngay nơi bổn giác chân tánh của chúng sanh là ngộ và tu rồi. V́ thế phương pháp tu hành của Thiền là dùng trí để quan sát, dùng định để trực ngộ. V́ lư do đó khi toạ thiền người tu thiền thường dùng trí để quán sát thân tâm ḿnh. Thân do bảy đại(đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức đại) ḥa hợp mà thành. Tâm do trần lao phiền năo mà khởi. Cả thân và tâm đều không có thật. Cho đến tội ác thâm trọng cũng chính là không, v́ chính nó là khách trần phiền năo, là ngoại lai chứ không phải là cái sẳn có của ḿnh. Cái sẳn có của ḿnh chỉ là Phật tánh. Phật tánh mới thật là cái chân thật của ḿnh. Cho nên chấp trước vào thân tâm hư giả, theo đuổi với phiền năo, tội chướng, không có, tức là đi ngược lại với bản tánh sẳn có của ḿnh. Do quán sát và tu tập như thế nên Thiền chính là phương pháp đưa con người trở lại với chính họ, như Tổ Sư Đạt Ma nói như sau:
- Phương pháp tu tập thiền không cần phải bỏ mất th́ giờ bởi ngôn ngử văn tự qua những khái niệm nan giải như thần linh, sự thật..v..v.. Thiền chỉ khuyến khích người tu tập hăy quay về với tự tâm, nh́n thẳng nơi bản lai diện mục của ḿnh mà thôi.
Thiền Tôn thường dạy cho người tu thiền phương pháp nội tĩnh, tự quán sát lấy bản tâm ḿnh và tự tin rằng:
- Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Trong phương pháp Nhị Nhập(1) và Tứ Hạnh(2) của ngài Bồ Đề Đạt Ma, th́ có Lư Nhập và Xứng Pháp Hạnh là đào luyện cho người tu ḷng tin: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, và cố gắng để chứng đắc, thể hiện Phật Tánh nầy trong đời sống hằng ngày. Các vị Thiền Tổ về sau căn cứ vào thuyết lư nầy của ngài Bồ Đề Đạt Ma rồi dạy cho đệ tử các pháp yếu như:
- Tâm Tức Phật
- Kiến tánh thành phật...
Mục đích chính của pháp yếu nầy là khai thị cho mọi người liễu ngộ được ư nghĩa: Tâm tức phật, Phật tức Tâm. Đây là ư nghĩa cốt yếu của Thiền học. Theo quan điểm nầy ngài Bạch An đă phát biểu ư nghĩa nầy trong bài kệ về pháp toạ thiền:
- Chúng sanh vốn là Phật, cũng như băng và nước, không có nước th́ không có băng...Chính thế gian nầy là liên hoa cảnh giới và thân nầy là Phật. Ư niệm căn bản của Thiền Tôn là đồng nhất tính của:
- Hữu và Vô
- Chân tướng vô tướng
- Pháp môn vô môn
- Thánh trí vô trí
Sự hỗ tương và đồng hóa giữa hai ư tưởng đối lập như đen và trắng, thiện và bất thiện, thanh tịnh và ô nhiễm... là kết quả của thâm nhập thiền tư duy qua các tư tưởng:
- Pháp thân không tướng, nhưng hóa hiện mọi h́nh tướng. Kim khẩu không lời, nhưng phát hiện mọi lời.
Như trên là lư thuyết căn bản, tuy nhiên muốn thấu triệt tư tưởng nầy, chúng ta cần phải có thời gian, một ḷng cầu đạo, trải qua nhiều công phu thử thách, t́m cầu học hỏi và tu luyện, để định tâm vào tư duy tịnh mặc về một công án được đặt ra cho chúng ta để trắc nghiệm khả năng, tiến bộ đến tỏ ngộ. Khi nhận một công án, rất có thể chúng ta thực hành trong khu rừng vắng, hoặc ngồi tĩnh tọa nơi thiền đường trong tư thế thoải mái, chân kiết già, thân ngay ngắn, tay kiết ấn, mắt mở nửa chừng. Đây gọi là thiền tọa có thể kéo dài nhiều ngày đêm thực tập, ở, ăn, ngủ... tất cả đều được giữ chừng mực. Im lặng được tuyệt đối tuân giữ, tức khi tọa thiền, thọ thực tẩy trần không ai được nói lời nào và gây tiếng động nào. Lối thực tập mới xem qua có vẻ như xa ĺa thế giới thực tế, nhưng mà tâm thức của các hành giả thiền là luôn luôn hướng đến sự tuân giữ nghiêm mật và vi tế những luật nghi. Ngoài ra để thực hiện lư tưởng nầy chúng ta cũng có thể thực hiện ngay trong đời sống hằng ngày và trong kinh nghiệm của cá nhân qua những cách ngôn danh tiếng của các vị Thiền Sư như là:
- Bất tác bất thực
- B́nh thường tâm thị đạo
- Đi đứng, nằm, ngồi đều là thiền...
Đó là điển h́nh của sự thực hành lư tưởng nầy. Do đó không cần ngần ngại khi nói rằng Thiền là sự đ̣i hỏi một cuộc tu tập để lắng nghe tiếng nói trong im lặng, để t́m thấy hành trong vô hành, động trong bất động, hay để an nhiên trong tĩnh lặng và không sợ hăi trước cái chết. Trong tinh thần: B́nh thường tâm thị đạo và Đi đứng, nằm, ngồi đều là thiền... Trong chiều hướng đó chúng ta c̣n thấy tinh thần của Thiền học được ẩn tàng sâu sắc trong các khía cạnh: Văn học, hội họa, kiến trúc... Tại Nhật Bản có thể nói tinh thần thiền hầu như không thể tách rời khỏi cuộc sống của người dân Nhật Bản
Tóm lại thuyết lư căn bản của Thiền là: Bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền và Trực Chỉ Nhân Tâm Kiến Tánh Thành Phật. Từ đó chúng ta có thể nói chủ trương của Thiền Tôn là Đả Khai và Đốn Ngộ. Đả khai tức là đập tan, cổi mở tất cả các sự ràng buộc bởi lớp phiền năo và cố chấp. Đốn ngộ tức là không theo với phương pháp tiệm tu mà thực hành theo phương pháp trực ngộ, nghĩa là tức thời thành phật, v́ rằng tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, tức tâm là Phật vậy. Chính đó là giá trị độc đáo của Thiền, chúng ta không thể t́m thấy trong các tôn phái khác của Phật Giáo.
__________________ Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|