anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 15 June 2006 lúc 12:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Sự Phát Triển Của Đại Thừa
(Vô Nhất Đại Sư Hoà Thượng Thích
Thiền Tâm)
Tiết Mục:
I. Bốn
bậc long tượng của Đại thừa.
II. Chư
pháp thật tướng luận.
III. Các
luận sư thuộc hệ thống Thật tướng luận.
IV. A lại
da duyên khởi luận.
V. Các
luận sư thuộc hệ thống Duyên khởi luận.
Kinh sách
tham khảo: Trung Quán Luận, Trí Độ Luận, Hải Triều Âm Văn Khố, Ấn Độ Phật Giáo
Sử Lược, Phật Học Đại Cương.
Đề yếu: Theo Đại Thừa Khởi Tín
Luận, tổng thể của nhất tâm có hai môn: Chân như và Sinh diệt. Chân như môn thuộc
về Bản thể quan, Sinh diệt môn thuộc về Hiện tượng quan. Để phá quan niệm chấp
có và thuyết minh chân tâm theo Bản thể quan, hai ngài Mă Minh, Long Thọ đề
xướng thuyết Chư pháp thật tướng. Với mục đích trừ quan niệm chấp không và
thuyết minh chân tâm theo Hiện tượng quan, hai ngài Vô Trước, Thế Thân đề xướng
thuyết A lại da duyên khởi. Nhưng, Thật tướng chẳng phải thiên không, Duyên
khởi chẳng phải trệ hữu, cả hai đều là thể diệu hữu chân không. Đây là điểm cốt
yếu của hai hệ thống Đại thừa Phật giáo.
Kế thừa tư tưởng hai hệ thống này,
tuy có nhiều luận sư, nhưng hiển trứ hơn cả, bên Không tông có hai ngài: Đề Bà,
Thanh Biện, bên Hữu tông có hai ngài Hộ Pháp, Giới Hiền. Về sau, các chi phái
Đại thừa tuy phát xuất ra nhiều, nhưng cũng không ngoài hai hệ thống Không và
Hữu. Cho nên trong bản chương chỉ đưa ra Thật tướng luận và Duyên khởi luận để
đại biểu cho sự phát triển của Đại thừa Phật giáo, chính là do chủ ư trên đây.
Muốn cắt dây leo, nên từ cội gốc;
căn bản đă thông, chi mạt cũng thông. Tôn chỉ này, các học giả tất cả đă biết
rơ.
Tiết
I: Bốn Bậc Long Tượng Của Đại Thừa
Tư tưởng Đại thừa Phật giáo ở Ấn
Độ, tổng yếu có hai hệ thống: hệ thống Bát Nhă chủ trương thuyết Chư pháp thật
tướng, hệ thống Du Già chủ trương thuyết A lại da duyên khởi. Khai sáng lập
thuyết trước, có hai ngài: Mă Minh, Long Thọ. Khởi xướng lập thuyết sau, có hai
ngài: Vô Trước, Thế Thân. Nay tưởng cũng nên lược thuật qua sự tích của bốn đại
học giả ấy:
1. Ngài Mă Minh (Asvaghosa): Niên
đại xuất thế của Mă Minh Bồ tát, có nhiều thuyết khác nhau. Lại căn cứ nơi luận
Thích Ma Ha Diễn th́ có đến sáu ngài Mă Minh. Nhưng theo sự nhận xét của phần
đông các nhà học Phật, th́ trước sau chỉ có một Mă Minh Bồ tát. Và, riêng về
thời đại trứ tác, bộ Đại Thừa Khởi Tín thuyết ngài xuất thế khoảng sau Phật
diệt độ 600 năm, là có phần chính xác hơn hết.
Ngài Mă Minh ḍng dơi Bà la môn,
người thành Sa Kỳ Đa (Sakera) thuộc xứ Trung Ấn. Ngài là bậc học vấn uyên bác,
biện tài vô ngại, văn chương, thi phú hơn người, thông suốt Phệ Đà cùng những
môn học phụ thuộc, rành về các giáo quỷ chân ngôn. Ngài có những biệt danh là:
Nan Phục, Nan Phục Hắc, Dơng Mẫu Nhi, Phụ Nhi, Pháp Thiện Hiện, Thể Huệ... Ban
sơ ngài học theo ngoại đạo, biện luận thắng tất cả các học giả Phật giáo tại
nước Ma Kiệt Đà. Nhưng sau gặp đại đức Hiếp Tôn Giả và Phú Na Dạ Sa
(Pùrnayasas) ngài bị chiết phục, suy kính hai vị ấy làm bậc thầy. Khi đă nương
về chánh pháp, ngài du hành các miền Trung, Bắc Ấn, đem tài hùng biện chiết
phục ngoại đạo, tuyên dương Phật giáo, thanh danh vang dội khắp nơi. Tương
truyền ngài có tài vừa đàn vừa ca, làm cho loài ngựa cảm động chảy nước mắt,
kêu lên tiếng bi thương. Và, lúc vua Ca Nị Sắc Ca tiến đánh thành Hoa Thị, đ̣i
một trong hai điều kiện: dâng ngài Mă Minh, hoặc nộp vàng chín ức. Chủ thành
không có đủ vàng, đành phải đem ngài Mă Minh ra thay thế. Khi vua được ngài Mă
Minh, liền rước về Bắc Ấn để hoằng dương Đại thừa Phật giáo. Có thuyết nói,
trong thời kỳ kiết tập kinh điển lần thứ tư, ngài Mă Minh đă tham gia với phận
sự nhuận sắc văn chương.
Về phần trứ thuật, tương truyền
ngài có soạn hơn 100 bộ kinh luận, nhưng hiện nay chỉ c̣n mười tác phẩm như
sau: Phật sở Hành Tán, Đại Trang Nghiêm Luận Kinh, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo
Kinh, Lục Thú Luân Hồi Kinh, Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng, Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngă
Nghĩa Kinh, Đại Tôn Đại Huyền Văn Bản Luận, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bách Ngũ
Thập Tán Phật Tụng, và Bản Sanh Mang Luận. Trong bài tựa quy kính của Đại Trang
Nghiêm Luận Kinh, ngài đă viết:
Phú Na,
Hiếp tỷ khưu
Các học
giả Di Chức
Chúng Tát
Bà Thất Bà
Bậc Ngưu
Vương chánh đạo
Những
luận sư như thế
Nay tôi
đều kính thuận.
Phú Na Dạ
Sa và Hiếp Tôn Giả là bậc thầy của ngài. Di Chức là dịch âm của danh từ
Mah́sàsakà, tức Hóa Tha Bộ. Tát Bà Thất Bà là dịch âm của danh từ Sarvàtivàsda,
tức Nhất Thế Hữu Bộ. Ngưu Vương, có học giả cho là dịch âm của danh từ
Kaukkutika, tức Kê Dẫn bộ. Xem thế th́ biết sở học của ngài kiêm cả Đại thừa,
Tiểu thừa. Bài tựa quy kính trên biểu lộ thái độ khoan ḥa của một nhà học
Phật, biết dung hợp tất cả giáo lư không cuộc hạn tông phái nào, cốt để t́m cầu
chỗ hay, gạt bỏ chỗ kém. Có thể cho tư tưởng của ngài Mă Minh như một chiếc cầu
nối liền giữa hai lănh vực Tiểu thừa, Đại thừa vậy.
2. Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna): Ngài
là người xứ Tỳ Đạt Bà (Vidharbha, có chỗ gọi Bối Liệp Nhĩ - Berar) ở Nam Ấn,
thuộc ḍng Bà la môn, ra đời vào khoảng 700 năm sau Phật diệt độ. Ngài có biệt
danh Long Mănh hoặc Long Thắng, bẩm tánh kỳ ngộ, trí huệ sâu xa, xem nghe một
lần là nhớ tất cả, không cần phải hỏi lại. Lúc thiếu thời, ngài đă tinh thông
các kinh điển Phệ Đà, cùng những môn thiên văn, địa lư, y học, toán số và nhiều
học thuật khác. Nhưng các môn học đó không làm cho tự tâm được thỏa măn, nên
ngài quyết chí xuất gia t́m đạo lư cao siêu trong Phật giáo. Lúc đầu ngài học
về giáo lư Tiểu thừa, sau lại nghiên cứu sang Đại thừa Phật giáo. Tương truyền
rằng sau khi xuất gia, trong ṿng ba tháng ngài đă đọc hết ba pháp tạng, muốn
t́m kinh khác mà không được. Nhân khi du hành đến Tuyết Sơn, ngài gặp một vị Tỷ
khưu truyền dạy cho các kinh điển Đại thừa. Thầy của ngài, tục gọi Tuyết sơn
lăo tỳ khưu, chính là tôn giả La Hầu La Bạt Đà La (cùng với đệ tử ngài Đề Bà
tên đồng mà người khác). Khi đă thông hiểu giáo lư thâm huyền, v́ chí nguyện
hoằng pháp, ngài đi du hóa các nơi, dùng tài biện luận hàng phục ngoại đạo, và
lập thành hệ thống Đại thừa Phật học. Địa điểm hoạt động của ngài có rất nhiều
nơi, những chỗ trung tâm truyền bá là nước Kiều Tát La (Kosala). Vị quốc vương
ở bản xứ v́ mến đức độ của ngài, nên phát tâm quy y Phật giáo và kiến tạo một đại
tinh xá ở Hắc Long Sơn (Bhràmaragiti) để cho ngài trụ tŕ. Tương truyền ngài dă
dùng thần thông đi xuống Long cung, trong ba tháng đọc thuộc hết lược bản kinh
Hoa Nghiêm, gồm mười vạn bài kệ. Sau ngài lại đến thiết tháp ở Nam Thiên Trúc,
được Kim Cang Tát Đỏa Bồ tát truyền thọ cho kinh Đại Nhựt, nên tinh thông cả
Tŕ minh tạng. V́ thế người đời gọi ngài là bậc xướng đạo cả hai giáo pháp Hiển
và Mật. Về công tŕnh hoằng dương Phật pháp, ngài được xem như đức Thích Ca tái
hiện.
Trên lănh vực trứ thuật, Long Thọ
Bồ tát đă soạn ra nhiều bộ luận. Tựu trung các bộ như: Trung Quán Luận, Đại Trí
Độ Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận... là được lưu hành hơn cả. Giáo nghĩa của ngài
đề xướng tuy nhiều, nhưng hiển trứ hơn cả là thuyết Bát bất trung đạo và thuyết
Văng sanh. Bát bất trung đạo là: bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất
nhất, bất dị, bất lai, bất khứ. Trung đạo đây không phải ư nghĩa trung gian
giữa sự có không, sinh diệt, đoạn thường, mà là ư nghĩa vượt ra ngoài ṿng
tương đối sai biệt để hiển lộ thể chân không diệu hữu, thuộc trường hợp dứt bặt
lời nói và sự suy nghĩ. C̣n thuyết Văng sanh, như nơi phẩm Dị Hành trong luận
Thập Trụ Tỳ Bà Sa, ngài đă nói: "Từ địa vị phàm phu cho đến ngôi Vô thượng
chánh giác có hai đường lối tu tập: nan hành dạo và dị hành đạo. Nan hành đạo
là dụng công khắc khổ tu tŕ chẳng tiếc thân mạng, ngày đêm tinh tấn, mà được
bất thối chuyển. Dị hành đạo là dùng phương tiện niệm danh hiệu chư Phật, mà
được bất thối chuyển mau lẹ dễ dàng. Nan hành đạo thuộc về tự lực; Dị hành đạo kiêm
cả tự lực và tha lực". Trong Dị hành đạo, ngài lại thiên trọng về phần
niệm thánh hiệu Phật A Di Đà. Hai lập thuyết do Ngài đề xướng, đă ứng hợp với
lời huyền kư của đức Phật trong kinh Lăng Già: "Sau xứ Nam Thiên Trúc. Có
danh đức Tỷ khưu. Tôn hiệu là Long Thọ. Hay phá hữu, vô tông. Tuyên dương pháp
đại thừa. Trong thế gian hiển ngă. Được Sơ hoan hỷ địa. Sinh về cơi Cực
Lạc".
3. Ngài Vô Trước (Asanga): Sau
Phật diệt độ 900 năm, có hai bậc đại học giả Phật giáo ra đời. Đó là ngài Vô
Trước và Thế Thân. Sinh quán của hai ngài ở tại thành Bá Lộ Sa (Purasapura),
thuộc nước Kiền Đà La miền Bắc Ấn. Hai ngài nguyên ḍng dơi Bà la môn, thân phụ
là Kiều Thi Ca (Kausika), thân mẫu là Tỷ Lân Tŕ (Virinci). Vô Trước có ba anh
em, ngài là anh cả, Thế Thân là em lớn, Tỷ Lân Tŕ Tử (Virincivaisa) là em út.
Cả ba anh em đều xuất gia đầu Phật. Ban sơ ngài Vô Trước tin theo đạo Bà la
môn, sau bỏ Bà la môn đi xuất gia, học tập đạo pháp Tiểu thừa thuộc Hữu Bộ.
Nhưng v́ không măn nguyện với giáo lư ấy, ngài lại chuyển sang nghiên cứu kinh
điển Đại thừa. Tương truyền, ngài đă dùng sức thần thông lên cung trời Đâu Suất
(Tusita) để nghe Bồ tát Di Lặc (Maitreya) giảng về pháp Đại thừa. Sau khi đó,
ngài lại thỉnh Bồ tát giáng xuống hạ giới, ngự tại một giảng đuờng thuộc nước A
Du Đà (Ayodhyà) miền Trung Ấn. Trong khoảng thời gian bốn tháng, cứ về đêm th́
ngài nghe Bồ tát thuyết pháp, ban ngày lại đem những điều đă nghe được tuyên
giảng cho đại chúng. Và cũng trong ṿng bốn tháng. Bồ tát Di Lặc đă nói xong
năm bộ đại luận: Du Già Sư Địa Luận, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Thập Địa
Kinh Luận, Trung Biên Phân Biệt Luận, Kim Cang Bát Nhă Luận.
Ngài Vô Trước cũng có nhiều trứ
tác riêng, gây thành hệ thống Pháp Tướng Duy Thức Học. Nơi trung tâm hoằng pháp
của ngài là hai nước A Du Đà và Ma Kiệt Đà. Ngài thọ được 75 tuổi.
4. Ngài Thế Thân (Vasubandhu Bà Tu
Bàn Đầu): Sinh sau Vô Trước luận sư độ hai mươi năm, Thế Thân Bồ tát là một bậc
thông minh tài tuấn. Ngài xuất gia theo Hữu Bộ, đến xứ Ca Thất Di La học giáo
nghĩa Đại Tỳ Bà Sa, rồi trở về bản quốc là nước Kiền Đà La thuộc miền Bắc Ấn,
soạn ra bộ Câu Xá Luận. Lúc đầu ngài hết sức hoằng dương giáo lư Tiểu thừa, bài
bác Đại thừa. Sau nhờ anh là Vô Trước điểm hóa, ngài được khai ngộ, trở lại
tuyên dương Đại thừa Phật giáo. Trước sau ngài trứ tác tất cả 500 bộ luận Tiểu
thừa và 500 bộ luận Đại thừa. Căn cứ theo những bộ đă dịch sang chữ Hán, ta có
thể chia tư tưởng học thuật của ngài thành năm thời kỳ: Tiểu thừa Hữu Bộ, Đại
thừa Duy Thức, Kim Cang Bát Nhă, Pháp Hoa Niết Bàn và Tha Lực Tịnh Độ.
Sau các đại học giả: Mă Minh, Long
Thọ, Vô Trước, ta có thể nói Thế Thân luận sư là một ngôi sao sáng chói nhất
trên nền trời Phật học ở Ấn Độ thời bấy giờ. Những đặc sắc của ngài cũng đi
song song với Bồ tát Long Thọ. Nếu Bồ tát Long Thọ là bậc hưng long Đại thừa
Phật giáo ở thời đầu, th́ ngài là bậc trung hưng giáo pháp này ở thời giữa. Bồ
tát Long Thọ hoằng truyền Phật giáo ở Nam Ấn, ngài thạnh truyền chánh pháp ở
Bắc Ấn. Bồ tát Long Thọ kế thừa hệ thống giáo lư của Đại Chúng Bộ, ngài kế thừa
hệ thống tông nghĩa của Thượng Tọa Bộ. Bồ tát Long Thọ xương minh tư tưởng Chư
Pháp thật tướng thuộc lập thuyết "Không", ngài đề xướng tư tưởng A
lại da duyên khởi thuộc lập thuyết "Hữu". Bồ tát Long Thọ vang danh
là Thiên bộ luận chủ, ngài cũng nổi danh là Thiên bộ luận sư.
Qua thời gian du hóa đó đây, cuối
cùng Thế Thân luận sư trở về nhập diệt tại nước A Du Đà, hưởng thọ 80 tuổi.
Tiết
II: Chư Pháp Thật Tướng Luận
Thuyết Thực tướng là một lối lư
luận nói rơ thực thể của vũ trụ, đại để cũng như thuyết thực tại (réalisme)
thông thường, thực tại thuộc về trực quan giới, không thể đem lời nói và văn từ
mà diễn tả được. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng những tỷ dụ tương tợ để h́nh
dung nó. Trung Quán Luận nói:
Các pháp
nhân duyên sinh
Ta nói
tức là không
Đó chính
là giả danh
Cũng là
nghĩa trung đạo.
Bài kệ
này thuyết minh: bởi các pháp do nhân duyên sinh ra, nên nó là không, giả, và
chính là trung đạo thật tướng. Để hiểu nghĩa này rơ ràng hơn, ta hăy quay sang
phân tích về đạo lư "Bát bất".
Các pháp đă do nhân duyên ḥa hợp
mà sinh, nên chỉ là giả huyễn chớ không phải thật có; nếu quả thật có, tất ưng
không đợi nhân duyên mới sinh. V́ nghĩa không phải thật sinh, nên gọi là
"bất sinh". Khi thế lực nhân duyên suy tàn, tất cả các pháp phải
diệt; nhưng trước kia đă không sinh, th́ nay đâu thật có diệt, v́ thế nên gọi
là "bất diệt". Các pháp do nhân duyên mà có sinh trưởng đổi thay nên
gọi là "bất thường". Vạn hữu trước có sau không gọi là đoạn, nay đă
không thật có, nên cũng chẳng có chi là đoạn. Đây là nghĩa "bất
đoạn". Các pháp sinh khởi trước sau chẳng giống nhau, như mộng với lúa
không phải là một, đó là nghĩa "bất nhứt". Nhưng nếu quả mộng với lúa
không phải là một, th́ mộng không ưng sanh lúa, mà phải sanh cái khác; nay vẫn
thấy sanh lúa, nên gọi là "bất dị". Vạn hữu đă như huyễn, th́ sự đến
đi dường như trong mộng không có thiết thật, nên gọi là "bất lai, bất
khứ".
Trước mắt chúng ta, xưa nay các
đối tượng vẫn hiện bày ngàn h́nh muôn trạng, tại sao ngài Long Thọ dùng thuyết
"bát bất" để phủ nhận? Bởi theo quan niệm của thế gian th́ các pháp
có sanh, có diệt, có thường, có đoạn, có một, có khác, có lại, có đi; quan niệm
này thuộc về lối mê chấp trên giả tướng. Để phá quan niệm ấy và hiểu rơ thật
tướng trung đạo, ngài Long Thọ dùng tám thứ không là: không sinh, không diệt,
không thường, không đoạn, không một, không khác, không lại, không đi. Thế th́
sự phủ nhận trên, chỉ có tính cách bác phá quan niệm chấp tướng, chớ không phải
thật phủ nhận các tướng, bởi hằng sa muôn pháp là diệu thể bồ đề. Đây là lối
dùng không môn đi vào thật tướng.
Đại Trí Độ Luận nói: "Trong
Phật pháp có nhị đế, là: thế đế và đệ nhất nghĩa đế. V́ thế đế nên Như lai nói
có chúng sinh, v́ đệ nhất nghĩa đế nên lại bảo chúng sinh không thật có".
Trung Quán Luận cũng nói: "Chư Phật y theo nhị đế mà thuyết pháp cho chúng
sinh, đó là thế tục đế và đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không biết mà phân
biệt nhị đế, tất không thể hiểu nghĩa chân thật của đạo pháp nhiệm mầu".
Căn cứ hai đoạn trên, ta thấy thế đế hay đệ nhất nghĩa đế đều là pháp giả lập
để đối trị bệnh mê của chúng sinh, nếu chấp một trong hai phương diện th́ không
làm sao hiểu được Phật pháp. Như cái nhà do nhân duyên kèo, cột, vách, ngói hợp
thành, nếu bảo đó là thật có hay thật không, đều là quan niệm trên mê chấp. Cho
nên chư Phật không rời các pháp mà nói thật tướng, không động thật tướng mà lập
các pháp. V́ thế, nhị đế tuy hai mà chẳng phải hai, chỉ v́ phàm phu lầm diệu
hữu là vọng hữu, nhị thừa mê chân không làm thiên không, nên mới dùng phương
tiện để đối trị vậy thôi.
Như trên, hai đạo lư bát bất và nhị đế là tư
tưởng căn bản của Chư pháp thật tướng luận. Thật tướng này, như trước đă nói,
chỉ cùng thí dụ tương tợ để ngộ nhập, tuyệt không thể dùng lời nói cùng văn tự
miêu tả được. Cho nên, Duy Thức tông gọi là "Phế thuyên đàm chỉ". Tam
Luận tông gọi là "Ngôn vong lự tuyệt"; Thiên Thai tông gọi là
"Bách phi câu khiển, tứ cú giai ly"; Thiền tông gọi là " Bất lập
văn tự"; Hoa Nghiêm tông gọi là "Quả phần bất khả thuyết"; Chân
Ngôn tông gọi là "Xuất quá ngôn ngữ đạo"; Tịnh Độ tông gọi là
"Bất khả xưng, bất khả thuyết, bất khả tư nghị". Muốn hiểu Thật
tướng, chúng ta nên thầm hội ư vị của những câu trên.
|
anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 15 June 2006 lúc 12:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tiết
III: Các Luận Sư Thuộc Hệ Thống Thật Tướng Luận
Lập thuyết Chư pháp tướng pháp
nguyên từ hệ thống Đại Chúng Bộ, do hai ngài Mă Minh, Long Thọ đề xướng, và căn
cứ truyền giáo khởi thủy ở Nam Ấn. Thừa kế tư tưởng này, có ngài Đề Bà
(Àryadeva Thánh Thiên). Đề Bà luận sư ra đời vào thế kỷ thứ III, sinh quán ở
Tích Lan, sau qua Nam Ấn làm đệ tử của Bồ tát Long Thọ. Ngài có viết ra bộ
Quảng Bách Luận, thường dùng lư thuyết "không" để hàng phục ngoại
đạo, sau bị họ oán sợ mà ám sát. Đệ tử của luận sư Đề Bà là La Hầu La Bạt Đà La
(Ràhula bhadra), gọi tắt là La Hầu Đa La, lại kế truyền học thuyết của thầy.
Ngài là bậc thông minh, có tài biện luận, thường đến các nước ở vùng Trung Ấn
để tuyên dương giáo lư Đại thừa. Chính ngài đă chú thích bộ Trung Luận của Long
Thọ Bồ tát, nhưng rất tiếc không c̣n được tới ngày nay.
Đến thế kỷ thứ IV, có hai ngài
Thanh Mục (Pingala) và Kiên Ư cũng tổ thuật tư tưởng của ngài Long Thọ. Thanh
Mục luận sư chú thích bộ Trung Luận theo chủ nghĩa "Vô tướng giai
không"; Kiên ư luận sư th́ viết ra bộ Nhập Đại Thừa Luận. Qua thế kỷ thứ
V, ở Nam Ấn có ngài Phật hộ (Buđhapàlita) ra đời, tuyên dương thuyết Trung đạo
phi hữu phi không của Bồ tát Long Thọ. Pho trứ tác của ngài về sau lưu hành
sang Tây Tạng gây thành hệ phái Trung Quán tông.
Cuối thế kỷ thứ V, cũng ở Nam Ấn,
có luận sư Thanh Biện (Bhàvaviveka - T́nh Biện), tạo ra bộ Chưởng Trân Luận và
Bát Nhă Đăng Luận. Luận sư dung ḥa Không thuyết của Long Thọ với Duy thức học,
và đề xướng tục đế là pháp nhân duyên thể không, chân đế là pháp tánh thường
trú. Thế là thuyết Vô tướng giai không của Bồ tát Long Thọ đến giai đoạn này đă
có hơi chuyển biến. Đối với thuyết Y tha khởi của Duy thức thuộc Hữu tông, luận
sư giải thích là nhân duyên không pháp. Lư luận này đă gây thành cuộc tranh
biện dây dưa bất phân thắng bại của hai tông Không, Hữu.
Cuối thế kỷ thứ VI, có ngài Trí
Quang (Jnànaprabha), đệ tử của Thanh Biện luận sư ra đời. Ngài khởi xướng lối
phán thích giáo lư, đưa học thuyết của Bồ tát Long Thọ lên hàng tối cao. Đồng
thời ở Nam Ấn lại có ngài Nguyệt Xứng (Candraḱrti) soạn bộ Trung Luận Thích,
lập thuyết cũng tương phù với ngài Phật Hộ.
Đầu thế kỷ thứ VII có đệ tử ngài
Trí Quang là Sư Tử Quang xuất hiện, giảng về Tam luận tại chùa Na Lan Đà. Ngoài
ra, c̣n có các luận sư khác như Thắng Quang, Trí Hộ..., đều tuyên dương giáo
nghĩa của ngài Long Thọ.
Như thế, hệ thống truyền thừa về
Thật tướng luận thuộc Không tông, có thể sắp theo thứ tự như sau: Mă Minh, Long
Thọ, Đề Bà, La Hầu Đa La, Thanh Mục, Phật Hộ, Thanh Biện, Trí Quang, Sư Tử
Quang, Thắng Quang, Trí Hộ...
Tiết
IV: A Lại Da Duyên Khởi Luận
Thuyết Thật tướng của hai ngài Mă
Minh, Long Thọ, thể hiện nghĩa chân không của Như Lai tạng. Qua đến thời đại
Pháp tướng học, hai ngài Vô Trước, Thế Thân, lại thuyết minh Như Lai tạng bằng
nghĩa diệu hữu.
Từ trước, hàng Tiểu thừa chỉ thành
lập có sáu thức là: Nhân, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ư Thức. Song sáu thức là
những tâm lư sinh diệt, vô thường. Như năm thức trước chỉ do sự kích thích của
ngoại giới mà tả tượng vào nội tâm. Chúng không có những tác dụng tinh thần
như: so sánh, suy luận hoặc truy niệm cảnh quá khứ. Có đủ những tác dụng ấy và
chiếm được địa vị trọng yếu, duy có thức thứ sáu mà thôi. Nhưng ư thức cũng là
một thứ tâm lư có gián đoạn, niệm trước đă qua, niệm sau mới đến. Và khi chúng
ta chết rồi th́ ư thức cũng tiêu tan. Thế th́ cái ǵ duy tŕ nghiệp lực làm cho
nó không gián đoạn sau khi chúng ta chết?
Lư do trên là nguyên nhân thành
lập ra A Lại Da thức của phái Đại thừa. A Lại Da có nghĩa: Hàm tàng thức hoặc
Chủng tử thức, là một tâm thể chứa đựng tất cả chủng tử của vạn hữu, làm cội
gốc duy tŕ và mở mang ra hiện tượng giới, có đủ ngàn h́nh muôn trạng bao la.
Sáng lập ra thuyết A Lại Da duyên khởi là giáo Pháp tướng, cũng gọi là giáo
phái Duy thức. Ngoài sáu thức của Tiểu thừa, phái này lập thêm hai thức nữa:
Mạt na (Màna) thứ bảy, và A lại da (Alaya) thứ tám. Mạt na có nghĩa: Chấp ngă,
một tâm lư lầm nhận cái ta là có thật.
Theo nhà Duy thức, nếu nói chân
như làm duyên khởi cho vạn hữu, là không hợp lư. Bởi chân như th́ b́nh đẳng
đồng nhất, mà vạn hữu th́ muôn h́nh sai biệt. Vậy căn nguyên phát khởi các hiện
tượng muôn vàn sai biệt ấy, tất phải do muôn vàn chủng tử sai biệt. Nơi chứa
đựng các chủng tử này là thức A lại da, và A lại da làm nhân duyên phát khởi
các pháp, nên gọi là A lại da duyên khởi. Chính thức A lại da này cũng do nhân
duyên mà thành. Từ vô số kiếp đến giờ, do nghiệp nhân lành dữ huân tập, nó vẫn
luôn luôn sinh khởi không gián đoạn, chứa đựng tất cả mọi chủng tử và có khả
năng vô hạn để phát hiện ra hữu t́nh giới và khí thế giới. A lại da có hai:
Chúng sinh A lại da thức và Như Lai A lại da thức. A lại da của chúng sinh có tính
cách biệt. A lại da của Như Lai có tính cách đồng. A lại da của chúng sinh vô
thủy hữu chung. A lại da của Như Lai vô thủy vô chung. A lại da của chúng sinh
thuộc Biến kế chấp tánh. A lại da của Như Lai thuộc Viên thành thật tánh.
Duy thức tông lập ra ba tánh: Biến
kế chấp, Y tha khởi và Viên thành thật. Y tha khởi là các pháp do nhân duyên
sinh khởi, đứng địa vị trung tâm. Trên Y tha khởi mà lầm nhận có không, đoạn
thường, sinh diệt, quay cuồng theo hiện tượng là Biến kế chấp. Trên Y tha khởi
mà tiêu diệt những quan niệm ấy, là Viên thành thật. Trong A lại da thức của
chúng ta chứa đủ chủng tử mê và ngộ. Nếu chúng ta hiểu rơ nhân, pháp như huyễn,
không c̣n quay cuồng mê chấp theo muôn trượng, th́ tâm thức lắng yên, phiền năo
tiêu diệt, dần dần sinh ra giác ngộ. Vậy từ mê đến ngộ chỉ là sự thay đổi quan
niệm.
Tóm lại, thuyết A lại da duyên
khởi đứng về mặt diệu hữu mà thuyết minh Như Lai tạng. Thể tướng A lại da này
làm nhân duyên cho nhau sanh khởi vô cùng; trong vô thường ẩn lư chân thường,
trong sanh diệt ẩn lư phi sinh diệt, mê cùng ngộ chỉ bởi nơi người mà thôi. Cho
nên lời văn trong bài tựa kinh Lăng Già nói: "Tâm không rời thức, hằng
niết bàn nơi sự diệt sinh; thức chẳng ĺa tâm, uổng sống chất trong ṿng thường
trụ" là chỉ cho ư nghĩa này vậy.
Tiết
V: Các Luận Sư Thuộc Hệ Thống Duyên Khởi Luận
Tư tưởng A lại da duyên khởi phát
nguyên từ hệ thống Thượng Tọa Bộ, do hai ngài Vô Trước, Thế Thân đề xướng, và
căn cứ truyền giáo khởi thủy ở Bắc Ấn. Tư tưởng này được truyền bá hầu khắp Ấn
Độ, đứng ngang hàng với lập thuyết Thật tướng luận của hai ngài Mă Minh, Long
Thọ, gây thành hai hệ thống Phật giáo lớn lao và có thế lực nhất đương thời.
Thừa kế Duyên khởi luận, sau ngài
Thế Thân, có các luận sư: Thân Thắng (Bandhusri), Hỏa Biện (Gitrabhàna), Đức
Huệ (Gunamati), An Huệ (Sthiramati), Nan Đà (Nanda), Tịnh Nguyệt (Sudacandra),
Hộ Pháp (Dharmapàla), Thắng Hữu (Visesamitra), Thắng tử (Jinaputra), Trí Nguyệt
(Jnànacandra). Các luận sư trên đều là những nhân vật từ đầu đến cuối thế kỷ
thứ VI, và cũng là mười đại luận sư của Duy thức tông. Trong đây, ngài Hộ Pháp
là vị thừa kế chính thống và hoàn thành môn học của ngài Thế Thân. Ngoài ra c̣n
có ngài Trần Na (Mahàdignàga Đại Vức Long) hoàn thành môn Nhân minh luận để phụ
lực Duy thức học. Trong hàng đệ tử ngài Hộ Pháp có luận sư Giới Hiền
(Silabhadra) cũng là một bậc thái đẩu của các học giả đương thời về môn Pháp
tướng. Về sự nhận thức, tuy cũng đồng tuyên dương Pháp tướng học, nhưng tư
tưởng của các luận sư trên có đôi chút khác nhau. Như các ngài: Thân Thắng, Nan
Đà, Đức Huệ, Tịnh Nguyệt, chỉ thành lập có hai phần Duy thức là Tướng phần và
Kiến phần. Ngài An Huệ thành lập thêm Tự chứng phần và bảo đó là tác dụng nhận
thức có thực thể, c̣n Tướng, Kiến phần không có thực thể. Riêng hai ngài Hỏa
Biện, Trần Na th́ chủ trương cả ba đều có thực thể. Về sau, ngài Hộ Pháp lại
lập thêm Chứng tự chứng phần để hoàn thành các thuyết trên.
Đến tiền bán thế kỷ thứ VII, khi
ngài Huyền Trang ở Trung Hoa sang Ấn Độ cầu pháp, Giới Hiền luận sư đă hơn 100
tuổi già. Tại học viện Na Lan đà, luận sư đem pháp môn Duy thức truyền cho ngài
Huyền Trang. Về sau Trang sư tập hợp giáo nghĩa của mười bậc đại luận sư trong
tông Pháp tướng mà viết ra bộ Thành Duy Thức Luận. Về nội dung, ngài lấy giáo
nghĩa của Hộ Pháp Luận sư làm phần chính, c̣n học thuyết của chín vị kia chỉ
đứng ở phần phụ. Theo kư sự của ngài Huyền Trang, khung cảnh chùa Na Lan Đà gồm
có tám viện, ba trăm pḥng. Tăng chúng tập hợp tại đó đến năm ngàn vị, những
bậc luận sư thuộc hai hệ thống Không, Hữu phần nhiều đều về ở đây. Người muốn
lưu học lại chùa này, trước tiên phải qua một kỳ khảo sát về hạnh giải rồi mới
được cho nhập học. V́ thế, các học giả đă tốt nghiệp ở chùa này, đều là những
người tài đức trong Phật giáo.
Như trên đă nói, Thật tướng luận
và Duyên khởi luận cấu thành hai tư trào lớn về giáo pháp Đại thừa, diễn xuất
hết tinh hoa của đạo Phật. Đến cuối thế kỷ thứ VII lại có ngài Pháp Xứng
(Dharmaḱrti), một bậc học rộng tài cao, viết ra Tạp Lượng Luận, chấn hưng Nhân
minh học của ngài Trần Na đến chỗ đặc sắc, làm cho pháp môn Duy thức nảy thêm
những tia sáng tân kỳ. Song song với hai tư trào Không, Hữu, Mật giáo và Tịnh
độ tông cũng được phát triển một cách cực thạnh.
Vấn đề này không đơn giản, trong
phần khác sẽ nói đến. Và nội dung của bản thiên xin kết thúc ở nơi đây.
(Nguồn:
TV Hoa Sen)
|