Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 205 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Con Mắt Thứ 3-Thần Nhăn-Thiên Nhăn(Dibbacakkhu) Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 8:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang


CON MẮT THỨ 3



Kính chào quí vị và các ban!

Kính mời quí vị và các bạn tham gia chủ đề đầy lí thú và hấp dẫn này. Tôi rất mong được cùng mọi người t́m hiểu và thảo luận. Đây là một chủ đề rộng lớn, rất mong được sự đóng góp của mọi người để vấn đề này được sáng tỏ hơn.

Chân thành cảm ơn.
Kính chúc quí vị và các bạn thân tâm thường an lạc.
Nam mô Thần Thông Đệ Nhất A La Hán Mục Kiền Liên Tôn Giả.
Phổ Quảng
kính chào
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 9:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

I.QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI THẦN THÔNG VÀ QUYỀN NĂNG SIÊU NHÂN:
*Theo Phật Học Quần Nghi của HT.Thích Thánh Nghiêm:

Phật giáo thừa nhận có phép thần thông. Phàm phu cũng có thể chứng được năm phép thần thông. Bậc Thánh xuất thế chứng được sáu phép thần thông (lục thông). Đức Phật có ba minh, sáu thông.

Năm thần thông là : Túc mạng thông, biết được đời sống quá khứ. Hai là Thiên nhăn thông, biết được đời vị lai, thấy được xa ngoài tầm nh́n của mắt thịt. Ba là Tha tâm thông, biết được hoạt động tâm niệm của người khác. Bốn là Thiên nhĩ thông, nghe được những âm thanh ngoài tầm nghe b́nh thường. Năm là Thần túc thông, tức là có thể bay nhanh, bay xa, đi lại trong nháy mắt. Năm phép thần thông nói trên đều là phép hữu vị, hữu lậu, do tŕnh độ dụng công mà phạm vi hoạt động có thể rộng hẹp, thời gian duy tŕ có thể dài hay ngắn khác nhau. Năm thần thông không có quan hệ với đạo giải thoát, tất nhiên đó cũng không phải là đạo Bồ Tát. V́ vậy, bậc Thánh phải cầu cho được Lậu tận thông.

Lậu tận thông là phá được ngă chấp chứng được Niết-bàn. Tiểu thừa là A-la-hán, đại thừa là Bồ tát sơ địa, và từ Thất địa, trở lên. Chỉ có Phật là chứng được ba minh tức là Thiên nhăn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh.

Đó là v́ chỉ duy nhất có sức mạnh thần thông của Phật là triệt để, cứu cánh, viên măn, vô ngại, là phương tiện để độ chúng sinh chứ không phải để thi thố phép lạ. Một số người tu ngoại đạo, nhờ cảm ứng với quỷ thần mà sai khiến được quỷ thần hay là bị quỷ thần sai khiến, cho rằng chứng được ba minh sáu thông. Đó là điều hết sức ấu trĩ và nguy hiểm.

Bởi v́, thần thông không thể đi ngược lư nhân quả, không thể thay đổi những sự việc đă rồi, mà chỉ có thể dự báo được tin tức tương lai hoặc tin tức từ nơi xa. Do đó, mà chỉ có khả năng tạm thời chống đỡ hay lẫn tránh sự cố. Thần thông cũng chỉ là một trong những hiện tượng tự nhiên, không thể đi ngược với quy luật tự nhiên. V́ vậy mà người có phép thần thông, ngoài việc làm những việc dị lạ để mê hoặc người ra, không thể giúp ích ǵ cho t́nh h́nh hỗn loạn của xă hội, cũng không làm cho nhân tâm bớt phần lo lắng bàng hoàng. Ngược lại, người đam mê phép thân thông sẽ tách rời cuộc sống b́nh thường. V́ vậy, khi c̣n tại thế, Đức Phật không cho phép đệ tử lạm dụng phép thần thông. Các đệ tử A-la-hán, không phải vị nào cũng có thần thông. Dùng thần thông có thể nhất thời cảm hóa chúng sinh, nhưng không thể nhiếp hóa chúng sinh lâu dài được. Trong hàng ngũ tỳ-khiêu giỏi thần thông nhất có Đại-Mục-Kiền-Liên. Trong hàng ngũ tỳ-khiêu-ni, thần thông đệ nhất là Liên-Hoa-Sắc. Thế nhưng, Tôn giả Mục-Kiền-Liên bị ngoại đạo dùng gậy đập chết. C̣n Tỳ-khiêu-ni Liên-Hoa-Sắc th́ bị gậy sắt của Đề-Bà-Đạt-Đa đánh chết. Chính v́ vậy mà các vị Tổ-sư qua các đời ở Ấn Độ cũng như ở Trung Quốc đều rất ít dùng thần thông để truyền bá Phật giáo.

Như mọi người đều biết, tại cao nguyên Tây Tạng trong núi cao rừng sâu, có những người tu theo Phật giáo, tập thiền định và chứng được các phép thần thông. Trong họ, có người có khả năng gọi gió, làm mưa, rắc hạt đầu thành binh tướng, có thể phi kiếm chém chết người ở cách xa muôn dặm. Thế nhưng, trong lịch sử của Phật giáo Tây Tạng đă xảy ra pháp nạn một vài lần, Phật giáo bị bài xích và tiêu diệt, thần thông mất hiệu nghiệm.

Ngay ở Đài Loan, hiện nay cũng không ít người chứng được ba minh sáu thông, thế nhưng đảo này hầu như năm nào cũng có băo tố động đất, lũ lụt và những tệ nạn lưu manh trộm cướp, thổ phỉ gây rối loạn cho xă hội. Các vị có phép thần thông đă làm ǵ cho Đài Loan sống an b́nh, tránh được thiên tai.

Xem thế mới biết, sức mạnh của nghiệp, cộng nghiệp và biệt nghiệp, là khó chống đỡ. Mê tín phép thần thông của quỷ thần chỉ làm cho t́nh h́nh càng khó khăn phức tạp thêm, tài sản càng bị tổn thất nhiều thêm, hao tốn nhiều thời gian và tinh lực hơn. V́ vậy, mà Khổng Tử không chịu nói chuyện "Quái lực loạn thần". Trong thời đại xă hội văn minh và trí thức phổ cập ngày nay, phải lấy Phật giáo chính tín để mở mang trí tuệ, không nên đam mê phép thần thông kỳ lạ. Bởi v́, trên thực tế đó cũng chỉ là huyễn thuật của hiện tượng quỷ thần mà thôi.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 9:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

II.Theo Các Đạo Giáo Ấn Độ:
Con mắt thứ 3, là Thần Nhăn, hay là Thiên Nhăn chính là Luân Xa 6 (AJNA) nằm dưới điểm giữa dưới trán độ 2 phân, giữa 2 lông mày, tượng trưng bằng hoa sen 2 cánh nhưng nh́n kỹ có 100 cánh. Muốn sử dụng Thiên Nhăn th́ ta phải có nội lực dồi dào, sung măn. Do đó, trước hết ta phải đă thông các Luân Xa, tẩy trược cho nhiều và gia tăng nội lực cho thạt mạnh. Thiên Nhăn có thể nh́n thấy các Linh ảnh của quá khứ, hiện tại và vị lai của bất cứ người nào, cũng có thể hiểu rành mạch vể Thiên Văn, Địa Lư. Thiên Nhăn cũng có thể sử dụng Linh quang như một cái đèn rọi cực mạnh để có thể quét sạch các ô trược, kiếp nạn của một nơi nào , hoặc độ cho những nơi nào bị thiên tai, hoạn họa. Với mọi người hiệu năng Thiên Nhăn thay đổi tùy theo cơ duyên, kiếp nghiệp, nhưng con mắt thứ 3 này quả là một viên ngọc vô cùng quư báu cho người tu hành.
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 4 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 10:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

III.BÍ ẨN VỀ CON MẮT THỨ 3 (HUỆ NHĂN):
Trích Báo Viên Giác tại Tây Đức số 110, tác giả ĐOÀN vĂN THÔNG:

Từ xưa đến nay, đă có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu h́nh đă đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng mà không thể giải thích được. Thời đó có các nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Rivers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. -E, Osborne Harold... Đặc biệt là một người đàn bà, một người nữ văn sĩ tên là Alexandra David Neel đă đơn phương độc mă trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của đỉnh Trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là nghiên cứu t́m hiểu tận chỗ những ǵ thuộc lănh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới phương Tây mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong các hang động, nơi mà Trời và Đất như ḥa vào nhau thành một.

Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, bộ năo luôn luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là phải biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những ǵ mà người nước khác đang dự định trong đầu. Ngoài ra những vị này c̣n có khả năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ư tưởng xấu hay tốt mà người đó đang dự định. Vào thời Đại sư Lobsang c̣n tại thế, Ngài thường ngồi sau màn quan sát các Sứ bộ nước ngoài đến thăm Tây Tạng. Thời đó Trung Hoa thường cử phái đoàn tới thăm nhưng bao giờ cũng mang theo ư đồ xấu xa là muốn chiếm đóng và cai trị đất nước Tây Tạng. Tuy nhiên mọi ư tưởng ấy đều biểu lộ rơ qua cặp mắt của Ngài Lobsang đang ngồi sau bức màn. Tây Tạng cũng có lần bị thực dân Anh chiếm đóng khoảng năm 1904. Vào thời đó chính thân phụ của Đại sư cũng đă nhờ nhăn lực mà biết được t́nh trạng bất ổn do quân đội Anh gây ra và Đức Đạt Lai Lạt Ma thời đó cũng đă phải rời Tây Tạng sang Mông Cổ cho qua cơn Pháp nạn.

thuyết vụ nổ lớn big bang với hiện tượng tập trung năng lượng

Thuyết về vụ nổ lớn Big Bang của nhà Vật Lư học George Gamov nêu ra (khoảng năm 1948) cho rằng cách đây khoảng hơn 15 tỷ năm, vũ trụ được tạo thành từ một đám mây Hydrogene. Đám mây này gồm có vô số nguyên tử Hydrogene quy tụ san sát nhau tạo nên một mật độ vô cùng lớn. Toàn thể đám mây quay cuồng với một tốc độ khủng khiếp vừa quay lại càng co rút hơn nữa khiến các nguyên tử khí kết tụ sát lại nhau dồn nén cực độ tạo ra một phản ứng nhiệt hạch khiến đám mây phải nổ tung, vụ nổ vĩ đại này làm phát sinh nên vô số thiên hà.

Có h́nh: BIG BANG: Sự phát sinh vũ trụ

Qua thuyết trên ta thấy một khi có sự tập trung th́ kéo theo một hậu quả quan trọng. Khi một vị Đạo Sư tập trung tư tưởng th́ sự tập chú ấy cũng giống như sự quy tụ các phân tử lại và càng tập chú th́ sự cọ xát giữa các nguyên tử càng tăng làm phát sinh năng lượng. Ở đây tưởng cũng nên nhớ lại rằng ngay những người b́nh thường như chúng ta mỗi khi tập trung tư tưởng để suy nghĩ điều ǵ th́ đầu óc chúng ta như nóng lên khiến đôi lúc nhức đầu chóng mặt khó chịu. Từ lâu giải thích của các nhà khoa học là khi suy nghĩ luồng thần kinh và tế bào thần kinh hoạt động mạnh và tiêu thụ một số năng nhiệt. Như vậy cho đến ngày nay sự kiện phát sinh năng lượng nhiệt hay tiêu thụ nhiệt trong khi tập trung tư tưởng hay suy nghĩ vẫn chưa được lư giải hoàn toàn. Tuy nhiên có lẽ nơi cơ thể và nhất là bộ năo của các vị Đạo Sư năng lượng phát sinh trong khi họ tập trung tư tưởng là điều có thật và chắc chắn là khi tập trung tư tưởng họ không bị t́nh trạng nóng hay nhức đầu khó chịu như chúng ta thường cảm nhận.

Sự kiện khác có liên quan đến năng lượng cơ thể mà các trường hợp đă xảy ra trên thế giới qua những con người kỳ lạ làm phát sinh các thắc mắc về nguồn gốc phát sinh năng lượng. Câu hỏi được nêu ra là có phải luôn luôn cần tập trung tư tưởng mới phát tỏa được năng lượng không? Một người Nga tên là Krivorotop và con trai là Victor đă có một dạng năng lượng lạ lùng chuyển từ cơ thể ra đôi bàn tay. Mỗi khi cha con người này dùng tay di chuyển dọc theo phần cơ thể của người mắc bệnh th́ một thời gian ngắn sau người bệnh lành hẳn. Ở đây điều kỳ lạ là bàn tay của hai cha con này không nóng bỏng như mọi người tưởng mà trái lại lạnh giá. Một người Nga khác, cô Djuna cũng có đôi bàn tay kỳ diệu có thể khám phá ra nơi bệnh trên cơ thể một người nghi là có bệnh. Theo Djuna th́ nhờ trường sinh học mà cô có thể áp dụng để truy ra vị trí bệnh trên cơ thể bệnh nhân. Bất cứ cơ thể người nào cũng đều phát ra một vùng điện gọi là vùng điện sinh học. Tùy theo t́nh trạng cơ thể mà vùng điện sinh học này biến đổi trạng thái. Đôi tay của Djuna có một cảm ứng rất nhạy với vùng điện sinh học ấy. Qua kinh nghiệm, cô suy đoán sự thay đổi tương ứng với loại bệnh nào và từ đó xác định vị trí có bệnh nơi cơ thể bệnh nhân. Dĩ nhiên từ đôi tay Djuna cũng đă có nguồn năng lượng nào đó phát ra. Trong cuốn Con người và Trường sinh học của Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, Giáo sư đă nói đến trường hợp một nhân vật nổi tiếng có khả năng thuộc lănh vực tâm thần. Đó là bà Nina Kulaghina, bà này đă dùng bàn tay ḿnh đặt cách chiếc la-bàn chỉ hướng một khoảng ngắn và đă làm kim la-bàn chuyển động. Khi bà dùng ngón tay vạch thành ṿng trên la-bàn, cách la-bàn vài centimet th́ thấy kim la-bàn quay thành nhiều ṿng. Thí nghiệm đáng kinh ngạc hơn là bà Nina c̣n dùng tư tưởng tập trung để khiến cho tim con ếch đặt trong b́nh thủy tinh đang hoạt động và phải ngưng đập. Bà Nina cũng c̣n dùng năng lượng tinh thần để làm cho một số đồ vật di chuyển. Điều đáng lưu tâm là sau mỗi lần thí nghiệm, bà Nina tỏ ra mỏi mệt, tay chân rũ rượi, cơ thể nóng lên. Các nhà khoa học Nga đă tham gia cuộc thí nghiệm của bà. Họ dùng máy đo nhiệt độ để đo trước và sau cuộc thí nghiệm, kết quả cho thấy năng lượng phát sinh không phải từ sự tập trung tư tưởng như các vị Đạo Sư Tây Tạng mà là năng lượng từ bên ngoài chuyển vào tích tụ trong cơ thể bà Nina. Cơ chế nào đă giúp bà Nina tiếp thu nguồn năng lượng lớn từ ngoài vào? C̣n các vị Đạo Sư, các vị Lạt Ma Tây Tạng, những nhà huyền thuật nổi tiếng họ lấy năng lượng từ ngoài (vũ trụ tự nhiên) vào cơ thể hay chính sự tập trung năng lượng đă tạo ra nhiệt lượng? Cho đến nay, với sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học trong lănh vực này, các báo cáo khoa học chưa có thể dừng lại ở một kết kuận chắc chắn nào. Ít nhất có 2 lư giải khác biệt nhau. Một cho rằng, qua công phu tu luyện nơi những địa điểm mà "Trời và Đất như giao ḥa với nhau" như tại xứ Tây Tạng chẳng hạn th́ công phu tu luyện của các nhà huyền thuật thật vô song và thành quả đạt được của họ là thu năng lượng vào cơ thể ở những trung tâm nào đó như trung tâm lực Kundalini (Con Rắn Lửa) hay ở phần đầu th́ có trung tâm lực nằm giữa hai chân mày. Con mắt thứ 3, tuyến Pineal gland và cả tuyến Yên cũng có liên hệ chặt chẽ với cơ phận của con mắt thứ 3.

Năng lực của con mắt thứ 3 :

Thần nhăn hay huệ nhăn

Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ư tưởng kẻ khác cũng như thấy rơ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được th́ đó lại là sự kiện có vẻ b́nh thường đối với người dân Tây Tạng. Lư do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đă được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ tích này th́ thời xa xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một nhăn lực đặc biệt, nhăn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ 3 rất kỳ bí. V́ tính cách huyền diệu của con mắt thứ 3 này mà người xưa gọi là Thần Nhăn hay nói theo kinh điển th́ gọi là Huệ Nhăn. Về sau, v́ con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không c̣n trong sạch, sáng suốt nữa. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ 3 trở thành u tối không c̣n sử dụng được nữa. Các nhà nghiên cứu về Huệ Nhăn đă bắt gặp trong các giới động vật h́nh ảnh trung thực nhất về Con Mắt Thứ 3 một cách rơ rệt không chối căi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế th́ lại c̣n lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới th́ lại thấy hiện diện một cấu tạo giống cấu tạo con mắt b́nh thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và vơng mạc v.v... Theo tài liệu của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương th́ ngay cả loài cá, lưỡng thể, ḅ sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích của Con Mắt Thứ 3. Khi khảo sát cấu tạo bộ xương của loài Khủng Long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ư tới một chỗ lơm nơi phần sọ của loài ḅ sát khổng lồ này và đă suy đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là Con Mắt Thứ 3. Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà c̣n biết thêm hay cảm nhận trước được t́nh trạng chung quanh như mưa, gió, nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đă cho biết là trong năo người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh, nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại phân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai đoạn con người ở t́nh trạng nguy hiểm, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng Quả Pineal gland. Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu th́ cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc b́nh thường không có được. Các nhà sinh vật học c̣n khám phá ra rằng tuyến Pineal gland c̣n có liên quan với bộ phận mà người Tây Tạng gọi là Con Mắt Thứ 3.

Có h́nh

Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi họ bắt được tư tưởng của nhau được rồi th́ khoảng cách tĩnh tọa giữa hai người này sẽ ở vị thế xa hơn. Cứ thế về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ Đạo viện này đến Đạo viện khác, từ hang động này tới hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel th́ nơi dăy Hy Mă Lạp Sơn tuyết phủ im ĺm hoang vắng nhưng lại là nơi các luồng tư tưởng của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.

Có h́nh

Một tài liệu kể rằng: Một hôm tại Tu viện Séra ở Tây Tạng xảy ra một tai nạn. Vị Sư già ở đây bị té ngă xuống đất dập xương sọ. Trong cơn nguy khốn ấy, vị Sư già đă dùng Thần lực để chuyển di tư tưởng đến ngay điện Potala, nơi Ngài tin chắc là Đại sư Mingyar Dondup đang có mặt tại điện. Luồng tư tưởng này đă được Đại sư Mingyar tiếp nhận. Tức th́, Ngài gọi ngay đệ tử là Lobsang đến ngay Tu viện Séra để kịp thời cứu chữa cho vị Sư già... Chuyện khác kể lại trường hợp một vị Sư ẩn tu trong động đá. Bữa kia sau buổi tĩnh tọa, vị Sư gọi đệ tử lại bảo rằng: "Sáng mai sẽ có một người đi ngang qua đây, con nhớ cho họ nước uống và ít trái cây lót ḷng và chỉ hướng khác xuống núi giúp họ v́ tối mai sẽ có trận băo tuyết chôn vùi con đường này. Quả nhiên sáng hôm sau có một người xuất hiện gần hang núi. Người đệ tử vội chạy lại giúp đỡ đúng như những ǵ thầy đă căn dặn từ hôm qua. Tối hôm đó, một trận băo tuyết nổi lên làm biến mất con đường xuống núi. Chính nhờ Huệ Nhăn mà vị Sư đă cứu người lữ hành lạc lối thoát nạn. Câu chuyện này người Tây Tạng thường kể lại cho con cháu nghe và Nữ kư giả Pháp, bà Alexandra David Neel cũng có lần kể lại câu chuyện tương tự trong tác phẩm du kư của bà.

Tác giả Nguyên Phong trong các phóng tác theo các sách của bà Alexandra David Neel về xứ Tây Tạng Huyền Bí cũng đă đưa ra nhiều chi tiết liên quan đến sự kiện chuyển di tư tưởng hay thông suốt ư nghĩ người khác của các vị Đạo sư Tây Tạng. Tất cả nói lên cái thâm sâu vi diệu của cơ phận gọi là Con Mắt Thứ 3 hay Huệ Nhăn.

Các cường quốc đang nghiên cứu
về con mắt thứ 3

Nga Sô, Trung Quốc, Mông Cổ và cả Hoa Kỳ và Anh Quốc đều đă và đang nỗ lực nghiên cứu, thí nghiện về năng lực chuyển di tu tưởng mà con người có thể đạt được hoàn hảo dựa vào những ǵ mà các nhà nghiên cứu về năng lực lạ lùng của các vị Lạt Ma và Đại sư Tây Tạng. Năm 1959, Hải quân Hoa Kỳ đă thực hiện một cuộc thí nghiệm bí mật về chuyển di tư tưởng (thí nghiệm kéo dài trong 5 ngày - từ 22.6.59 đến 26.6.59) Hai nhân vật có khả năng về chuyển di tư tưởng được bí mật chở tới hai địa điểm X và Y cách xa nhau 2000 cây số. Một người vào trong một pḥng kín ở địa điểm X, c̣n người kia vào trong chiếc tàu ngầm Nautilus xuống sâu 2 ngh́n cây số ở vị trí Y. Từ 2 vị trí xa nhau ấy, hai nhân vật vừa kể đă bắt đầu cuộc thí nghiệm chuyển di tư tưởng cho nhau. Tại vị trí Y, người làm thí nghiệm lần lượt tập trung tư tưởng nh́n vào những con bài khác biệt nhau rồi đưa tư tưởng có các h́nh ảnh ấy qua không gian hướng về người đang ở vị trí X. Thứ tự về các con bài, giờ giấc và số lần thực nghiệm chuyển di tư tưởng của người thí nghiệm ở X và Y đều được ghi chép lại cẩn thận. Kết quả so sánh đối chiếu cho thấy độ tiếp nhận đạt chính xác đến tỷ lệ 92%. Hoa Kỳ và Nga đă cùng nhau hợp tác thí nghiệm hiện tượng tương tự nhưng dưới h́nh thức hơi khác. Bác sĩ người Nga tên là Dzhuma Davitashvili và Bác sĩ Hoa Kỳ là Keith Harry được bí mật đưa đến 2 vị trí cách xa nhau trên đất Hoa Kỳ (thuộc San Francisco) vậy mà họ mô tả được h́nh ảnh, vị trí, địa điểm của nhau rất rơ ràng. Trong các năm từ 1976 đến 1979 nhiều cuộc thí nghiệm về lănh vực này cũng đă được thực hiện tại Tiểu bang Chicago (Hoa Kỳ). Tại Nga vào năm 1967, báo Sự Thật đă đưa tin rằng: "Cuộc thực nghiệm chuyển di tư tưởng giữa 2 nhà thí nghiệm ở hai vị trí cách xa nhau: Leningrad và Moscow đă đạt kết quả thành công"

Có h́nh: Tàu ngầm được dùng làm thí nghiệm chuyển di tư tưởng qua khoảng cách 2000 cây số.

Tuesday lobsang rampa :
lạt-ma bác-sĩ y-khoa

Đối với những vị Đại Sư, những vị Lạt Ma Tây Tạng những người đă trải qua những công phu tu luyện tuyệt vời th́ sự tập trung năng lượng của họ không gây nên sự mỏi mệt khó chịu như người b́nh thường.

Phùng Hồ, qua cuốn The Third Eye (Con Mắt Thứ Ba) của một Lạt Ma Bác Sĩ Tây Tạng (Tuesday Lobsang Rampa) đă cung cấp thêm cho đề tài này một số tư liệu liên quan về khả năng kỳ diệu của Lạt Ma Rampa: "Bác sĩ Tuesday Lobsang Rampa lúc c̣n bé đă được gia đ́nh giáo dục chu đáo. Thân phụ được giao quyền nhiếp chính, trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng qua tỵ nạn ở Mông Cổ v́ quân đội Anh xâm chiếm đất đai Tây Tạng vào năm 1904". Khi Ngài Lobsang lên bảy tuổi, việc học hành và chuẩn bị cho tương lai do các chiêm tinh gia quyết định. Ngài được thu nhận vào Tu viện Chakpori. Ngay ở lứa tuổi này, Ngài đă tiếp xúc với nhiều nhân vật và thật sự đă có thể nh́n và nhận xét ai là người tốt qua tư tưởng người đó. Sư phụ Ngài là Đại Sư Mingyar, căn cứ theo lư giải của các nhà chiêm tinh, đă quyết định luyện Thần Nhăn cho Ngài sau ngày sinh nhật thứ tám của Ngài. Sư phụ Ngài đă từng bảo rằng: "Khi Thần Nhăn đă được khai mở, Ngài có thể nh́n rơ chân tướng thâm sâu của con người chớ không phải chỉ thấy cái vẻ bên ngoài của con người mà thôi.

Chính Sư Trưởng tu viện Chakpori là Y-sĩ cận kề của Đức Đạt Lai Lạt Ma đă căn dặn Ngài Lobsang là người có được Thần Lực mà nhiều người không có. Việc sử dụng Thần Lực ấy rất hạn chế và cẩn thận. Chỉ được sử dụng khi khả năng Thần Nhăn của ḿnh để giúp đời, cứu người bệnh tật, cứu người gặp cảnh khổ đau và nhất thiết không mưu cầu lợi lộc cho riêng bản thân ḿnh. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma đă nói với Ngài Lobsang rằng: Ta đă nghe nhiều điều lạ lùng về con. Ngay từ lúc mới chào đời vốn đă có Thần Lực tự nhiên nơi đôi mắt con và Thần Lực đó tăng lên nhờ luyện phương pháp Mật truyền nhằm khai mở Thần Lực của Con Mắt Thứ Ba.

Trong điện Potala có nhiều phẩm vật quư giá do các quốc gia khác cống hiến. Ngài Lobsang đă có lần dùng Thần Lực ngắm say sưa các phẩm vật để phát hiện tâm t́nh mà người tặng quà muốn gởi gắm. Sau khi Ngài tŕnh bày nhận xét của ḿnh về mỗi tặng vật th́ Sư phụ của Ngài lấy một cuốn sách đọc cho nghe sự việc liên quan tới món đó và khen tặng Ngài thực sự có nhận xét chính xác, đă có nhiều tiến bộ trong lănh vực Thần Nhăn...".

Chính nhờ Thần Nhăn hay Huệ Nhăn mà Ngài Lobsang Rampa đă quan sát t́m hiểu qua tư tưởng của các phái đoàn nước ngoài đến tham viếng hay ngỏ ư muốn hợp tác với Tây Tạng về nhiều lănh vực. Những ư đồ xấu xa tàng ẩn trong các nhân vật của các phái đoàn đều không thoát khỏi Con Mắt Thứ Ba mà Ngài Lobsang soi tới.. Nhờ đó mà ngày nay mặc dù đất nước Tây Tạng trải qua bao thăng trầm, ḍm ngó của thực dân (Anh) và ngày nay là chính quyền Trung Quốc, Tây Tạng vẫn thoát hiểm được nhiều lần nhờ biết trước được ư đồ của đối phương nhờ Thần Lực hay Con Mắt Thứ Ba của các vị Đạo Sư hay các vị Lạt Ma.

Năng lực của Thần Nhăn rất thâm sâu và phát triển qua nhiều dạng. Do tập trung tư tưởng mà luồng tư tưởng qua đôi mắt để có thể soi thấu tâm cang, tư tưởng kẻ khác. Cũng vậy, qua Thần Nhăn mà các bệnh tật ẩn tàng trong cơ thể dễ dàng được khám phá c̣n hơn khoa học ngày nay dùng quang tuyến hay tia sáng Laser. Một lănh vực khác cũng không kém phần quan trọng là Tập Trung Tư Tưởng làm phát sinh năng lượng. Sự kiện này thể hiện qua những phương thức tập luyện mà các Lạt Ma Tây Tạng thường áp dụng cho các môn đệ từ thời xa xưa cho đến ngày nay.

Theo phương thức vừa kể th́ các đệ tử khi luyện tập họ phải quyết tâm tŕ chí v́ trong tuyết giá, họ phải tập ngồi tĩnh tọa một cách b́nh yên như đang ngồi nơi mát mẻ b́nh thường. Dù nhiệt độ hạ thấp dưới không độ, người thực tập phải ḿnh trần, chỉ một miếng khố quấn ngang hạ bộ những phải cố gắng tập trung tư tưởng, tŕ chú chịu đựng cái rét như xé nát thịt xương. Sau một thời gian tập chịu đựng giá lạnh ấy, họ sẽ tập trung tư tưởng để tạo năng lượng làm cho cơ thể nóng lên để chống lạnh. Lần lần chuyển qua giai đoạn tập trung tư tưởng làm phát sinh năng lượng mạnh mẽ để làm cho tuyết giá quanh ḿnh tan ra. Nhiều người thực tập theo phương cách đào một lỗ trong tuyết và tự chôn ḿnh vào trong đó để rồi tập trung tư tưởng khiến cho tuyết phủ quanh ḿnh tan ra thành nước.

Năng lượng nhiệt phát ra từ tập trung tư tưởng là điều mà các nhà khoa học hiện nay đang quan tâm nghiên cứu. Một số nhà Thiên Văn vũ trụ từ lâu đă nghiên cứu hiện tượng bùng nổ vũ trụ hay hiện tượng Big Bang. Họ t́m thấy ở đó một tia sáng cho sự giải thích về sức mạnh vạn năng của năng lượng tập trung là như thế nào?

một số tư liệu liên quan đến con mắt thứ ba hay huệ nhăn

Sự kiện liên quan đến Huệ Nhăn hay Con Mắt Thứ Ba đă có một số tư liệu Đông Tây nói đến. Tại Việt Nam vấn đề con mắt thu cũng được nhắc đến từ lâu trong các Kinh điển Phật Giáo, trong các báo phát hành khoảng năm 1950 tới 1960 như báo Đại Chúng và các báo liên quan đến khoa học huyền bí. Các sách vở trong nước cũng như hải ngoại thỉnh thoảng cũng bàn về sự kiện này. Đặc biệt trong các tác phẩm viết về đất nước huyền bí Tây Tạng của tác giả Nguyên Phong đă có nhiều tư liệu quư giá liên quan đến Con Mắt Thứ Ba. Thí dụ như phần nói về nghệ thuật chuyển di tư tưởng là một trong các bộ môn huyền thuật ở Tây Tạng. Theo khoa này th́ người thực tập cần phải tự ḿnh huấn luyện làm sao để có được khả năng tập trung cao để có thể phát ra những luồng tư tưởng. Phải giữ ǵn cho đầu óc minh mẫn và mẫn cảm để dễ dàng tiếp thu luồng tư tưởng của người khác.

tư tưởng con người là những làn sóng thuộc về tâm thức

Một số tư liệu, sách vở hiện nay t́m hiểu về lănh vực này theo hướng khoa học th́ tư tưởng con người là những làn sóng thuộc về tâm thức. Một khi tư tưởng được tập trung th́ cường độ của làn sóng này sẽ được gia tăng mạnh mẽ. Làn sóng nhờ đó mà lan rộng hơn và rung động theo làn sóng nào đó. Khi hai người trao đổi, truyền đi luồng tư tưởng cho nhau th́ đồng thời họ sẽ tŕ tụng thần chú để tạo những âm thanh rung động nhờ đó mà phát sinh được những chu kỳ rung động của tư tưởng và các tần số sẽ dễ dàng bắt được khiến họ nhận rơ tư tưởng của nhau.

Chỉ những ai chịu vứt bỏ ḷng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ ḷng trong sạch và tu tŕ th́ mới có được Huệ Nhăn. Chính phần lớn các vị Đại sư tại Tây Tạng, những người ẩn tu nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có được năng lực thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị Đại sư th́ không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần Nhăn hay Huệ Nhăn như ta tưởng, v́ muốn có được Thần Nhăn th́ người đó không những phải hội đủ các điểm cần yếu như đă nói trên mà c̣n phải có Thần Lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ Nhăn. Một khi đă có Huệ Nhăn rồi th́ dù ngồi tĩnh tọa trong đạo viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những ǵ xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.

Có h́nh hai h́nh

năng lượng tinh thần

bộ năo người: B́nh Ac-quy thu phát điện năng

Những nhà khoa học tiên phong xâm nhập thế giới huyền bí để nghiên cứu t́m hiểu đă xem năng lượng tinh thần là phần quan trọng trong vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu h́nh. Theo họ năo bộ người là một cái b́nh Ac-Quy, nhưng là cái b́nh Ac-Quy siêu đẳng và huyền bí rất nhiều. Bộ năo người phát sóng và thu sóng, phát điện và thu điện trong tự nhiên vũ trụ. Tuy nhiên sự vận hành, thu phát, chuyển biến c̣n tùy ở cơ thể người mang bộ năo. Dưới mắt nhà khoa học họ không chỉ tập chú vào các vị Lạt Ma, các nhà tu hành nơi các hang động thâm sâu hay trong các đạo viện khuất sau rặng tuyết sơn để nghiên cứu một cách riêng rẽ, trái lại họ nghiên cứu toàn thể bộ năo người không phân biệt ai, miễn là có khả năng kỳ diệu lạ lùng mà người b́nh thường không có được. Trên thế giới từ cổ đại đến nay đă có những con người không trải qua quá tŕnh tu luyện nào cả nhưng vẫn có được một năng lượng tinh thần rất lớn, họ có thể nh́n xuyên qua vách tường, xuyên qua sắt thép, xuyên qua khoảng cách rất xa. Có người c̣n dùng năng lượng tinh thần để làm cháy đồ vật hay làm cho các hạt nảy mầm, có người sử dụng năng lượng tinh thần để chữa bệnh hay chuyển di tư tưởng, tiếp nhận ư nghĩ của người khác v.v...

Có h́nh: Năng lượng từ hai bàn tay của bà Julien Chorowicz làm cho cái kéo lơ lửng và chuyển di trong không khí.

năng lượng ở trung tâm anahata

Theo kinh điển Tây Tạng th́ trong cơ thể con người ẩn tàng một năng lượng mạnh mẽ nhưng chỉ gặp ở các vị Đạo sư v́ những vị này có khả năng sử dụng được năng lượng kỳ bí ấy.

Cũng theo tư liệu bàn về các trung tâm lực tàng trữ trong các Đạo viện cổ xưa của Tây Tạng th́ 7 trung tâm lực phát sinh năng lượng mạnh mẽ là:

1. Ajna nằm giữa hai chân mày.
2. Sahasrara - Brahmarandhra ở ngay trên đỉnh đầu.
3. Vishoudha ở yết hầu.
4. Anahata ở ngay tim.
5. Svadhisthana ở lá lách.
6. Manipoura ở rốn.
7. Mulhadhara ở xương mông.

Theo lư thuyết th́ đôi khi người thường có thể thấy được năng lượng phát sáng từ các trung tâm lực đó phát ra từ các vị Đạo sư. Tuy nhiên chỉ thấy gián tiếp qua h́nh ảnh chụp. Một trường hợp điển h́nh đă chứng minh là một nhà sư Miến Điện thuộc phái Theravada trong một cuộc hành hương qua Mỹ đă đến thăm một gia đ́nh người Miến. Trong khi vị Sư đang tập trung tư tưởng th́ người con rể trong gia đ́nh này chụp ảnh Sư đang tĩnh tọa. Lạ lùng thay khi ảnh được sang ra th́ mọi người đều thấy trong bức ảnh có một nguồn sáng tỏa ra từ ngực của Sư. Nếu để ư sẽ thấy có lằn nếp áo, như vậy chứng tỏ rằng nguồn sáng đó phát ra từ bên trong cơ thể Sư, hay nói cách khác là từ trung tâm lực Anahata.

Có h́nh: Phần tia sáng nơi ngực vị Sư đang tĩnh tọa phải chăng đang phát ra từ trung tâm lực Anahata?

Ngày nay loài người đă sống văn minh hơn nhưng vẫn c̣n một số vùng hoang vắng được xem như tận cùng quả đất, nơi đó có vài bộ lạc vẫn c̣n sống cuộc đời man dă giống như thời đại đồ đá của loài người trước đây. Điều kỳ lạ là nhiều nhà thám hiểm đă len lỏi vào tận các vùng xa xôi hẻo lánh để tiếp xúc với loài người được xem là sơ khai, họ bắt gặp được nhiều điều kỳ diệu mà các phù thủy ở đó đă thực hiện. Một thí dụ điển h́nh là nhóm nhà báo của Paris Match nổi tiếng của Pháp đă lặn lội tiến vào một nơi được xem là sống biệt lập với thế giới loài người tại một hoang đảo xa xôi tận Thái B́nh Dương. Trên đường đi có một kư giả bị té ngă khi leo qua một con suối và bị găy chân phải khiêng cáng. Khi đoàn kư giả này tới th́ thấy một người đàn ông ngồi yên lặng, trên người chỉ một miếng da thú quấn ngang hạ bộ mà thôi. Người đàn ông ra dấu đặt người kư giả bị găy xương nằm xuống trên một miếng da gấu, hai bên đặt hai bó đuốc bằng gỗ thông. Xong ông đưa tay lên trời huơ huơ mấy cái, vừa huơ tay vừa đọc một tràng thổ ngữ kỳ lạ rồi bất ngờ chỉ vào người bị găy xương và ra hiệu ngồi dậy. Lạ lùng thay, người kư giả này tự nhiên không c̣n đau đớn nữa và đứng dậy một cách tự nhiên. Người đàn ông sau khi ra tay cứu giúp người kư giả bị nạn liền quay qua bên cạnh chỉ vào một cái thùng sắt sét rỉ ra dấu như ngầm bảo: "Các ông hăy đem vật này ra khỏi nơi đây!". Rồi lặng lẽ đi vào một cái hang sâu đầy rêu và rễ cây che phủ. Cùng lúc đó dân trong bộ lạc đứng nh́n từ xa trên các gộp đá cũng thoăn thoắt chạy vào các hang động. Đoàn kư giả quan sát kỹ cái thùng sắt th́ thấy ngoài thùng có chữ mờ nhạt về dấu hiệu quân đội Đức. Có lẽ vật này từ một máy bay Đức bị lạc hướng và rơi xuống trong thời Thế chiến II và dân trong bộ lạc không muốn giữ lại những ǵ từ thế giới đầy vật chất bên ngoài. Sự lẩn tránh của họ đă nói lên điều đó. Đoàn kư giả đă không t́m ra được người nào khác trong bộ lạc, tất cả như ẩn tránh không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Các hang động đều đóng kín bởi các khối đá lớn. Các kư giả Pháp suy đoán rằng người đàn ông ngồi chờ họ là trưởng bộ lạc hoặc nhà phù thủy. Điều kỳ lạ là không hiểu nhờ đâu mà ông ta biết được đoàn kư giả này sẽ đến và trong đoàn có người bị tai nạn găy chân để chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết. Ngoài ra phương cách trị găy xương như vậy rơ ràng vượt ra khỏi tính cách khoa học của ngành y khoa hiện đại nhưng kết quả lại hoàn toàn thành công. Phải chăng cư dân ở đây chữa trị chỉ bằng hiện tượng siêu linh huyền bí? William Halse Rivers (1864-1992), nhà nghiên cứu nổi tiếng về văn minh của các bộ tộc hoàng gia, đặc biệt là các vùng hoang đảo thuộc Châu Đại Dương đă cho rằng nhiều nơi cư dân tuy thưa thớt, man dă nhưng đời sống tâm linh lại rất cao. Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương (1989) th́ có những thổ dân chữa bệnh không cần thuốc như tại Phi Luật Tân nhiều nhà phẫu thuật đă dùng loại năng lực thuộc lănh vực tâm linh để giải quyết thành công các ca phẫu thuật, có người cho rằng họ là con cháu của những người thuộc bộ lạc Kahuna đă mai một. Có lẽ thiên nhiên quá gần gũi với họ và họ đă ḥa tâm hồn vào vũ trụ cùng với biển cả bao la, lại không bị vật chất ràng buộc nên trí óc họ trong sáng và dễ thu nhận những sự kiện huyền diệu thuộc lănh vực tâm linh chan ḥa trong vũ trụ tự nhiên. Theo Rivers th́ nhiều bộ tộc có lắm người truyền cho nhau tư tưởng qua không gian như hiện tượng telepathic vậy (thần giao cách cảm). Phải chăng điều nhận xét của nhà nghiên cứu lỗi lạc Rivers đă chứng minh rơ ràng qua chuyến thám hiểm của đoàn kư giả Pháp vừa kể trên.

Người Âu Mỹ gọi hiện tượng kỳ diệu này nằm trong lănh vực Telepathic hay Thần Giao Cách Cảm và hiện tượng được gọi là Clairvoyance (nh́n xuyên suốt qua mọi vật) hay hiện tượng Ư thức lan rộng, bành trướng trong không gian, điều mà các nhà quân sự hiện nay đang lưu tâm nghiên cứu và ước vọng trong tương lai sẽ nhờ đó mà thăm ḍ t́m hiểu rơ ràng các căn cứ bí mật quân sự của đối phương hay biết được các âm mưu, kế hoạch của địch... Hiện nay, các trường Đại Học ở Hoa Kỳ, cùng với các bệnh viện, các pḥng thí nghiệm quân sự và các viện nghiên cứu đang tập chú nghiên cứu các hiện tượng này.

Một số lớn các nhà nghiên cứu Âu Tây đă chú tâm nghiên cứu về nguyên gốc phát sinh những khả năng đặc biệt đó, nguồn gốc phát sinh theo nhận thức của họ là Con Mắt Thứ Ba hay Huệ Nhăn.

Trong các tư liệu viết về Chakras là các trung tâm tích tụ năng lực con người th́ có trung tâm Ajna được xem là một trong các trung tâm quan trọng nơi phần đầu của cơ thể con người. Trung tâm Ajna nằm giữa hai chân mày.

Có h́nh

Như vậy nguyên tắc và sự vận hành cũng giống như sự phát sóng của đài phát thanh và sự bắt được làn sóng của những cái Radio. Cũng từ sự kiện này mà có thể suy đoán thêm rằng: Cuộc sống ở chốn thị thành huyên náo cũng là một trong các nguyên nhân làm cho con người dễ mắc bệnh tâm thần bởi lư do chính là tại nơi đây đă tập trung vô số nguồn tư tưởng hỗn tạp, tạo nên những âm ba rối rắm lộn xộn ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng, trí óc mỗi người khiến họ không c̣n khả năng điều khiển nổi tư tưởng của ḿnh nữa, tâm trí bị phá hoại, hao tán nên tinh thần không được minh mẫn dễ rơi vào những t́nh huống xấu xa, tội lỗi, kéo theo sự suy nhược thần kinh và cơ thể sẽ bị nhiều thứ bệnh hoành hành mà phổ biến nhất là loại bệnh tâm thần và cả bệnh ung thư nữa. ...

Có h́nh

Cũng theo tư liệu này th́ khi tập trung tư tưởng con người dễ dàng tiếp nhận được các làn sóng rung động khác. Đây là một quyền năng c̣n thâm sâu vi diệu hơn nữa trong lănh vực chuyển di tư tưởng hay tiếp nhận tư tưởng của kẻ khác. Có nghĩa là sẽ nhận được nhiều tư tưởng trên khắp các tầng số, băng tầng...

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 5 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 10:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

IV.THEO HỘI THÔNG THIÊN HỌC:
1.NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG
VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI


Sự nẩy nở song song của Tâm Thức và cơ thể.
Hạch mũi và Tùng quả tuyến là những giác quan.
Sự khích động những bộ phận ấy bởi luồng Hỏa xà.

Diễn giả : Đại Đức Geoffrey Hodson Thông dịch : Nguyễn Hữu Kiệt

Thưa bà Hội Trưởng,
Thưa quí Ông, quí Bà,
Thưa chư Huynh đệ.

Tối hôm nay tôi bắt đầu một trong bốn bài giảng lư - thứ nhất, về những quyền năng siêu đẳng và phi thường của con người. Ba bài tiếp theo đó th́ tôi sẽ tŕnh bày nội trong tháng tám tới đây.

Thông Thiên Học dạy là con người vốn có hai thứ quyền năng siêu nhiên. Hai thứ quyền năng đó là :

1/ Những quyền năng chủ động;

2/ Những quyền năng thụ động.

Những quyền năng thụ động tiếng Pháp gọi là Pouvoirs négatifs thuộc về tánh chất thụ động của con người. Những quyền năng đó thường thường được dùng bởi những người mà ta gọi là médiums. Những quyền năng đó có những sở đoản của nó khi người ta dùng nó làm khí cụ để khảo cứu sưu tầm. Nó không phải do nơi luyện tập cái trí hay cái xác thân, hoặc do nơi sự tu luyện mà có. Những quyền năng đó xảy đến cho ta một cách tự nhiên, chứ không phải do ư chí. Người ta không thể dùng nó làm khí cụ để khảo cứu hay sưu tầm về một khoa nào. Xét v́ nó là những quyền năng thụ động nên nó đến cho con người do nơi những động lực từ bên ngoài. Những quyền năng ấy thường là vô sở cứ, và người ta không thể thử thách hay thí nghiệm được.

V́ lẽ đó cho nên người Thông Thiên Học thường chú trọng về những quyền năng mà người ta gọi là quyền năng chủ động hơn; bởi v́ người ta nhận thấy rằng : những quyền năng thụ động mà những người médiums dùng để thực hành khoa đồng bóng thường đem tới cho người ta những điều nguy hiểm vô cùng. Những người thực hành khoa đồng bóng th́ ư chí của họ càng ngày càng trở nên yếu kém đi, bởi v́ họ luôn luôn nạp ḿnh, cả ư chí lẫn xác thân, lẫn tư tưởng cho những sức mạnh từ bên ngoài. Sự thực hành khoa đồng bóng đó làm cho người ta càng ngày càng trở nên lụn bại về tinh thần. Ngoài ra những điều nguy hiểm đó, những chuyện đồng bóng c̣n làm cho người ta bị ma quái ám ảnh. Những người lên đồng cốt sẽ trở nên những vật thụ động, rất dễ bị xâm chiếm bởi những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà họ không thể nào tự chủ được. Và lần lần, họ bắt đầu nghe những tiếng nói vô thinh, nó làm cho họ luôn luôn bị ám ảnh và mất thăng bằng. Những tiếng nói đến cho họ từ những cơi vô h́nh càng ngày càng mang đến cho họ những điểu quái gở tai dị. Sau dần, th́ họ bị những ảnh hưởng ma quái xâm nhập vào ḿnh và họ không thể tự chủ được. Có rất nhiều người, về phương diện tư tưởng, họ không phải là những người mất trí hay loạn óc, nhưng họ là những người bị ma quái ám ảnh. T́nh trạng đó khó mà trị cho dứt. Người ta có thể dùng ư chí để xua đuổi mất đi những điều ma quái ám ảnh đó. Nhưng ư chí của nạn nhơn đồng bóng càng ngày càng kém hèn và họ trở nên những vật hoàn toàn thụ động có thể bị ám ảnh nhiều lần sau nữa. V́ những lẽ ấy mà người Thông Thiên Học chúng ta chú trọng đến những quyền năng chủ động hơn là những thứ quyền năng nguy hại như thế. Những quyền năng chủ động có thể luyện tập được và có thể dùng bất cứ lúc nào khi người ta muốn, để làm khí cụ cho sự khảo cứu sưu tầm về mọi phương diện, không phải chỉ một lần mà bất cứ lúc nào tùy ư. Như thế th́ những điều ǵ người ta khảo cứu t́m ṭi nên có thể lập đi lập lại nhiều lần để thí nghiệm xem coi có đúng chơn lư hay không. Chúng ta sẽ có dịp học hỏi tới những phương pháp đó sau này. Chúng tôi sẽ tŕnh bày bằng những h́nh màu rọi để cho chư huynh đệ thấy rơ những cơ quan làm chủ động cho những quyền năng đó.

Những quyền năng siêu nhiên có thể vận dụng được trong khi người ta vẫn tỉnh táo như thường. Quyền năng đó có thể chia làm ba loại : thứ nhất là Thần nhăn, tức là có thể thấy được những vật vô h́nh; thứ hai là Thần nhĩ tức là nghe thấy đặng tiếng động nơi cơi vô h́nh; thứ ba là Kiến tánh, nghĩa là trong khi hoàn toàn thức tỉnh, người ta có thể nhận thức được sự hợp nhất bản ngă của ḿnh với Đại ngă của Vũ trụ; hay là sự hợp nhất của ḿnh với mọi vật, mọi loài trong Trời Đất. Đó là cái quyền năng tối cao và lớn nhất mà người học Đạo có thể thực hiện được. Như tôi đă nói trong những kỳ trước th́ điều đó chính là cái mục đích tối thượng, mục đích rốt ráo mà người học Đạo t́m cách thực hiện trong đời học Đạo của họ.


Thần Nhăn

Trước hết chúng ta hăy xét về vấn đề Thần nhăn và thử xem Thần nhăn nghĩa là ǵ ? Nên nhớ rằng : tôi muốn nói Thần nhăn, mà người ta có, do nơi sự tập luyện và người ta có thể dùng ư chí để kiểm soát được. Thần nhăn đó có thể chia ra làm hai phần : Thần nhăn thuộc về xác thể và Thần nhăn thuộc về siêu linh.

Thần nhăn thuộc về thể chất tức là Thần nhăn thông suốt như quang tuyến X vậy, v́ do nó người ta nh́n thấy xuyên mọi vật đông đặc, cứng rắn. Thí dụ: người ta có thể nh́n xuyên qua xác thân con người, khi người ta muốn dùng Thần nhăn để mà khán nghiệm và xem bệnh tật. Do Thần nhăn đó người ta thấy rơ ràng những bộ phận và ngũ tạng lục phủ của con người. Những cơ quan trong con người như huyết mạch, gân cốt, tế bào, ngũ tạng lục phủ và tất cả những cơ quan trong thân thể v. v. . . đều có thể dùng Thần nhăn xem xét tỉ mỉ tùy ư ḿnh muốn. Nhờ đó người ta có thể xem bệnh một cách chắc chắn, không bị sai lầm và dùng nó mà khán nghiệm một bộ phận nào trước khi mổ. Tất cả những điều đó có thể làm với Thần nhăn thuộc về quang tuyến.

Loại Thần nhăn thứ hai gọi là Thần nhăn phóng đại để dùng xem mọi vật nhỏ phóng đại ra như kính hiển vi vậy. Nhờ Thần nhăn đó mà người ta nh́n thấy những vật rất nhỏ bé li ti như tế bào, hạt nguyên tử. Người ta nh́n thấy những vật nhỏ đó bằng cách phóng đại nó ra như những vật lớn thường vậy. Người ta có Thần nhăn đó là do nơi bí huyệt, hay là luân xa giữa hai chơn mày và do sự hoạt động của một bộ hạch trong óc gọi là glande pituitaire. Bộ hạch óc nối liền với bi huyệt giữa hai chơn mày bằng một cái ống dài độ 7 phân tây. Người ta có thể dùng ống đó để nh́n rơ ràng những vật muốn thí nghiệm như nh́n vào trong kính hiển vi vậy. Khi người ta luyện tập để dùng Thần nhăn đó th́ có thể nh́n thấy bất cứ vật nhỏ bé nào. Do quyền năng ấy người ta có thể đặt tâm thức ḿnh vào trong ḷng hạt nguyên tử rất nhỏ bé để thí nghiệm xem xét coi vũ trụ bao lớn. Theo bên Ấn Độ Giáo người ta gọi phương pháp thí nghiệm đó là ḥa hợp ḿnh với hạt nguyên tử, tức là làm cho tâm thức ḿnh thu nhỏ lại ở trong ḷng của hạt nguyên tử. Danh từ tiếng Phạn gọi nó là “Anima”, tức là Thần nhăn phóng đại mọi vật.

Loại Thần nhăn thứ ba gọi là viễn vọng Thần nhăn (Clairvoyance téléscopique). Do quyền năng đó người ta có thể xem xét những vật rất xa xôi như những tinh cầu trong không gian.

Loại thứ tư thuộc về Thần nhăn của cái phách. Do quyền năng đó người ta có thể thấy cái phách của quả địa cầu và nh́n thấy bất cứ vật nhỏ li ti nào từ quả địa cầu thoát ra. Người ta cũng nh́n thấy những hạt vi trần (particules) rất nhỏ thoát ra từ những hành tinh khác. Khi người ta dùng thần nhăn đó để thí nghiệm, th́ sẽ thấy rằng : trong vũ trụ này có biết bao nhiêu vạn ức điểm vi trần (particules) rất nhỏ bay lơ lửng trong không gian. Những hạt bụi vi trần li ti đó nhảy nhót lung tung và phát ra ánh sáng. Đó là những hạt nguyên tử của những chất lơ lửng trong không gian. Khi người ta xem xét cái phách của quả địa cầu, th́ thỉnh thoảng thấy có luồng ánh sáng bừng lên, chạy từ chỗ này qua chỗ khác. Có khi người ta cũng nh́n thấy ánh sáng đó ở trong khóe mắt của chúng ta. Phân tách luồng ánh sáng ấy, người ta nhận thức rằng : đó là những hiện tượng thuộc về những Tinh linh trong cơi vô h́nh. Những Tinh linh đó là những sinh vật có khắp mọi nơi ở xung quanh chúng ta. Những Tinh linh ở cơi vô h́nh đó thuộc về ngũ hành như những loại Tinh linh của Đất, của Nước, của Gió và của Lửa. Những đầu đề đó thuộc về bài giảng sắp tới và tôi sẽ bắt đầu nói trong buổi diễn thuyết tối mai.

Thần nhăn của cái phách là một quyền năng rất có ích để dùng khám bệnh. Do đó mà cái phách con người có thể xem xét tỉ mỉ được. Khi dùng Thần nhăn th́ người ta thấy cái phách chói sáng và có thứ màu đặc biệt. Trong phách có những luồng sinh lực nhiều màu khác nhau. Sự xem xét những bí huyệt và đường sinh lực trong cái phách có thể giúp cho ta nhận thấy rằng : người ta có bệnh tật hay không. Có lẽ trong chư huynh đệ cũng biết người ta có hào quang gọi là hào quang của sức khỏe. Từ hào quang sức khỏe đó người ta thấy phát ra đủ thứ sinh lực có sẵn trong ḿnh. Những người khỏe mạnh th́ hào quang đó phát ra những tia ngay ngắn và dựng đứng. Những tia đó có thể thấy trong những chỗ nhọn của châu thân, như đầu ngón tay, ngón chơn và các góc cạnh trong ḿnh. Những người có sức khỏe th́ các tia đó phát ra từ đỉnh đầu mà lên. Trái lại những người bệnh tật th́ hào quang của họ có những tia cúp xuống và xụi lơ. Những tia cúp xuống đó có thể thấy ở nơi những bộ phận bị đau đớn hay là khắp toàn thân. Nếu những tia đó ở khắp cả châu thân th́ người ấy bị những chứng bệnh bại hoại kinh niên. Nếu những tia cúp xuống đó chỉ thấy ở trong một bộ phận nào mà thôi, th́ chính bộ phận đó bị tê liệt hay đau bại. Như thế chúng ta thấy rằng : cách dùng Thần nhăn đó có thể làm phương pháp để khám bệnh rất hiệu quả.

Quyền năng kế đó gọi là Thần nhăn siêu đẳng hay là siêu thiên nhiên. Thần nhăn đó có nhiều cấp bực khác nhau. Có thứ Thần nhăn nh́n cơi Trung giới, có thứ Thần nhăn để nh́n cơi Thượng giới và trên cao hơn nữa. Do Thần nhăn đó, người ta có thể thấy ánh sáng phát ra từ hào quang con người và luân xa hay bí huyệt con người.

Xét v́ những nguyên nhân bệnh tật con người phần nhiều do nơi t́nh cảm hay tư tưởng sinh ra, vậy th́ dùng Thần nhăn đó tức là truy nguyên nguồn gốc mọi bệnh tật vậy. Dùng Thần nhăn đó có thể thấy được bệnh tật phát sinh do nơi những tư tưởng sai lạc quấy quá của con người. Những người mang bệnh đó th́ thường thường sinh lực của họ bị bại hoại. Người ta thấy hào quang của họ bị hư hỏng xiên vẹo về một phía nào; thí dụ những người bị tuyệt vọng, thất vọng, những người trác táng quá độ, hoặc những người bị cơn kềm chế quá mạnh mẽ. Những người đau khổ quá nhiều th́ trong hào quang của họ có những vết như vết thẹo. Trong những thể vô h́nh tức là những thể thanh cao của con người, th́ bộ máy tuần hoàn khác hẳn bộ máy tuần hoàn trong xác thân vật chất này; và trong những thể vô h́nh đó luôn luôn có sự vận chuyển không ngừng của những luồng sinh lực. Có những nguyên nhân thuộc về kiếp trước, do nơi sự sinh hoạt không đúng phép, do sự sinh hoạt trái đạo làm cho một phần trong các thể vô h́nh đó bị rối loạn và sự tuần hoàn trong những thể đó bị mất trật tự. Nếu t́nh trạng ấy tiếp diễn, nếu không t́m cách để trị nó, th́ nó có thể mang ảnh hưởng đến xác thể vật chất; và do đó mà bệnh tật phát sinh.

Như thế chúng ta thấy rằng những quyền năng siêu đẳng là quan trọng như thế nào, nếu trong thế hệ tương lai người ta biết dùng nó làm khí cụ để khám bệnh. Người ta cũng có thể dùng nó để khảo cứu sưu tầm về những vấn đề như là tính chất căn nguyên của vật chất hay những vấn đề liên hệ. Khi người ta luyện tập dùng Thần nhăn đó một cách thuần thục, th́ có thể đi du lịch nơi cơi Trung giới được. Như thế nghĩa là trong khi ta hoàn toàn thức tỉnh ta có thể xuất vía ra khỏi xác thân để đi châu du khắp nơi ở cơi Trung giới rồi trở về xác thân trong khi ta vẫn tỉnh táo như thường. Những điều nh́n thấy, kinh nghiệm được ở cơi Trung giới, khi ta trở về với xác thân này th́ vẫn nhớ rơ ràng tất cả. Những điều đó làm cho cảm giác trí năo người ta hoạt động đến cực độ. V́ lẽ đó mà những người bận rộn việc đời không nên thử dùng phương pháp đó; mặc dầu những phương pháp thí nghiệm để t́m ṭi chơn lư th́ ai ai cũng có thể thí nghiệm được. Với những quyền năng siêu nhiên như thế người ta có thể thám hiểm quan sát các cơi vô h́nh và xem xét những hiện tượng, những nhân vật hay những vị Thiên thần sống trên các cơi đó. Khi quyền năng con người được tăng gia th́ có thể đi từ cơi này sang cơi khác, mỗi lúc càng cao hơn.

Khi luyện tập nó đến một tŕnh độ cao th́ người ta có thể xem xét được “trí nhớ của vũ trụ” (mémoire de la Nature). Chừng đó có thể dùng Thần nhăn để thấy rơ những hiện tượng đă xảy ra trong quá khứ, những việc thuộc về lịch sử. Người ta có thể thấy những việc quá khứ xảy ra trong lịch sử bởi v́ trong cơi thiên nhiên có một thể chất rất tế nhị, tinh anh, mà tiếng Phạn gọi là “Akasha”. Những h́nh ảnh của các hiện tượng in dấu vết trong cái thể tinh anh của vũ trụ đó gọi là “cliché akashique” (tiên thiên kư ảnh). Đó là những phương pháp rất thú vị và ich lợi mà người ta có thể dùng để khảo cứu t́m ṭi. Nếu cần, ta có thể dùng phương pháp đó để xem xét những kiếp quá khứ của con người, hầu t́m cách giúp đỡ họ. Thần nhăn đó dùng xem xét được lịch sử các nước trên quả địa cầu, để khảo cứu học hỏi thêm. Tất cả lịch tŕnh quá khứ của nền văn minh nhân loại có thể khảo cứu được.

Nếu người nào chưa tiến hóa cho lắm, tức là tŕnh độ Thần nhăn của họ chưa được cao, th́ cần phải có một vật ǵ cụ thể trong không gian và thời gian để thí nghiệm t́m ṭi. Trước hết cần phải có một vật ǵ cụ thể để cầm trong ḷng bàn tay, rồi dùng Thần nhăn truy nguyên ra nguồn gốc, lịch sử và tất cả những hiện tượng đă xảy ra xung quanh vật đó. Người ta có thể xét tới những sự kiện đă xảy ra, thuộc về lịch sử của vật ǵ mà họ cầm trong tay. Thường thường khi dùng phương pháp đó để khảo cứu th́ người ta thấy những hiện tượng bày ra rơ ràng trước mắt chẳng khác nào một cuốn phim diễn ra trước mắt cho ta xem vậy. Lần lần tâm thức của ta mở rộng đến một một tŕnh độ cho ta sống hẳn với thời đại xa xăm của lịch sử mà người ta đang khảo cứu t́m ṭi đó. Người ta nh́n thấy những nhân vật, với đầy đủ mọi chi tiết đại khái như mặc y phục ǵ, phong tục tập quán của họ ra làm sao trong thời kỳ lịch sử mà họ đang xem xét. Không phải người ta nh́n vào lịch sử với tư cách một người của thế kỷ XX này, mà người ta có cảm giác như đứng lơ lửng trên không để nh́n xuống một cách khách quan những ǵ đang diễn ra trong lịch sử vào thời đó. Người ta có thể mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi được mùi của sự vật đang diễn ra trong lúc đó, chẳng khác nào họ đang sống lại lúc bấy giờ vậy. Nhưng lẽ tất nhiên, người ta không thể can thiệp được vào những điều ǵ đă xảy ra trong lúc đó, họ chỉ là những người khách quan đi t́m ṭi mà thôi.

Những điều tôi nói qua về Thần nhăn thuộc về thể chất và Thần nhăn siêu đẳng th́ bấy nhiêu đó cũng là tạm đủ.

Nói tóm lại, Thần nhăn đó chia làm 4 loại :

Loại thứ nhất là Quang tuyến Thần nhăn nh́n xuyên mọi vật (như Rayon X).

Thứ hai là Thần nhăn phóng đại (xem những vật nhỏ, như là kính hiển vi).

Thứ ba là Viễn vọng Thần nhăn (clairvoyance télescopique) nh́n những vật ở xa, như viễn vọng kính.

Thứ tư là Thần nhăn thuộc về cái phách (clairvoyance éthérique).

Ngoài ra lại c̣n những Thần nhăn dùng quan sát những cơi Trung giới, cơi Thượng giới và mở rộng tâm thức. Và c̣n Thần nhăn gọi là Thần nhăn của thời gian, do đó người ta có thể nh́n vào cái thể tinh anh của vũ trụ (Akasha). Với Thần nhăn thời gian, những nhà huyền bí học có thể nh́n thấy những sự vật sẽ xảy ra trong tương lai. Họ có thể đặt ra những câu hỏi khó khăn về tương lai con người, là những vấn đề thuộc về định mạng hay là ư chí.


Thần Nhĩ

Bây giờ tôi xin nói đến vấn đề Thần nhĩ. Cũng như Thần nhăn là một giác quan giúp cho người ta thấy được sự vật ở cơi vô h́nh, th́ Thần nhĩ là một giác quan giúp cho ta nghe được những tiếng động ở cơi vô h́nh. Do những năng khiếu đó, giác quan người ta mở rộng từ cơi hữu h́nh này đến cơi vô h́nh khác. Những quyền năng đó có thể giúp ta tiếp xúc với những Đấng vô h́nh ở các cơi trên.

Do đó người ta có thể tiếp xúc được với kẻ thân yêu vừa quá cố, với những vị Thiên thần ở cơi trên, và nếu được phép, th́ họ có thể tiếp xúc với những nhân viên Quần Tiên Hội.



C̣n một bực cao hơn nữa là quyền năng giúp ta nghe được tiếng nói trong nội tâm, tức là tiếng nói của Thượng Đế trong ḷng mỗi người vậy. Nghĩa là tiếng nói của linh hồn, tiếng nói của Chơn nhơn luôn luôn vọng lại cho ta để làm khí cụ nối liền Chơn nhơn với Phàm nhơn. Tiếng nói Vô thinh đó luôn luôn giúp ta một nguồn cảm hứng và d́u dắt ta trong mỗi hành động hằng ngày của ta. Bằng phương pháp Tham thiền, người ta có thể nghe được tiếng nói của ḷng, từ Chơn nhơn thốt ra, hay là bằng ư chí cũng có thể tiếp xúc được với Chơn nhơn của ḿnh. Điều đó chẳng khác nào ḿnh đánh thức Chơn nhơn bằng một (cú) điện thoại vậy. Lẽ tất nhiên ḿnh phải biết số điện thoại đó th́ mới có thể kêu nó được. Chúng ta cần phải biết cái ngôn ngữ, cái tiếng nói của Chơn nhơn nói với ta. Tiếng nói của tâm hồn ấy là Tiếng nói của Sự Sống Thiêng Liêng, là tâm thức chung của vũ trụ, của nhân loại.

Với các quyền năng đó người ta có thể nhận thức rơ những Chơn lư tối thượng. Do đó người ta biết được những Luật lớn của Trời Đất, những điều huyền bí của vũ trụ và vạn vật. Những Chơn lư đó người ta lănh hội được không phải do nơi sự tiết lộ cho ta biết mà là do nơi sự kinh nghiệm trực tiếp của ḿnh.

Bây giờ tôi xin nói đến những quyền năng đó đă được phát triển đến đâu trong giai đoạn tiến hóa của nhân loại hiện đại. Thông Thiên Học dạy rằng : trên bước thang tiến hóa của nhân loại, th́ người ta chưa đạt đến mục đích. Trong giai đoạn tiến hóa hiện thời th́ người ta chỉ mở được năm giác quan mà thôi. C̣n hai giác nữa sẽ được phát triển, nghĩa là sẽ khai mở được trong tương lai. Hai giác quan đó tức là Thần nhăn và Thần nhĩ vậy. Sự khai mở các giác quan đó phải đến cho ta một cách có trật tự, có phương pháp, nghĩa là được khai mở từ giống dân này đến giống dân khác.

Giống dân thứ nhất tức là giống dân mà xác thân của họ chỉ có cái vía và cái phách mà thôi, th́ họ đă mở giác quan đầu tiên, tức là thính giác.

Giống dân thứ hai có thể xác đông đặc hơn giống dân thứ nhất, th́ đă khai mở giác quan gọi là xúc giác.

Giống dân thứ ba đă hoàn toàn nẩy nở xác thân, họ đă phát triển được thị giác tức là giác quan của con mắt. Thị giác đó trước tiên do nơi con mắt độc nhất ở trên đỉnh đầu. Bên xứ Nouvelle Zélande có giống thằn lằn có ba con mắt. Con mắt ở ngay đỉnh đầu mọc trước nhất, trong 6 tháng đầu nó vừa sinh ra. Sau thời gian đó th́ da đầu nó liền lại và lấp bít con mắt đó. Rồi hai con mắt kia mới mọc lên, đó là di tích của con người có một con mắt trên đỉnh đầu thuộc giống dân thứ ba. Trong truyện thần thoại có nói tới một giống người gọi là Cyclopes, giống người đó chỉ có con mắt giữa trán. Đó là người ta diễn tả những giai đoạn trong lịch sử mà loài người bắt đầu chỉ có một con mắt mà thôi. Có nhiều quái thai mà những đứa trẻ mới sinh ra có một con mắt ở giữa trán, đó là những di tích c̣n sót lại của các giai đoạn lịch sử xa xôi đă mất trong kư ức của loài người. Giống dân thứ tư là giống dân Atlante mở vị giác hay giác quan của cái lưỡi. Giống dân thứ năm th́ mở khứu giác hay giác quan của mũi. Trải qua ḍng thời gian khi loài người càng tiến hóa, th́ những giác quan đó càng ngày càng phát triển thêm nhiều. Giống dân thứ sáu thuộc về nhân loại tương lai sẽ mở được giác quan thứ sáu, tức là Thần nhăn và Trực giác. Hiện thời bây giờ có một vài người phát triển được giác quan thứ sáu và đó chính là đầu đề để chúng ta học hỏi về những quyền năng siêu nhiên của con người. C̣n giống dân thứ bảy là giống dân cuối cùng của nhân loại trên quả địa cầu, nó sẽ phát triển tất cả mọi giác quan một cách hoàn toàn. Ngoài ra, giống dân thứ bảy đó lại c̣n khai mở được Thần nhĩ và thực hiện được sự hợp nhất ḿnh với tất cả mọi loài. Xét về sự tiến hóa của nhân loại, th́ đến giống dân thứ bảy, người ta sẽ đạt tới sự phát triển của mọi giác quan. Sau giai đoạn đó, th́ quả địa cầu sẽ ch́m trong một giấc ngủ triền miên và tất cả nhân loại sẽ do luồng sóng sanh hoạt dắt dẫn qua một quả tinh cầu khác, và cứ mỗi lần như thế, th́ người ta lại càng phát triển thêm đủ mọi quyền năng.

Sau cùng th́ người ta có thể hỏi rằng : “Vậy chớ cơ quan nào làm chủ động cho giác quan siêu nhiên vừa nói đó ?” Theo như tôi đoán th́ có lẽ chư huynh đệ cũng biết rơ về những điều ấy. Những bộ phận đó hiện thời chưa lộ ra ngoài xác thể của ta như năm giác quan mà ta đang có. Đó là bộ hạch trong óc gọi là pituitary gland, là cơ quan của Thần nhăn và bộ Tùng quả tuyến gọi là pineal gland, tức là cơ quan của Thần nhĩ. Hai cơ quan đó là của Thần nhăn và Thần nhĩ, nó thuộc về giác quan siêu đẳng của con người. Do những cơ quan đó, người ta có thể phát triển được tâm thức thuộc về Thượng trí và Bồ đề. Bây giờ chúng ta hăy xem xét cái động lực nào, cái sức mạnh nào làm phát động những cơ quan đó. Có một năng lực thần bí tiềm tàng trong vũ trụ và trong con người. Người ta gọi nó là ngọn Lửa Thiêng sáng tạo. Nó là nguyên nhân mọi sự sanh hóa, mọi sự sinh nở của muôn loài trong Trời Đất. Nó ẩn trong tủy xương sống con người, khoanh tṛn lại bảy ṿng như h́nh con rắn và nằm trong xương mông dưới chót xương sống. Hiện bây giờ nó đang thức tỉnh một phần nào. Một khoanh trong bảy ṿng đó đang khích động. Chính cái khoanh đó làm cho thần kinh hệ của chúng ta hoạt động và nó cũng là cơ quan truyền tiếng nói của ta nơi cơi vô h́nh. Khoanh thứ hai trong bảy khoanh đó cũng đang khích động, chính nó chủ động của sự sanh hóa và làm cho người ta có thể sinh nở được. Do nơi công phu luyện đạo, ngọn Lửa Thiêng đó bị khích động và đi lên đến đỉnh đầu. Sức mạnh thần bí đó gọi là Kundalini, một sức mạnh thuộc về điện lực, khi nó lên th́ nó đi theo một đường ṿng trôn ốc, rồi chui vào trong óc, là như nó phát điện cho bộ óc của ta vậy, nghĩa là làm cho bộ óc ta nhạy cảm thêm, và làm cho ta có thể đáp lại hay nhận thức được tiếng nói của Chơn nhơn. Nó cũng làm cho hai bộ hạch óc pituitary và pineal được khích động. Bộ óc của ta bị khích động bằng phương pháp đó th́ nó làm cho ta nhận thức được những sự vật xảy ra trong cơi Trung giới và các cơi vô h́nh.

Đó là những giáo lư mà Thông Thiên Học dạy ta về những quyền năng siêu đẳng của con người, và địa vị của nó ở trên những nấc thang tiến hóa của nhân loại, nghĩa là những giai đoạn thuộc về quá khứ, về hiện tại của loài người. Nó cũng dạy ta về năng lực của những bộ phận do đó mà ta có những quyền năng siêu đẳng, và ngọn Lửa Thiêng thuộc về điện khí làm khích động được những quyền năng đó. Như thế chúng ta thấy rằng chúng ta phải biết ơn giáo lư Thông Thiên Học đem đến cho chúng ta những tài liệu rất đầy đủ và sáng suốt để chúng ta hiểu được những điều huyền bí trong vũ trụ. Ngoài những điều thuộc về xác thân, giáo lư Thông Thiên Học c̣n dạy chúng ta các điều thuộc về những cơi tư tưởng và tinh thần nữa. Chính cái đó nó làm cho giáo lư Thông Thiên Học có giá trị. Đó là nguyên nhân v́ sao mà người Thông Thiên Học chúng ta cần phải biết ơn những vị Chơn Sư đă tiết lộ các điều bí mật đó. Chính những vị Chơn Sư ấy đă khám phá các điều bí mật của vũ trụ và truyền cho nhân loại từ điều này sang điều khác, nhất là hai vị Chơn Sư đă thành lập Hội Thông Thiên Học. Do nơi Hội Thông Thiên Học mà những giáo lư thâm sâu và huyền diệu đó được tiết lộ cho nhân loại để giúp đỡ họ trên con đường tiến hóa. Như thế chúng ta có thể tin rằng thật là một điều vinh hạnh vô cùng cho chúng ta được làm một người Thông Thiên Học !







Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 11:25pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

2.NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁP TRIỂNN TÂM LINH

*Tại sao ta không năng linh ?
TẤM MÀN BƯNG BÍT

Một khi ta nhận thức rằng có một cơi vô h́nh bao quanh chúng ta, rằng ban đêm chúng ta hành động trong cơi đó một cách ư thức khi thể xác ngủ, rằng lư do duy nhứt khiến ta không nhớ các hành động nầy là thần kinh hệ của chúng ta không có cảm lực cần thiết, chừng đó ta cảm thấy có một bức màn bưng bít chúng ta và chúng ta muốn vén nó, xé nó, vứt nó. Nhưng ta hăy dè chừng đừng để sự thèm khát hiểu biết làm hại chúng ta. Nếu toàn thể nhân loại không trở thành năng linh là v́ có những lư do quan trọng, những qui luật sáng suốt do Ơn Trên sắp đặt.

Một người mang cho chủ một đóa hoa sen c̣n đọng sương đêm vừa hé nhụy. Y được lệnh đem ngâm hoa trong nước, nhưng v́ muốn đẹp ḷng chủ, y mở các cánh hoa mịn màng để lộ nụ gương tươi thắm. Sau đó vài giờ, cánh hoa trở nên úa và tím mặc dầu hoa được để trong nước.

Nếu chúng ta khai mở quyền năng của chúng ta sớm quá, chúng ta sẽ trở nên suy kém, tàn úa như vậy. Chúng ta không nên làm hỏng bộ thần kinh tế nhị hay thí nghiệm phương pháp nầy nọ với khối óc chúng ta. Một công phu sai lạc, một cố gắng quá nhiều có thể gây thương tích trong cơ cấu phức tạp của bộ thần kinh khiến cho ta bịnh hoạn suốt đời. Chúng ta cần hiểu rơ ràng những điều ta phải làm trước khi đánh thức các quyền năng tiềm tàng của ta; chúng ta hiểu rơ phương pháp khai mở nầy và kết quả của nó ra sao, nếu không chúng ta sẽ lâm nguy.



CÁC LỜI KHUYÊN NGUY HIỂM

Chúng ta không nên nhắm mắt tin theo những lời chỉ bảo nầy nọ trong hằng ngàn quyển sách xuất bản khắp nơi v́ các lời chỉ bảo ấy thường sai lầm và nguy hại. Chúng ta nên biết rằng khoa tâm linh hiện được rất đông người chú ư nên sách vở của khoa nầy xuất hiện rất nhiều nhưng giá trị th́ chẳng bao nhiêu. Cả trăm quyển sách nầy viết ra không phải để d́u dắt độc giả một cách hữu ích mà để thỏa măn tánh hiếu kỳ thôi. Tác giả những quyển sách đó không nghĩ đến tai hại của những điều chỉ dạy của họ : mục đích của họ là bán sách chạy và kiếm tiền.

Những sách họ sưu tầm là những sách Ấn Độ nói về bùa chú, phù phép không được các bực tu sĩ chân chính tín nhiệm. Họ hấp tấp đọc qua và rút các cách tập luyện thân thể nhằm mục đích đánh thức các quyền năng tâm linh thấp kém rồi tŕnh bày lại cho các độc giả dễ tin dưới những tựa huyền bí, hấp dẫn.

Đó là lời chỉ bảo của nhiều nhóm được gọi là “huyền môn”. Cả ngàn người theo những lời chỉ bảo ấy hay các giáo lư khác tương tự được tŕnh bày trong sách cho đến khi tai hại xảy ra.

Sự chế tạo chất nổ rất nguy hiểm nên không ai bắt tay vào công việc nầy mà không t́m hiểu cặn kẽ, không tham khảo ư kiến của các nhà chuyên môn. Về sự luyện tập tâm linh, tuy công việc không kém phần nguy hiểm, nhưng nhiều người v́ một lẽ bí mật nào đó, tưởng ḿnh hiểu biết tất cả và tin ở ḿnh hoàn toàn. Họ cho ḿnh xét đoán không sai lầm và không ngần ngại tập luyện. Có lẽ v́ đó mà biết bao người đă loạn trí ở Tây phương.



PHẢI SÁNG SUỐT



Về các công việc nghiên cứu tâm linh, chúng ta phải xét đoán hợp lư, phải tỏ ra sáng suốt y như chúng ta giải quyết các công ăn việc làm. Trước một tin tức tâm linh, ta phải phân tích, đắn đo như đối với một bức thư quan trọng. Ta không cần phải nhắm mắt tin tưởng với sự ngưỡng mộ, tôn sùng. Trái lại, ta phải sử dụng tất cả khả năng xét đoán của ta.

Có những người thông minh, khi sang qua lănh vực tâm linh th́ dường như mất quan năng suy luận. V́ vậy họ tán dương những điềm chiêm bao của họ như là những cuộc tiếp xúc với các bậc siêu phàm, họ cho những phản ứng xấu xa của óc tưởng tượng hỗn loạn là những hoạt động quỉ quái của bọn phù thủy, và gán cho một chơn sư linh hiển, những lời mộc mạc, tầm thường nổi lên ở tâm họ. Phải đợi nhiều năm họ mới trở nên b́nh thường trở lại, v́ vậy thái độ hoài nghi chơn chánh c̣n hơn là sự tin nhảm của một số người.



HĂY TỰ BIẾT M̀NH



Trên phương diện huyền môn, có biết bao phương pháp luyện tập, đúng cũng có, sai cũng nhiều, và người nào muốn thành công cần áp dụng lời khuyên của Socrate chạm ở ngưỡng cửa đền Delphes : “Hăy tự biết ḿnh”.

Sự tự biết ḿnh đ̣i hỏi chẳng những nhiều năm nghiên cứu an tĩnh và thâm diệu, và cả công việc giúp đời, v́ ban cho và phụng sự có đặc tính mở mang các quan năng tâm linh. Trong tâm ta, có những quyền năng vi diệu mà chúng ta chưa ḍ, những năng lực mà chúng ta chưa biết, những nguồn năng lực mà chúng ta chưa ư thức được sự hùng hậu. Có những cơi rất cao ở tâm ta mà chúng ta không ngờ nhưng có thể đạt, và v́ vậy, người chí nguyện không lùi chơn trước một trở ngại nào. Đó là mục đích của các kiếp sống chúng ta ở cơi trần.



SỰ NĂNG LINH QUÁ SỚM



Có những lư do quan trọng khiến các quan năng tâm linh của chúng ta không mở sớm. Một cách hay nhứt để hại một người nào là giúp cho y cảm xúc được ảnh hưởng và năng lực của cơi vô h́nh. Tạo Hóa rất sáng suốt và nếu các định luật thiên nhiên được tôn trọng th́ không bao giờ một quan năng tâm linh có thể mở nếu chúng ta chưa sử dụng nó được. Chúng ta không nên ao ước một sự phát triển tâm linh quá sớm v́ nó chỉ đem lại sự đau buồn.

Nếu chúng ta không thuộc các bài học của cơi trần và rèn luyện tánh can đảm, sự bền chí, đức vị tha, ḷng thanh bạch, sự sáng suốt và t́nh thương th́ cần chi phải thám hiểm cơi bên kia ? Chúng ta sẽ có cái thái độ điên cuồng của một nhà thám hiểm quyết đi sâu vào rừng già Phi châu mà không mang theo khí giới. Chúng ta nên thành thật nh́n nhận rằng chúng ta chưa được sẵn sàng hơn là để thất bại v́ chưa chuẩn bị.



CÁC LOẠI ẢNH HƯỞNG TÂM LINH



Một trong những ảnh hưởng khủng khiếp nhứt mà ta phải chịu và không sao thoát ra được v́ đă mở quan năng tâm linh quá sớm là ảnh hưởng gây ra do một vong linh hung dữ. Chúng ta đinh ninh rằng khi hành quyết một kẻ sát nhân, chúng ta chấm dứt hành động tàn ác của y. Nhưng sau khi chết, con người không phải bỗng nhiên trở nên thánh thiện và cũng không đi xa. Những người đạo hạnh sau khi từ trần, sẽ lên các từng cao của cơi vô h́nh. Trái lại, các từng thấp ở gần quả đất th́ đầy dẫy những nhân loại cặn bă đă từng gây án mạng hay đam mê dục lạc lúc sinh tiền. Với mục đích thỏa măn các dục vọng đê hèn đang giày ṿ ḿnh, họ ám ảnh người sống nhứt là những người nghiện rượu và xúi giục họ làm những điều bẩn thỉu. Những người năng linh quá sớm sẽ chịu ảnh hưởng khốc hại nầy mà không thể chống đỡ được v́ c̣n non nớt và chưa có kinh nghiệm cần thiết.

Một lư do khác khiến Tạo Hóa từ chối quan năng tâm linh cho các người chưa được chuẩn bị là sự hiện diện ở chung quanh chúng ta những sinh linh kém tiến hóa hơn nhân loại. Các sinh linh nầy chống đối với nhân loại nhưng không thể làm hại nhân loại được v́ lẽ chúng thuộc cơi vô h́nh, trừ khi nào con người tự đặt ḿnh dưới ảnh hưởng của chúng bằng cách khai mở quan năng tâm linh quá sớm : đó là một bài học rất đau khổ.

Ngoài ra, chúng ta đừng quên rằng khi quan năng tâm linh thức động, ta sẽ cảm xúc được những tư tưởng, t́nh cảm và dục vọng phóng ra trong cơi vô h́nh, dưới h́nh thức những rung động, do hằng triệu con người sống tụ tập ở các đô thị. Quả thực, chúng ta sống trong một biển h́nh ảnh xuất phát liên tiếp từ trí óc linh động của loài người, và chúng sẽ xâm chiếm tâm trí ta để gây nhiều tai hại nếu chúng ta không kiểm soát và chủ trị được quan năng trí thức của chúng ta. Sự xâm chiếm nầy sẽ trở nên một ác mộng cho những ai tu tập sai đường, v́ tư tưởng, t́nh cảm quay cuồng trong một thành phố lớn thường ích kỷ, tham lam, duy vật, trụy lạc, gian xảo, thù hận, chỉ thỉnh thoảng mới có màu sắc tươi đẹp, sáng sủa của t́nh thương và của hoài vọng tinh thần.



MÀN BẢO VỆ



Đến đây, chúng ta đề cập tới một trong những phát minh quan trọng nhứt của huyền môn học : phương pháp giản dị và hữu hiệu nhờ đó Tạo Hóa ngăn cản sự khai mở quá sớm các quan năng tâm linh.

Ai có học về điện đều biết rằng nếu ta bao hai đầu một sợi dây dẫn điện bằng sáp và ráp hai đầu dây lại   th́ luồng điện không chạy qua được. Nhưng nếu ta gỡ sáp đó ra dù chỉ chút ít thôi, th́ điện xẹt ra ngay.

Cơ cấu tâm linh của con người cũng giống như thế. Trong thể vía và thể phách của chúng ta, có những trung tâm được đặt để như thế nào chúng gần như đụng các trung tâm tương ứng của thể xác. Nếu các sinh lực của cơi vô h́nh có thể đi xuyên qua các trung tâm của thể vía và thể phách để ảnh hưởng các trung tâm của thể xác th́ các cơ quan năng linh thức động.

Tạo Hóa sáng suốt tránh sự thức động bằng cách đặt một màn lưới mỏng phân cách các loại trung tâm để ngăn cản luồng sinh lực chạy xuyên qua các thể. Màn lưới ấy được tạo bằng một lớp nguyên tử hồng trần ép chặt [2]. Nó để các sinh lực nuôi dưỡng các thể lưu thông dễ dàng qua nó và chận đứng các loại ảnh hưởng khác trừ khi nào nó bị rách.

Khốn thay, một vài phương pháp gọi là tâm linh được dạy ở Tây phương trong các Trường Huyền Môn trục lợi lại làm hại cái màn lưới bảo vệ ấy. Có phải chăng v́ vậy mà các trường hợp điên cuồng gia tăng ?



SỰ NĂNG LINH : MỘT SỰ THẬT KHẮC KHE



Sự năng linh đă được nghiên cứu từ xưa ở Ấn Độ cũng như ở các trường huyền môn chân chính và lần lần trở nên một khoa học chân xác.

Những ai biết sự năng linh không phải là một tṛ tiêu khiển mà là một sự thật khắc khe th́ không khi nào dám nghĩ đến sự luyện tập cầu may của một số người Âu Mỹ. Là v́ nếu họ biết khoa ấy giúp ích rất nhiều cho những người đă được chuẩn bị và hội đủ những đức tính cần thiết th́ cũng gây rất nhiều tai hại cho những kẻ chưa sẵn sàng.

Một nhà huyền môn chân chính không khi nào dạy cách phát triển năng linh cho những người ích kỷ, tục tằn, v́ dạy như thế chẳng khác nào đưa chất nổ cho trẻ con. Một người như vậy chẳng những ngăn trở sự tiến hóa của họ trong nhiều kiếp mà c̣n gây đau khổ cho kẻ khác với ư chí ích kỷ của ḿnh. Cho đến khi nào chúng ta chưa sử dụng được các khả năng sẵn có của chúng ta vào những mục đích vị tha th́ ta không nên đ̣i hỏi thêm điều chi nữa.

Sự năng linh chỉ có tính cách quí báu khi nào hành giả đứng đắn, tinh tấn, bền chí nhứt là vị tha.



*Sự giao cảm năng linh [3]

SỰ TRUYỀN CẢM CỦA ĐỜI SỐNG

Các tư tưởng đến với chúng ta dù từ trí năo của chính ta hay từ trí năo của người khác đều do cơi vô h́nh chuyển đến, v́ tư tưởng và t́nh cảm phát sinh tại cơi nầy. Những tư tưởng và t́nh cảm nảy ra trong tâm trí ta chẳng qua là những sự phỏng tạo vụng về trong khối óc vật chất, những rung động trí thức và t́nh cảm tương tự các làn sóng phát thanh của một trí tuệ vô cùng linh động.

Mỗi khối óc là một máy thu thanh. Chúng ta đều biết rơ tư tưởng và t́nh cảm có thể truyền từ trí óc người nầy đến trí óc người khác trong chớp nhoáng mà không cần lời nói, nhưng chúng ta chưa ư thức được rằng các tư tưởng mà chúng ta cho là riêng của chúng ta chỉ là những tư tưởng của kẻ khác được phỏng tạo lại trong tâm trí ta.

Các ấn tượng cách cảm ấy được truyền liên tiếp từ người nầy đến kẻ nọ, từ đám đông nầy đến người kia nên tạo giữa dân cư một thành phố hay một quốc gia, một lối suy luận riêng, một cách cảm xúc riêng, một thái độ riêng.

Cái thái độ nầy gây một áp lực rất mạnh như áp lực của không khí. Chúng ta không thấy áp lực đó nhưng không ai thoát khỏi ảnh hưởng của nó.

Sự vui vẻ quá độ ở hí viện; sự bồng bột khiến ta la lối trong một trận túc cầu; sự ham mê âm nhạc hay hội họa đột nhiên nổi lên ở ḷng ta lúc ta tṛ chuyện với nghệ sĩ; sự thích thú một quyển sách được nhiều người khen ngợi; sự sầu năo trong một đám tang; sự chán nản ở một buổi tiệc khi có mặt một người khách buồn rầu; sự nóng tánh ở một buổi họp khi có một người giận dỗi, các t́nh cảm nầy chẳng phải là của ta mà là của kẻ khác được chuyển sang tâm trí ta.



THÁI ĐỘ TÍCH CỰC



Thái độ của chúng ta phải như thế nào nếu chúng ta biết sự buồn rầu hay phấn khởi của chúng ta đều tùy hoàn cảnh hoặc tùy những người ở gần hay ở xa chúng ta mà liên hệ mật thiết với ta ? Chúng ta phải tích cực : v́ các tư tưởng và t́nh cảm xấu xa của kẻ khác chực xâm chiếm tâm trí ta, ta phải chống cự lại. Việc đó không khó. Bạn hăy nói : “Các tư tưởng ấy không phải của tôi. Tôi không có lư do ǵ để buồn rầu hay chán nản. Tôi không để các tư tưởng ấy xâm nhập trí tôi. Chúng phải đi nơi khác. Tôi muốn vui vẻ, an lạc và thương yêu. Tôi là ánh sáng hóa thân, tôi là một Điểm Linh Quang của Thượng Đế.” Một thái độ như thế rất kiến hiệu trên con đường tiến hóa.



SỰ TRUYỀN CẢM CỦA NGƯỜI CHẾT



Chẳng những người sống mà cả những người chúng ta gọi là chết cũng chuyển tư tưởng và t́nh cảm đến tâm trí chúng ta, v́ sự chết của xác thân không ảnh hưởng đến trí tuệ của con người.

Một trong những điều mà chúng ta phải ư thức, nếu chúng ta muốn hiểu cách thức truyền cảm, là người chết không cách biệt với các người thân mến một thời gian sau khi từ trần. Tuy chúng ta không thấy người v́ mắt chúng ta không nhận được các rung động của cơi vô h́nh, nhưng người thấy ta trong khung cảnh hằng ngày, trong thời gian vài ba năm chưa tiêu diêu lên cơi trên, và người vẫn thiết tha với hạnh phúc của chúng ta như lúc trước.

Ban đêm, trong lúc thể xác ta nghỉ ngơi, vía chúng ta gặp các người thân mến đă quá văng ở cơi vô h́nh và chuyện tṛ như lúc sống. Ban ngày tuy người sống không thấy người chết chớ có thể chuyển cho họ những tư tưởng thương yêu như những sứ giả hạnh phúc, và một tư tưởng mạnh mẽ của một vong linh cũng có thể xâm nhập tâm trí ta như tư tưởng của một người lân cận.

Nhiều tư tưởng đến cho ta như vậy dù rằng ta không ngờ có sự truyền cảm từ cơi giới bên kia.



CẢM HỨNG



Đôi khi, trước một số thính giả đông đảo, một diễn giả được một nhân vật đang hoạt động giúp đời ở cơi vô h́nh lưu ư và chuyển cho ông những tư tưởng mạnh mẽ.

Trong trường hợp nầy, diễn giả đột nhiên được nhiều cảm hứng. Những tư tưởng rơ ràng, những ư niệm sáng sủa hiện đến dồn dập, lời nói của ông trở nên chọn lọc, thanh tao, êm ái, ông trở nên hùng biện, trang nghiêm và lôi cuốn cử tọa mê say. Đó là một cách chuyển di tư tưởng quí báu nhứt.



VIẾT VÀ VẼ TỰ ĐỘNG



Ảnh hưởng của các nhân vật ở cơi vô h́nh có thể biểu hiện một cách khác hơn là sự chuyển di tư tưởng. Trong nhiều trường hợp, nhân vật ấy có thể chiếm lấy cánh tay hay bàn tay người sống xuyên qua các trung tâm thần kinh của y để vẽ hay viết. Đó là hiện tượng viết hay vẽ tự động [4] thường thấy ở những buổi họp thần linh.

Trong các trường hợp nầy, cánh tay không c̣n tùy người sống kiểm soát mà do nhân vật nói trên sử dụng.



LỜI NÓI TRONG TRẠNG THÁI XUẤT THẦN



Nhân vật ấy cũng có thể chiếm lấy bộ phận cuống họng của người sống để nói chuyện với các người hiện diện. Nếu người “đồng” không xuất ra trọn vẹn, th́ y vẫn tỉnh và biết được mọi sự việc, nhưng không cưỡng lại được những lời nói bộc phát từ đôi môi ḿnh. Trái lại, nếu đồng tử xuất ra hoàn toàn, để thể xác bị chiếm trọn vẹn th́ y ít khi ư thức những việc xảy ra. Sau buổi nhập đồng, y không c̣n nhớ chi cả từ lời nói đến việc làm. Trong các trường hợp nầy, nét mặt y có thể thay đổi.

Chúng ta biết thân thể phản ứng nhanh chóng tùy t́nh cảm chúng ta. Nó thay đổi sắc diện mỗi lần chúng giận, buồn hay vui. V́ vậy khi một nhân vật đến nhập vào thể xác, lời nói, cách nói của người đồng tử thay đổi để được giống nhân vật nầy.



SỰ HIỆN H̀NH



Một người ở cơi vô h́nh có thể tiếp xúc với người trần bằng một cách khác hơn là qua sự trung gian của đồng cốt. Người có thể lấy chất dĩ thái trong các thể người sống để tạo ra một cánh tay dùng xê dịch đồ đạc hay để bao quanh thể vía của ḿnh và hiện ra. Người ta có thể nói năng với h́nh dạng mới tạo nầy. Các hiện tượng nầy được gọi là sự hiện h́nh.

V́ những đồ vật hữu h́nh chỉ có thể bị xê dịch bởi những động lực tác động xuyên qua một cơ thể hữu h́nh nên một vong linh chỉ có thể tạo ra một hiện tượng vật chất khi nào vị ấy nhập vào xác người sống hay tự ḿnh hiện ra bằng chất dĩ thái.

Không phải các sự hiện h́nh đều có thể thấy được. H́nh có thể tạo bằng chất đặc nhưng không thể trông thấy, có cái thấy được tuy giống như sương mù, có cái vừa đặc vừa thấy được. Muốn xê dịch đồ đạc, h́nh hiện ra phải bằng chất đặc.

Sau khi chết, h́nh dáng con người giống như lúc sống, có khác chăng là thể của người bây giờ không phải làm bằng vật chất hồng trần mà bằng một chất thanh hơn. V́ vậy, khi y bao quanh thể của y bằng một lớp dĩ thái vừa đủ để phản chiếu ánh sáng, th́ y hiện ra giống hệt lúc c̣n sinh tiền.

Trong một buổi nhập đồng, một vong linh có thể lấy tên một vị không có mặt tại đó. Nếu y tưởng tượng giống vị ấy th́ thể vía của y cũng giống như vậy, theo h́nh tư tưởng của y. V́ vậy việc mạo danh thường xảy ra trong các buổi đồng cốt. Đấng Ky Tô, Socrate, Platon, Shakespeare và các nhân vật cao cả khác – mà nhiều người tưởng hiện diện ở các buổi nhập đồng – có nhiều công việc quan trọng hơn là đến thốt những lời vô vị vụng về, không được những người sáng suốt lưu tâm.



VIẾT TRÊN BẢNG ĐÁ



Sự viết trên bảng đá cũng là một sự hiện h́nh. Sự kiện xảy ra như sau : Một cây viết được để giữa hai tấm bảng và tất cả được gói lại và niêm khằng cẩn thận. Khi vong linh về và muốn viết th́ dùng chất dĩ thái của người đồng để có thể sử dụng cây viết và viết. V́ chất dĩ thái có thể đi xuyên qua các chất đặc một cách dễ dàng nên cái bàn tay bằng chất dĩ thái thọc vào gói, băng ngang qua bảng đá và viết cũng như ta đưa bàn tay ngang qua một đám khói.



KHI NHÀ HUYỀN MÔN HIỆN H̀NH



Đôi khi, một nhà huyền môn hoạt động ở cơi vô h́nh cần hiện h́nh để giúp đỡ một người lâm nạn ở cơi trần. Khi hiện h́nh như vậy, người không lấy chất dĩ thái của đồng cốt mà dùng ư chí mạnh mẽ rút dĩ thái ở không trung bao thể vía để tạo ra một h́nh thể có thể nói năng và hành động. Sau đó, khi ư chí của người không tập trung nữa th́ chất dĩ thái trở về trạng thái cũ và sự hiện h́nh chấm dứt.


Đồng cốt và sự truyền cảm thụ động

MỘT ĐẶC ĐIỂM VẬT CHẤT

Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất ra khỏi xác; thể xác y c̣n phải có một đặc điểm khác là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các phần tử dĩ thái và các phần khác của nó.

Đặc điểm nói trên thường có từ lúc mới sanh, nhưng nó cũng có thể được khai mở thêm ở những nơi được gọi là “Câu lạc bộ phát triển”.

Nó không chứng tỏ rằng người có nó tiến cao hơn mọi người khác. Thường th́ trường hợp trái lại xảy ra : khả năng lên đồng là dấu hiệu một linh hồn kém tiến hóa mặc dù có vài ngoại lệ.

Lư do là khả năng nầy không vượt qua phạm vi thể xác : khi thể xác có một vài đặc điểm cần thiết th́ người ta có thể ngồi đồng. Nó không đ̣i hỏi một tánh t́nh thanh cao hay một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần. Bản chất thanh cao của con người không được lưu ư.

Nhưng người ta nghĩ sai rằng khả năng ngồi đồng là một bằng chứng của sự phát triển tâm linh. Nhiều người c̣n hiểu rằng : tin ở các vong linh và ở đời sống bên kia của tử là dấu hiệu của sự phát triển cao quí ấy, rằng chấp nhận những giáo lư vô vị ở các buổi nhập đồng là chứng tỏ một sức mạnh tinh thần c̣n say mê những hiện tượng này nọ là sự mộ đạo.



NHỮNG ĐIỆN TÍN PHI PHÀM



Xem sự lên đồng như là một tôn giáo và kính trọng lời lẽ của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lư cao siêu th́ không khác nào qú ở một trung tâm vô tuyến Marconi để nghe những điện tín chuyển đến từ một cơi xa xăm và tôn kính các điện tín ấy như là thông điệp của trời. Thái độ ấy không hợp lư. Trong hai trường hợp, lời lẽ vẫn phát xuất từ một người thường, có khác chăng là một đàng, nó được chuyển đến do máy móc, c̣n một đàng do xác đồng.

Việc một người chết dùng xác đồng giống như việc ta dùng điện thoại : sự kiện không có tánh cách tâm linh ǵ cả. Chúng ta có thói quen gọi người vừa bỏ xác thân là “vong linh”. Thói quen nầy gây nhiều sự hiểu lầm khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết quá mức. Ngay bây giờ, chúng ta cũng là những linh hồn, và sau khi từ trần, chúng ta chỉ mất thể xác thôi chứ chúng ta vẫn y như trước.

Nếu trong lúc sanh tiền, anh Ất ăn nói dài ḍng, th́ chết anh cũng thế. Anh có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo đi nữa th́ lời lẽ của anh cũng không có giá trị ǵ hơn lúc anh c̣n sống.

Chúng ta bao trùm cái chết và những điều ở bên kia cửa tử bằng một bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích chi cả. Khi một người đồng thốt một điều ǵ, ta nên đón tiếp như lời một bạn quen, có thế thôi.



TRINH NỮ DÂNG HƯƠNG [5]



Đồng cốt là một phương tiện liên lạc xưa nhất và dễ nhất giữa cơi trần và cơi vô h́nh. Lịch sử và các sự nghiên cứu huyền môn xác nhận đồng cốt đă có trên hai ngàn năm nay. Người có huệ nhăn khi quan sát ở quá khứ, trong những đền thờ vĩ đại của Châu Atlantide, của Ai Cập hay Hi Lạp ngày xưa th́ các Trinh nữ dâng hương, vũ nữ và đồng nữ hiện ra trong những xác thân trinh khiết trước những bàn thờ tôn nghiêm và các tín đồ yên lặng và tin tưởng, để chuyển lại lời lẽ quí báu của các Đấng Thánh linh.         & nbsp;         & nbsp;      

        Nhưng hoàn cảnh hiện tại khác hẳn hoàn cảnh ngày xưa. Trước kia, các trinh nữ đó thuộc những gia đ́nh quí phái và được nuôi dưỡng trong các đền thờ thanh khiết, linh thiêng. Họ ăn những thức ăn chọn lọc và được ngừa những ảnh hưởng và tư tưởng xấu xa. Được chăm nom cẩn thận như vậy, họ tránh được mọi tai hại cho họ, đồng thời nói lên được những giáo lư cao siêu do các bậc Chưởng giáo nhập vào truyền dạy.

           Việc rời bỏ xác thân để một vị cao cả sử dụng nó không phải là một điều nguy hại. Sự thực th́ có những nhà huyền môn và các bậc điểm đạo làm như vậy khi họ biết rơ vị nào sẽ sử dụng xác thân của họ. Trong lúc họ rời khỏi xác thân, họ ư thức được những điều xảy ra. Họ c̣n có dịp đứng bên vị Chưởng giáo để nghe các lời chỉ dạy.



nguy hại của đồng cốt Hiện nay



Việc sử dụng đồng cốt hiện nay gây nhiều tai hại khiến các nhà huyền môn khuyến cáo nên xa lánh. Nguyên nhân các tai hại đó là điều kiện sinh sống bẩn thỉu, nhớp nhúa của đồng cốt. Họ không được tiến hóa đến mức có thể chọn những vị cao cả cho nhập vào xác ḿnh. Khi họ rời thể xác, họ mê và không c̣n hoạt động được. Tâm thức của họ v́ không được luyện tập nên phất phơ như trong giấc mộng với những tư tưởng quen thuộc hằng ngày. Trong lúc đó, một vong linh nhập vào xác trống và giảng dạy trước một cử tọa kính cẩn. Đôi khi những vong linh được gọi là "kẻ d́u dắt", có mặt và cố gắng che chở đồng cốt. Tuy nhiên, các vong linh ấy cũng tầm thường như chúng ta chứ không phải toàn năng hay toàn tri để có thể bảo vệ kiến hiệu.

Nếu chúng ta biết rằng ở cơi vô h́nh (nhứt là ở các tầng thấp mà các đồng cốt thường tiếp xúc), có một số vong linh đàn ông, đàn bà bất hảo, th́ chúng ta đừng ngạc nhiên khi một vong linh du đảng, thô bỉ, trụy lạc toan chiếm xác thể người đồng, mặc dầu có sự ngăn trở của vong linh d́u dắt. Kết quả thể xác người đồng bị hành hạ và trở nên ô uế.

           Dù vong linh có thanh cao hơn, sự xâm chiếm ấy cũng không tốt v́ mấy ai không c̣n ích kỷ và dục vọng.



những nơi ô uế



           Chúng ta hăy đến dự một buổi lên đồng phải trả tiền vào cửa và nh́n xem cảnh vật chung quanh. Trong các người hiện diện, ít ai học rộng và thương người, họ đến v́ tính ṭ ṃ hay để thoả măn một dục vọng cá nhân. Họ thường ăn thịt, uống rượu, lắm khi không được sạch sẽ nên phát ra những hôi hám ô uế. Người đồng cũng không cử rượu thịt nên từ điện của họ rất dơ bẩn. Như vậy, các bậc tiên thánh làm sao có thể sử dụng được thể xác của y ? Thể xác của y như một bộ quần áo dơ, làm sao một người sạch sẽ có thể mặc vào ?

           Do đó, những giáo lư do đồng cốt thốt ra không có giá trị, v́ các nhân vật quan trọng không đến nhập, dầu nơi đó có mặt thân nhân của họ. Kết quả là những vong linh tầm thường đến và rất hănh diện xưng vị này, đấng nọ để truyền dạy những điều vô vị.



những điều kiện lư tưởng



           Nếu các điều kiện trên được thay đổi, nếu các người đến dự gồm các người trong sạch, vị tha và có khuynh hướng tâm linh, nếu người đồng cốt đừng ham mê thú vui vật chất, tinh lọc tư tưởng và giữ ǵn thân thể sạch sẽ th́ kết quả sẽ tốt đẹp hơn nhiều. "Văn Pḥng Julia" do cố W.T. Stead thành lập đă cố gắng nhiều trên phương diện này.

           Bao giờ các điều kiện c̣n bê bối như hiện nay, đồng cốt sẽ mất hết phẩm giá và trở thành nô lệ các tập quán đê tiện, bị loạn óc hoặc điên cuồng. Nếu khoa thần linh muốn có một địa vị quan trọng trong giới tôn giáo và khoa học, nó phải nhận định khuyết điểm đó và huấn luyện đồng tử từ lúc nhỏ đừng để chúng bị lợi dụng do những người dốt nát, ích kỷ, chỉ biết chạy theo những hiện tượng có vẻ lạ đối với phần đông nhưng không có một giá trị tâm linh nào.



sự hiện h́nh làm suy yếu thần kinh



           Sự hiện h́nh không nên được khuyến khích bất kỳ với một lư do nào v́ nó gây tai hại cho sức khoẻ và cả cho sinh mạng của đồng cốt. Lư do là khi chất dĩ thái được rút ra khỏi thể xác để hiện h́nh th́ luồng sinh lực nuôi dưỡng thể xác bị bớt nhiều làm cho nó kiệt sức. Các bộ phận của nó đều bị xáo trộn nhất là quả tim, bộ tiêu hóa và thần kinh hệ. Bộ này bị căng thẳng và suy yếu đến đỗi đồng cốt phải dùng những chất kích thích. Do đó, một số người trở nên nghiện rượu.



sự ô nhiễm



           Khi chất dĩ thái của thể xác được một vong linh dùng để hiện h́nh, chất ấy sẽ thu hút một phần từ khí của vong linh đó và thu nhận ít nhiều các rung động của y. Nếu vị ấy dâm dật, xảo trá, chất dĩ thái bị ô nhiễm, và khi nó được hoàn lại cho đồng cốt, nó vẫn giữ ảnh hưởng nguy hại đó. V́ vậy, chúng ta cần tránh sự hiện h́nh dưới mọi h́nh thức.

           Các người dự những buổi họp này cũng bị rút một ít chất dĩ thái của ḿnh để phụ với đồng cốt và v́ thế họ cũng bị ô nhiễm phần nào.



sự ám ảnh



           Nếu một buổi lên đồng được quan sát bằng thần nhăn, người ta sẽ thấy vong linh đến dự rất đông đảo. Một vài vong linh nhập vào đồng cốt, c̣n những vị khác th́ t́m cách ảnh hưởng cử tọa. Lắm khi, một vong linh xé rách được màn lưới bảo vệ như nói ở chương trước và từ đó có thể lộng hành đối với nạn nhân bằng cách ám ảnh y và gây cho y đủ thứ đau buồn.

           Một khi màn bảo vệ bị xé, sự bảo vệ thiên nhiên không c̣n th́ con người dễ bị ám ảnh bởi những vong linh xấu xa. Các vong linh này muốn trở lại cơi trần sống một đời sống vật chất để thoả măn những thèm khát của họ nên đôi khi không c̣n chút lương tâm nào đối với nạn nhân. V́ vậy, một người bị xé rách màn lưới là một người rất vô phước. Trong trường hợp màn lưới không rách, một vong linh cũng có thể để ư đến một người nào và theo y về nhà để phá rầy y đủ cách. Điều này sẽ nguy hại nhiều hơn khi nhà có con nhỏ, v́ trẻ con dễ bị ám ảnh.

           Bởi thế, nhà huyền môn không phản đối việc sử dụng đồng cốt nhưng cần nêu những tai hại của sự lên đồng trong những điều kiện thê thảm hiện nay. Các buổi họp riêng ít nguy hiểm hơn v́ cử tọa được chọn lọc, tuy nhiên, nguy tai vẫn c̣n. Lư tưởng là áp dụng các điều kiện của thời Trinh nữ dâng hương.


Tâm Thức Siêu Đẳng
khối óc bị giới hạn

       Tính năng linh không phải siêu nhiên, nó chỉ đ̣i hỏi sự khai mở những đường liên lạc mới giữa khối óc và tâm thức siêu đẳng. Khối óc tự nó, nó không phát sinh tư tưởng, nó chỉ phỏng họa những làn rung động của trí tuệ. V́ hoạt động trí tuệ phát xuất từ chơn ngă bên trong (chơn ngă này luôn luôn hiện hữu dù có khối óc hay không), chúng ta có thể quả quyết rằng mỗi tư tưởng, mỗi t́nh cảm của chúng ta (ngoại trừ khi chúng nó được tiếp nhận do sự truyền cảm) đều do tâm thức siêu đẳng của chúng ta chuyển đến.

           Một việc lạ rất đáng lưu ư là cái mà chúng ta quen gọi là tâm thức chẳng qua là một phần của tâm thức thôi. Khối óc của chúng ta là một cơ quan hoàn mỹ, nó đáp ứng khéo léo đối với hoạt động trí tuệ, nhưng nó bị hạn chế nên khả năng phỏng họa của nó kém hơn là chúng ta tưởng, nhất là đối với những rung động tế nhị của các tư tưởng và t́nh cảm cao siêu.

           Cái khả năng đó thay đổi tùy người. Khối óc của kẻ quê mùa có thể phát biểu tất cả tư tưởng của y, v́ các tư tưởng này đơn giản, chỉ liên hệ đến công ăn, việc làm, nhưng kiến thức phong phú của một người học rộng có thể phát biểu một ít xuyên qua loại óc hiện tại của con người.



sự điều hành của tâm thức



           Về tâm thức phong phú của con người, nhà huyền môn có thần nhăn hiểu biết những ǵ ? Ông biết tâm thức là một, nhưng khi nó biểu hiện xuyên qua một thể chất, cách biểu hiện của nó thay đổi tùy theo thể chất này.

           Nếu chúng ta cho một sợi dây điện chạy qua một ống thủy tinh đựng hơi thủy ngân, kế đó chạy qua robin Ruhmkorff và sau chót, chạy vào một xoắn ốc dây từ khí, sợi dây điện sẽ tạo ba hiện tượng khác nhau tùy thể chất nó xuyên qua. Hơi thủy ngân chiếu xanh, dây robin nóng, c̣n sợi dây xoắn phát ra từ khí.

           Tâm thức con người cũng giống như thế. Khi nó tác động ở tầng cao của cơi vô h́nh, nó tạo ra tư tưởng; ở tầng thấp hơn, nó phát sinh t́nh cảm, dục vọng, c̣n ở vật chất, th́ nó tạo tâm thức tự động biểu hiện ở các thói quen.

Tâm thức tự động này khác hẳn tâm thức thông thường của ta trong lúc tỉnh thức (giác thức). Nó là tiềm thức và thỉnh thoảng mới hiện trong các tư tưởng hằng ngày. Khi bất giác, chúng ta né qua một bên để tránh một cái đánh th́nh ĺnh đó là tác động của tiềm thức. Giác thức là phần của tâm thức phát biểu xuyên qua khối óc. C̣n phần tâm thức không phát biểu được v́ quá cao là siêu thức.

           Bởi thế, nhà huyền môn học phân tâm thức ra làm ba: tiềm thức (tâm thức tự động), giác thức (tâm thức thường trong lúc tỉnh thức) và siêu thức (tâm thức siêu đẳng).



tiềm thức

( Tâm thức tự động )



           Tâm thức tự động phát biểu xuyên qua bộ thần kinh giao cảm [6] và các trung tâm phản ứng của hệ thống năo tủy [7]. Chính nó kiểm soát các tế bào của xác thân, điều ḥa hoạt động của các bộ phận và lưu giữ ở trí ta những hành động mà chúng ta làm nhưng không nghĩ đến. Đó là lănh vực của bản năng [8] và của thói quen.

           Hành động viết là một thí dụ. Khi chúng ta tập viết, chúng ta gặp nhiều khó khăn. Mỗi lúc, tâm thức ta phải tác động xuyên qua khối óc và ta phải suy nghĩ nhiều về mỗi chữ viết ra. Sau đó quen đi, ta không c̣n suy nghĩ hay cố gắng ǵ nữa v́ công việc đă thuộc tâm thức tự động. Nhờ vậy, khối óc được rảnh rang để suy tư việc khác.

           Khi chúng ta tập đi xe đạp, cũng thế. Lúc đầu tâm thức ta hoạt động nhiều để xe đừng chạy xuống hố hay đừng đâm vào cây. Nhưng khi chạy được rồi, chúng ta không c̣n suy nghĩ ǵ nữa: ta lên xe là tay lái, chân đạp và các động tác này không do trí óc kiểm soát mà thuộc về tiềm thức điều khiển.

           Việc lái xe ba bánh cũng dạy ta nhiều việc. Cách lái xe này khác cách đi xe đạp. Với xe này, ta không nghiêng ḿnh bên trái, bên phải ǵ cả và chỉ có hướng tay cầm mà thôi. Cái khó lúc đầu là ở chỗ đó. Người quen đi xe đạp biết rơ là chỉ phải hướng tay cầm, nhưng khi quanh th́ tự nhiên y nghiêng ḿnh như lúc đi xe đạp, v́ vậy xe thường đâm vào hàng rào hay xuống hố.


           Khi tâm thức tự động quen điều khiển một vài tự động nào rồi th́ muốn sửa cái thói quen ấy ta phải mất một thời gian mới có thể tạo một thói quen khác. Việc này không khó miễn là ta chịu khó nhọc tập cho đến khi nào thói quen mới nhập vào lănh vực tiềm thức. Nhà huyền môn khai thác cách thức này để tạo cho ḿnh một tập quán tốt đẹp.



siêu thức



           Siêu thức gồm những tư tưởng và t́nh cảm mà khối óc ta không phát biểu được v́ bị hạn chế và quá cục mịch. Tư tưởng và t́nh cảm đó rất nhiều. Nhờ chúng nó mà đời sống tinh thần của chúng ta được phong phú. Không có chúng nó, chúng ta không c̣n là con người mà chỉ là một sự kết hợp các tế bào và khối óc ta không c̣n suy tư được nữa.

           Thỉnh thoảng, một t́nh cảm, một tư tưởng từ cơi siêu thức ấy chuyển xuống khối óc. Đó là một âm điệu thiêng liêng thoạt đến tai nhạc sĩ, một ư thơ tuyệt diệu cảm hứng thi nhân, sự hào hùng phấn khởi chí nam nhi, một ư niệm mới soi sáng thiên tài, một sức can đảm bồng bột lôi cuốn quân binh ra trận.



sự hồi nhớ các kinh nghiệm siêu h́nh



           Trong một giấc ngủ êm ái, siêu thức có thể lưu ở khối óc một vài kiến thức, nhưng việc này rất ít khi xảy ra v́ khối óc ta dẫy đầy h́nh ảnh lộn xộn của các việc xảy ra trong ngày. Khối óc tự nó, nó không có một sự khôn ngoan nào. Nó chỉ là một cơ quan thụ cảm, chỉ biết ghi nhận một cách máy móc những rung động đă quen. Khi thiếu một sự điều khiển thông minh, nó chỉ lặp lại một h́nh ảnh mù mờ, thiếu thốn, nối tiếp nhau một cách vụng dại, không ư nghĩa. Tuy nhiên, nếu chúng ta cố gắng tinh luyện, chúng ta có thể giữ trong khối óc ấn tượng rơ ràng và chính xác những việc xảy ra trong cơi vô h́nh khi chúng ta sang qua đó. Những ấn tượng này tạo những giấc mộng hợp lư, được cấu kết mạch lạc.



tiên tri



           Do một phương pháp mà giác thức chúng ta chưa giải thích được, chúng ta có thể thấy được những việc xảy ra ở tương lai trong lúc ngủ và chuyển các điều nghe thấy ấy sang qua giác thức.

           Khi chúng ta đứng trên một ngọn đồi nh́n hai chiếc xe lửa chạy ngược chiều trên một con đường, chúng ta có thể biết được chúng sẽ đụng nhau vào giờ phút nào, tuy hành khách trên xe không biết chi về tai nạn sắp xảy ra.

           Trong cơi vô h́nh, chúng ta có thể ở trong một vị trí tương tự để quan sát các sự việc và biết trước được sự diễn tiến của chúng.



sự liên lạc với siêu thức



           Khi chúng ta thanh lọc thân thể, khối óc và thần kinh hệ của chúng ta đến mức chúng thông cảm được với siêu thức, một năng khiếu sẽ phát sinh: ấy là nhăn thông. Năng khiếu tâm linh này là kết quả của các khả năng cá nhân. Đó là quyền năng của con người mà ta không thể lầm lẫn với đồng bóng được. Một người đồng chỉ chuyển tư tưởng của kẻ khác, c̣n người nhăn thông vận dụng một khả năng riêng của ḿnh.

           Có hai phương thức khai mở nhăn thông. Một phương thức được gọi ở Ấn Độ là Hatha Yoga hay "Hợp nhất bằng trí lực" [9]. Với phương thức này, nhờ những động tác thích hợp, xác thân trở nên an tĩnh cho đến đỗi các giác quan trở nên suy nhược và bất động. Phương thức này chỉ chú lực vào xác thân mà không nghĩ đến sự trau luyện tánh t́nh nên chỉ khai mở được nhăn thông cổ sơ [10] mà thôi.

           Phương thức thứ hai là Raja Yoga (Hợp nhất đế vương) [11]. Phương pháp này tinh luyện trí tuệ, t́nh cảm và bản chất tâm linh. Khi sự tinh luyện đến một mức nào th́ nhờ một sự tập trung hùng dũng, người ta có thể rút tâm thức ra khỏi khối óc để đưa vào cơi vô h́nh. Phương thức này mở nhăn thông siêu đẳng [12].


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 7 of 26: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 11:28pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Cơ cấư Của Nhăn Thông Cổ Sơ
nhăn thông ở châu atlantide
       Theo niên giám huyền môn, trước đây nhiều ngàn năm, có một lục địa rất lớn tại Đại Tây Dương, ấy là Châu Atlantide. Châu này rất phồn thịnh với các cánh đồng mênh mông, nhiều đô thị phát đạt và những đồng lúa, vườn nho phấp phới dưới ánh mặt trời. Văn minh của Châu này cao hơn nền văn minh của chúng ta ở một vài phương diện. Nhưng tất cả đều bị hủy diệt và chôn sâu dưới đáy biển v́ sự bất công và tàn bạo của nhân dân lúc bấy giờ.

           Theo sử liệu, nhân loại lúc ấy rất năng linh và liên lạc với cơi vô h́nh mật thiết cho đến đỗi đối với họ, cơi này như là một với cơi trần. Nhưng trí hóa họ kém cơi, khối óc họ không được phát triển như bây giờ. Họ buông trôi theo dục vọng, t́nh cảm ồ ạt chứ không biết lư luận, suy tư.

           Dân tộc Át Lăn năng linh như thế nào và hành động theo đường lối nào ?



những trung tâm năng linh ở xác thân



           Chúng ta biết thân thể con người có hai thần kinh hệ: hệ năo tủy [13] gồm năo bộ, tủy sống và các dây thần kinh, và hệ giao cảm [14] gồm nhiều sợi thần kinh và nhất là hai dây thần kinh có nhiều hạch nằm hai bên cột xương sống. Hệ này gồm nhiều tùng [15] do các dây thần kinh rất nhỏ tụ họp kết thành. Trong các tùng, tùng Thái dương [16] được biết nhiều hơn cả.

           Điều mà các nhà giải phẫu không biết các tùng này trước kia là điểm giao liên giữa thể xác và thể t́nh cảm (thể vía). Nơi người Át Lăn, các tùng này và cả hệ giao cảm rất phát triển, v́ thế, họ nhận được các rung động của cơi vô h́nh và được năng linh. Tâm thức của người Át Lăn được tập trung vừa vào hệ giao cảm, vừa vào khối óc cục mịch v́ thế chẳng những họ năng linh mà c̣n giác thức được những điều thuộc về tiềm thức của chúng ta bây giờ. Tuy nhiên, những cảm giác của họ về cơi hữu h́nh hay vô h́nh mập mờ, tŕ độn không có những chi tiết mà một người nhăn thông ngày nay có thể thấy rơ ràng nhờ sử dụng được nhiều trung tâm khác liên hệ đến nhăn thông và hệ năo tủy.



sự tăng trưởng của trí năng [17]



           Từ thời Át Lăn đến nay, nhiều thế kỷ đă trôi qua, khối óc lớn thêm và vi diệu hơn, đồng thời nhiều hoạt động của hệ giao cảm lần lần trở nên tự động và sang vào lănh vực tiềm thức. Sự thay thế các cảm xúc năng linh mập mờ bằng trí lực [18] là một bước tiến hóa và diễn tiến trong một thời gian dài. Cho đến ngày nay, một thời gian gần một triệu năm sau thời cực thịnh của văn minh Át Lăn đă trôi qua, mà một số đông người chưa mở trí lực được bao nhiêu nên những vết tích của năng linh xưa vẫn c̣n.

           V́ vậy, hiện nay, một số người có nhăn thông nhưng trí hóa họ kém hơn nhiều người khác. Ở họ, t́nh cảm lấn áp trí năng. Họ chưa tiến hóa nhiều hơn dân tộc Át Lăn nhưng sau vài trăm kiếp luân hồi, trí tuệ của họ sẽ chiếm ưu thế và những cảm xúc năng linh tŕ độn cũng sẽ được thay thế bằng quan năng trí thức.

           Ngoài số người này, đa số nhân loại tiến hóa đều đặn và không c̣n liên hệ với cơi vô h́nh nữa nhờ trí tuệ đă được tăng trưởng từ kiếp này sang kiếp khác. Việc này giải thích v́ sao hiện nay số người năng linh rất ít tuy thỉnh thoảng chúng ta c̣n nghe nói có người biết trước được những tai nạn hay việc đau buồn sắp xảy ra.



thời kỳ chuyển tiếp



           Chúng ta đang ở vào một thời kỳ chuyển tiếp. Trong thời kỳ này, sự khai mở trí thức chiếm ưu thế và chúng ta không chấp nhận nhăn thông cổ sơ nữa (ngoại trừ một vài trường hợp rất hiếm), nhưng chúng ta chưa mở được nhăn thông siêu đẳng. Tuy nhiên, th́ giờ khai mở nhăn thông siêu đẳng sắp đến cho một số đông người v́ khối óc và tủy sống đă phát triển đến một mức khá cao. Trí tuệ và sự tự chủ của họ cũng đủ sức vững vàng để giúp họ giải quyết những vấn đề sẽ đặt ra ở giai đoạn tiến hóa mới.

           Chúng ta có thể tiến nhưng cũng có thể lùi. Chúng ta tiến khi nào chúng ta cố gắng khai mở các năng khiếu tâm linh siêu đẳng, trái lại chúng ta sẽ lùi nếu chúng ta đánh thức trở lại nhăn thông cổ sơ. Thường, người ta tự hỏi những người lăn xả vào các công phu luyện tập với một niềm tin vững chắc, họ biết chăng hầu hết các phương pháp thông dụng ở Âu Mỹ đều có tính cách lạc hậu và ngăn cản bước tiến của chúng ta ? Lẽ tất nhiên là những công phu luyện tập xác thân có phần dễ dàng và có kết quả nhanh chóng hơn các phương pháp khai mở nhăn thông siêu đẳng. Nhưng đây không phải là vấn đề dễ dàng hay nhanh chóng mà vấn đề tiến hóa thật sự.



các trung tâm khác



Ngoài những trung tâm của hệ giao cảm, c̣n có những trung tâm khác nữa đôi khi cũng được dùng để mở nhăn thông cổ sơ. Học khoa sinh lư, chúng ta biết rằng mỗi giác quan của chúng ta như mắt, tai, v. v. . . được một hay nhiều dây thần kinh liên kết với một trung tâm tương ứng ở trong óc. Điều người ta ít biết hơn là các trung tâm ấy có một đối phần của thể vía [19].

           Khi một tia sáng lọt vào vơng mạc của mắt, th́ những rung động phát sinh và được dây thần kinh thị giác chuyển mau như chớp vào óc, nơi đây chúng kích thích một số tế bào xám. Sự diễn tiến không ngừng tại đây v́ các rung động gây ở năo bộ sẽ tạo những rung động khác ở trung tâm tương ứng của thể vía, nhờ đó ta mới cảm xúc được ánh sáng và màu sắc. Mọi cảm xúc đều nhận trước tiên ở thể vía rồi mới chuyển sang thể xác, và ư thức các cảm xúc này trong năo bộ tùy khả năng đáp ứng của nó đối với các rung động của thể vía. Lẽ tất nhiên là sự truyền đạt này được xảy ra như chớp nhoáng.

           Như vậy, mỗi giác quan có một trung tâm tiếp nhận ở khối óc và một trung tâm tương ứng ở thể vía, nhưng các trung tâm này không phải là giác quan của thể vía mà chỉ là những trung tâm trung gian giữa năo bộ và tâm thức. Tuy nhiên, với công phu luyện tập (mà chúng ta sẽ đề cập ở chương sau) người ta có thể dùng chúng như những giác quan thô sơ trong thể vía để thu nhận một ít rung động của cơi vô h́nh. Nếu các rung động này được chuyển vào năo bộ với cách bất thường th́ một ít nhăn thông cổ sơ phát hiện.



nhăn QUAN thứ hai



           Điều này giải thích nhăn quan thứ hai của dân sơn cước miền Ecosse và một vài dân tộc Celtes khác. Ở thể vía những người này, các trung tâm cảm xúc tương ứng với miền thị giác của óc, phát triển đến đỗi chúng được dùng chẳng những làm cơ quan trung gian giữa năo bộ và thể vía mà c̣n để nhận ở thể này những rung động của cơi vô h́nh và chuyển sang năo bộ dưới h́nh thức h́nh ảnh.

           Và v́ các biến cố sắp xảy ra có thể thấy ở cơi vô h́nh cả tuần hay cả tháng trước, người nhăn thông khi nhận được một h́nh ảnh liên hệ th́ giữ ấn tượng ở năo bộ và biết được việc tương lai.



những giáo lư lỗi thời



           Những cách thức kích thích các trung tâm giao cảm và giác quan để khai mở nhăn thông cổ sơ được nghiên cứu rất tỉ mỉ ở Ấn Độ và được gọi là Hatha Yoga. Có thể những cách thức này là di sản của Châu Atlantide, bởi v́ người Dravidiens ở Ấn Độ thuộc gốc Át Lăn. Dù giáo lư ấy bắt nguồn từ đâu cũng vậy, nó được truyền xuyên qua nhiều thế kỷ ở một nước mà phong tục không bao giờ thay đổi và không hợp với ḍng tiến hoá. Người nào theo cách thức ấy là quay nh́n dĩ văng lỗi thời thay v́ hướng về tương lai huy hoàng đang chờ đợi mọi người.



sự cẩn thận thuở xưa



           Dù sao thuở xưa, cách thức này được dạy cho từng đệ tử và chính thầy phải theo dơi công phu luyện tập chặt chẽ để tránh đều sai lệch. Đệ tử luôn luôn ở bên cạnh thầy để được thầy d́u dắt từ bước một. Ở Tây phương không có sự cẩn thận ấy; thường người ta chỉ mua một quyển sách và tập theo đó là đủ rồi. Như vậy làm sao tránh được những tai hại bất ngờ ?

           Về công phu luyện tập, cách tập th́ nhiều và không phải ai muốn tập cách nào cũng được. Ngày xưa, thầy chọn những điều hạp với tánh t́nh và sức khoẻ của đệ tử để tránh sự hư hoại các cơ năng rất tế nhị của xác thân.

           Hơn nữa, người Ấn Độ c̣n có sự truyền thống và một thứ từ điện riêng về xác thân mà người Âu Mỹ không có. Trải qua nhiều thời đại và thế kỷ, hạng thượng lưu Ấn Độ không dùng thịt, không uống rượu. V́ vậy có nhiều cách thức công phu hạp với họ nhưng rất nguy hiểm đối với xác thân ô trược được nuôi dưỡng bằng rượu thịt. Điều này không mấy ai biết ở Tây phương, v́ vậy mới có nhiều trường hợp suy nhược thần kinh, điên cuồng hay chết chóc.



vài trường hợp nguy hiểm

          

           Một nhà huyền môn giảng đạo ở Mỹ cho biết trong thời gian chu du thuyết pháp của ông, ông ghi nhận hai mươi hai người trở nên đau ốm, bệnh tật v́ luyện tập theo những cách thức tai hại mà tôi sẽ nói trong chương sau.

           Một số người tập thở theo các quyển sách rẻ tiền nên bị đau phổi hay thổ huyết.

           Nhiều người hủy hoại vĩnh viễn sức khoẻ của ḿnh bằng cách quá căng thẳng hệ thần kinh.

           Trong vài trường hợp, trí năo bị suy nhược, sớ thịt không c̣n sức dẻo dai, chịu đựng.

           Trong vài trường hợp nữa, màn lưới bảo vệ bị rách nên con người bị ám ảnh hay quấy nhiễu bởi các vong linh hung tợn.

           Các tai hại đó khiến ai cũng đau ḷng. Nếu các người ấy đừng quá nóng nảy, đừng muốn trở nên năng linh quá sớm và chịu khó nhọc theo một con đường dài hơn nhưng chắc chắn hơn nhằm đạt nhăn thông siêu đẳng, th́ họ sẽ khoẻ mạnh, sung sướng chớ đâu có trở nên đau ốm, tật nguyền như vậy. Hơn nữa, dù có mở nhiều quyền năng đi nữa, các quyền năng này cũng chỉ kéo dài trong một đời người mà thôi v́ cách luyện tập đó không vượt phạm vi thể xác. Trái lại, nhăn thông siêu đẳng của con người bên trong không sao mất được. Câu ngụ ngôn sau đây đúng biết bao: "Sự minh triết xây dựng cho tương lai, c̣n sự vô minh th́ bằng ḷng với ṭa nhà bằng cát".


Sự Khai Mở Nhăn Thông Cổ Sơ
phải xuất thần

           Muốn nhận thức những rung động vi tế của cơi vô h́nh ta phải ngưng lưu ư đến các tiếng động và các ảnh hưởng chung quanh ta. Một âm điệu êm ái xa xăm không thể nhận được trong một thành phố ồn ào; trong một cuộc ḥa tấu tưng bừng, chỉ có người tinh luyện mới theo dơi được tiếng đàn của một vĩ cầm; ánh sáng của tinh tú chỉ hiện ra trong khi mặt trời lặn. Cũng thế, cơi vô h́nh chỉ hiện ra khi nào tâm ta không c̣n vương vấn đến các rung động hồng trần.

           Sự vô giác cần thiết đó chỉ có thể phát sinh khi nào ta đặt xác thân ta trong trạng thái xuất thần bằng cách làm tê liệt các giác quan xác thịt và bắt khối óc ngưng hoạt động. Sự vô giác này có thể đạt được bằng thủ pháp Mesmer [20], bằng thôi miên, bằng vài thứ thuốc như hơi mê hay bằng các quay tṛn của một vài giáo sĩ Hồi giáo cho đến lúc quá chóng mặt, khối óc không c̣n thọ cảm được. Chừng đó, con người ở vào trạng thái xuất thần và cảm xúc được những rung động của cơi vô h́nh.



tập thở

           Phương pháp dùng ở phương Đông và cũng được phổ thông ở Tây phương là tập thở. Người thở có thể nằm hoặc ngồi trong những tư thế khó khăn. Thường th́ họ hít hơi vào, giữ một thời gian rồi thở ra. Tuy nhiên, cách thức này thay đổi nhiều. Có người hít vào một lỗ mũi rồi thở ra bằng lỗ kia. Có người tưởng tượng hơi đi qua vài bộ phận của cơ thể. Thật là lạ mà thấy nhiều cách thở như vậy.



mục đích cỦA những cách thở



           Đặt ra những cách thức thở này, người Ấn Độ thời xưa nhằm các mục tiêu: a) trấn an tư tưởng, b) tạo trạng thái vô giác cho khối óc, c) kích động một vài luồng sinh lực trong thân thể.

           a) Từ xưa, người ta lưu ư thấy rằng trong khi suy nghĩ hay trầm tư th́ hơi thở trở nên chậm và có khi ngưng hẳn. V́ đó, phát sinh ra lư thuyết này: khi con người ngưng thở trong một thời gian nào đó, tư tưởng sẽ tập trung và sáng sủa. Việc này đúng tới một mức nào thôi v́ trí tuệ và xác thân liên đới với nhau và chịu ảnh hưởng lẫn nhau.

           b) Các tu sĩ Ấn Độ luyện tập lâu ngày có thể giữ hơi thở rất lâu. Nhưng trong lúc đó, máu vẫn lưu thông và chứa chất oxyt carbon nhiều cho đến đỗi khối óc bị nhiễm độc, do đó có trạng thái xuất thần.

           c) Với sự luyện tập, khi hơi thở trở nên đều đặn nhịp nhàng th́ nó kích động các luồng sinh lực luôn luôn lưu chuyển trong thể phách [21] nhất là ta tưởng tượng đưa hơi thở đến bộ phận này hay bộ phận khác trong thân thể. Lẽ dĩ nhiên là hơi thở không đi đâu cả mà chính là các luồng sinh lực nói trên. Các luồng này bắt buộc phải theo những con đường mới và kích thích một ít trung tâm thần kinh nào đó để chúng có thể truyền đạt những rung động của cơi vô h́nh.



Kết quả cách tập thở



           Khổ nỗi khi các trung tâm nói trên hoạt động trở lại th́ các rung động vô h́nh tràn vào giác thức, dưới h́nh thức hiện tượng hay âm thanh, mà con người th́ không đủ khả năng kiểm soát để ngăn ngừa chúng. Các hiện tượng hay âm thanh này đẹp đẽ th́ cũng chẳng đến đỗi nào nhưng thường th́ chúng rất xấu xa. V́ vậy, y bắt buộc phải chứng kiến những cảnh tượng năo ḷng nhứt và nghe những lời xúi giục đê tiện nhứt, v́ y chỉ liên lạc được với các tầng thấp dẫy đầy ảnh hưởng tồi tệ của cơi vô h́nh.

           Khi một người chú hết sức lực vào sự tinh luyện các giác quan xác thịt để nhận các rung động vi tế của cơi vô h́nh, người đâu có dè rằng ḿnh sẽ là nạn nhân chứ không phải là chủ nhân các quyền lực tạo nên, trừ phi tâm thức y được tinh luyện. Sự mở mang tinh thần luôn luôn phải đi đôi với sự mở mang thể xác, nếu không, con người sẽ bị lôi cuốn do các sinh lực được khai mở mà y không sao kiểm soát được.

           Lẽ dĩ nhiên là có những cách tập thở rất tốt (như cách thường dạy ở vận động trường) và rất hạp với sức khoẻ, nhưng tác động và mục đích của nó khác với lối thở mà chúng tôi vừa nói trên. Cách tập thở này không đem lại nhăn thông cổ sơ cũng không làm hại phổi. Cách tập thở đúng phép rất quí v́ nó bồi dưỡng sức khoẻ và tránh cho ta khỏi bị cảm v́ thời tiết.



sự tập trung vào tùng thái dương [22]



           Một cách khác để khai mở sự năng linh là tập trung tư tưởng vào tùng Thái Dương. Về trung tâm này, người ta đă gán cho nhiều tên như óc thứ hai và nhiều việc vô lư khác liên hệ đến sự thức tỉnh của nó.

           Khi một người tập trung tư tưởng vào tùng Thái Dương với ư muốn trở nên linh hoạt, y sẽ chuyển đến nó một luồng sinh lực. V́ vậy, trung tâm cảm giác tương ứng với nó đôi khi được kích thích và khai mở nhăn thông cổ sơ khiến cho y có thể thu nhận một ít cảm xúc mơ hồ của cơi vô h́nh.

           Nhưng thường th́ luồng sinh lực gây sự xung huyết cho tùng Thái Dương. Tùng này rất quan trọng v́ nó kiểm soát hay liên hệ đến bộ tiêu hóa. Nếu nó sưng lên, sự tiêu hóa sẽ bị ngưng trệ, cho đến thận cũng bị đau luôn. Hơn nữa, những người tập trung tư tưởng vào tùng Thái Dương cũng chú ư luôn đến các cơ quan khác v́ y không thông hiểu vị trí các bộ phận của thân thể con người, do đó trọn bộ tiêu hóa có thể bị đau.

           V́ hệ thần kinh giao cảm thuộc phạm vi tiềm thức nên chúng ta quấy rối sự điều hành của nó, chúng ta có thể gây những bệnh thần kinh trầm trọng dưới h́nh thức một sự buồn rầu hay một sự chán nản trầm trọng. Nếu sự luyện tập tăng gia, nó có thể gây tê liệt cho một bộ phận của cơ thể.



sự dùng viên thỦY tinh



           Một phương pháp nữa là chăm chú nh́n một viên thủy tinh, đầu mũi hay phông đen. Phương pháp này nhằm hai mục đich: một là đặt khối óc ở một t́nh trạng gần như tê liệt để tạo sự xuất thần, hai là kích động trung tâm cảm xúc liên hệ ở thể vía để nó có thể làm một giác quan tạm cho thể vía.

           Khi chúng ta chú nh́n một điểm trắng mà không nháy mắt, các tế bào vơng mạc rất mệt và sau cùng, vơng mạc trở nên vô giác nên ta không c̣n cảm thấy điểm trắng nữa. Nếu chúng ta tập luyện lâu ngày, sự mệt mơi sẽ tăng gia và dây thần kinh thị giác cũng trở nên vô giác. Tiếp theo, miền thị giác trong óc cũng bị tê liệt. Do đó, chúng ta sẽ tự thôi miên ḿnh và trong trạng thái đó, khi khối óc trở nên vô giác th́ hiện tượng này nọ sẽ xảy ra. Tuy nhiên, thường th́ không có một kết quả nào.

           Cách luyện tập này nhằm kích thích các trung tâm tương ứng với mắt để chúng có thể nhận các rung động tế nhị và chuyển sang khối óc. Các hiện tượng thấy bằng cách này không được xác thực v́ cơ quan truyền đạt chúng không được dùng đúng chỗ.

           Dù sao, chúng ta cần phải tránh cách luyện tập này v́ sự tê liệt khối óc do nó gây ra, có thể trở nên vĩnh viễn. Hơn nữa, v́ mắt cố gắng quá sức nên nó yếu đi và có thể trở nên mù, nếu không loạn thị.



công phu vô ích



           Như đă tŕnh bày, có nhiều cách luyện tập gây tê liệt cho khối óc để tạo trạng thái xuất thần. Khi xuất thần cũng như trong khi ngủ, con người xuất khỏi xác thân để sang thể vía và trong thể này, y có thể ư thức được ít nhiều. Nếu y hoàn toàn sáng suốt và linh hoạt ở cơi vô h́nh, y có thể biết nhiều việc quan trọng và giữ ấn tượng ở khối óc để khi tỉnh dậy, y nhớ được tất cả.

           Nhưng trường hợp này ít khi xảy ra v́ chúng chỉ nghĩ đến sự tập luyện xác thân mà không lo trau luyện tinh thần. V́ vậy, khi xuất thần th́ con người trôi giạt phất phơ ở cơi vô h́nh mà không ư thức được ǵ cả nên khi tỉnh, y không biết chi thêm.

           Như vậy, tại sao nhiều người luyện tập rất công phu để rồi lại chỉ có cái nhăn thông cổ sơ, không một ích lợi nào ? Sở dĩ họ luyện tập như thế v́ họ bị gạt bởi những quảng cáo hấp dẫn, những lời hứa hăo huyền, nhưng nếu họ biết được luyện tập như vậy chẳng những hoàn toàn vô ích mà c̣n gây nhiều nguy hại và đau khổ th́ không một ai dám liều lĩnh nữa.



Sự Phát Triển Nhăn Thông Siêu Đẳng
con đường của nhà huyền môn
           Những phương pháp chúng tôi tŕnh bày ở phần trên nhằm mục đích luyện tập thể xác để cho nó đáp ứng lại các rung động của cơi vô h́nh. Nhưng chúng ta đă thấy, các sự luyện tập ấy nguy hiểm và vô hiệu. Điều nguy hại hơn là hành giả không lưu ư trau luyện tánh t́nh và trí tuệ. Y có thể trở nên năng linh ít nhiều, nhưng trên phương diện con người, y không hơn lúc trước. Trái lại, y có thể sút kém hơn v́ không thể chủ trị được những cám dỗ mới phát sinh.

           Nhà huyền môn thấy xa hơn. Người nhận định rằng "con đường dài là con đường dẫn mau nhứt đến mục đich". Người nhất định thành công bất kỳ với giá nào, và sự thành công mà người cố t́m không phải chỉ hạn chế trong một đời ngắn ngủi mà phải dài suốt thời gian luân hồi ở cơi trần.

           V́ đă học đạo, người ư thức được bản chất thiêng liêng của ḿnh và mục đích cao cả của sự tiến hóa. V́ ư thức rơ ràng như vậy, người không chạy theo những dục vọng riêng tư, ích kỷ và quyết dùng tất cả khả năng của ḿnh để hợp tác với những động lực đang giúp nhân loại tiến lên đỉnh núi huy hoàng.

           Khi đạt mục đích đó, nhân loại chẳng những phải có sự can đảm tinh thần mà phải tự trau giồi như thế nào để t́nh cảm được tốt đẹp, trí tuệ được mở mang hầu thực hiện sự mẫn cảm tâm linh. Một người tận lực trau giồi các đức hạnh đó ở kẻ khác và ở ḿnh và nếm được cái lạc thú quên hẳn sự tiến hóa riêng của ḿnh trong công việc phụng sự, người đó chắc chắn nay mai sẽ được nhăn thông siêu đẳng. Là v́ nhân loại ngày mai sẽ năng linh và ai cố gắng trau luyện tánh t́nh sẽ được chuyển biến theo h́nh ảnh của con người tương lai.



tiẾn trước



           Để cố gắng trau giồi như vậy, nhà huyền môn tiến mau hơn là được dự định. Trong nhiều thế kỷ nữa, ḍng tiến hóa chậm chạp sẽ đưa nhân loại đến một thời kỳ mà khối óc sẽ phát triển và mẫn cảm đến mức có thể linh hoạt trong một sân trường rung động lớn hơn nay rất nhiều. Đến giai đoạn đó, con người sẽ có nhăn thông và ư thức rơ ràng cơi vô h́nh đang bao bọc y. Ngay bây giờ, đă có một ít trẻ con được nhăn thông đến lối sáu bảy tuổi và sau đó lại mất đi v́ cha mẹ không lưu ư phát triển và cũng do giáo hóa khiếm khuyết.

           Cái năng khiếu nhăn thông này sẽ đạt được không phải do các sự tập luyện thể xác nói ở chương trước mà do sự phát triển b́nh thường của hệ thần kinh một ngày càng trở nên tinh vi nhờ năng lực của t́nh cảm, trí tuệ và ư chí được tinh luyện. Sự phát triển tâm linh sẽ gia tăng khả năng của khối óc, và khi nhân loại trải qua nhiều ngàn năm, rèn luyện được cho ḿnh những đức hạnh tốt đẹp th́ khối óc đương nhiên sẽ trở nên mẫn cảm hơn.

           Chúng ta có thể tiến nhọc nhằn với đa số nhân loại cho đến một kiếp kia chúng ta sẽ có một hệ thần kinh tinh vi và nhăn thông như tất cả mọi người. Nhưng chúng ta cũng có thể, ngay bây giờ, cố gắng tiến trước nhân loại bằng cách đào luyện ở kiếp này những đức hạnh của con người ngày mai.

           Sự tiến hóa này là một vấn đề tăng trưởng tâm linh, chứ không phải là một vấn đề thời gian. Nếu chúng ta quyết tiến và vượt khỏi các bạn đồng hành – họ đi rất chậm chạp – chắc chắn nhăn thông siêu đẳng sẽ đến với chúng ta. Chính v́ ta thiếu can đảm và bền chí, ta mới không thành công.



trí tuệ xây dựng



           Định luật căn bản chi phối sự khai mở nhăn thông siêu đẳng có thể tóm tắt trong câu này: "Sự phát triển thể xác [23] thoả măn các nhu cầu tâm thức". Lư do khiến chúng ta chưa có nhăn thông ngay bây giờ là tâm thức của chúng ta chỉ mở mang có một phần và không đồng đều nên không kích thích được khối óc và thần kinh hệ. Vả lai, phần đông không sử dụng khả năng trí thức của ḿnh và cũng không t́m cách mở mang nó.

           Cho đến nay, chúng ta chưa ư thức được khả năng hùng hậu của trí tuệ trong việc tinh luyện cơ cấu thần kinh. Lư do có lẽ tại tư tưởng của chúng ta lờ mờ, hỗn độn nên không tạo được một ảnh hưởng đáng kể đối với khối óc vật chất. Nhưng nếu chúng ta có thể quan sát tác động của một trí tuệ tinh luyện, chúng ta sẽ thấy những ḍng năng lực tuôn xuống khối óc và nhận thức được sức cải biến của tư tưởng đối với khối óc. Nếu chúng ta t́m hiểu các tế bào của khối óc theo sách sinh lư học, chúng ta biết mỗi tế bào tủa ra vô số dây thần kinh nhỏ chằng chịt như một màn lưới ở chất xám của năo bộ. Các sợi dây thần kinh này có tác dụng như những sợi dây điện được cách điện và khi các mối liên giao giữa các tế bào gia tăng th́ khả năng suy tư của khối óc cũng gia tăng.

           Khi các luồng năng lực phát sinh do một trí tuệ linh động, tuôn vào khối óc, các tế bào năo bộ được kích động và tủa thêm dây thần kinh, nhờ đó, khả năng suy tư của khối óc cũng tăng thêm. (Vấn đề tế bào có gia tăng không th́ chưa được biết rơ nhưng có thể là gia tăng). Như vậy, trí tuệ linh hoạt, khả năng của khối óc sẽ mở mang, nhờ đó, chúng ta tiến lần đến sự nhăn thông siêu đẳng.

           Sách sinh lư học c̣n dạy thêm rằng mỗi quan năng trí thức đều liên hệ đến một nhóm tế bào xám tụ tập chung một "miền" ở khối óc, và nhờ nhóm tế bào đó mà quan năng mới phát hiện. Ví dụ, khi chúng ta biết hai thứ tiếng th́ các nhóm tế bào ở óc dành cho quan năng đọc viết và nói tăng gấp đôi, trước là ba, nay là sáu. Về quan năng khác như hát, đàn, vẽ, tính, v.v . . . cũng thế. Khi ta rèn luyện một quan năng, một số tế bào của khối óc chịu ảnh hưởng và được chuyển về quan năng này. Sự học tập một đề tài mới luôn luôn cải biến một số tế bào của khối óc. Nếu không có cố gắng trí thức, chúng ta không tạo được quan năng mới, do đó, các tế bào xám của khối óc cũng không thay đổi.      

           Như vậy, trí tuệ có một sức cấu tạo kiến hiệu. Khi ta mở mang tâm thức, khối óc ta cũng được tinh luyện theo.



luật lẶp lại



           Sự tập luyện của nhà huyền môn rất khoa học và rất hữu hiệu nếu hành giả siêng cần bền chí. Nó được căn cứ trên định luật này: một hành vi được lặp lại thường sẽ trở thành một thói quen, một tư tưởng được nghĩ đến măi sẽ trở nên một đặc tính. Đó là luật lặp lại.

           Các Thánh kinh xưa dạy: con người suy tưởng điều chi th́ trở thành điều đó. Giáo lư này cũng được các triết gia đời nay xác nhận. Địa vị cao sang, áo quần ḷe loẹt học vấn uyên thâm, các điều này không đào luyện chúng ta thành người. Cái nó đào tạo tánh t́nh ta là tư tưởng và t́nh cảm của ta.         &nb sp;         &nb sp; 

           Nhà huyền môn không thuộc hạng người chỉ bằng ḷng đọc một giáo lư và gật đầu tán thưởng, mà cố áp dụng các điều hiểu biết vào đời sống ḿnh. Đặc tính của một người nhất quyết tiến là thế: những điều kẻ khác chỉ đọc qua, người đem ra thực hành.


Nhà huyền môn sử dụng luật lặp lại một cách khoa học, trong công việc tinh luyện thể xác, t́nh cảm và trí tuệ. Chúng ta sẽ xem qua một ít chi tiết về sự tinh luyện này để biết cách sử dụng luật đó.









Những bước đầu



Xác thân là một con vật cổ hủ. Bấy lâu nó đă quen dùng các thức ăn nào đó, ăn một ngày ba hay bốn lần, mặc thứ quần áo nào và làm những công vệc ǵ.

Một người chí quyết phát triển tâm linh phải suy xét kỹ càng về các tập quán và khuynh hướng hằng ngày của nó để loại trừ những điều không hợp với lẽ phải và các định luật thiên nhiên ẩn tàng.

Một điều mà sinh viên huyền môn phải làm trước tiên là áp dụng một sự dinh dưỡng tinh khiết và hợp lư. Nếu chúng ta gạt một bên các thành kiến và quan sát sự kiện cẩn thận [24], chúng ta sẽ thấy rằng sự dinh dưỡng bằng thịt các con vật bị giết không phải là một sự dinh dưỡng tốt nhất. Thịt thường cung cấp bởi những con vật bệnh hoạn và chứa đựng các chất dơ dáy như niệu toan [25]; đôi khi, nó hôi thúi và chứa những rung động của dục vọng và sợ hăi của con thú. Dùng các thức ăn đó mà ước mong xác thân của ta mẫn cảm đối với các rung động tế nhị của cơi vô h́nh, là một điều vô lư.

Trên thực tế, kinh nghiệm ngh́n năm của các nhà huyền môn chỉ rằng một thể xác được nuôi dưỡng bằng thịt cá không sao chịu đựng nỗi một sự phát triển tâm linh cao. Nhiều người đă thử và thất bại v́ xác thân và nhất là bộ thần kinh được dinh dưỡng bằng thịt cá đều hư hoại, khi tâm thức siêu đẳng phản chiếu ở khối óc.

V́ vậy từ xưa đến nay, các nhà huyền môn đều ăn chay. Đây không phải là vấn đề t́nh cảm mà là kết quả của kinh nghiệm và minh triết của các bậc chơn tu.

Cơ thể xác thân phản ứng mạnh mẽ khi chúng ta bắt đầu ăn chay. Chúng ta không nên thối chí v́ lẽ đó, chúng ta hăy từ từ thay món ăn này bằng một món ăn khác và thể xác sẽ lần lần quen với các dinh dưỡng mới.

Rượu, dưới mọi h́nh thức, cần được loại trừ, cả các thứ thuốc có chứa rượu. Chúng tôi xin thêm rằng nếu chúng ta sống một cách lành mạnh như các nhà huyền môn, sau một thời gian, các y sĩ sẽ không c̣n hữu ích. Ảnh hưởng của rượu đối với các tế bào thần kinh và khối óc rất rơ ràng, và nếu chúng ta uống rượu thường dù là uống ít, các quan năng siêu đẳng không sao khai mở, v́ khi chất xám của khối óc không c̣n nhạy cảm, chúng ta trở nên lười và nhăn thông không sao có được.

Nhà thần linh lưu ư đến mọi việc nhỏ nhặt hằng ngày. Người tự kiểm soát ḿnh và tránh mọi tư tưởng xấu xa không cho vào trí óc. Thân thể người luôn luôn được tắm rữa sạch sẽ để giữ từ điện được thanh khiết. Người tập thể dục hằng ngày để bắp thịt được nở nang và các cơ quan được mạnh khoẻ. Người không mặc quần áo chật hẹp để con người được thư thới.

Đó là một vài điều nhà huyền môn áp dụng trong đời sống vật chất để tuân giữ các định luật thiên nhiên một cách chặt chẽ, tỉ mỉ. Tuy nhiên, người tránh không đi quá mức và cố sống một đời thăng bằng, thanh khiết và vui tươi.



sự luyỆn tập hằng ngày



Nhà huyền môn không trốn tránh xă hội loài người và không rút vào rừng sâu hay sa mạc. Người biết đức hạnh được rèn luyện dễ hơn giữa xă hội, trong các công việc hằng ngày và khi chiến đấu với các nỗi khó khăn của đời sống.

Trong các đức hạnh người muốn trau luyện, đức quí nhứt là ḷng vị tha. Người ta đă nói biết bao lần và nói rất đúng là ḷng ích kỷ chính là nguồn gốc của mọi tội lỗi, và nếu ta quan sát đời sống hằng ngày, ta sẽ thấy nó gây biết bao cảnh hung tàn, nghèo đói.

Không nhiều th́ ít, chúng ta ai ai cũng nhuộm màu ích kỷ, và cách đơn giản hơn hết để trừ tật xấu này là không trách móc, thở than mà là phụng sự đồng loại chúng ta trong sự quên ḿnh. Hăy luôn luôn nghĩ đến người khác, hăy tính cách này, t́m phương nọ, hăy nắm mọi cơ hội để giúp đỡ họ trong các công việc lớn nhỏ. Tầm quan trọng của việc giúp đỡ và sự lưu ư của kẻ khác không quan trọng ǵ, quan trọng là thái độ của chúng ta. Hăy nh́n chung quanh quí vị để t́m những gương mặt âu sầu và gởi đến họ những tư tưởng phấn khởi; hăy lưu ư đến những đôi mắt buồn rầu và chuyển cho chúng sự b́nh an; khi một người yếu đuối sắp sa ngă, hăy nâng đỡ y bằng những nghị lực mới. Như thế trọn ngày chúng ta luôn luôn có dịp phụng sự. Và khi phụng sự, chúng ta hăy tỏ ra vui vẻ, chúng ta xem đó không phải là một phận sự buồn phiền mà là một công việc thích hợp với bản thể chúng ta.

Và khi chúng ta thi hành phận sự của chúng ta như vậy, nghĩa là tận tâm giúp đỡ kẻ khác và cố nh́n một cách ưu ái mọi sự vật theo quan điểm của họ, lần lần t́nh thương thật sự và thấm thía sẽ nẩy nở trong ḷng ta, một t́nh thương cố nêu những đức tốt hơn là vạch những nết xấu, một t́nh thương giúp chúng ta thông cảm với mọi nguyện vọng chớm nở, dù nguyện vọng đó biểu lộ một cách vụng về.

Sự cố gắng nhân từ, sự giúp đỡ vị tha, ḷng yêu thương, sự thiện cảm sẽ phát sinh trực giác để dắt dẫn người chí nguyện đến sự sáng suốt hoàn toàn. Là v́ người học một bài học đầu tiên và quan trọng nhứt là nh́n thấy Thượng Đế trong mọi sinh vật.

           Sự tri giác của nhà huyền môn c̣n phải sắc bén để có thể nh́n xem mọi vật xuyên qua màn che và ảo ảnh của cơi vô h́nh; v́ vậy, người phải tuyệt đối chân thật, v́ một lời dối trá là một bóng tối rọi vào sự sáng suốt nội tâm. Các tư tưởng của người phải đi sát với sự việc và không được để thành kiến làm sai lệch; người cố gắng t́m hiểu mọi ư kiến để khám phá chơn lư, dù ư kiến này phát sinh từ đâu. Lời nói của người phải chân xác và chừng mực, hành động của người phải cương quyết và đắn đo.

           C̣n nhiều đức tánh khác mà người chí nguyện phải có, như sự thanh khiết, sự dịu dàng, sự khiêm tốn, sự bền chí, sự cương quyết, sự ngay thật, ḷng sùng tín, sự tự chủ, và trên tất cả là một ư chí sắt đá.

           Nếu các đức hạnh này luôn luôn được nghĩ đến, nếu chúng ta quí trọng và ước mong chúng, nếu chúng ta cố rèn luyện và thực hành chúng th́ ở thế gian này không có một mănh lực nào có thể ngăn cản chúng ta tiến đến sự hoàn thiện.



sự tập trung



           Chúng ta sẽ tiến mau, nếu chúng ta tập chú ư vào công việc hằng ngày. Nếu chúng ta đừng để trí xao lăng bởi những tư tưởng không liên hệ đến các công việc chúng ta làm, đến các ư kiến chúng ta nghĩ, ấy là chúng ta tập trung tư tưởng. Đó là một quyền năng thuộc vào loại quí báu nhứt mà con người có thể tập luyện, dầu y là sinh viên huyền môn hay không.

           Trong mọi phạm vi, nếu chúng ta có thể tập trung tất cả trí lực vào một việc nhứt định, đó là một điều cực kỳ quí báu. Những người thành công nhứt trong cuộc đời là những người đă thực hiện được sự tập trung ấy. Chỉ có một biện pháp duy nhứt để tiến đến mục đích đó: sự luyện tập hằng ngày.

           Cái đức tánh vô giá ấy không ai cho ta được, mỗi người trong chúng ta phải tự cố gắng rèn luyện lấy. Một phương thức rèn luyện hay nhứt là chú ư vào mỗi công việc của chúng ta trong ngày, là cố gắng làm tṛn nó một cách khéo léo, minh bạch và đắn đo tột bực. Chúng ta không vội vàng nhưng cũng không lười biếng, không cẩu thả. Mỗi hành vi phải được thực hiện một cách cương quyết, với tất cả sự cố gắng để nó được hoàn toàn.

           Đó là một sự luyện tập rất quan trọng đối với nhà kinh doanh, giáo sư, kỹ sư, nội trợ và cả với nhà huyền môn. Luyện tập như thế và chủ trị cái trí luôn luôn xao xuyến của chúng ta để ư thức được như thế nào là sự tự chủ và trí lực của con người. Cái trí hỗn loạn của chúng ta trước kia đă gây cho ta nhiều tai hại bây giờ trở nên một dụng cụ chính xác và nhiệm mầu.



sự suy gẫm



           Nhà huyền môn dùng luật lặp lại chẳng những để chủ trị cái trí nhờ các cố gắng thường xuyên mà c̣n để đào luyện tánh t́nh. Suy gẫm là tập trung cái trí vào một đức hạnh mà chúng ta muốn có hay vào một vấn đề tâm linh mà chúng ta muốn hiểu rơ ràng.

           Về việc tham thiền, chúng ta phải chọn một chỗ an tĩnh và mỗi sớm mai khi tắm rửa xong, th́ đến đó ngồi yên, lưng thẳng, hai bàn tay để trên đầu gối và chú tâm vào một tư tưởng, một lời nói cao siêu hay một bài kệ trong kinh. Trong lúc tham thiền, chúng ta phải loại các tư tưởng và h́nh ảnh không liên hệ đến đề tài suy gẫm. Sự tập trung này rất khó khăn và đ̣i hỏi một sự cố gắng lâu dài.

           Chúng ta phải nhất quyết chú ư vào tư tưởng được chọn, xem xét nó dưới mọi khía cạnh và t́m hiểu tinh hoa của nó để lănh hội trọn vẹn ư nghĩa.

           Trước khi tham thiền, chúng ta không sao nhận thức được mức độ sáng suốt mà ta có thể hoạch đắc trong vài khoảnh khắc tập trung mạnh mẽ và liên tục. Nhiều chơn trời mới cực kỳ xinh đẹp sẽ khai mở ở tâm trí ta. Những mối tương giao mới cũng hiện lên giữa các quan niệm khác nhau, nhờ đó chúng ta phát giác được nhiều ư nghĩa thâm thúy mà trước kia không ngờ. Các điều này không sao có thể đến với chúng ta giữa muôn ngàn quyền lợi và ấn tượng lộn xộn trong ngày. Chúng ta chỉ có thể có một sự hiểu biết thật sự trong phút giây vắng lặng hoàn toàn.

           Một đức tánh có thể được chọn để làm đề tài tham thiền. Chúng ta có thể lấy đức tánh dịu dàng chẳng hạn để suy gẫm trong một tháng. Mỗi buổi sớm mai, khi tĩnh tọa trong sự vắng lặng, chúng ta suy gẫm về tánh dịu dàng, thùy mị và dễ yêu mà ai cũng muốn có từ người đàn ông mạnh khoẻ đến một cô gái mỹ miều. Chúng ta tưởng tượng lúc nào ta cũng dịu dàng trong hành động, lời nói và tư tưởng hằng ngày.

           Sau buổi tham thiền, chúng ta đặt ḿnh trong đời sống quay cuồng, chúng ta hăy nhớ các tư tưởng ban mai và cố gắng thực hành.

           Đối với các đức tánh khác cũng vậy. Chúng ta cần suy gẫm đức tánh này xong đến đức tánh khác mà ta muốn có. Sự áp dụng luật lặp lại sẽ lần lượt cho ta những đức hạnh quí báu để tô điểm tánh t́nh. Và nhờ thế từ bước một, ta tiến đến năng khiếu nhăn thông siêu đẳng.

           Lư do là khi ta trau luyện tánh t́nh và mở mang trí tuệ, khối óc chúng ta cũng từ từ cải tiến để trở nên mẫn cảm hơn, nhờ các luồng sinh lực tuôn xuống liên tiếp để gia tăng số tế bào năo bộ.



sự chiêm ngưỡng [26]



           Một giai đoạn khác của sự tham thiền là sự chiêm ngưỡng, chính sự chiêm ngưỡng này giúp chúng ta thực hiện các nguyện vọng tâm linh. Muốn chiêm ngưỡng, chúng ta đặt ở tâm trí một lư tưởng tâm linh mà chúng ta quí mến như Đức Chúa, Đức Phật, Đức Krishna hoặc một Chơn Sư. Sau đó chúng ta tưởng nhớ đến các đức tánh cao siêu của các Ngài như t́nh thương bao trùm vạn vật, ḷng trắc ẩn bao la, sự b́nh an tuyệt đối, sự minh triết thiêng liêng, sự phân biện sáng suốt, quyền lực kỳ diệu, ư chí bất khuất, hay một sự hiểu biết toàn vẹn các nhu cầu và nguyện vọng của mỗi sinh linh. Đồng thời, chúng ta mở rộng ḷng ta để đón tiếp Ngài với nguyện vọng tha thiết phản chiếu phần nào sự vinh quang của Ngài để được giống Ngài. Khi chúng ta chiêm ngưỡng lư tưởng cao nhất mà chúng ta có thể ư niệm được, chúng ta sẽ được "cải biến theo h́nh ảnh Ngài từ vinh quang này sang vinh quang khác".

           Chúng ta đừng quên rằng năng linh [27] không phải là tâm linh [28]. Năng linh là sự cảm giác mạnh mẽ của tâm thức xuyên qua khối óc, c̣n tâm linh là sự thực hiện khuôn mẫu thiêng liêng và sự sống duy nhứt, nó liên kết mỗi đời sống riêng rẽ vào các đời sống khác.



sự khai mở nhăn thông



           Mục đích tập trung, sự suy gẫm và chiêm ngưỡng không phải khai mở sự năng linh mà đào tạo một mẫu người thanh cao và hữu ích. Tuy nhiên, khi chúng ta công phu đến mức nào, các quyền năng đương nhiên sẽ khai mở. Đó không phải là kết quả của sự luyện tập mà là của tánh t́nh thanh cao của con người.

           Khi chúng ta tŕ chí trong công phu suy gẫm, chúng ta có thể loại trừ các tư tưởng không liên hệ đến tư tưởng chiêm ngưỡng. Sau đó một thời gian lâu nữa, ta sẽ loại luôn tư tưởng này mà vẫn giữ cái trí trong trạng thái tập trung tích cực và dũng mănh. Nếu sự trống rỗng này [29] được thực hiện dù chỉ trong ít phút mà không bị xâm chiếm bởi ấn tượng ngoại cảnh hay tư tưởng cá nhân, tâm thức sẽ thoát nhẹ nhàng khỏi khối óc và hành giả đột nhiên thấy được cơi vô h́nh. Đó là buổi b́nh minh của một tâm thức bao la, là sự khai mở nhăn thông siêu đẳng hằng mong ước, nó hiện ra khi siêu thức và khối óc làm một.



một phương thức đặc biệt


C̣n có một phương thức khác để khai mở năng linh siêu đẳng, nhưng chúng ta không thể nói nhiều về vấn đề này. Các chi tiết của phương thức này không bao giờ được truyền bá và chúng tôi sở dĩ nói đến là để bổ sung quyển sách và cũng để nêu rơ các tai hại của sự luyện tập nó. Nó được truyền dạy do ngay sư phụ cho đệ tử và nếu đệ tử chưa được chuẩn bị tới mức nào đó th́ sư phụ không bao giờ đến dạy.



           Sở dĩ phương thức này được giữ bí mật không phải do sự ích kỷ mà để bảo vệ nhân loại. Khi nhờ một phương tiện nào, một người biết được nó và luyện tập nó mà không chuẩn bị xác thân, trí thức và tinh thần trước th́ người đó sẽ tự giết ḿnh hoặc

sẽ loạn óc suốt đời hay trở thành một con quỉ dâm dục v́ khí lực phát khởi không được dùng vào những mục đích thanh cao.

           Phương thức này phát triển những quyền năng tâm linh siêu đẳng nhờ một năng lực vô cùng dũng mănh được gọi là hỏa xà hay Kundalini, nó nằm ở đoạn cuối cùng của xương sống. Nếu nó được đánh thức và được điều khiển một cách sáng suốt, nó sẽ tiến theo xương sống để khai mở một số trung tâm [30] nằm trong xác thân.

           Các trung tâm ấy giống như luồng trốt nhỏ, h́nh tṛn lối năm phân bề kính và ở trong trạng thái yên tĩnh, chúng nó nằm ở bên ngoài thể phách gần phần cuối cùng của xương sống, và cạnh lá lách, rún, tim, cuống họng, đỉnh đầu và giữa hai chơn mày.

           Khi luồng hỏa xà đi xuyên qua chúng nó theo một trật tự nào đó tùy hạng người, chúng nó được phát động và cảm xúc được cơi vô h́nh. Nhờ vậy, con người được nhăn thông siêu đẳng.

           Muốn luyện tập phương thức này, sự tham dục từ lâu phải được tiêu diệt hoàn toàn, nếu không, sự đánh thức hỏa hậu sẽ vô cùng nguy hiểm, thay v́ hướng lên, nó có thể ḅ xuống để kích thích tột độ tính dâm dật. Phương thức này rút ngắn con đường tu tập, nhưng chúng ta nên tránh nó v́ có mấy người trong chúng ta đă dập tắt hoàn toàn dục tính ? Những người đinh ninh ḿnh đă sẵn sàng để tập luyện chính là những người chưa sẵn sàng chút nào. Như vậy, không v́ lư do ǵ và bất kỳ trong hoàn cảnh nào, chúng ta lại đánh thức hỏa xà, trừ khi có một Chơn Sư (theo đúng nghĩa Thông Thiên Học) hay một vị đệ tử của Ngài đến dạy. Phương thức ta nên theo là đào tạo cho ta một tánh t́nh cao thượng bằng cách tham thiền hằng ngày.



một xác nhận



           Không có ngọn núi nào quá cao đối với một người quyết tiến, v́ ở trong mỗi chúng ta, đều có một nguyên lư thiêng liêng giúp chúng ta thành tựu trong mọi công việc. Sự yếu đuối, sự vô minh, sự hèn nhát đều phát sinh từ các thể của chúng ta v́ chúng nó chưa được huấn luyện thuần thục.

           Nhưng trong các kiếp luân hồi liên tục, chúng ta luôn luôn tinh luyện chúng nó đồng thời tập chủ trị vật chất. Ở một quá khứ xa xăm, chúng ta là người dă man ăn rễ cây trong rừng. Một ngày kia, như Saint Graal, chúng ta sẽ phát huy ánh sáng.

           Tuy nhiên, chúng ta không thay đổi. Nếu có thay đổi chăng là các thể chúng ta. Sự phát triển tâm linh được thực hiện không phải bằng cách thu thập cái chi ở ngoại cảnh mà bằng cách đánh thức những khả năng tiềm tàng ở trong ḷng. Lúc đầu khi kinh nghiệm đánh thức chúng nó bằng các khó khăn của đời sống vật chất, chúng nó biểu hiện một cách thô lậu dưới h́nh thức ích kỷ, những thèm muốn tục tằn và hành động tàn bạo, y như các ánh sáng lóe xuyên qua cửa kính đầy khói đen. Nhưng lần hồi, nhờ các công phu luyện tập, ánh sáng bên trong dần dần hiện ra rực rỡ xuyên qua các thể được tinh luyện, và tâm thức ta được cải biến theo h́nh ảnh của Thượng Đế. Mỗi đức tánh ta hoạch đắc, mỗi khả năng trí thức ta phát triển, mỗi nguyện vọng tâm linh ta khêu lên đều đưa chúng ta lần đến sự vinh quang. Và tất cả sự huy hoàng tâm linh của Chơn Nhơn bên trong một ngày kia, sẽ phát huy xuyên qua thể xác tinh anh như một Thánh Điện.

           Như thế, chúng ta hăy can đảm tiến lên. Thượng Đế luôn luôn ngự trong ḷng ta dù chúng ta nhỏ, già, khôn, dại, thanh cao hay ô uế. Khi ta ngă, ta hăy đứng lên v́ không có một hố sâu nào mà ta không thể vượt qua. Nếu ta yếu đuối, ta hăy t́m sức mạnh và sức mạnh sẽ đến; nếu ta thất bại, ta hăy cố gắng thêm, v́ thất bại không có, trừ khi nào ta nản chí. Nếu ta dại khờ, chúng ta phải bền chí, v́ kinh nghiệm sẽ mở mang trí khôn. Hy vọng phải là ngọn đèn dắt dẫn ta. Nếu buồn khổ xảy ra, ta phải chịu đựng và rút kinh nghiệm, nếu hạnh phúc đến, ta hăy chia sớt cho mọi người.

           Khi chúng ta tin rằng thế giới của chúng ta được đặt dưới sự điều khiển của một Đấng Thiêng Liêng nhân từ vô cùng sáng suốt vô biên, chúng ta sẽ không c̣n sợ hăi buồn rầu, chán nản. Chúng ta hăy ngước mắt chiêm ngưỡng cái Ánh sáng thiêng liêng bất diệt ấy và để ḷng tràn ngập một "sự an lạc ngoài trí tưởng tượng của con người".

------------------------------------------------------------ --------------------

[1] Năng linh : Psychique. Chữ năng linh thường dùng trong quyển sách để chỉ những sự việc liên hệ đến khả năng tâm linh hoặc những người đă mở được một ít quan năng linh cảm khả dĩ giúp họ tiếp xúc với cơi vô h́nh như nhăn thông, nhĩ thông v. v . . . Người năng linh có thể có một mức tiến thấp như bọn triệt giáo trong truyện Phong Thần. Sự năng linh, tính năng linh : Psychisme. (LDG).

[2] Couche d’atome ultimes physiques.

[3] Communications psychiques par télépathie

[4] như cầu cơ.

[5] Vierges vestales.

[6] Système nerveux sympathique.

[7] Centres reflexes du système cérébro-spinal.

[8] Instinct.

[9] Union par esprit.

[10] Clairvoyance primitive.

[11] Union royale.

[12] Clairvoyance supérieure.

[13] Célébro-spinal.

[14] Cũng gọi là hệ dinh dưỡng.

[15] Plexus.

[16] Plexus solaire.

[17] Croissance de l’ intellect.

[18] Puissance intellectuelle.

[19] Thường được gọi là thể cảm xúc hay thể t́nh cảm.

[20] Passes mesmériennes.

[21] Thể phách : thể được tạo bằng chất dĩ thái. Nó được gọi là nhị xác thân v́ nó liên kết chặt chẽ với thể xác để chuyển sinh lực cho thể này.

[22] Plexus solaire.

[23] Sự phát triển khối óc vật chất. ( L.D.G. )

[24] Các độc giả lưu ư về vấn đề này nên t́m đọc những quyển sách nói riêng về sự ăn chay.

[25] Acide urique.

[26] Contemplation.

[27] Psychisme.

[28] Spiritualité.

[29] Huờn hư.

[30] Luân xa.




Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
nhatly
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 149
Msg 8 of 26: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 7:53am | Đă lưu IP Trích dẫn nhatly

Theo Thiểm ư thi những điều trên là Tuệ Nhăn hay Con Mắt Thứ Ba, chứ không thấy cái Vô Minh như Huệ nhăn.
Nói không Được.!!

Sửa lại bởi nhatly : 19 February 2006 lúc 7:55am


__________________
Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
Quay trở về đầu Xem nhatly's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhatly
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 9 of 26: Đă gửi: 20 February 2006 lúc 1:49am | Đă lưu IP Trích dẫn vuithoi

Kính chào mọi người,

Con mắt thứ 3 là Thiên nhăn chứ không phải huệ nhăn(huệ = tuệ). Tuy nhiên thiên nhăn cũng có nhiều mức độ khác nhau.

Xin t́m đọc về ngũ nhăn sẽ rơ.

Kính chúc mọi người an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 10 of 26: Đă gửi: 20 February 2006 lúc 3:27am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

V.NGŨ NHĂN (NĂM CON MẮT) LÀ G̀ ?
HỌC PHẬT QUẦN NGHI
(Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học dịch

Ḥa Thượng Thích Thánh Nghiêm

Chúng ta thấy trên một số ảnh, tượng Phật giáo có những mặt người có ba con mắt, tức là ở giữa hai mắt có thêm một mắt nữa. Thực ra, người không thể có ba mắt. Con mắt thứ ba chỉ có ư nghĩa tượng trưng, nghĩa là ngoài hai mắt thật ra, c̣n có mắt của tâm (tâm nhăn). Ư nghĩa của tâm nhăn có sâu có nông. Ư nghĩa nông cạn của tâm nhăn chỉ hoạt động tư tưởng của con người thông thường. Về ư nghĩa thâm sâu của tâm nhăn th́ phải nói ngũ nhăn (năm mắt). Theo thuyết ngũ nhăn th́ ngoài con mắt thật ra, c̣n có bốn loại tâm nhăn nữa, với tŕnh độ cao thấp khác nhau.

Cái gọi là ngũ nhăn, chỉ các loại công năng khảo sát sự vật và hiện tượng từ đầu đến cuối, từ gốc đến ngọn trong quá tŕnh tu đạo, từ địa vị phàm phu cho tới quả vị Phật. Có người gọi mắt là cái cửa trí tuệ, là cửa sổ của linh hồn. Con mắt giúp phân biệt sự vật, tăng trưởng tri thức. Công phu tu tŕ càng cao th́ phạm vi của tâm nhăn càng mở rộng. Mắt thật của phàm phu là do cha mẹ sinh ra, nên tầm nh́n, phạm vi nh́n bị hạn chế. Những vật quá nhỏ, quá lớn, quá xa, quá gần đều không nh́n thấy, sáng quá hay tối quá cũng không nh́n thấy. Nếu chứng được thiên nhăn th́ trong thế giới vật chất, có thể nh́n một cách tự tại, không bị hạn chế bởi khoảng cách, thể tích và ánh sáng.

Các cơi Trời cũng có thứ bậc, tŕnh độ cao thấp được chia thành Địa Cư Thiên, Không Cư Thiên và Thiền Định Thiên. Loài Trời ở các cơi Địa Cư Thiên tức là các loại quỷ thần phúc đức đối tượng của tín ngưỡng dân gian. Bốn Thiên Vương, các Thiện Thần ở cơi Trời Đao Lợi, các loài trời ở các cơi trời Không Cư Thiên tức là các cơi trời thiện thần dục giới từ Dạ Ma Thiên đến cơi trời Tha Hóa tự tại. C̣n Thiền Định Thiên gồm 22 cơi trời Sắc giới và Vô sắc giới. Thứ bậc và tŕnh độ càng cao th́ công năng của thiên nhăn càng lớn. Nói công năng của thiên nhăn th́ ngoài việc không có sự hạn chế càng không có sự ngăn cách chướng ngại, không cần có ánh sáng phản chiếu mà chỉ cần tác dụng sức tinh thần mà thôi. Thiên nhăn nhờ tu chứng mà có hay nhờ phúc báo mà có. Các quỷ thần nói chung đều có thiên nhăn, ít hay nhiều, tŕnh độ cao hay thấp. Đây là trường hợp có phúc báo mà được. Đó là do quỷ thần không bị sự ràng buộc của thân xác chỉ có hoạt động của sức mạnh linh thiêng cho nên ít bị vật thể gây chướng ngại. Các linh môi nói chung có thiên nhăn do dựa vào quỷ thần cảm ứng có thể thấy những sự vật mà con người không thể thấy được. Người ta có thiên nhăn nhờ có tu thiền định. Tuy nhiên mục đích của tu thiền định không phải là để có thiên nhăn. Tuy rằng, có những phương pháp chuyên tu thần thông nhưng tu được thiên nhăn chưa chắc chắn đă nhập được thiền định.

Ngoài những công năng kể trên, thiên nhăn c̣n có thể thấy được những hiện tượng, sự kiện xảy ra. Đó là do hiện tượng nào phát sinh cũng có quan hệ nhân quả của nó. Đă có nghiệp nhân tạo ra, th́ tất nhiên có quả báo. Dù hiện tượng xảy ra nhưng những lực lượng tạo ra hiện tượng đă sớm h́nh thành, và nếu không có nhân tố nào khác tác động vào, th́ hiện tượng đó tất yếu sẽ xảy ra. V́ vậy, người có thiên nhăn có thể biết được chuyện vị lai. Năng lực thiên nhăn càng mạnh càng có khả năng thấy xa và chính xác. V́ sao nói độ chính xác của thiên nhăn ? Đây là do thiên nhăn cũng không hoàn toàn đáng tin cậy, bởi v́ nhân tố mới luôn xuất hiện làm cho sự việc dự báo có thể không xảy ra hoặc là tuy có thể xảy ra nhưng biến dạng. Vạn pháp là do duyên sinh, duyên biến th́ các pháp cũng biến. V́ vậy Phật pháp không chấp trước vào thiên nhăn, cũng không khuyến khích người ta tu tập để có thiên nhăn.

Cái gọi là ngũ nhăn (năm mắt) tức là ngoài mắt thịt và thiên nhăn ra, c̣n có mắt trí tuệ (tuệ nhăn), mắt pháp (pháp măn), và mắt Phật (Phật nhăn). Tuệ nhăn là con mắt trí tuệ. Các vị A-la-hán đều chứng được tuệ nhăn, thấy rơ 12 nhân duyên và sự luân hồi sinh tử thoát khỏi ṿng sống chết luân hồi, không c̣n bị thân tâm ràng buộc, ĺa năm uẩn, vượt ba cơi. Trong thế gian cũng dùng trí tuệ, nhưng với nghĩa trí tuệ thế gian, c̣n chấp ngă. C̣n tuệ nhăn của bậc A-la-hán là vô ngă, không c̣n chấp trước.

C̣n Pháp nhăn (con mắt pháp) của các bậc Bồ Tát từ Sơ địa trở lên th́ có khả năng thấy được bản tính, tức pháp tính của vạn pháp, thân chứng được một phần pháp thân của Phật. Pháp thân của Phật phổ biến khắp nơi, khắp mọi lúc, không phải là sắc, không phải là không có sắc, không phải là có tướng, không phải là không có tướng v.v… Nói rằng, tất cả là pháp thân, cũng có thể tất cả đều không phải là pháp thân. Đối với người chấp thủ, th́ tất cả đều không phải pháp thân, nhưng đối với người không có chấp thủ, th́ tất cả đều là pháp thân. Vị Bồ Tát có đầy đủ pháp măn được gọi là đại sĩ pháp thân, đó là những điều mà phàm phu không thể tưởng tượng được.

Có hai loại vô ngă : nhân vô ngă và pháp vô ngă. A-la-hán chứng được lư nhân vô ngă, bỏ được nhân ngă chấp. C̣n chứng pháp vô ngă, ĺa bỏ pháp ngă chấp, là Bồ Tát từ Sơ địa trở lên. A-la-hán bỏ được nhân quả chấp, chứng được tuệ nhăn vượt khỏi ba cơi, Bồ Tát tiến xa thêm một bước nữa, ĺa bỏ pháp ngă chấp, chứng được pháp thân, chứng được pháp nhăn, tuy ở trong ba cơi nhưng không bị hạn chế bởi sống chết nên được gọi là Đại sĩ pháp nhân. Có một số ngoại đạo tự xưng là Phật pháp, luôn tuyên bố ḿnh đă chứng thực tuệ nhăn hay pháp nhăn. Kỳ thực, ngay cả thiên nhăn họ cũng không chứng được, mà chỉ là tác dụng phản xạ của vận động khí mạch, hay là sức mạnh linh thiêng cảm ứng của quỷ thần mà thôi. C̣n Phật nhăn th́ có tất cả công năng của bốn loại nhăn kể trên chính là toàn bộ trí tuệ, là bản thân "đại viên cảnh trí" (gương trí tuệ lớn) cũng gọi là đại viên giác, cũng gọi là vô thượng bồ đề.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 11 of 26: Đă gửi: 20 February 2006 lúc 4:04am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

phoquang đă viết:
I.QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI THẦN THÔNG VÀ QUYỀN NĂNG SIÊU NHÂN:
*Theo Phật Học Quần Nghi của HT.Thích Thánh Nghiêm:

Phật giáo thừa nhận có phép thần thông. Phàm phu cũng có thể chứng được năm phép thần thông. Bậc Thánh xuất thế chứng được sáu phép thần thông (lục thông). Đức Phật có ba minh, sáu thông.

Năm thần thông là : Túc mạng thông, biết được đời sống quá khứ. Hai là Thiên nhăn thông, biết được đời vị lai, thấy được xa ngoài tầm nh́n của mắt thịt. Ba là Tha tâm thông, biết được hoạt động tâm niệm của người khác. Bốn là Thiên nhĩ thông, nghe được những âm thanh ngoài tầm nghe b́nh thường. Năm là Thần túc thông, tức là có thể bay nhanh, bay xa, đi lại trong nháy mắt. Năm phép thần thông nói trên đều là phép hữu vị, hữu lậu, do tŕnh độ dụng công mà phạm vi hoạt động có thể rộng hẹp, thời gian duy tŕ có thể dài hay ngắn khác nhau. Năm thần thông không có quan hệ với đạo giải thoát, tất nhiên đó cũng không phải là đạo Bồ Tát. V́ vậy, bậc Thánh phải cầu cho được Lậu tận thông.

Lậu tận thông là phá được ngă chấp chứng được Niết-bàn. Tiểu thừa là A-la-hán, đại thừa là Bồ tát sơ địa, và từ Thất địa, trở lên. Chỉ có Phật là chứng được ba minh tức là Thiên nhăn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh.


Bởi v́, thần thông không thể đi ngược lư nhân quả, không thể thay đổi những sự việc đă rồi...



Chào bạn Phoquang ,

Thần thông trong nhà Phật đă nói nhiều rồi qua các mẩu chuyện nhà Thiền đă post trước đây trên Diễn đàn này .Đó là điều tất yếu trong quá tŕnh tu tập của người tu tập đạo Phật . Tôi không rơ bạn PQ đă tiếp xúc trao đổi với những vị Tu sĩ dầy công tu tập , đôi lúc giúp đời khai triển thần thông trong ẩn mật chưa ? hay bạn chỉ biết qua lư thuyết thôi ?

Vũ Hoàng Nguyên   



Sửa lại bởi vuhoangnguyen : 20 February 2006 lúc 4:05am
Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 12 of 26: Đă gửi: 20 February 2006 lúc 4:11am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

phoquang đă viết:
V.NGŨ NHĂN (NĂM CON MẮT) LÀ G̀ ?
HỌC PHẬT QUẦN NGHI
(Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học dịch

Ḥa Thượng Thích Thánh Nghiêm

Chúng ta thấy trên một số ảnh, tượng Phật giáo có những mặt người có ba con mắt, tức là ở giữa hai mắt có thêm một mắt nữa. Thực ra, người không thể có ba mắt. Con mắt thứ ba chỉ có ư nghĩa tượng trưng, nghĩa là ngoài hai mắt thật ra, c̣n có mắt của tâm (tâm nhăn). Ư nghĩa của tâm nhăn có sâu có nông. Ư nghĩa nông cạn của tâm nhăn chỉ hoạt động tư tưởng của con người thông thường. Về ư nghĩa thâm sâu của tâm nhăn th́ phải nói ngũ nhăn (năm mắt). Theo thuyết ngũ nhăn th́ ngoài con mắt thật ra, c̣n có bốn loại tâm nhăn nữa, với tŕnh độ cao thấp khác nhau.

Cái gọi là ngũ nhăn, chỉ các loại công năng khảo sát sự vật và hiện tượng từ đầu đến cuối, từ gốc đến ngọn trong quá tŕnh tu đạo, từ địa vị phàm phu cho tới quả vị Phật. Có người gọi mắt là cái cửa trí tuệ, là cửa sổ của linh hồn. Con mắt giúp phân biệt sự vật, tăng trưởng tri thức. Công phu tu tŕ càng cao th́ phạm vi của tâm nhăn càng mở rộng. Mắt thật của phàm phu là do cha mẹ sinh ra, nên tầm nh́n, phạm vi nh́n bị hạn chế. Những vật quá nhỏ, quá lớn, quá xa, quá gần đều không nh́n thấy, sáng quá hay tối quá cũng không nh́n thấy. Nếu chứng được thiên nhăn th́ trong thế giới vật chất, có thể nh́n một cách tự tại, không bị hạn chế bởi khoảng cách, thể tích và ánh sáng...




Chào Bạn PhoQuang ,

Chủ đề này đă được bác Tuấn Kiệt viết khá rơ ràng tường tận , bạn đọc lại bài NGŨ NHĂN để biết rơ hơn về Ngũ Nhăn của Chư Phật và khỏi có sự lầm lẫn .

Vũ Hoàng Nguyên

Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
Huyền Môn
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2
Msg 13 of 26: Đă gửi: 22 February 2006 lúc 6:47am | Đă lưu IP Trích dẫn Huyền Môn

Chào bạn Phổ Quang
Nh́n vào số độc giả , cũng biết được giá trị của bài viết ; Hoan hô tinh thần tu học của bạn , nhắc lại lời mời ở đầu bài của bạn :
Kính chào quí vị và các bạn!

Kính mời quí vị và các bạn tham gia chủ đề đầy lí thú và hấp dẫn này. Tôi rất mong được cùng mọi người t́m hiểu và thảo luận. Đây là một chủ đề rộng lớn, rất mong được sự đóng góp của mọi người để vấn đề này được sáng tỏ hơn.
     Do đó , nếu các bạn nào có những tài liệu hoặc kinh nghiệm thực tập về đề tài nầy ; dù là Đông hay Tây cũng có thực tiển chung là một khoa học khai phóng tiềm năng c̣n tiềm ẩn trong con người , phạm trù t́m hiểu và thực tập đứng ngoài tôn giáo , việc thành công qui kết về sự tu tập thực hành của mổi cá nhân và việc sử dụng quyền năng nầy vào việc thiện hay ác là do Tâm Đạo của mổi người , cùng chịu sự chi phối của luật nhân quả .
     Vậy các bạn hảy cùng tham gia thảo luận và gởi bài , có như vậy , kiến thức và kinh nghiệm của mọi người sẽ được san sẽ và tŕnh độ cá nhân của mổi người nhờ đó được nâng cao .
     C̣n các bạn nào không biết nhiều , th́ xin đừng chỉ trích phê phán ,ṭ ṃ bơi móc cá nhân , hay đặt những câu hỏi bất kính , mà không có một đóng góp nào lợi ích cho người khác , th́ chẳng khác nào cướp đi chất xám lao động của người khác vậy , tệ hơn nữa c̣n dùng thần quyền mà đè ép người khác , th́ e rằng Diển Đàn TVLS sẽ không có những bài viết có giá trị như bạn Phổ Quang mang đến cho chúng ta nữa .
    Phép tập luyện thần nhản được in thành sách và bán rất nhiều trên thị trường huyền học Tây Phương , mặc dù vàng thau lẩn lộn , nhưng nó cũng giúp ích cho rất nhiều người có được những kiến thức căn bản để từ đó đi lên những bước cao hơn ,ngoài ra c̣n có nhiều trường dạy tập mở Thần nhản dưới danh hiệu Remote viewing , Clairvoyance ....với vài ngàn đô la mỹ là các bạn có thể học được ngay những ứng dụng của Thần nhản loại sơ cấp nầy ; c̣n ở Đông phương th́ những ai có duyên tập luyện với sự hướng dẩn của Minh Sư th́ thường khi thành công là những vị phù trợ vô h́nh cho chánh pháp hoặc là những chuyên gia cho quốc pḥng của quốc gia mà họ cư trú ; c̣n những người mà xuất đầu lộ diện trong công chúng th́ tŕnh độ có giới hạn hoặc là thuộc giới giang hồ thuật sỉ kiếm cơm qua ngày mà thôi .
   Vài hàng góp ư , sự hiểu biết c̣n thô lậu , nhờ cao nhân chỉ dạy .......

             - THIÊN NGOẠI HỮU THIÊN
               NHÂN NGOẠI HỮU NHÂN

             - CAO NHÂN BẤT LỘ DIỆN

             - VÔ VI NHI VÔ BẤT VI

             .....................
Quay trở về đầu Xem Huyền Môn's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Huyền Môn
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 14 of 26: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 11:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

kính chào quí vị và các bạn!
chân thành cảm ơn các bạn đă góp ư.
Thật t́nh đối với tôi việc có con mắt thứ 3 chỉ là 1 công cụ giúp cho người tu minh định rơ nét hơn trên bước đường tu tập khỏi lạc lầm. Cụ thể phương pháp khai mở thiên nhăn được viết thành sách bày bán nhiều nơi, có thể có nhiều cách khai mở theo thiển ư của tôi mà nhiều phương pháp tôi từng nghiên cứu và tu tập th́ tôi chỉ thấy có thiền dịnh là phương pháp chân chính và không lo sợ khi tu tập mà theo nhiều vị cũng nói như vậy.Đối với chúng ta là người tu tập theo phật giáo th́ ta không nên mong cầu thần thông cứ an nhiên tu tập thiền định như nước chảy mây trôi đến một lúc nào do dụng công đầy đủ lần lần thiên nhăn sẽ khai mở trước hết cao hơn là TUỆ NHĂN C̉N GỌI LÀ HUỆ NHĂN; c̣n PHÁP NHĂN VÀ PHẬT NHĂN tôi không dám nói đến hiện tại tôi chỉ hiểu biết có vậy. Lần lần tôi sẽ post thiền định về hơi thở để khai mở TUỆ NHĂN và tiến đến chứng Thánh Qủa của Thanh Văn Thừa.
Kính mong quí vị và các bạn góp ư thêm về các phương pháp khai mở con mắt thứ 3.
kính chúc quí vị và các bạn vạn sự như ư.
Phổ Quảng
thân chào
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 15 of 26: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 11:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

*SỰ NGUY HẠI CỦA VIỆC CÓ THẦN NHĂN

Nếu không có một Nhà Huyền Bí Học lăo luyện hay là một Cao Đồ của Chơn Sư dắt dẫn, người có Thần Nhăn sẽ gặp những điều nguy hại lớn lao mà không ngờ trước.

Thí dụ như: Ngày đêm thấy măi trước mắt những Hồn Ma và những Tinh Quái h́nh thù kỳ dị ở Cơi Trung Giới, có thứ giống như một cục thịt, hả miệng rộng lớn đỏ ḷm. Có khi Hồn Ma theo một bên nói chuyện nầy, chuyện kia, bảo làm nhiều điều họ muốn, không nghe theo họ th́ họ hăm doạ. Phái nữ mà có Thần Nhăn hăy coi chừng lấy, thường bị trêu ghẹo, cười cợt, níu kéo và nựng nịu nữa. Có khi ngày đêm không yên, không nhắm mắt ngủ như ngày thường được.

Một điều hại nữa, có Thần Nhăn thấy được sự giả dối, xảo quyệt của người đời th́ bắt ngán ngẩm. Thà đừng có Thần Nhăn c̣n hay hơn.

Không phải có bao nhiêu đây mà thôi, c̣n nhiều điều khác nữa.

Nếu xét ḿnh tấm ḷng chưa được trong sạch, chưa tự chủ, c̣n nhát sợ, chưa thật gan dạ, chưa được huấn luyện kỹ càng, xin đừng ước ao có Thần Nhăn. Nguy hiểm lắm!

*BA LỜI NGUYỆN

Bên Chánh Đạo, trước khi dạy phương pháp mở Thần Nhăn th́ vị Đệ Tử phải phát nguyện như sau đây:

1 – Không được dùng Thần Nhăn xem chuyện riêng tư của thiên hạ.

2 – Không được khoe khoang. Nếu bị thách đố, không được trổ tài để cho người ta biết ḿnh quả thật có quyền năng nầy.

3 – Không được dùng Thần Nhăn mưu cầu lợi lộc ở Cơi Trần hay ở Cơi trên.

Phạm lời thề ắt mắc Quả nặng.Nếu biết phương pháp tập luyện sẽ có Thần Nhăn; nhưng lúc ban đầu luôn luôn phải lầm lạc, bởi v́ Chất Khí làm Cơi Trung Giới trong trẻo và rung động mau lẹ; thường thường th́ thấy h́nh ngược. Phải có những Nhà Đạo Đức lăo luyện chỉ dạy mới khỏi sai lầm. Cũng nên biết Chất Khí làm Cái Vía trong ḿnh Con Người luôn luôn chạy từ trên đầu xuống dưới chân, rồi từ chân trở lên đầu. V́ thế trong Cái Vía trên đầu, dưới chân, bên hông, trước mặt, sau lưng đều thấy được cả, chớ không phải như con mắt ḿnh.



*Có hai phương pháp chánh để mở những quyền năng siêu việt.

Phương pháp thứ nhứt là Tinh Thần hoá 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

Khi tinh luyện Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí đúng phép th́ các tế bào của 3 Thể nầy càng ngày càng trở nên nhẹ nhàng, thanh bai. Chúng rung động mau lẹ và thâu thập được những Thần Lực từ mấy Cảnh cao đưa xuống. Hành giả sẽ có Thần Nhăn. Phương pháp nầy cũng như sự Tiến Hoá tự nhiên, không có phương hại chi cả.

Điều hay hơn hết là theo sự tiến hoá tự nhiên, nhưng có thể đi mau hơn người thường bằng cách Tham Thiền, Tự Trị, Tự Chủ, Khắc Kỷ, Mở Rộng Ḷng Nhân và Giúp Đỡ Người Tuỳ Phương Tiện.

Có hai phương pháp thông thường tập cho Cái Trí lần lần trở nên yên tịnh.

+PHƯƠNG PHÁP THỨ NHỨT

Đang làm việc bỗng ngưng, không tưởng nghĩ điều chi hết, ban đầu trong 1, 2 phút; sau lần lên 4, 5 phút. Trong Đạo Đức gọi là Huờn Hư.

+PHƯƠNG PHÁP THỨ NH̀

Thường niệm một câu Thần Chú, một câu Chân Ngôn theo phương pháp Mantra Yoga.

Thí dụ như thường đọc câu:

Om Namo Narayanaya. Klim Krishnaya. Govindaya. Gopi Jana. Vallabhaya. Swaha! (Đây là câu xưng tụng Đức Thượng Đế Vishnou).

Hoặc:

Gata! Gata! Paragata! Parasamgata! Bodhi! Swaha!

Mỗi ngày đọc 4 lần: Sớm mai khi mới thức dậy, Trưa: 12 giờ, Chiều: 7 giờ, Tối: 10 giờ.

Mỗi bận đọc 2, 3 lần. Nếu rảnh mỗi giờ đọc 2 bận càng hay.



Xuất Vía, Xuất Hồn là có những Phép Thần Thông.

Tôi kể những sự nguy hiểm ra đây cho các bạn thấy rằng: Việc Xuất Vía không phải là chuyện dễ dàng như người ta lầm tưởng.

Cơi Trung Giới rộng lớn gần 400.000 cây số vuông. Nó lên gần tới Mặt Trăng và chia ra làm 7 Cảnh. Mỗi Cảnh đều có một Hạng Nhân Vật hoạt động ở đó.

Trên Cơi nầy có nhiều Phái, chia ra làm 3 Hạng:

1- Chánh Đạo gọi là Bạch Y.

2- Tà Đạo gọi là Hắc Y.

3- C̣n một Hạng nữa là vừa Tà, vừa Chánh. Họ làm Phải cũng được, làm Quấy cũng được, gọi là Hạng Màu Xám (Les Gris).

Cả thảy đều có những Phép Tắc cao cường.

Bên Chánh Đạo, trước khi học được Phép Xuất Vía, vị Đệ Tử phải tŕ trai, giữ giới, trải qua nhiều kinh nghiệm, nhiều sự thử thách về Ḷng Can Đảm.

Trước nhất là Địa, Thuỷ, Hỏa, Phong.

Vô lửa, xuống nước, đi ngang qua đá - thường là đi ngang qua núi non - lên trên không, để có kinh nghiệm rằng: Nước, lửa, đất, gió, không làm hại được Cái Vía. Và c̣n nhiều kinh nghiệm khác nữa, nhất là phương pháp giữ ḿnh khỏi bị kẻ khác hăm hại.

Sau khi vị Đệ Tử thành công, Chơn Sư cho phép anh đi một ḿnh, nhưng luôn luôn Ngài xem chừng, không để anh bị nguy hiểm trong khi làm những công tác được giao phó.

Xin quí bạn nhớ điều nầy: Nếu Ông Thầy dạy Học Tṛ xuất Vía mà không biết quyền năng bảo vệ họ, để cho Bọn Tà Quái giết chết th́ Ông Thầy sẽ mắc tội với Trời. Quả Báo sẽ nặng lắm. Bên Chánh Đạo rất thận trọng về những điểm nầy.

Mấy chục năm trước, giáo sư Van Der Stock, người Hoà Lan, có Huệ Nhăn, thuật lại cho các bạn Thông Thiên Học ở Pháp Quốc nghe chuyện lần đầu tiên Ngài xuất Vía lên Cơi Trung Giới một cách bất thường. Ngài bị bọn Ngũ Hành áp tới đuổi, chạy hào hễn trở về nhập Xác không kịp.

Vậy xin khuyên quí bạn mến Đạo nên lo Tu Tâm Dưỡng Tánh là điều cần thiết trước nhất, v́ điều đó là Đắp Nền Đạo cho vững chắc. Đừng ham học Xuất Vía, Xuất Hồn[50] e cho có ngày phải mang tai hoạ vào thân, ăn năn chẳng kịp. Cũng đừng ham có Thần Nhăn, Thần Nhĩ khi tấm ḷng chưa được trong sạch. Lạm dụng th́ mắc Quả nặng

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 16 of 26: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 11:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

*phật học quần nghi:

Thần thông đ̣i hỏi những phép tu nhất định. Có phép thần thông nhờ tu định mà chứng được. Có phép thần thông nhờ tŕ chú mà chứng được. Tu định mà chứng được thần thông, trước hết là nhờ tập trung sức chú ư, tăng cường sức mạnh của tâm, dùng tâm niệm làm cho các quan năng của thân ḿnh tiếp xúc, giao tiếp với từ lực và điện năng của vũ trụ, đạt tới một tŕnh độ nào th́ phát sinh ra thần thông. Mọi việc đều diễn ra trong thế giới vật chất. Không có điều kiện vật chất, phép thần thông sẽ không thể thi thố, biểu hiện được, cũng không thể luyện thành được. Cho nên, nói cho đúng đạo lư th́ các nhà duy vật cũng có thể chứng được thần thông.

C̣n tŕ chú mà chứng được thần thông là nhờ tŕ một câu chú hay là tŕ một số câu chú nhất định mà cảm thông với quỷ thần, sai khiến quỷ thần hay bị quỷ thần sai khiến. Sức mạnh của chú như chúng tôi đă giới thiệu ở một chương riêng, là ở chỗ nó đại biểu cho uy lực của một số quỷ thần nhất định nên tŕ chú có tác dụng cảm ứng những quỷ thần đó.

Nếu so sánh hai loại biện pháp chứng được thần thông trên đây th́ có thể kết luận : Trong biện pháp thứ nhất nếu định lực sút kém th́ phép thần cũng mất. Trong biện pháp thứ hai nếu quỷ thần bỏ đi hoặc nếu phạm điều cấm k?th́ phép thần thông cũng mất. Sức mạnh của quỷ thần có thể biểu hiện theo hai phương thức : một là dựa vào quán năng thần kinh của người mà xuất hiện. Hai là thông tin nói nhỏ vào tai người. Phương thức thứ nhất và thứ hai đều do cảm ứng mà được, chứ không phải tự ḿnh chứng được thần thông. Những phương thức cảm ứng thông qua quan năng thần kinh dễ làm cho người ngộ nhận là ḿnh có thần thông.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
minhtam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 16 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 132
Msg 17 of 26: Đă gửi: 28 February 2006 lúc 7:59am | Đă lưu IP Trích dẫn minhtam

phoquang đă viết:
*SỰ NGUY HẠI CỦA VIỆC CÓ THẦN NHĂN

Nếu không có một Nhà Huyền Bí Học lăo luyện hay là một Cao Đồ của Chơn Sư dắt dẫn, người có Thần Nhăn sẽ gặp những điều nguy hại lớn lao mà không ngờ trước.

Thí dụ như: Ngày đêm thấy măi trước mắt những Hồn Ma và những Tinh Quái h́nh thù kỳ dị ở Cơi Trung Giới, có thứ giống như một cục thịt, hả miệng rộng lớn đỏ ḷm. Có khi Hồn Ma theo một bên nói chuyện nầy, chuyện kia, bảo làm nhiều điều họ muốn, không nghe theo họ th́ họ hăm doạ. Phái nữ mà có Thần Nhăn hăy coi chừng lấy, thường bị trêu ghẹo, cười cợt, níu kéo và nựng nịu nữa. Có khi ngày đêm không yên, không nhắm mắt ngủ như ngày thường được.

Một điều hại nữa, có Thần Nhăn thấy được sự giả dối, xảo quyệt của người đời th́ bắt ngán ngẩm. Thà đừng có Thần Nhăn c̣n hay hơn.

Không phải có bao nhiêu đây mà thôi, c̣n nhiều điều khác nữa.

Nếu xét ḿnh tấm ḷng chưa được trong sạch, chưa tự chủ, c̣n nhát sợ, chưa thật gan dạ, chưa được huấn luyện kỹ càng, xin đừng ước ao có Thần Nhăn. Nguy hiểm lắm!

*BA LỜI NGUYỆN

Bên Chánh Đạo, trước khi dạy phương pháp mở Thần Nhăn th́ vị Đệ Tử phải phát nguyện như sau đây:

1 – Không được dùng Thần Nhăn xem chuyện riêng tư của thiên hạ.

2 – Không được khoe khoang. Nếu bị thách đố, không được trổ tài để cho người ta biết ḿnh quả thật có quyền năng nầy.

3 – Không được dùng Thần Nhăn mưu cầu lợi lộc ở Cơi Trần hay ở Cơi trên.

Phạm lời thề ắt mắc Quả nặng.Nếu biết phương pháp tập luyện sẽ có Thần Nhăn; nhưng lúc ban đầu luôn luôn phải lầm lạc, bởi v́ Chất Khí làm Cơi Trung Giới trong trẻo và rung động mau lẹ; thường thường th́ thấy h́nh ngược. Phải có những Nhà Đạo Đức lăo luyện chỉ dạy mới khỏi sai lầm. Cũng nên biết Chất Khí làm Cái Vía trong ḿnh Con Người luôn luôn chạy từ trên đầu xuống dưới chân, rồi từ chân trở lên đầu. V́ thế trong Cái Vía trên đầu, dưới chân, bên hông, trước mặt, sau lưng đều thấy được cả, chớ không phải như con mắt ḿnh.



*Có hai phương pháp chánh để mở những quyền năng siêu việt.

Phương pháp thứ nhứt là Tinh Thần hoá 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

Khi tinh luyện Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí đúng phép th́ các tế bào của 3 Thể nầy càng ngày càng trở nên nhẹ nhàng, thanh bai. Chúng rung động mau lẹ và thâu thập được những Thần Lực từ mấy Cảnh cao đưa xuống. Hành giả sẽ có Thần Nhăn. Phương pháp nầy cũng như sự Tiến Hoá tự nhiên, không có phương hại chi cả.

Điều hay hơn hết là theo sự tiến hoá tự nhiên, nhưng có thể đi mau hơn người thường bằng cách Tham Thiền, Tự Trị, Tự Chủ, Khắc Kỷ, Mở Rộng Ḷng Nhân và Giúp Đỡ Người Tuỳ Phương Tiện.

Có hai phương pháp thông thường tập cho Cái Trí lần lần trở nên yên tịnh.

+PHƯƠNG PHÁP THỨ NHỨT

Đang làm việc bỗng ngưng, không tưởng nghĩ điều chi hết, ban đầu trong 1, 2 phút; sau lần lên 4, 5 phút. Trong Đạo Đức gọi là Huờn Hư.

+PHƯƠNG PHÁP THỨ NH̀

Thường niệm một câu Thần Chú, một câu Chân Ngôn theo phương pháp Mantra Yoga.

Thí dụ như thường đọc câu:

Om Namo Narayanaya. Klim Krishnaya. Govindaya. Gopi Jana. Vallabhaya. Swaha! (Đây là câu xưng tụng Đức Thượng Đế Vishnou).

Hoặc:

Gata! Gata! Paragata! Parasamgata! Bodhi! Swaha!

Mỗi ngày đọc 4 lần: Sớm mai khi mới thức dậy, Trưa: 12 giờ, Chiều: 7 giờ, Tối: 10 giờ.

Mỗi bận đọc 2, 3 lần. Nếu rảnh mỗi giờ đọc 2 bận càng hay.



Xuất Vía, Xuất Hồn là có những Phép Thần Thông.

Tôi kể những sự nguy hiểm ra đây cho các bạn thấy rằng: Việc Xuất Vía không phải là chuyện dễ dàng như người ta lầm tưởng.

Cơi Trung Giới rộng lớn gần 400.000 cây số vuông. Nó lên gần tới Mặt Trăng và chia ra làm 7 Cảnh. Mỗi Cảnh đều có một Hạng Nhân Vật hoạt động ở đó.

Trên Cơi nầy có nhiều Phái, chia ra làm 3 Hạng:

1- Chánh Đạo gọi là Bạch Y.

2- Tà Đạo gọi là Hắc Y.

3- C̣n một Hạng nữa là vừa Tà, vừa Chánh. Họ làm Phải cũng được, làm Quấy cũng được, gọi là Hạng Màu Xám (Les Gris).

Cả thảy đều có những Phép Tắc cao cường.

Bên Chánh Đạo, trước khi học được Phép Xuất Vía, vị Đệ Tử phải tŕ trai, giữ giới, trải qua nhiều kinh nghiệm, nhiều sự thử thách về Ḷng Can Đảm.

Trước nhất là Địa, Thuỷ, Hỏa, Phong.

Vô lửa, xuống nước, đi ngang qua đá - thường là đi ngang qua núi non - lên trên không, để có kinh nghiệm rằng: Nước, lửa, đất, gió, không làm hại được Cái Vía. Và c̣n nhiều kinh nghiệm khác nữa, nhất là phương pháp giữ ḿnh khỏi bị kẻ khác hăm hại.

Sau khi vị Đệ Tử thành công, Chơn Sư cho phép anh đi một ḿnh, nhưng luôn luôn Ngài xem chừng, không để anh bị nguy hiểm trong khi làm những công tác được giao phó.

Xin quí bạn nhớ điều nầy: Nếu Ông Thầy dạy Học Tṛ xuất Vía mà không biết quyền năng bảo vệ họ, để cho Bọn Tà Quái giết chết th́ Ông Thầy sẽ mắc tội với Trời. Quả Báo sẽ nặng lắm. Bên Chánh Đạo rất thận trọng về những điểm nầy.

Mấy chục năm trước, giáo sư Van Der Stock, người Hoà Lan, có Huệ Nhăn, thuật lại cho các bạn Thông Thiên Học ở Pháp Quốc nghe chuyện lần đầu tiên Ngài xuất Vía lên Cơi Trung Giới một cách bất thường. Ngài bị bọn Ngũ Hành áp tới đuổi, chạy hào hễn trở về nhập Xác không kịp.

Vậy xin khuyên quí bạn mến Đạo nên lo Tu Tâm Dưỡng Tánh là điều cần thiết trước nhất, v́ điều đó là Đắp Nền Đạo cho vững chắc. Đừng ham học Xuất Vía, Xuất Hồn[50] e cho có ngày phải mang tai hoạ vào thân, ăn năn chẳng kịp. Cũng đừng ham có Thần Nhăn, Thần Nhĩ khi tấm ḷng chưa được trong sạch. Lạm dụng th́ mắc Quả nặng




Chào Đạo Hữu Phoquang ,

Cách diễn giải của bạn về cách luyện thần nhăn thuộc về tiên cảnh - không phải là Phật học .

TT Thích Minh Tâm

Quay trở về đầu Xem minhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi minhtam
 
minhtam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 16 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 132
Msg 18 of 26: Đă gửi: 28 February 2006 lúc 8:38am | Đă lưu IP Trích dẫn minhtam

phoquang đă viết:
*phật học quần nghi:

Thần thông đ̣i hỏi những phép tu nhất định. Có phép thần thông nhờ tu định mà chứng được. Có phép thần thông nhờ tŕ chú mà chứng được. Tu định mà chứng được thần thông, trước hết là nhờ tập trung sức chú ư, tăng cường sức mạnh của tâm, dùng tâm niệm làm cho các quan năng của thân ḿnh tiếp xúc, giao tiếp với từ lực và điện năng của vũ trụ, đạt tới một tŕnh độ nào th́ phát sinh ra thần thông. Mọi việc đều diễn ra trong thế giới vật chất. Không có điều kiện vật chất, phép thần thông sẽ không thể thi thố, biểu hiện được, cũng không thể luyện thành được. Cho nên, nói cho đúng đạo lư th́ các nhà duy vật cũng có thể chứng được thần thông.

C̣n tŕ chú mà chứng được thần thông là nhờ tŕ một câu chú hay là tŕ một số câu chú nhất định mà cảm thông với quỷ thần, sai khiến quỷ thần hay bị quỷ thần sai khiến. Sức mạnh của chú như chúng tôi đă giới thiệu ở một chương riêng, là ở chỗ nó đại biểu cho uy lực của một số quỷ thần nhất định nên tŕ chú có tác dụng cảm ứng những quỷ thần đó.

Nếu so sánh hai loại biện pháp chứng được thần thông trên đây th́ có thể kết luận : Trong biện pháp thứ nhất nếu định lực sút kém th́ phép thần cũng mất. Trong biện pháp thứ hai nếu quỷ thần bỏ đi hoặc nếu phạm điều cấm k?th́ phép thần thông cũng mất. Sức mạnh của quỷ thần có thể biểu hiện theo hai phương thức : một là dựa vào quán năng thần kinh của người mà xuất hiện. Hai là thông tin nói nhỏ vào tai người. Phương thức thứ nhất và thứ hai đều do cảm ứng mà được, chứ không phải tự ḿnh chứng được thần thông. Những phương thức cảm ứng thông qua quan năng thần kinh dễ làm cho người ngộ nhận là ḿnh có thần thông.




Chào Đạo Hữu Phoquang ,

Người tu tập theo giáo lư Phật Đà mục tiêu không phải là thần thông ,không nên viết nhiều về đề mục này dễ gây ngộ nhận cho nhiều người . Tất cả các pháp môn tùy khế hợp căn cơ đều một mục tiêu là giải thóat khỏi kiếp đau khổ luân hồi sanh tử của con người .
Người tu tập tham thiền nhập định sâu dần th́ ắt mở huệ .Tu Thiền mà tập trung tư tưởng cao độ ,tăng cường sức mạnh của tâm như bạn nói đó chỉ là giai đọan thô ban đầu hay chỉ là các pháp nằm ng̣ai Đạo Phật . Người tu Thiền thực sự th́ Hành giả buông xả tất cả , không c̣n tạp niệm , vọng trần nào nữa . Sự lắng đọng của tâm thức là điều chính yếu trong tu Thiền . Khi tâm thức thanh tịnh lắng đọng th́ phát huệ và thần thông .
Thần thông trong Phật Pháp không đơn giản như bạn phoquang nghĩ là chỉ thực hiện được duy nhất trong điều kiện , môi trường vật chất . Người tu tập Phật đà không chỉ khai triển thần thông ẩn mật trong đời sống vật chất mà c̣n dùng tâm thức biểu hiện được thần thông trong các cảnh giới khác nhau trong vũ trụ . Người sở đắc Phật đà th́ không c̣n khái niệm trên dưới , trong ng̣ai , cao thấp , sạch dơ ... , không c̣n khái niệm về thời gian và không gian bỡi tâm thức bao trùm cả vũ trụ vô tận .
Trong Phật giáo cũng không có khái niệm "luyện các phép tắc huyền bí" mà chỉ có tu học , Hành giả ngày đêm chuyên cần bền bĩ học và hành các pháp môn theo căn cơ , duyên nghiệp .
Tŕ chú dù là bất cứ chú nào th́ không bao giờ phát thần thông mà do tha lực của Chư Phật hay của Qủy Thần Tiên tác động lên sự việc , con người. Hai phương pháp quán năng thần kinh và mách nói nhỏ vào tai người là do quỷ thần ở cơi thiên ma hay do sử dụng bùa ngăi mà có chứ không phải thần thông chứng được . Bữa nay tôi đă sai phạm môn quy khi nêu những điều trên cùng bạn về thần thông nhưng dù sao cũng giúp cho bá tánh biết về Phật Pháp trên đường về nẽo giác .
Chúc Đạo hữu an lạc thường tịnh .

TT Thích Minh Tâm     
Quay trở về đầu Xem minhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi minhtam
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 19 of 26: Đă gửi: 01 March 2006 lúc 11:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

chân thành cảm ơn!
cảm ơn sự góp ư của bác .
Phật giáo ko hề đề cập đến việc tu luyện thần thông và không dùng thần thông để hoá độ chúng sanh mà chỉ dùng 4 tâm: từ, bi, hỷ, xă để phổ độ chúng sanh.Bên cạnh đó Phật giáo Tây Tạng th́ có đề cập về vấn đề này.Mục đích tôi viết về chủ đề này để mọi người cùng hiểu không chủ trương tu tập thần thông. Hiển nhiên không thể né tránh về vấn đề này được. Bỡi lẽ nhiều người chưa minh định vấn đề này, nên cần sự góp ư giúp đỡ cùng hiểu nhau thôi.
Những bài viết của tôi dựa vào tất cả các trường phái nhưng trong đó tôi thấy rơ nét nhất là HỘI THÔNG THIÊN HỌC ( Hội này thuộc tu tiên )có những vấn đề giải thích thật hợp khoa học nhưng có vẻ huyền môn pháp thuật và có vẻ tu tiên quá. chỉ nên hiểu rơ vấn đề thôi, c̣n về tâm ư mỗi người mỗi khác tôi không biết được. Tôi không muốn làm hoang mang ai cả hay kích thích khuyến khích ai cả ,điều này tuỳ thuộc vào bạn thôi chỉ muôn nói rơ cái sai cái nguy hiểm và những ǵ người tu khai mở con mắt thứ 3 thôi.
thời mạt pháp này, xa phật quá lâu nên có những cách suy nghĩ và minh định vấn đề rơ nét mà tu tập thôi. Chủ trương của tôi là học phật chánh pháp, nếu người nào mê vong tham cầu th́ từ cảnh giới phật chuyển sang cảnh giới tiên không lâu và từ cảnh giới tiên rơi vào bàng môn tả đạo nhanh cấp kỳ mà người tu không thấy được hết. Tôi đă gặp nhiều vị và biết được nhiều người đă vấp phải. hăy cẩn trong và xem xét kỹ lưỡng.
chân thành cảm ơn
chào tất cà.

Sửa lại bởi phoquang : 01 March 2006 lúc 11:29pm
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 20 of 26: Đă gửi: 02 March 2006 lúc 8:01am | Đă lưu IP Trích dẫn vuithoi

Kính thưa thầy Minh Tâm,

TT Thích Minh Tâm đă viết:

Tŕ chú dù là bất cứ chú nào th́ không bao giờ phát thần thông mà do tha lực của Chư Phật hay của Qủy Thần Tiên tác động lên sự việc , con người.


Thưa Thầy,

Điều này hoàn toàn không chính xác. Đây là do phương pháp tu tập dựa vào ḷng tin mà tŕ niệm chứ không dùng sự rung động (vibration) là nguyên khởi tạo nên âm thanh để tŕ niệm nên mới có vấn đề này.

Điển h́nh của việc h́nh thành chú có thể xem 1 đoạn trong kinh Dược Sư:
Trích dẫn:
Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia khi đă chứng được đạo Bồ đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu t́nh gặp phải các thứ bịnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, hoặc trúng phải những thứ ếm đối, đồ độc, hoặc bị hoạnh tử, hoặc bị chết non. Muốn những chứng bệnh đau khổ ấy được tiêu trừ và ḷng mong cầu của chúng hữu t́nh được măn nguyện, Ngài liền nhập định, kêu là định:" diệt trừ tất cả khổ năo chúng sanh". Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồn ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú đại đà la ni:

Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xă, lu lô thích lưu ly, bác lặc bà, hát ra xà dă. Đát tha yết đa ra, a ra hắc đế. Tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xă, tam một yết đế tóa ha.

Lúc ấy trong luồng ánh sáng diễn chú này rồi, cả đại địa rúng động, phóng ra ánh đại quang minh làm cho tất cả chúng sanh dứt hết bịnh khổ, hưởng được an vui.


Do vậy người tŕ niệm cần có tâm và âm thanh tương ứng. Bỏ qua việc phát âm trong tŕ tụng thần chú là một thiếu sót rất lớn do vậy kết quả của việc tŕ tụng mới như thầy đề cập ở trên.

Do v́ khó có thể có tâm tương ứng nên Mật Tông mới đề ra phương pháp quán Bổn Tôn. Mang h́nh tướng Bổn Tôn là một cách để đi đến tâm tương ứng. Âm thanh của Chú là âm thanh vũ trụ không có nghĩa mà chỉ có tác dụng nên không có sự giải thích. Sự gượng giải thích chỉ nhằm mục đích tạo cho hành giả có tâm tương ứng mà thôi.

Khoa học thực nghiệm rất giới hạn nhưng rất gần với sự hiểu biết của con người. Thông qua đó chúng ta có thể có được một số khái niệm tương đối để làm bậc thang đi vào t́m hiểu.

Nếu thầy có thể đọc Tiếng Anh (thật xin lỗi v́ không biết có những nghiên cứu về infra sound trong tiếng Việt nên đành giới thiệu Tiếng Anh, mong thầy hỉ xả) th́ có thể search "Infra sound" để đọc. Về mặt hiện tượng, những nghiên cứu về infra sound có thể giúp cho hành giả nắm bắt được nguyên tắc trong việc sử dụng âm thanh.

Vài ḍng chia xẻ, kính chúc thầy an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 4.4336 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO