anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 15 June 2006 lúc 12:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
Sự Phát Triển Của Tiểu Thừa
(Vô Nhất Đại Sư Hoà Thượng Thích
Thiền Tâm)
Tiết
Mục:
I. Nguyên nhân phân biệt danh từ
II. Sự phát triển của Hữu Bộ
III. Sự phát triển của Kinh Lượng Bộ
IV. Sự phát triển của Đồng Diệp Bộ
Kinh sách tham khảo: Dị Bộ Tông Luân Luận, Phật Học Đại
Cương, Lược Sử Truyền Bá Phật Giáo, Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược.
Đề yếu:
Bởi chúng sinh căn tánh có khác nhau, nên giáo pháp mới chia thành Đại, Tiểu
thừa sai biệt. Tuy nhiên, nh́n nơi hiện thực, mỗi bên đều có những ưu điểm
riêng. Trong ba bộ phái Tiểu thừa được phát triển nhất, giáo nghĩa đặc sắc của
Hữu Bộ là Câu Xá Luận; giáo nghĩa đặc sắc của Kinh Bộ là Thành Thật Luận. Đạo
lư của hai bộ này về sau gây thành Câu Xá Tông và Thành Thật Tông bên Trung
Hoa. C̣n Nam phương Thượng Tọa Bộ nhờ ở điểm giữ theo cổ truyền, đến nay thế
lực vẫn không suy giảm, lại có phần muốn lấn hơn Bắc phương Phật giáo.
Nam tông
và Bắc tông đă có những ưu điểm riêng, thiết tưởng người học Phật cũng nên có
quan niệm bao dung, tham khảo giáo nghĩa cùng sự hành tŕ của đôi bên, để chiết
trung lấy, bỏ những phần ưu, liệt.
Tiết
I: Nguyên Nhân Phân Biệt Danh Từ
Sau khi
Phật giáo chia thành hai mươi bộ, các phái đều phát đạt, nhưng tiến tŕnh rất
sai khác nhau. Hoặc có bộ phái dừng lại nơi giáo lư Tiểu thừa, có bộ phái biến
thành Đại thừa. Các phái Tiểu thừa phần nhiều thuộc hệ thống Thượng Tọa Bộ. Các
phái Đại thừa phần nhiều thuộc hệ thống Đại Chúng Bộ.
Trước
tiên, sau khi đức Thế Tôn diệt độ trong khoảng 100 năm, Phật giáo chưa bị chia
chẻ, nên thật ra chưa có danh xưng phân biệt. Lúc giáo đoàn Tăng lữ dần dần
chia thành hai mươi bộ, ta có thể gọi đó là thời kỳ Bộ phái Phật giáo. Bấy giờ
những danh từ Tiểu thừa, Đại thừa hay Nguyên thủy để chỉ định cho một tập đoàn
nào cũng chưa có. Nhưng sau khi Đại thừa Phật giáo được chính thức thành lập,
những học giả Đại thừa muốn phân biệt sự cao thấp về mặt tư tưởng giáo lư, nên
gọi những bộ phái thiên về quan niệm tự độ, chấp ngă không pháp hữu là Tiểu
thừa. Trái lại, Tiểu thừa Phật giáo không chấp nhận danh từ Tiểu thừa, để tỏ ra
giáo lư của ḿnh đi đúng với căn bản hơn, sau này họ tự xưng là phái Nguyên
thủy. Gần đây, muốn gây ư niệm dung ḥa trong khi giao tiếp, bên Đại thừa
thường tự xưng là Bắc tông và gọi bên Tiểu thừa là Nam tông.
Khi Đại
thừa Phật giáo mới ra đời và dần dần được hưng long, phái Tiểu thừa bị kích
thích bởi ảnh hưởng đó, cũng trở nên tiến đạt. Thời ấy, bên phái Tiểu thừa,
giáo lư được phát triển hơn cả là học thuyết của Nhất Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ.
Tiết
II: Sự Phát Triển Của Hữu Bộ
Lập
nghĩa của Hữu Bộ, ban sơ lấy Phát Trí Luận của ngài Ca Chiên Diên Ni Tử làm căn
bản. Kế đó, các luận sư trong bộ phái này căn cứ theo bản luận mà diễn thích
thành sáu bộ khác, gọi là Lục Túc Luận. Ít lâu sau, những học giả thuộc bản bộ
lại y cứ theo Phát Trí Luận và Lục Túc Luận mà giải thích một cách tỉ mỉ, biên
soạn thành bộ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa, có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết
cho rằng niên đại chế tác luận này vào lúc Phật diệt độ hơn 400 năm, khi vua Ca
Nị Sắc Ca mới lên ngôi. C̣n trong Thế Thân Truyện lại bảo sau Phật diệt độ 500
năm. Ngài Đạo Đinh, vị pháp sư viết lời tựa Tỳ Bà Sa Luận, th́ nói là hơn 600
năm sau Phật diệt độ. Thuyết sau này gần với sự thật hơn cả.
Đương
thời, tông nghĩa của Hữu Bộ lấy xứ Ca Thấp Di La làm trung tâm, và được thịnh
hành ở địa phương tây bắc Ấn Độ. Khi bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận đă được biên soạn,
học thuyết của Hữu Bộ dường như trở nên cố định, ngưng đến sau, do phản ứng từ
sự công kích của những luận sư Đại thừa Phật giáo như Long Thọ, Đề Bà, các phái
Tiểu thừa cũng dần thức tỉnh. Riêng về Hữu Bộ, họ hết sức chỉnh đốn lại nội
dung của tông nghĩa ḿnh. Như ngài Thi Đà Bàn Ni (Stapàni) soạn thuật bộ Đề Bà
Sa Luận; ngài Pháp Thắng (Dharmasri) soạn thuật bộ A Tỳ Đàm Luận. Sau đó, ngài
Ưu Ba Phiên Đà (Upasantà) sáng tác bộ A Tỳ Đàm Tâm Luận Kinh; ngài Đạt Ma Đà La
(Dharmatràta) sáng tác bộ Tạp A Tỳ Đàm Tâm Luận. Tất cả những bộ luận trên đều
cùng chung mục đích phát huy chân giáo nghĩa của Hữu Bộ. Niên đại xuất thế của
các vị luận sư kể trên, thuộc vào khoảng đầu thế kỷ thứ II đến cuối thế kỷ thứ
IV Tây lịch. Đến đầu thế kỷ thứ V, có ngài Tắc Kiền Địa La (Skandila), trứ
thuật bộ Nhập A Tỳ Đạt Ma Luận. Giáo nghĩa của Hữu Bộ nhờ đó thêm phần đặc sắc.
Từ trước
Hữu Bộ đă có bốn vị học giả trứ danh, mà cổ lai thường gọi là Hữu tông tứ đại
luận sư. Bốn ngài đó là: Pháp Cứu (Dharmatràta), Diệu Âm (Ghosa), Thế Hữu
(Vasumitra), và Giác Thiên (buđhadeva). Đến cuối thế kỷ thứ IV, có hai đại học
giả Phật giáo là Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) ra đời. Hai ngài
sinh quán ở thành Phú Lâu Sa Bổ La (Purusapura - Bá Lộ Sa), thuộc nước Kiền Đà
La. Trước tiên hai ngài tin theo Bà la môn giáo, sau thấy đạo này chưa được cứu
cánh, nên đồng xuất gia học tập giáo lư Tiểu thừa trong Hữu Bộ. Nhưng v́ không
măn nguyện với học thuyết Tiểu thừa, về sau hai vị lại chuyển sang nghiên cứu
kinh điển của Đại thừa Phật giáo.
Riêng về
ngài Thế Thân, khi c̣n ở Hữu Bộ, nhân nghiên cứu học thuyết của Kinh Bộ thấy có
nhiều ư tứ cao siêu, muốn đem học thuyết này chiết trung với Hữu Bộ để bổ
khuyết cho giáo nghĩa của tông ḿnh. Nhưng v́ tông lư uyên nguyên khó bề tường
tận, ngài sang xứ Ca Thấp Di La tham phỏng với một vị đại đức của Hữu Bộ là A
la hán Ngộ Nhập (biệt danh Chúng Hiền, Tăng Già Bạt Đà La - Sam - ghabhadra).
Sau khi nắm hết được các yếu nghĩa, tôn giả Thế Thân trở về bản quốc giảng Đại
Tỳ Bà Sa Luận, nạn phá những chỗ ư tứ chưa được ổn, cải thiện lại học thuyết
của Hữu Bộ. Và, thuận theo ḷng ngưỡng mộ cùng sự yêu thỉnh của các học giả ở
Ca Thấp Di La, ngài biên tập lại những bài giảng của ḿnh thành bộ A Tỳ Đạt Ma
Câu Xá Luận (Abhidharma Kosasàstra). Chúng Hiền luận sư là một học giả chính
thống của Hữu Bộ nghe ngài Thế Thân sau khi phỏng đạo với ḿnh, trở về làm luận
Câu Xá, bác phá nhiều điểm cổ truyền của bản tông, có ư không bằng ḷng. Do đó
luận sư viết ra hai bộ: A Tỳ Đạt Ma Bảo Luận cũng gọi là Thuận Chánh Lư Luận và
A Tỳ Đạt Ma Hiển Tông Luận; bộ trước dụng ư phá tà, bộ sau dụng ư hiển chánh.
Nhưng hai bộ luận này v́ chấp theo cựu thuyết, nên nội dung c̣n lủng củng, có
nhiều chỗ phải viết trái với cổ nghĩa, ư tứ mới được thông. V́ vậy, bộ Câu Xá
Luận được chiếm phần ưu thế hơn; các học giả trong Hữu Bộ khi tham tầm giáo lư
của bản tông, chỉ nghiên cứu Câu Xá Luận là đầy đủ. C̣n hai bộ luận của ngài
Chúng Hiền soạn, với chủ trương kháng đối Câu Xá Luận, ngược lại, bị họ coi là
phản bội với giáo nghĩa của Hữu Bộ. Do đó, người đời sau gọi Câu Xá Luận là Tân
Tỳ Bà Sa Luận, tôn giả Thế Thân là tân giáo chủ của phái Tát Bà Đa (Hữu Bộ).
Và, học
thuyết của Hữu Bộ phát triển đến đây là cùng cực.
Tiết
III: Sự Phát Triển Của Kinh Lượng Bộ
Theo Bắc
truyền, Kinh Lượng Bộ tức là Thuyết Chuyển Bộ. Nhưng theo Nam truyền th́ hai bộ
ấy khác nhau, Kinh Lượng Bộ phát xuất là Thuyết Chuyển Bộ. Nếu căn cứ thuyết
sau này, giáo nghĩa của hai phái tất phải có chỗ sai biệt. Nhưng thuyết của Nam
truyền không t́m thấy kinh sách để tham khảo, nên nay chỉ theo Bắc truyền mà
lược thuật tông nghĩa của Kinh Lượng Bộ.
Sở dĩ
được gọi Kinh Lượng, v́ bộ này lấy kinh làm Chánh Lượng, mà không y theo Luật,
Luận. Trong thời kỳ Kiết tập thứ nhất, vị tôn giả trùng tuyên tạng Kinh là ngài
A Nan, nên phái này suy tôn ngài làm sơ tổ của bản bộ. Kinh Lượng lại có tên là
Thuyết Chuyển với hàm ư: học thuyết của bộ này lưu chuyển về sau không cùng.
Theo Kinh Lượng Bộ, giáo nghĩa của tạng Kinh có công năng gây thành hạt giống
trong tâm thức, hạt giống đó họ gọi là Nhất vị uẩn. Nhất vị uẩn lại có công
năng sinh ra tự quả là danh và sắc. Danh sắc chủng tử cùng tâm chủng tử hai bên
duy tŕ nhau, nên dù cho ở địa vị hữu tâm hay vô tâm, Nhất vị uẩn vẫn hằng
tương tục không tiêu diệt này gọi là Tế ngũ uẩn, tương đối với Thô ngũ uẩn sinh
diệt biến hóa. Tế ngũ uẩn tức là Nhất vị uẩn, Thô ngũ uẩn gọi là Căn biên uẩn.
Trước
tiên, Kinh Lượng bộ chấp ngoài tâm có pháp, sau dần dần có khuynh hướng về Duy
tâm luận. Phái này có hai học giả trứ danh: vị trước là Cưu Ma Ra La Đa (Đồng
Thọ), chủ trương thuyết Sắc tâm hỗ tŕ. Vị sau là Thất Lỵ La Đa (Thắng Thọ),
chủ trương thuyết Tế ư thức. Tế ư thức là bốn uẩn vi tế làm căn bản cho Thô ngũ
uẩn. Theo Kinh Lượng Bộ, các loài dị sanh tự nhiên có chúng tử vô lậu. Do đó,
dù Phật ra đời hay không ra đời, được nghe pháp hay không nghe pháp, những loài
này đều có năng lực tự giải thoát. Bản phái lại lập ra thuyết Thắng Nghĩa Bổ
Đặc Già La, cho đây là cái thật ngă vi tế. Bổ Đặc Già La này không có biệt thể
khác năm uẩn như phái Độc Tử và Chánh Lượng, mà rất vi tế không thể nghĩ bàn,
nên mới gọi là Thắng nghĩa. Tế ư thức là ngă thể trong nhân vị khi chưa thành
Phật. Thắng Nghĩa Bổ Đặc Già La là bản thể vô thủy vô chung, thông cả phàm phu
và Phật vị.
Kinh
Lượng Bộ lại lập ra ba định tụ: chánh định tụ, tà định tụ và bất định tụ. Chánh
định tụ là pháp vào niết bàn. Tà định tụ là pháp không thể vào niết bàn. Bất
định tụ là pháp không nhất định được niết bàn. Phái này cũng lập ra thuyết Vô
vi vô tác dụng như Hữu Bộ. Vô vi vô tác dụng đại khái giống như thuyết Chân như
bất động của Duy Thức. V́ thế, có kẻ cho Kinh Lượng Bộ là tiền khu của Duy Thức
tông.
Đến giữa
thế kỷ thứ IV Tây lịch, có ngài Ha Lê Bạt Ma (harivarman - Sư Tử Khải) ra đời,
chỉnh đốn lại giáo nghĩa của Kinh Lượng Bộ. Ha Lê Bạt Ma gốc người Trung Ấn,
thuộc ḍng Bà la môn, đă từng tu học theo phái Số luận, sau mới quy y Phật
giáo. Khi nương về chánh pháp, đầu tiên ngài theo đại đức Cưu Ma La Đa, một học
giả của Hữu Bộ, tham cứu về Phát Trí Luận. Sau ngài thấy học thuyết của Hữu Bộ
c̣n nông cạn mà lối biện luận dần dần đi vào chỗ phiền toái, nên chuyển sang
nghiên tầm giáo nghĩa của Đại Chúng Bộ. Khi nương về Kinh Lượng bộ, ngài có mục
đích thống nhất giáo nghĩa của các phái, nên mới chiết trung các học thuyết
Đại, Tiểu thừa, mà soạn ra bộ Thành Thật Luận (Satyasiđhi Sàstra).
Nội dung
của Thành Thật Luận là căn cứ vào thuyết Tứ thánh đế, để chỉnh đốn lại đạo lư
của Phật giáo. Trong đây chia thành năm tụ, gồm 202 phẩm. Năm tụ là: Phát tụ,
Khổ đế tụ, Tập đế tụ, Diệt đế tụ và Đạo đế tụ. Phát tụ giải thích ư nghĩa Tam
bảo và mục đích tạo luận. Khổ đế tụ nói về sự khổ nung nấu của ngũ ấm. Tập đế
tụ bàn vấn đề nghiệp và phiền năo. Diệt đế tụ giải thích vấn đề Niết Bàn. C̣n
Đạo đế tụ thuyết minh về Định và Trí. Điểm đặc sắc trong luận, là nơi phẩm Diệt
Pháp Tâm có đề cập đến thuyết Nhân pháp câu không, giống như giáo nghĩa của Đại
thừa, c̣n các phẩm khác đều bàn về Tiểu thừa pháp. Ngoài ra, ngài Ha Lê Bạt Ma
c̣n kế thừa thuyết "Hiện tại thật hữu, quá vị vô thể" của Kinh Lượng
Bộ.
Đại
khái, Kinh Lượng Bộ được phát triển rực rỡ nhất, nhờ khoảng thời gian bộ Thành
Thật Luận ra đời.
Tiết
IV: Sự Phát Triển Của Đồng Diệp Bộ
Đồng
Diệp Bộ cũng gọi là Nam phương Thượng Tọa Bộ. Sở dĩ có danh từ Nam phương
Thượng Tọa Bộ là để phân biệt với Thượng Tọa Bộ tại miền Bắc Ấn. Đồng Diệp quốc
hay Sư Tử quốc đều là biệt danh của người Trung Hoa gọi đảo Tích Lan; Nam
phương Thượng Tọa Bộ thịnh hành trước tiên ở đảo này, nên gọi là Đồng Diệp Bộ.
Về sau Phật giáo các nước: Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, từ h́nh thức
cho đến giáo nghĩa đều giống như Nam phương Thượng Tọa Bộ đă phát triển nơi xứ
này, c̣n Phật giáo ở các nước kia, v́ đồng một hệ thống có thể suy ra để hiểu,
vả lại phạm vi cũng quá rộng, nên xin ngừng lại cho phần lịch sử.
Về Phật
giáo Tích lan, nơi mục "Kinh Phật tiếng Ba ly" trong chương thứ bảy
của bản thiên đă có nói lược qua, nên nay chỉ đề cập những điểm cần yếu.
Đạo lư
của Phật giáo Tích Lan, lúc đầu thuộc về hệ thống Thượng tọa Bộ. Giáo đoàn
trước tiên là Đại Tịnh Xá Tự Phái, gọi tắt là Đại Tự Phái (Mahàvihàra). Phái
này được thành lập từ đời vua Thiên Ái Đế Tu thứ bảy, thuộc Thượng Tọa Bộ
(Theriyanikàya). Đến thời kỳ Vô Úy Vương tức vị, lại xuất sanh phái Vô Úy Sơn
Tự (Abhyagiri) thuộc về Pháp Hỉ Bộ (Dhammaruci nikàya). Sang triều vua Cù Đàm
Bà Gia (Gotabhaya) lại phát xuất thêm một phái mới nữa, gọi là Kỳ Đà Lâm Tự
(Tetavana). Như vậy, từ thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên đến đầu thế kỷ thứ II
sau tây lịch, Phật giáo Tích Lan có tất cả ba phái khác nhau.
Đến đầu
thế kỷ thứ XI, xứ Tích Lan bị dân tộc Tamil ở Nam Ấn Độ tràn tới đánh phá đô
thành, thiêu hủy chùa tháp, tàn sát chư Tăng, nên Phật giáo ở nơi đây bị suy vi
trong một thời gian. Sau đó vài mươi năm, có vua Tỳ Dà Gia Bà Hầu (Vijaya
bhàhu) nổi lên đánh đuổi quân thù, khôi phục lại bờ cơi, sai sứ sang Miến Điện
nghinh thỉnh tam tạng kinh điển đem về. Phật giáo ở bản xứ nhờ đó mới trở lại
hưng thịnh.
Cuối thế
kỷ thứ XII, vua Ba Ra Ca Ma Bà Hầu (Parakhama bhàhu), một vị anh quân của Tích
Lan, lên ngôi thống trị. Vua là người hết sức lưu tâm đến việc chấn hưng và
thống nhất Phật giáo. Từ trước ở bản xứ, ba phái Phật giáo vẫn đối lập nhau,
nhưng sau khi lên ngôi, vua dung ḥa và thống nhất ba phái thành một, lấy tông
nghĩa của Đại Tự Phái thuộc Thượng Tọa Bộ làm giáo học chính thống.
Từ thế
kỷ thứ XVI trở đi, nước Tích Lan tuy bị người Bồ Đào Nha và Ḥa Lan dùng đủ mọi
cách đem tư tưởng Thiên Chúa giáo truyền vào, nhưng dân chúng phần đông vẫn là
tín đồ của Phật giáo. Đến tháng hai năm 1948, xứ Tích Lan thoát khỏi ṿng cai
trị của người Anh và tuyên ngôn độc lập. Sang tháng 5 năm 1950, hội nghị Phật
giáo thế giới gồm đại biểu của 29 nước được chiêu tập tại nơi đây. Hội nghị này
đă quyết định từ nay về sau, Phật giáo của các nước thuộc hệ thống Tiểu thừa
đều gọi là Theravada (Thượng Tọa Bộ phật giáo). Và từ đó, giữa Tiểu thừa và Đại
thừa Phật giáo đă có sự thông cảm.
Tóm lại,
sự tiến triển của Nam phương Thượng Tọa Bộ ở Tích Lan nói riêng, cũng như các
nước: Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên nói chung, đều đồng những điểm đặc
sắc then chốt là:
Chỉ tôn
thờ Phật Thích Ca là đấng Bổn Sư duy nhất.
Đều
thông dụng thứ kinh điển chép bằng tiếng Ba Ly.
Chỉ có
chư Tăng, không có Ni chúng.
Chư Tăng
đều vấn y vàng, ôm bát.
Phái
xuất gia cố gắng giữ giới, tham thiền, phái tại gia ưu thích sự cúng dường, bố
thí.
(Nguồn:
TV Hoa Sen)
|