Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 196 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: CHÚNG TÔI BIẾT TIN AI ? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 1 of 7: Đă gửi: 24 May 2006 lúc 3:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

Phần I:

 

Một đời sống tốt đẹp - Phật giáo, một sự thực tập

(Edel Maex - Nguyễn Thanh Hùng dịch)

 

 

Chúng tôi biết phải tin ai?

 

Trong một đoạn kinh Phật giáo xưa cũ [2] , dân làng Kalamas đă chất vấn Phật như thế này: “Các vị tu sĩ thường xuyên đi ngang qua làng chúng tôi. Từng người một, ai cũng nói chỉ có ḿnh mới tuyên giảng sự thực, c̣n những người khác đều láo toét. Vậy chúng tôi biết phải tin ai đây?” Câu hỏi này nghe thật hiện đại. Dường như 2500 năm qua, không có mấy điều thay đổi.

 

Phật trả lời: “Ta hiểu sự hoang mang của quư vị. V́ thế cho nên, quư vị hăy đừng dựa vào truyền thống, vào kinh điển, vào quyền lực cũng như vào triết học.”

 

Ngay tức khắc, một số điều mà xưa nay chúng ta vẫn cho là gắn liền với tôn giáo được câu trả lời này gạt sang một bên: truyền thống, giáo quyền, triết lư, kinh điển… Phật không cho rằng những điều này là sai lạc, nhưng chúng không phải là những cơ sở vững chăi để có thể đánh giá đúng đắn một giáo lư. Vậy th́ phải dựa trên cơ sở nào đây?

 

Phật dạy tiếp: “Khi nào quư vị thấy sự thực tập (beoefenen) một giáo lư mang lại khổ đau (lijden) th́ hăy buông bỏ giáo lư đó. Trái lại, nếu quư vị thấy sự thực tập một giáo lư mang tới hạnh phúc th́ hăy hành tŕ giáo lư đó.”

 

Điểm nổi bật đầu tiên trong câu trả lời này là Phật nói tới khả năng tự thân của mỗi người trong việc t́m kiếm và đánh giá [một giáo lư]. V́ thế cho nên đoạn kinh này có khi được xem như là 1- bản tuyên ngôn Phật giáo trong sự tự ḿnh t́m cầu chân lư. Điểm thứ hai là giáo lư của Ngài không phải là một thứ lư thuyết, 2- một nhân sinh quan hay một tín ngưỡng mà là một sự thực tập (praktijk) cần được hành tŕ. Điểm thứ ba là 3- kết quả của sự hành tŕ này (khổ đau hay an lạc) mới đánh giá được giáo lư đó.

 

Phật giáo v́ thế không phải là một niềm tin, một triết lư, một danh hiệu. Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Điều này đă được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế]. Chân đế đầu tiên là sự thực về [sự có mặt của] khổ đau. Đây là một xác nhận thuần túy, giản đơn, không phải là một tín điều. Không ở đâu trong kinh điển nói rằng tất cả là khổ đau. Cuộc đời c̣n có rất nhiều điều lư thú, nhưng đời sống của chúng ta và của những người khác chứa đựng khổ đau. Mặc cho chúng ta chấp nhận hay phủ nhận, Phật giáo không làm một cố gắng vô ích nào để che đậy hoặc xoay chuyển sự thực này. Không đưa ra một ảo tưởng sai lầm, cũng không bịa đặt thêm ư nghĩa. Chỉ như thế này: chúng ta được sinh ra, lớn lên, già đi, mắc những tật bệnh và tử vong. Chúng ta thất vọng bởi v́ chúng ta nhận được những điều chúng ta không muốn và không nhận được những điều chúng ta ước ao.

 

 

Tham ái (begeerte), sân hận (afkeer) và si mê (verwarring)

 

Câu trả lời của Phật cho câu hỏi của dân làng Kalamas đương nhiên dẫn đến những câu hỏi mới. Điều ǵ gây ra khổ đau? Sự thực tập nào mang lại an lạc? Phật dạy tiếp: “Nếu ai đó hành xử v́ tham ái, sân hận và si mê, th́ kết quả sẽ là khổ đau hay an lạc?” Người dân làng Kalamas đều thấy rơ ràng tham ái, sân hận và si mê gây ra khổ đau.

 

Tham ái, sân hận và si mê là một bộ ba cổ điển (klasieke triade) trong Phật giáo. Một thí dụ cụ thể có thể sẽ làm rơ hơn. Hăy tưởng tượng có kẻ t́m cách đến với bạn v́ tham ái, sân hận và si mê. Có nghĩa người đó sẽ đặt một số câu hỏi, đại loại: người này có ích ǵ cho ta, có hợp với ta không, có giúp ǵ được cho ta, có cho ta được tiền tài, danh vọng hay không, ta có thể ngủ với người đó được không, mặt người đó không hợp nhăn ta, người đó muốn ǵ nơi ta? Bạn thấy rơ là một quan hệ như thế thật là không thú vị chút nào cả. Tùy theo mức độ tham ái, sân hận và si mê biểu lộ qua hành động cụ thể, bạn có thể bị người đó lợi dụng. Nhưng cho chính người đó, quan hệ này cũng là một nguồn khổ đau. Anh ta/chị ta sống thường trực trong một khung cảnh chiến tranh, mà mỗi lần gặp gỡ với bạn trở thành một cuộc giao chiến, trong đó có khi người đó thắng trận, nhưng cũng có thể thất bại ê chề và bị lợi dụng ngược lại. Ngoại trừ những giây phút ngắn ngủi, thỉnh thoảng được thỏa măn nhu cầu, phần c̣n lại là sự bất ổn và ê chề.

 

Chân đế thứ hai là sự thực về nguyên nhân của khổ đau. Nguyên nhân này c̣n được gọi là sự khao khát (dorst). Sự khao khát ở đây chính là một danh từ khác để chỉ bộ ba tham ái, sân hận và si mê mới được nói đến ở phần trên. Một từ ngữ hiện đại hơn có thể được dùng thay cho sự khao khát: những đ̣i hỏi của chúng ta. Ở đây không nói tới những nhu cầu khách quan mà cách thức chúng ta xử sự với nhu cầu. Cần nhận thức rằng hạnh phúc không phải là sự thỏa măn nhu cầu. Trái lại, hành động gấp rút để thỏa măn nhu cầu chính là nguyên nhân mang lại khổ đau cho chúng ta và những người khác. Kể cả ư tưởng có thể có hạnh phúc, được trả giá bằng sự khổ đau của người khác cũng là một ảo tưởng cần được gạt bỏ.

 

 

Giải thoát

 

Cái ǵ là nguồn an lạc? Phật dạy tiếp: “Người nào mà cách hành xử không dựa trên tham ái, sân hận và si mê, người đó sẽ biểu lộ một cách hồn nhiên ḷng từ (liefde), ḷng bi (mededogen), sự hoan hỉ (blijheid) và sự xả bỏ (onbevangenheid)”. Bốn đặc tính này biểu hiện cho giải thoát được dịch từ một công thức rất quen thuộc bằng tiếng Pali [4] cần được chú thích cặn kẽ hơn:

 

Phạn ngữ metta, vẫn được dịch là “từ”, có ư nghĩa đích thực là một ước muốn, thứ ước muốn [cho người khác] được điều tốt đẹp. Một ví dụ vẫn hay được dùng để diễn tả ḷng từ là h́nh ảnh một người mẹ ôm một đứa con trong ḷng. Người mẹ muốn đứa con được những điều tốt đẹp.

 

Bi – karuna – có nghĩa là cảm thông với sự khổ đau của người khác. (Trong tiếng Ḥa Lan, karuna được dịch bằng từ mededogen, một từ hơi cổ so với từ medelijden; từ này về mặt lập ngữ th́ chính xác hơn nhưng về mặt ngữ nghĩa th́ gần với thương hại. Điều lạ lùng là tiếng Ḥa Lan không có chữ tương đương để dịch từ compassion trong Anh ngữ mà chỉ biết có từ pity [trong Anh ngữ]).

 

Hỉ – mudita - chỉ thái độ cùng vui. Đó là khả năng biết trân quư điều đang xảy ra.

 

Xả – upekkha – có nghĩa là sự chú tâm không phân biệt, một cách nh́n không né tránh cái tệ hại cũng không tuyệt vọng đ̣i t́m cái không tệ hại.

 

Xin đơn cử tiếp một thí dụ để làm sáng tỏ:

 

Những người mắc phải một thứ bệnh hiểm nghèo như ung thư thường khám phá ra ḿnh bỗng dưng mất đi một số người bạn. Những người [bạn] đâm ra sợ hăi, không biết phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới. Đối với một số người, những người mắc bệnh bỗng dưng không c̣n đáng chú ư nữa. Ngược lại, người bệnh thường nhận được những t́nh bạn mới, nảy sinh từ chỗ bất ngờ. Đó là những người mà bệnh nhân có thể nương tựa, nhận được sự giúp đỡ vô vụ lợi. Hăy tưởng tượng người bệnh đó đến với bạn. Tùy theo mức độ thoát khỏi sự ràng buộc của tham ái, sân hận và si mê mà bạn có thể: hy vọng rằng người bệnh được điều tốt đẹp (metta), cảm thông những giây phút lo sợ (karuna), vui với sự có mặt của người bệnh (mudita) và biết lắng nghe người bệnh nói (upekkha), dù là niềm hy vọng hay điều tuyệt vọng, trong lúc đau đớn cũng như trong khi hồi phục. Trong một số truyền thống Phật giáo, điều này được gọi là Phật tính. Điều này thực sự cũng chính là nhân tính cơ bản của chúng ta [5] .

 

Chân đế thứ ba là sự thực về sự chấm dứt khổ đau. Tâm lư học truyền thống Tây phương cũng biết đến sự thèm khát, và bộ tam độc là tham ái, sân hận và si mê. Ngành phân tâm học có nói tới dục vọng (lust), thất vọng (onlust) và vô thức (onbewuste). Ngành ứng xử trị liệu đề cập đến sự ân thưởng, trừng phạt và những nhận thức phi lư. Điểm khác biệt căn bản là tâm lư học, qua đó, t́m đủ cách để giải thích các cách ứng xử của chúng ta. Trong khi đó, Phật giáo ngược lại chỉ đưa ra khả năng để giải thoát, điều đó nói về một cách ứng xử không bị chi phối [bởi tham ái, sân hận và si mê].

 

 

Con đường

 

Con đường nào đưa đến giải thoát? Chân đế thứ tư là sự thực về con đường đưa đến giải thoát. Đó là bát chánh đạo. Tám yếu tố của con đường không tạo thành một chuỗi tiến tŕnh mà là một tổng thể hữu cơ gắn bó. Theo truyền thống (và nhờ đó rơ ràng hơn) tám yếu tố này vẫn thường được quy lại thành ba nhóm, đó là tŕ giới (deugd), thiền định (meditatie) và tuệ giác (inzicht).

 

Một lối thông đến con đường là tuệ giác. Trong bước đầu, đó là niềm tin vào sự hợp lư của con đường thực tập và quyết tâm lên đường tu học. Niềm tin này cũng giống như niềm tin của một bệnh nhân đối với vị bác sĩ trị liệu. Bệnh nhân không thể biết trước hiệu quả của dược liệu, nhưng bằng một tinh thần phê phán lành mạnh, bệnh nhân có đủ niềm tin để sử dụng những dược liệu này. Tuệ giác quan trọng nhất ở đây chính là ư thức về trách nhiệm tự thân.

 

Tới đây là sự tiếp cận với tŕ giới. Đạo đức trong Phật giáo không có tính chất luân lư như chúng ta vẫn thấy trong các tôn giáo Tây phương. Trong bước đầu, đạo đức [Phật giáo] có tính miêu tả. Một số hành vi như giết hại, trộm cắp, gian dối, tà dâm tạo ra khổ đau vừa cho thủ phạm lẫn nạn nhân. Phật giáo không lên án những hành vi tội phạm nhưng kêu gọi ư thức về trách nhiệm tự thân và chấp nhận những hậu quả của những hành vi đă làm. Điều này được Phật giáo diễn đạt qua ư niệm nghiệp (karma). Những giới luật đạo đức nêu lên những biên giới mà người thực tập tránh vượt qua nếu không muốn gây ra bất hạnh cho chính ḿnh cũng như cho người khác.

 

Bước tới nữa là thiền định. Có thể không ở đâu mà sự thực tập thiền định lại được nhấn mạnh và hành tŕ nhiều như trong truyền thống Phật giáo Tây phương c̣n mới mẻ. Sở dĩ như thế là v́ Phật giáo đă được phổ biến đúng vào thời kỳ của cuộc mở rộng ư thức, của các chất kích tạo ảo giác và sự bùng nổ những nhu yếu t́m hiểu về tâm lư học. Nhưng điều này cũng dễ đưa đến một h́nh ảnh sai lạc. Các phương pháp thiền định đúng là có thể được dùng để làm thuyên giảm căng thẳng hoặc là phương tiện mở rộng tri kiến nội tại. [Nhưng] thiền định chỉ thực sự trở thành một pháp môn Phật giáo khi được hành tŕ trong tổng thể hữu cơ của bát chánh đạo, nói khác đi, thiền định trong mối tương quan chặt chẽ với tŕ giới và tuệ giác.

 

Đối với Phật giáo, thiền định chính là nơi chốn của sự tự khảo sát. Thiền định là pḥng thí nghiệm, là kính hiển vi, nơi mà bốn sự thực mầu nhiệm có thể được khảo sát thật tỉ mỉ. Như trong một chương tŕnh truyền h́nh đang thực sự diễn ra, bạn có thể thấy trong khi thiền định sự khổ đau xuất hiện như thế nào và sự giải thoát có thể sinh ra như thế nào. Cứ thử để ư đến hơi thở trong ṿng vài phút, bạn sẽ thấy tâm thức của ḿnh liên tục bị những ư tưởng nhiễm ḷng tham ái, sân hận và si mê thao túng. Tùy theo mức độ học hỏi và hành tŕ, vào khả năng biết chú tâm, biết tỉnh giác đích thực trong sự hỗn loạn [của tham, sân, si] mà bạn khám phá ra khả năng hướng đến giải thoát.

 

Qua sự khảo sát này, tuệ giác sẽ phát sinh. Điều mà lúc ban đầu chỉ là niềm tin có phê phán vào kinh nghiệm và tuệ giác của người khác nay đă trở thành kinh nghiệm và tuệ giác của chính ḿnh. Tuệ giác này sẽ giúp ta càng lúc càng thấu rơ hơn tính cách phi lư của những hành vi không đạo đức. Điều mà lúc ban đầu chỉ là sự tuân thủ giới luật càng lúc càng trở thành sự hành xử hồn nhiên. Làm sao ta có thể tiếp tục tạo ra khổ đau cho chính ḿnh và người khác khi ta biết rơ đó là sai lầm?

 

Những kết quả mà bạn đạt được trên con đường tu tập sẽ tự tạo thêm động lực giúp ta đi xa hơn trên con đường thiền định, xa hơn trong sự khảo sát để hiểu thấu nguồn căn của khổ đau và an lạc. Tuệ giác mới này lại giúp ta tŕ giới vững chăi hơn, thiền định tinh tiến hơn… Một ṿng tṛn bất tận.

 

 

Kết

 

Triết gia Leo Apostel, một người thực tập thiền chuyên cần, từng đề nghị hăy xem mỗi đời người như một thử nghiệm về đạo đức. Cũng tương tự như trong truyền thống khoa học Tây phương, mỗi người có thể dựa trên kinh nghiệm đạt được qua những cuộc thử nghiệm của những người đi trước. Cũng giống như rất nhiều sinh viên vật lư đă thực hiện lại các thí nghiệm của Newton, với sách giáo khoa trong tay, để qua đó đạt được sự hiểu biết về những định lư cơ bản của vật lư học. Cũng vậy, Phật đề nghị với chúng ta một cuộc thử nghiệm. Nó bắt đầu bằng việc đảm nhận trách nhiệm cho cuộc sống của chính ḿnh. Cuộc thử nghiệm này đă được Kinh Pháp Cú (Dhammapada) tóm gọn bằng những vần thơ hùng mạnh:

 

Không làm mọi điều ác (het kwade laten)

Thành tựu các hạnh lành (doen wat heilzaam is)

Tâm ư giữ trong sạch (de geest zuiveren)

Chính lời chư Phật dạy (dat is de leer van de Buddha) [6]

 

Trong kinh điển Phật giáo, sự thực tập được ghi nhận là “tốt từ khi bắt đầu, tốt ở giữa chừng và tốt ở chung cuộc”. Con đường đă đơm hoa kết trái ngay từ khởi điểm. Phật giáo là một truyền thống của giới xuất gia và cư sĩ. Không nhất thiết cứ phải ngồi thiền nhiều giờ hàng ngày trên tọa cụ mới là tu, cho dù điều đó khả dĩ làm được. Chỉ cần lên đường, nuôi dưỡng cái nhân tính cơ bản trong đời sống hàng ngày, như thế đă mang lại cho đời sống nhiều ư nghĩa và giải thoát. (Nếu không có giải thoát th́ ngồi nhiều giờ trên tọa cụ cũng chẳng mang lại lợi ích ǵ). Các truyền thống Phật giáo luôn bác bỏ khuynh hướng thường t́nh là đánh giá điều này cao trọng hơn điều kia.

 

Là những người [sống ở] Tây phương, chúng ta vẫn được nuôi dạy với ư tưởng về sự bất khả hợp nhất của hai ư nghĩa của một “đời sống tốt đẹp”. Một đời sống tốt đẹp trong nghĩa một đời sống đạo đức và một đời sống tốt đẹp trong nghĩa tận hưởng đời sống. Kết quả hỷ lạc nhất và cũng là bất ngờ nhất của cuộc thử nghiệm Phật giáo là cả hai ư nghĩa trên của tốt đẹp, tựa như hai mặt của một chiếc mề-đai, hoàn toàn gắn bó với nhau.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
hnib1976
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 January 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 33
Msg 2 of 7: Đă gửi: 25 May 2006 lúc 2:19am | Đă lưu IP Trích dẫn hnib1976

Bạn OnlyOne, h́nh như chỗ này dịch ko chính xác :

Không làm mọi điều ác (het kwade laten)

Thành tựu các hạnh lành (doen wat heilzaam is)

Tâm ư giữ trong sạch (de geest zuiveren)

Chính lời chư Phật dạy (dat is de leer van de Buddha) [6]

Bạn có thấy vậy không. Theo hnib1976 th́ "Tự tịnh kỳ ư" khác chút xíu với Tâm ư giữ trong sạch

Sửa lại bởi hnib1976 : 25 May 2006 lúc 2:19am
Quay trở về đầu Xem hnib1976's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hnib1976
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 3 of 7: Đă gửi: 27 May 2006 lúc 10:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

Đạo Phật là đạo của TỪ BI và TRÍ TUỆ, nếu xa rời TRÍ TUỆ th́ sẽ trở thành những con người cuồng tín, si mê. Đến với đạo Phật là hết khổ được vui. Những chỉ v́ không dùng trí tuệ của ḿnh để quán chiếu soi xét nên trở nên cuồng tín và đau khổ lại thêm đau khổ. Tôi xin trích lại một phần bài viết của Nguyễn Hưu Liêm để mọi người tham khảo, đây là sự việc có thật, người thật, việc thật mà Nguyễn Hữu Liêm đă chứng kiến và viết lại:

 

'' ...Thanh Hải và Lương Sĩ Hằng cả hai là người Việt. Tôi đă có dịp tiếp xúc và làm việc với hai vị. Thanh Hải th́ xuất hiện một cách có bài bản, màu mè, trang phục đa dạng như thời trang, ngôn ngữ thanh lịch, con người bản lănh, kiến thức đa dạng và sâu rộng. Sĩ Hằng th́ hùng hồn, mạnh mẽ, charismatic, và khó hiểu. Ông sử dụng ngôn từ đầy tính chất huyền bí theo biểu tượng của Á Đông. Cả hai xứng đáng là những bậc thầy. Thanh Hải có một quần chúng đệ tử và khán giả khắp thế giới. Ảnh hưởng của Sĩ Hằng th́ chỉ có trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và Pháp. Cả hai đều bị nhiều tăng sĩ Phật giáo Việt chỉ trích và lên án, nhiều lúc nặng nề và tiêu cực quá đáng, cả về phương thức hành đạo lẫn học thuật giáo lư đạo Phật. C̣n các đồ đệ Việt của họ (Thanh Hải và Sĩ Hằng), nhiều người th́ quá khích và thần tượng hóa các vị này một cách cực đoan. Ví dụ, khi Thanh Hải tắm, một vài đệ tử lấy nước dơ từ đó mà uống. Trong một cuộc phỏng vấn truyền thanh trực tiếp, tôi có hỏi bà là có thực như thế, và nếu có th́ tại sao bà lại cho họ làm như vậy? Thanh Hải trả lời tôi rằng, “Tôi th́ đang tắm (chắc là ở một nơi tạm thời ngoài trời?), mà họ th́ cứ chạy tới múc lấy nước dơ đó mà uống, tôi can cũng không được. Tôi đă bảo họ đó chỉ là nước dơ mà thôi, mà họ không thèm nghe!”. Các đệ tử của Sĩ Hằng ngồi thiền th́ rung thân ḿnh lên như bị kinh phong; có người tuyên bố là đă xuất hồn lên tầng trời nầy, cơi thiên nọ. Họ coi Sĩ Hằng như là một vị Phật đại giác ngộ. Thật là một thảm kịch đáng cười .''

 

Nguyễn Hữu Liêm

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 4 of 7: Đă gửi: 27 May 2006 lúc 10:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

Bạn hnib1976 đă viết:

-------------------------------------------------

Bạn OnlyOne, h́nh như chỗ này dịch ko chính xác :

Không làm mọi điều ác (het kwade laten)

Thành tựu các hạnh lành (doen wat heilzaam is)

Tâm ư giữ trong sạch (de geest zuiveren)

Chính lời chư Phật dạy (dat is de leer van de Buddha) [6]

Bạn có thấy vậy không. Theo hnib1976 th́ "Tự tịnh kỳ ư" khác chút xíu với Tâm ư giữ trong sạch

---------------------------------------------

 

Cảm ơn bạn hnib1976, v́ đây là nguyên bản bài dịch của Nguyễn Thanh Hùng nên tôi tôn trọng người dịch và chuyển tải đến bạn đọc nguyên vẹn câu văn của người dịch.

 

Chúc bạn vui khỏe, an lạc !

 

OnlyOne_0

------------------------

'' không có trí tuệ và không có chứng đắc ''

 

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 5 of 7: Đă gửi: 27 May 2006 lúc 10:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

Phần 2:

 

Giải phóng khỏi ảo tưởng – Phật giáo, một hệ thống triết học

Edel Maex (Nguyễn Thanh Hùng dịch)

 

 

Trong bài viết trước, “Một đời sống tốt đẹp”, chúng ta đă có một cái nh́n tổng quát về Phật giáo. Trong những bài viết tới, chúng ta sẽ đi sâu hơn vào bộ ba: giới luật, thiền định và tuệ giác. Sự phân chia rạch ṛi này thực ra chỉ có tính giả tạo. Như chúng ta đă biết, cả ba ư niệm này không thể suy xét tách rời được. Giáo pháp (dharma) của Phật là một tổng thể hữu cơ. Mọi thành phần đều gắn liền với nhau và mỗi yếu tố chỉ có thể được hiểu trong điều kiện của tổng thể ấy. Chúng ta hăy bắt đầu bằng tuệ giác.

 

 

Thế giới quan Phật giáo (Boeddhistische wereldbeeld)

 

Có hay không có một thế giới quan Phật giáo? Hiện tại ở Tây phương, chúng ta đang ở trong một t́nh trạng rất hi hữu, đó là nhiều truyền thống Phật giáo khác biệt đang cùng có mặt ở nơi này. Nếu chúng ta đảo mắt nh́n một ṿng quanh các tông phái khác nhau, chúng ta sẽ thấy rơ ràng thế giới quan không phải là điểm chung, nối kết các truyền thống lại với nhau. Trong những tạng kinh xưa cũ nhất của Phật giáo nói về nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, chúng ta sẽ nhận ra lại thế giới quan Ấn Độ. Trong truyền thống Thiền, chúng ta sẽ t́m thấy thế giới quan của Trung Hoa, và trong Phật giáo Tây Tạng, chúng ta cũng sẽ t́m thấy thế giới quan của Tây Tạng.

 

Phật giáo, như thế, không chịu ảnh hưởng của một thế giới quan nhất định nào đó mà luôn tự t́m cách diễn đạt và biểu lộ một cách mới mẻ qua ngôn ngữ và thế giới quan của địa phương, nơi mà Phật giáo phát triển và nảy nở. Điều này giải thích v́ sao ư niệm luân hồi rất quan trọng trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong khi gần như không được nhắc đến trong truyền thống Thiền. (Chuyện kể một hoàng đế Trung Hoa hỏi một thiền sư điều ǵ sẽ xảy ra sau khi chết. Thiền sư trả lời là ông không biết. “Nhưng ngài là một thiền sư mà”, hoàng đế nói to. “Đúng thế, nhưng tôi đang c̣n sống đây”, thiền sư trả lời.) V́ thế cho nên muốn hiểu tường tận kinh điển, điều quan trọng tối thiểu là phải quen thuộc với thế giới quan tạo nên ngữ cảnh của kinh điển. Thông điệp đặc thù của Phật giáo nằm chính ở chỗ mà sự dị biệt so với thế giới quan truyền thống bắt đầu xuất hiện hoặc khi [Phật giáo] cho vào đó một số nét riêng biệt của ḿnh.

 

Jack Kornfield kể lại, trong thời gian tu tập nhiều năm ở những tu viện sâu trong rừng già Thái Lan, anh t́nh cờ khám phá rằng một tăng sĩ Thái đồng tu mà anh rất kính phục, không biết rằng quả địa cầu chúng ta đang ở có h́nh cầu. Khi anh giải thích cho người bạn tu về sự kiện địa lư này, vị tu sĩ chăm chú lắng nghe và cuối cùng b́nh thản nói: “Hay đấy, nhưng cũng chẳng có chi quan trọng cho lắm”. Tưởng tượng nếu Phật giáo đặt chân đến Âu châu vào thời trung cổ, th́ chắc hẳn Phật giáo sẽ biết cách tự diễn đạt bằng ngôn ngữ và thế giới quan của thời trung cổ, để rồi uyển chuyển bước từng bước theo ông Copernicus và những khám phá khoa học.

 

Thế giới quan của Phật giáo Tây phương đương đại là [tổng hợp] của khoa học, tâm lư học và triết học hiện nay. Có thể điều này là một trong những lư do giải thích được sức thu hút của Phật giáo trong thời đại của thế tục hóa (secularisatie) ngày nay.

 

 

Nghiệp (Karma)

 

Trọng tâm của tuệ giác Phật giáo được gói trọn trong bốn sự thực mầu nhiệm:

 

 

Xác nhận [sự có mặt] của khổ đau

 

Nguyên nhân của khổ đau nằm trong sự ràng buộc (behoeftigheid)

 

Có khả năng (mogelijkheid) để giải thoát

 

Con đường của tuệ giác, giới luật và thiền định sẽ đưa tới giải thoát.

Những sự thực này không phải là những giáo điều (dogma). Tin hay không tin chẳng quan trọng ǵ. Bốn sự thực này (trong kinh sách ghi là “Tứ diệu đế”) phải được xem như những giả định có thể chứng minh được.

 

Tứ diệu đế c̣n bao hàm 2 điều:

 

 

Có một quan hệ nhân quả (oorzakelijke verband) giữa cách hành xử của chúng ta và hậu quả do chúng mang lại,

 

Sự nghiêm túc (intentie) và khéo léo (vaardigheid) khi hành xử là điều thiết yếu.

 

Đây là quan điểm của Phật giáo về nghiệp (karma). Nghiệp có thực nghĩa là “tác động” (werking). Danh từ này vẫn thường được dịch là lư nhân quả (causaliteit). Nhưng ở đây nghiệp không có dính dáng ǵ đến luật nhân quả của vật lư học mà là hệ quả đạo đức trong cách hành xử của chúng ta. Ư niệm về trách nhiệm (verantwoordelijkheid) mà chúng ta thường nhắc đến khá sát với ư niệm này.

 

Câu chuyện về Angulimala trong kinh điển Pali đă minh họa một cách hùng hồn cho ư niệm về luân hồi của Phật giáo. Angulimala là một kẻ sát nhân khét tiếng. Tên của ông được lấy từ sự kiện ông đeo trên cổ một xâu chuỗi kết bằng những ngón trỏ tay phải của các nạn nhân mà ông đă giết hại (Anguli có nghĩa là ngón tay và mala là xâu chuỗi). Quân lính của triều đ́nh lùng bắt ông, c̣n dân chúng th́ hoảng sợ không dám ra khỏi nhà. Khi ông bắt gặp Phật đang đi khất thực trên đường, ông tiến lại gần, hươi gươm lên và bảo: “Ông thầy tu kia, dừng lại”. Phật nh́n ông và trả lời b́nh thản: “Ta đă dừng lại từ lâu rồi. Bao giờ th́ ông dừng lại?”. Thái độ và câu trả lời của Phật đă làm cho Angulimala kinh ngạc và đột nhiên hối hận. Phật liền làm lễ thế phát cho Angilimala trở thành một tu sĩ ngay tại chỗ. Từ đó về sau, Angulimala [pháp danh mới là Ahimsaka] đă tu tập rất tinh tấn, trở thành một trong những đại đệ tử của Phật và đạt được giác ngộ sau đó.

 

Câu chuyện này như một gáo nước lạnh tạt vào thế giới quan truyền thống của Ấn Độ. Một kẻ sát nhân hàng loạt như Angulimala b́nh thường sẽ phải trải qua không biết bao nhiêu kiếp luân hồi trong địa ngục mới mong trả cho xong nợ nghiệp chướng và mới mong có được một cơ hội mới để đầu thai. Sự kiện ông đă đạt được đạo giải thoát ngay trong kiếp sống hiện tại là một điều hoàn toàn không thể hiểu được.

 

Chúng ta hăy thử quay về với ta, bây giờ và ở đây. Hăy quán chiếu đời sống của bạn lúc này. V́ đâu mà cuộc đời bạn [trở nên] như thế. Đó là một chuỗi kết hợp phức tạp của những quan hệ nhân quả. Một số yếu tố là kết quả từ những quyết định và hành xử của chính bạn. Bạn phải chịu trách nhiệm về những điều này. Nhưng c̣n một phần lớn những quan hệ nhân quả khác, theo như bạn thấy, không phải do bạn tạo tác ra. Dù [t́nh trạng] hiện tại được diễn biến theo những chọn lựa cá nhân hay không, nó vẫn là [t́nh trạng] duy nhất mà bạn hiện đang có. Trong giây phút tới, t́nh trạng sẽ chuyển biến ra sao tùy thuộc một phần do những quyết định bạn làm vào lúc này. Trách nhiệm duy nhất thực sự của chúng ta nằm ngay trong lúc này, tại đây; v́ bây giờ và ở đây là [cơ hội] duy nhất mà chúng ta có để hành xử.

 

Trong tứ diệu đế, vấn đề hạnh phúc (geluk) hay không hạnh phúc (ongeluk) không dính dáng đến câu hỏi bạn có được hài ḷng hay không trong lúc này, mà là bạn đă ứng xử như thế nào trong giờ phút hiện tại. Một ví dụ nổi bật là câu chuyện của Fleet Maul khi anh bị ṭa tuyên một án rất nặng so với tội [buôn bán] ma túy. Ở trong tù, anh đă tổ chức chăm sóc xoa dịu cho những bạn tù đang hấp hối. Nhiều người tuy bị xem là phạm tội nhưng vẫn cảm thấy ḿnh vô tội. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều yếu tố luôn luôn nằm ngoài trách nhiệm của chính chúng ta, chúng góp phần khiến ta đă hành xử như thế. Chẳng hạn như yếu tố giáo dục. Anh Fleet Maul chắc sẽ đau khổ hơn rất nhiều nếu trong suốt thời gian ngồi tù, anh đă liên tục cay đắng và bực tức về bản án nặng nề của ḿnh, về sự tàn ác và bất công mà đời sống dành cho anh. Ngoài thí dụ trên đây – một trường hợp đặc biệt khắc nghiệt – đương nhiên c̣n vô số những thí dụ khác trong đời thường của những người đă nhận lấy trách nhiệm ngay bây giờ và ở đây cho t́nh trạng mà họ đang lâm vào.

 

 

Đặc tính của thực tại (werkelijkheid)

 

Theo Phật giáo, thực tại biểu hiện trước mắt chúng ta có ba đặc tính. Ba đặc tính này không ǵ khác hơn là ba nhận định đơn giản và hoàn toàn có thể kiểm chứng được. Danh từ Pali được dùng ở đây là dukkha, anicca và anatta, vẫn được dịch là khổ đau, vô thường và vô ngă. Lư do các thuật ngữ Pali c̣n được dùng ở đây là v́ những danh từ này vẫn chưa được dịch một cách chính xác.

 

Dukkha xưa nay vẫn thường được dịch là khổ đau. Những phiên dịch khác là stress, thất vọng… Dukkha không phải chỉ là khổ đau b́nh thường. Ở đây, đó là sự kiện thực tại không bao giờ làm chúng ta hoàn toàn thỏa măn. Không bao giờ những nhu cầu của chúng ta đạt được một sự thỏa măn căn bản (fundamentele bevrediging). Bạn vui được bao lâu sau khi nhận được một món quà? Bao nhiêu lần bạn đă từng nghĩ: “Nếu mà được cái đó ḿnh sẽ bằng ḷng…”. Và sau đó không bao lâu bạn lại ao ước những điều khác nữa? Bạn hăy nh́n chung quanh. Rồi nh́n lại chính ḿnh. Thật là một chuỗi bất tận.

 

Dukkha là đặc tính của thực tại và như thế không là một sự kiện khách quan thuần túy. Ư tưởng có được một [khả năng] diễn đạt thực tại một cách khách quan, một thực tại [tồn tại] độc lập với chủ thể quan sát là một phát kiến độc đáo của Tây phương, điều này cuối cùng đă làm nảy sinh ra khoa học. C̣n các phát biểu trong Phật giáo nói tới mọi liên hệ của chúng ta với thực tại. Chẳng hạn như khi cho rằng tất cả chỉ là ảo tưởng, điều đó không nói chút ǵ về tự thân của thực tại (werkelijkheid an sich), mà chỉ có nghĩa là chúng ta làm tất cả hóa ra ảo tưởng đối với chúng ta. Điều được bàn tới ở đây là những hiện tượng tŕnh hiện trước mắt chúng ta. Sự đào sâu một cách có hệ thống trong cách tiếp cận với thực tại này trong Phật giáo đă cống hiến cho chúng ta một nền tâm lư học phong phú và đa dạng.

 

Anicca có nghĩa là tàn hoại (vergankelijkheid), vô thường (impermanentie). Điều này có thể dễ dàng được kiểm chứng. Tất cả có đó rồi mất đó. Ngay thực tại khách quan cũng thế. Tất cả đều đang chuyển động trong một ḍng chảy liên tục. Điều này cũng đúng trong trường hợp của các cảm thọ và nhận thức của chúng ta. Niềm vui chất ngất rất đẹp nhưng không kéo dài măi. Nỗi buồn quay quắt, may mắn thay, cũng thế. Chính nhờ sự liên tục thay đổi của tất cả mọi vật mà sự sống mới có thể có mặt. Một t́nh trạng bất biến liên tục chỉ có thể đồng nghĩa với sự chết. Tuy sự thực này đơn giản và rơ ràng như vậy, nhưng chúng ta vẫn không dễ dàng chấp nhận. Dù cho ta có được ǵ đi chăng nữa, ngày nào đó chúng ta cũng sẽ đánh mất nó. Có là ai đi nữa, một ngày kia chúng ta cũng không c̣n đó. Dù có gắn bó với ai đến đâu, một ngày kia chúng ta cũng phải chịu chia ĺa. Chúng ta biết thế nhưng chúng ta cứ làm như không biết. Chúng ta sống như thể không có chuyện ǵ xảy ra cho đến khi chạm trán với thực tế th́ chúng ta mới giật ḿnh hoảng hốt, cuống cuồng lên.

 

Anatta có nghĩa đen là không có tự thân, vô ngă. Điều đó muốn nói rằng tất cả sự vật khi biểu hiện trước mắt chúng ta, chúng không có tự tính riêng biệt (eigen essentie).

 

Dưới đây là một thí dụ của nhà vật lư học Tây phương D. R. Hofstadter. Hăy nh́n một tờ nhật tŕnh. Tờ nhật tŕnh là ǵ? Có phải đó là tờ báo sáng nay nằm trong thùng thư không? Nếu bạn nói đă đọc được tin ǵ đó trên báo, không nhất thiết có nghĩa là tin đó đă được đăng trên tờ báo sáng nay. Rồi tờ báo sáng nay đó có c̣n là tờ báo của ngày mai không, nếu tối nay bạn dùng nó để châm ḷ sưởi? Hay có thể tờ nhật tŕnh là một phần của bản hợp đồng mua báo hàng tháng? Rồi chúng ta phải gọi người làm việc cho tờ báo như thế nào? Ví dụ này cho tới đây vẫn mới chỉ là vấn đề ngôn từ (taalkundig). Trong mọi trường hợp, “tờ báo” không chỉ một cái ǵ đó nhất định. Cứ thử lấy ví dụ tờ báo sáng nay. Cái ǵ là tự tính của tờ báo? Tờ báo là một thứ tổng hợp của giấy, mực, thông tin, của người viết bài và người đọc, người đưa thư, thùng thư và bàn ăn sáng… Tất cả làm cho tờ báo trở thành tờ báo. Càng cố gắng đào sâu, bạn càng nhận thức rơ ra rằng không sao t́m ra được một tự tính nào tạo ra tờ báo. Tờ báo tự nó không có một cái ngă riêng biệt (eigen zelf).

 

Cũng vậy trong sự suy luận cho câu hỏi “ta là ai”? Tờ báo không có cái ngă riêng đă đành. Nhưng nếu như ta đây mà cũng không có hoặc không phải là ta…? Sự thực này cũng đơn giản rơ ràng như sự thực về khổ đau và vô thường. Một số nhân sinh quan đă gặp rất nhiều khó khăn với nhận định này nên đă bịa đặt ra những cái ngă vô thường hoặc thường hằng, linh hồn hoặc tự tính. Nhưng những tạo tác này không bao giờ có thể được minh chứng và được quy nạp qua suy luận biện chứng. Phật giáo bác bỏ các cách giải quyết giả tạo này. Phật giáo chấp nhận rằng con người không có một cái ngă riêng biệt, cho dù nhận thức này có làm cho một số người hoang mang, có cảm giác ḿnh bị sỉ nhục. Ư tưởng có một linh hồn bất tử không ǵ khác hơn là một tưởng tượng không thể kiểm chứng được.

 

 

Con đường ở giữa (trung đạo)

 

Phật giáo tự nhận ḿnh là một trung đạo. Trên mặt thực hành, điều này có nghĩa là Phật giáo nằm giữa khổ hạnh và dục lạc. Về mặt triết lư, đó là con đường đi giữa chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa hư vô.

 

Ví dụ về tờ báo cho thấy, càng đào sâu, chúng ta càng không t́m ra cái có thể được gọi là tờ báo. Không có ǵ là một đặc tính rơ rệt (eenduidige identiteit) cho “tờ báo”. Nhưng cũng thật vô lư nếu nói tờ báo, người đọc và người hàng xóm không thực sự có mặt. Chủ nghĩa hư vô v́ thế cũng không đúng. Sự phân tích về thực tại này không ngăn chận việc tôi đọc tờ báo mỗi buổi sáng và sau đó chuyển cho người hàng xóm đọc. Trong Phật giáo, điều này được gọi là thực tại tương đối (relatieve) hay thực tại ước lệ (conventionele). Ngôn ngữ, cũng là một thứ ước lệ, là một công cụ hữu dụng của thực tại ước lệ đó.

 

Việc nhầm lẫn thực tại ước lệ với thực tại tuyệt đối là nguyên nhân của nhiều đau khổ. Đă bao lần chúng ta bám vào một cái ǵ đó, mà cái đó không giúp chúng ta được một mảy may? Đă có bao nhiêu người đă ngă xuống cho hàng loạt ư kiến và ư thức hệ [được mệnh danh là] chính thống (fundamentalismes)?

 

Thực tại ước lệ là một phần của chiếc mề-đai. Mặt kia của thực tại là một thực tại thoát ra khỏi ràng buộc của tất cả ước lệ, tất cả ư niệm, tất cả huyễn giác. Đương nhiên đó cũng cùng một thực tại [như thực tại ước lệ], nhưng được nh́n bằng cặp mắt khác. Phật giáo gọi đó là thực tại tối hậu (uiteindelijke) hoặc là thực tại tuyệt đối (absolute).

 

Trong Phật giáo, tuệ giác về thực tại tột cùng này được đánh giá là tuệ giác cao nhất. Điều này đương nhiên dễ gây ra ngộ nhận. Nếu ai đó đem một từ ngữ như thực tại tuyệt đối ra sử dụng, kẻ đó sẽ tạo ra vô số những tưởng tượng lăng mạn hay thần bí có thể nghĩ bàn (denkbaar), những điều mà, trên thực chất, không dính dấp ǵ đến [thực tại tối hậu]. Thực tại tối hậu chính là việc bỏ lại phía sau những tưởng tượng cuồng loạn.

 

Điều này không có nghĩa là ta không thể nói điều ǵ về thực tại tối hậu. Thực tại rốt ráo này là một tầm nh́n (perspectief) về thực tại, khác biệt với tầm nh́n ước lệ về thực tại, nhưng cũng không phủ nhận tính hiệu lực (validiteit) của tầm nh́n ước lệ. Mỗi kinh nghiệm, dù là kinh nghiệm về nếm thử rượu hay về thực tại tột cùng, đều có thể bàn thảo được. Nhưng điều được nói ra không bao giờ có thể thay cho kinh nghiệm, tựa như ngón tay chỉ mặt trăng, sẽ không bao giờ có thể trở thành mặt trăng.

 

 

Sự tan biến ảo giác to lớn (grote desillusie)

 

Tuệ giác Phật giáo là một tiến tŕnh tan biến càng lúc càng tăng (toenemende) của ảo giác. Sự tan biến ảo giác này không đưa đến tiêu cực chủ nghĩa (negativisme) hoặc hư vô chủ nghĩa (nihilisme) mà được trải nghiệm một cách tích cực như sự giải thoát khỏi ảo giác. Thực tại lúc đó sẽ được biểu hiện ra tṛn đầy, rộng mở (toegankelijk) và có thể cảm nhận được (leefbaar).

 

Điều này đặt ra cho Phật giáo một vấn đề giáo khoa (didactisch). Với lư thuyết thuần túy chúng ta không thể đi xa. Chúng ta đă nói tới một tầm nh́n về thực tại. Điều này chỉ có thể thể nghiệm được khi chúng ta thực sự đứng vào vị thế của phối cảnh đó [để nh́n về thực tại]. Điều này lại đưa chúng ta trở về khởi điểm của bài viết này. Tuệ giác triết học tự nó (op zich) không có ư nghĩa ǵ đối với Phật giáo. Tuệ giác chỉ thực sự có ư nghĩa khi được thực tập trên con đường của tŕ giới, thiền định và tuệ giác.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 6 of 7: Đă gửi: 29 May 2006 lúc 1:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

Phần 3

 

Dừng lại và nh́n sâu – Thiền tập trong Phật giáo

Edel Maex (Nguyễn Thanh Hùng dịch)

 

 

Nh́n h́nh tướng của Phật, bạn thường thấy người được vẽ hay tạc ở trong tư thế tọa thiền. Thiền tập v́ thế chắc hẳn rất là quan trọng. Vậy Phật ngồi như thế để làm ǵ? Điều ǵ trong Tứ diệu đế đă thúc đẩy ta ngồi trong tĩnh lặng để thiền tập? Nói khác đi, làm sao ngồi trong tĩnh lặng lại có thể làm cho ta hiểu Tứ diệu đế sâu sắc hơn và đưa ta đến thực hành?

 

Giáo lư nhân quả (karmaleer) bao hàm trong Tứ diệu đế cho rằng chúng ta là tác giả và là người thừa kế những hành xử của chính ḿnh. V́ thế, rất hợp lư khi ta không đi t́m ở [thế giới] bên ngoài những giải đáp cho các vấn đề và sự khổ đau của ḿnh, mà bắt đầu t́m kiếm và lưu ư ở ngay nơi mà những hành động được khởi sinh, đó chính là tâm thức của chúng ta. Đối với Phật, làm sao để thực hiện việc đó không hề đơn giản. Đó là kết quả của một cuộc t́m kiếm lâu dài.

 

 

Phật ngồi đó để làm ǵ?

 

Trong kinh tạng Pali, Phật đă kể lại rất chi tiết cuộc t́m kiếm của người, từ lúc khởi đầu cho đến chung cuộc, tới khi người trở nên tỉnh thức (Danh từ Boeddha có nguyên nghĩa là “tỉnh thức”). Ở đây thiền tập đóng một vai tṛ rất quyết định. Cuộc đời của Phật mà ta thường được nghe kể lại thuộc dạng huyền thoại cổ điển, trong đó chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng. Trong bài này chúng ta chỉ trưng dẫn những tài liệu tiểu sử tự thuật (autobiografisch) t́m được trong kinh điển Pali mà không động đến những huyền thoại vẫn được nhiều người biết đến hơn về Phật.

 

Phật kể người đă lớn lên như thế nào trong sự xa hoa (tên thật của người là Siddharta Gautama, là người thuộc gịng tộc Sakyans). Người được thừa hưởng ba ṭa lâu đài, một ṭa cho mùa mưa, một cho mùa đông và một cho mùa hè. Đi đến đâu người cũng được một đoàn vũ công ca nhạc toàn là phụ nữ tháp tùng (một h́nh thức walkman trước thời đại). Thế nhưng người vẫn không hài ḷng. Ḷng người thường xuyên bị xâm chiếm bởi một nhận thức sâu sắc về sự hoại diệt và ngắn ngủi của cuộc sống. V́ phải đối diện không thể tránh né với khổ đau nên tâm hồn của người tràn ngập một niềm bi phẫn. Cha mẹ người vô cùng buồn rầu (khác với huyền thoại cổ điển, ở đây [kinh tạng Pali] không thấy nhắc tới một người vợ và một đứa con), khi người quyết định bỏ nhà ra đi, để đi t́m câu trả lời cho những câu hỏi của ḿnh.

 

Đầu tiên, cuộc t́m kiếm đă đưa người đến gặp hai vị đạo sư dạy thiền tập. Thiền tập ở Ấn Độ thời bấy giờ có vẻ đă là một phép hành tŕ phổ biến. Siddharta là một đệ tử đặc biệt thông minh, nhưng người không hài ḷng với những điều gặt hái được. Người từ chối lời thỉnh cầu trở thành người truyền thừa của hai vị thầy. Điều mà người học hỏi được là những kỹ thuật vượt thoát ra khỏi hiện thực một cách có hệ thống để bước vào một thế giới khác, nơi mà cuối cùng mọi kinh nghiệm chấm dứt sự hiện hữu của nó. Điều phải thừa nhận, trong những giây phút đại định sâu sắc này, khổ đau cũng chấm dứt hiện hữu. Nhưng một khi thiền giả xuất ra khỏi trạng thái đó, th́ tất cả cũng xuất hiện trở lại, kể cả khổ đau. Điều này không phải là điều người t́m cầu.

 

Phương pháp mà người chú tâm hành tŕ sau đó là phép tu khổ hạnh nghiêm nhặt (ascese). Ở đây người cũng đi đến mức tận cùng. Các kinh điển xưa cũ ghi lại sự kiện thân thể người c̣m cơi đến mức khi đứng trên cát, dấu chân gầy rạc của người để lại trên đó trông tựa như dấu móng của con lạc đà. Cũng thế, con đường khổ hạnh này không đem đến cho người kết quả mong đợi. Người ư thức rằng không thể tiến xa hơn được nữa trên con đường này. Một bước tới nữa chỉ có thể đồng nghĩa với cái chết. Người bắt đầu ăn uống trở lại và chăm sóc thân thể của ḿnh. Người lang thang và không biết phải tiếp tục như thế nào.

 

Kinh điển kể lại, khi đó người chợt nhớ đến lúc c̣n nhỏ, vào một ngày đẹp trời, khi ngồi dưới một gốc cây ngắm nh́n người dân làm việc trên một cánh đồng, người tự dưng nhập vào một trạng thái của sự tỉnh giác đầy tĩnh lặng và trí huệ. V́ thế cho nên người quyết định hành tŕ con đường thiền tập. Điều người đă làm lúc đó chính là một trực giác thiên tài. Thay v́ thoát ra khỏi hiện thực, người dùng sự minh mẫn của tâm thức được nuôi dưỡng trong khi thiền tập, để hướng sự chú tâm của ḿnh vào chính hiện thực. Bằng tâm tỉnh giác và sự cẩn trọng, người nghiệm ra rằng trong một quá tŕnh liên tục, cách thế của tham ái và tư duy nối đuôi nhau xuất hiện, cũng giống như cách thế mà tâm thức nắm giữ và từ chối, tạo tác và hoại diệt. Cứ như thế mà quá tŕnh liên tục này của sinh thành và hoại diệt, khi xảy ra không ngừng nghỉ cho chính người và cho người khác, đă tạo ra vô vàn những thế giới, những vọng tưởng. Nguyên nhân khiến cái này tạo tác ra cái kia bỗng hiển lộ thật rơ ràng đối với người. Cuối cùng, không phải không bất ngờ, người khám phá ra trong sự tỉnh giác đó (heldere aanwezigheid) và trong chính sự trong suốt của nó (doorzichtigheid) tiến tŕnh này đă tan biến và dừng lại như thế nào. Vào lúc đó người thực sự chứng nghiệm rằng: đây là điều ḿnh t́m kiếm lâu nay. Chính ở đây khổ đau không c̣n hiện hữu nữa.

 

Khám phá này đối với người c̣n quá mới mẻ, khiến người thoạt đầu chưa biết phải chia sẻ với người khác như thế nào. Bằng một cách thức đặc biệt Ấn Độ, các kinh điển đưa ra h́nh ảnh của một vị thần đến thỉnh cầu Phật chia sẻ khám phá này với người khác v́ “những kẻ có ít bụi trong mắt sẽ nh́n thấy được”.

 

Đầu tiên, Phật đi t́m hai vị thầy đầu tiên đă dạy người thiền tập, nhưng hai vị đă qua đời. V́ thế người mới đi t́m các người bạn đă cùng tu khổ hạnh. Khi các vị này thấy Phật từ xa đi đến, họ hẹn với nhau rằng sẽ làm như họ không trông thấy người. Trong mắt họ, Phật là một kẻ thất bại, một kẻ đă không chịu nổi sự từ bỏ kham khổ của phép tu khổ hạnh. Cho tới khi Phật tiến tới gần… Khuôn mặt của Phật rạng rỡ… Các vị tu sĩ không thể nào làm ǵ khác là đỡ lấy áo khoác và b́nh bát cho Phật, mời người ngồi xuống và hỏi thăm: điều ǵ đă xảy đến cho bạn? Phật thuật lại những ǵ người đă làm trong thời gian qua. Cuộc nói chuyện này đă được ghi lại như bài thuyết pháp đầu tiên, trong đó Phật lần đầu tiên giảng giải về giáo pháp Tứ diệu đế.

 

 

Dừng lại và nh́n sâu

 

Về thiền tập, có hai giai đoạn được nhắc đến trong bài giảng của Phật:

 

1 Samatha [chỉ]:

 

Các vị thầy đă chỉ dạy cho Phật một h́nh thức thiền tập đưa tới sự chấm dứt tất cả các hoạt động tâm ư (mentale activiteit). Đó là sự thiền tập nhắm tới sự dừng lại (samatha). Kỹ thuật đưa tới kết quả này là sự tập trung. Đây cũng là một phương pháp mà chúng ta vẫn thấy trong các kỹ thuật thiền tập và thư giăn không nằm trong Phật giáo.

 

Cho dù Phật đă là một bậc thầy trong kỹ thuật này, người vẫn không hài ḷng và đă từ bỏ phương pháp tu tập này.

 

2 Samatha-vipassana [chỉ-quán]:

 

Sau khi các phương pháp khác không mang lại hiệu quả mong muốn, Phật quay lại với phương pháp thiền tập nhưng đó không chỉ là sự thiền tập đơn thuần. Phương pháp thiền tập mà người đă sáng chế ra là một tổng hợp của dừng lại (samatha) và nh́n sâu (vipassana). Với sự tỉnh giác của tâm thức, người hướng sự chú tâm vào hiện thực và đạt được tuệ giác. Tất cả những ǵ mà chúng ta đă bàn đến trong bài viết thứ hai ‘Giải thoát khỏi ảo tưởng – Phật giáo, một hệ thống triết học’ trở nên thật trong suốt rơ ràng đối với Phật.

 

Dừng lại đề cập đến sự ngưng nghỉ các tập quán máy móc của tâm thức, bằng cách tập trung sự chú tâm vào một đối tượng nhất định nào đó. Với nh́n sâu, chúng ta muốn nói đến việc hướng sự chú tâm vào điều đang xảy ra. Nh́n sâu không phải chỉ bằng đôi mắt, mà bao gồm tất cả các giác quan, kể cả tâm [mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư] (Trong Phật giáo, tâm được coi là giác quan thứ sáu, có chức năng ghi nhận những suy tưởng của chúng ta).

 

Như thế, cả hai phương thức samatha và vipassana hợp lại thành một tổng thể hữu cơ. Samatha và vipassana tương quan với nhau và được học hỏi như thể là sợi chỉ điều xuyên suốt các kinh điển thiền tập Phật giáo trong 2500 năm qua. V́ những lư do giáo khoa, một số truyền thống đă thực tập ‘dừng lại’ trước tiên rồi mới chuyển sang những thực tập nhắm nhiều hơn vào tuệ giác, vào nh́n sâu. Những truyền thống khác lại chú tâm từ lúc bắt đầu với những thực tập bao gồm cả hai phương thức.

 

 

Không lư thuyết suông

 

Không có ích lợi ǵ để t́m hiểu một cách lư thuyết về những điều thật thực tiễn. Thiền tập ngoài ra c̣n là một phương pháp rất dễ áp dụng. Tất cả những ǵ bạn cần chỉ là thân và tâm. Gối và nệm ngồi thiền, và những dụng cụ khác có thể có ích lợi nhưng không nhất thiết phải cần. Ngoài ra, bạn có thể thực hành thiền tập bất cứ lúc nào. Vài ba phút cũng đủ để học cách thực tập thiền.

 

Bây giờ, tôi xin độc giả tạm thời để bài viết này qua một bên và thử thực tập trong tư thế bạn đang có. Nếu bạn khám phá tư thế đang có chưa được thoải mái lắm th́ hăy thay đổi tư thế cho thật thoải mái.

 

Hăy đặt sự chú tâm của bạn vào hơi thở. Bạn không cần phải thay đổi cách thở. Chỉ theo dơi, cảm nhận hơi thở vào như thế nào, hơi thở ra như thế nào. Khi nào cảm thấy ḿnh đang đánh mất sự chú tâm, th́ bạn lại đặt sự chú tâm vào lại nơi hơi thở. Bạn hăy thử thực tập như thế trong ṿng vài phút.

 

*

Bài tập vừa rồi mà bạn đă làm, trước hết, có thể được xem như một thực tập của dừng lại. Lời hướng dẫn là đặt sự chú tâm vào hơi thở. Nếu nói đó đơn thuần là một thực tập samatha thôi th́ có lẽ bạn cũng đă không thành công rồi. Trong ṿng hai phút, gần như tất cả mọi người đều khám phá rằng sự chú tâm của chúng ta đă bị thất tán. Vào lúc này có thể kể ra hai cạm bẫy:

 

Cạm bẫy thứ nhất là sự khó chịu. Khả năng cụ thể là qua sự thực tập thường xuyên bạn trải nghiệm được sự tĩnh lặng, dễ chịu và tính trị liệu của phép hành tŕ theo dơi hơi thở này. Nhưng có một khả năng lớn hơn nữa là bạn hoàn toàn không trải nghiệm điều ǵ giống như thế cả ở lần thực tập đầu tiên. Rất nhiều người đă cảm thấy thật khó chịu v́ liên tục đánh mất sự chú tâm. “Thấy chưa, tôi đâu có thể làm được…”. Sự khó chịu tự nó không phải là một vấn đề lớn. Nó chỉ làm lộ ra một cung cách phản ứng (reactiepatroon) cũ kỹ b́nh thường. Cạm bẫy nằm ở kết luận sai lầm, là ḿnh không làm được bài tập này. Nhưng kinh nghiệm khó chịu là chuyện thông thường xảy ra và tự chúng không phải là những lư do để ta bỏ cuộc.

 

Như thế ḷng nhẫn nại là một điều kiện tuyệt đối phải có để thực hành thiền tập.

 

Cạm bẫy thứ hai, thật kỳ lạ, lại chính là sự tập trung. Một sự tập trung trong chừng mực nào đó là điều tốt nhưng sự thực tập sẽ hoàn toàn rời xa mục đích của nó nếu người hành thiền, trong suốt thời gian thực tập, thành công trong việc chỉ biết chú ư đến gịng chảy lên xuống của hơi thở với sự dễ dàng thoải mái. Bởi v́ nếu đi xa hơn theo phương pháp này, chúng ta sẽ bị kẹt trong cái mà Phật đă học được của các vị thầy dạy thiền tập, đó là sự thực tập samatha đơn thuần.

 

Điều mà lời khai thị muốn hành giả đạt được là làm hiển lộ những điều đang xảy ra. Trong khi theo dơi hơi thở và sự thất bại kèm theo, chúng ta thấy được sự vận hành của tâm thức. Ở đây không chỉ là samatha mà là kết hợp của samatha và vipassana, dừng lại và nh́n sâu. Cho một thực tập samatha đơn thuần, hơi thở không phải là một đối tượng tập trung thật thích hợp. Hơi thở của chúng ta luôn chuyển động và ngoài ra c̣n phản ứng theo với mọi thứ xảy ra ở trong và xung quanh ta. Cũng chính v́ lư do đó mà phép theo dơi hơi thở là một cách dẫn nhập tuyệt hảo để thực tập samatha-vipassana.

 

Đă nói thế, bây giờ xin mời bạn thử làm lại bài tập vừa rồi một lần nữa, bắt đầu bằng cách theo dơi hơi thở và sau đó cứ quan sát điều ǵ đang xảy ra. Với một sự chú tâm nhẹ nhàng, rộng mở, bạn hăy để cho những điều ǵ đến cứ đến, không bám víu vào đó cũng không từ chối nó, không đi sâu vào cũng không ngăn chặn. Cứ mỗi khi biết ḿnh đang mất sự chú tâm hoặc đánh mất ḿnh trong những điều đang xảy ra, bạn lại trở về với hơi thở và với sự chú tâm nhẹ nhàng, rộng mở.

 

*

Samatha-vipassana là dừng lại và nh́n sâu những điều đang xảy ra, với sự chú tâm nhẹ nhàng, rộng mở. Lời khai thị này thật hết sức đơn giản. Đơn giản nhưng không phải dễ dàng. Để có thể ứng xử [tốt] với những điều đang xảy ra, bạn nên t́m một vị thầy nhiều kinh nghiệm để học hỏi. Cho tới giai đoạn này, tôi đă chỉ nhắc chừng bạn về hai cạm bẫy vừa kể. Cạm bẫy thứ ba là sự khởi tâm (suggestie). Lời khai thị thật rơ ràng: bạn hăy quan sát bất kỳ điều ǵ đang xảy ra. Nhưng bởi v́ là con người, chúng ta có thể biết khá chắc chắn rằng những điều đang xảy ra [trong tâm thức] không hoàn toàn đẹp đẽ và tốt lành. Mối nguy to lớn ở đây nằm chính ở chỗ chúng ta t́m cách sắp đặt (manipuleren) kinh nghiệm của ḿnh theo chiều hướng nào đó mà chúng ta thấy thích hợp với ḿnh và với việc thiền định. Hậu quả thường là sự tỉnh ngộ, v́ cuối cùng ta đành phải chịu thú nhận rằng những điều ta mong cầu không xảy ra, và như thế những điều [thật sự] xảy ra đă vượt thoát ra khỏi sự chú ư của ta.

 

Cạm bẫy thứ tư là ḷng say mê với nội dung mà những điều đang xảy ra mang đến. Bằng cách học hỏi tâm thức qua cách [quan sát] này mà Phật giáo, qua thời gian, đă trở thành một ngành tâm lư học rất có hệ thống. Tâm lư học đương đại Tây phương, hăy c̣n trong giai đoạn phát triển, đă bắt đầu có ư thức về sự hữu dụng của hệ thống [tâm lư học Phật giáo] này. Nhưng cần ghi nhớ rằng tâm lư học trong bối cảnh này chỉ là một sản phẩm phụ. Điều quan trọng nhất vẫn là sự giải thoát, chứ không phải là một ngành tâm lư học.

 

 

Nh́n sâu điều ǵ?

 

Tất cả những điều được nói trong bài trước (“Giải thoát khỏi ảo tưởng – Phật giáo, một hệ thống triết học”), có thể trước đây c̣n như một mớ triết lư trừu tượng, bỗng trở nên sinh động dưới tác động tài t́nh của samatha-vipassana. Chỉ mới trong ṿng hai phút thử chú tâm theo dơi hơi thở, đă đủ cho phần đông chúng ta thấy được sự hỗn loạn của tâm thức. Nếu nh́n kỹ hơn, bạn sẽ thấy được sức mạnh của si mê, sân hận và những khuôn mẫu mù quáng (blinde patronen) hợp lại xô đẩy tâm thức. Những ǵ xảy ra ngay lúc này trong tâm thức và điều mà bạn có thể cảm nhận được ngay lúc này chính là những quy luật (wetmatigheid) của nguyên nhân và hậu quả và sự h́nh thành của khổ đau. Để có thể thấy được điều đó, điều duy nhất bạn phải làm là chịu đứng yên và nh́n cho kỹ.

 

Trong khi dơi theo những xuất nhập của ấn tượng, t́nh cảm và ư tưởng, bạn nhận chân được tính vô thường của tất cả những điều chúng ta có thể tưởng tượng được. Không có điều ǵ cố định. Không có ǵ đủ vững chăi để ta có thể bám víu vào. Tiến tŕnh [nhận thức] này có thể đôi lúc làm ta đau khổ. Nếu không nhẹ nhàng và từ bi với chính ḿnh, chúng ta sẽ khó chấp nhận được. Một thái độ nhẹ nhàng nhưng quyết tâm và ḷng từ bi không những làm cho tiến tŕnh [nhận thức] này khả dĩ thành công mà c̣n tạo nên liều thuốc giải độc tốt lành (heilzaam antidotum) cho những t́nh trạng tâm lư không lành mạnh xuất hiện trong lúc chúng ta thiền tập. Cho tới khi chúng ta nhận thức rằng bám víu vào bất kỳ một cái ǵ cũng chỉ là một cố gắng hoàn toàn vô ích, và chỉ có sự chú tâm rộng mở, nhẹ nhàng và không thỏa hiệp là đủ và [điều này] có nghĩa là một sự giải phóng vĩ đại.

 

Đây là bối cảnh của hiện thực tột cùng. Sự tỉnh ngộ càng trọn vẹn chừng nào th́ sự ám ảnh của những vọng tưởng chế ngự ta càng lúc càng nhỏ đi chừng nấy. Điều c̣n lại là một sự rộng mở trọn vẹn, vắng bóng vọng tưởng (totale, gedesillusioneerde openheid). Một sự rộng mở không c̣n trông mong bất cứ điều ǵ nữa, không c̣n nhu cầu để thêm thắt chút ǵ vào hiện thực, kể cả những ư niệm mà chúng ta vẫn thường dùng để xoay chuyển hiện thực theo ư ḿnh (naar onze hand te zetten) và [qua đó] tạo ra ảo tưởng rằng hiện thực rất quen thuộc.

 

Trạng thái này của sự rộng mở vốn là một trạng thái rất tự nhiên, được nhiều người biết đến. Kể cả Phật cũng đă nhớ lại lúc c̣n nhỏ, ngồi dưới bóng mát của một gốc cây, người cũng đă tự nhiên cảm nhận được. Sự rộng mở tự nhiên của tâm thức này trên nguyên tắc, luôn luôn có mặt. Không có sự rộng mở này, chúng ta khó ḷng có thể sinh hoạt được. Nhưng sự rộng mở này thường xuyên bị lấp đầy bởi những ư niệm, suy tưởng, mong chờ, dự định… cho đến mức chúng ta gần như không c̣n ư thức được sự có mặt của nó nữa. Trong khi thiền tập, chúng ta học giữ cho sự rộng mở này được thênh thang trong khi theo dơi tṛ chơi của những thứ lấp đầy tâm thức chúng ta tiếp tục đi đến và lại ra đi.

 

Như thế, ở đây hoàn toàn không nói đến một thứ kinh nghiệm “huyền bí” đặc biệt (‘mystieke’ ervaring) nào cả. Nhận thức về sự rộng mở có thể đôi lúc được cảm nhận thật mănh liệt, nhất là khi nó được thể nghiệm trong tương phản với sự khép kín cứng nhắc (krampachtige afgeslotenheid) mà chúng ta thường có trong đời sống. Sự mănh liệt của kinh nghiệm này đôi khi trở thành một thứ cạm bẫy. Sự rộng mở [có thể] bị lấp đầy ngay tức khắc bằng một ước ao giữ chặt và sống lại [kinh nghiệm về] sự mănh liệt này. Nó dễ trở thành một thứ kinh nghiệm mà chúng ta muốn xem như một đạo bùa được may chặt vào cổ, để không bao giờ có thể đánh mất được. Sự dụng công bám víu cứng nhắc này có thể là một cản trở cho những cảm nhận về sự rộng mở cần được tiếp tục xảy ra. “Gặp Phật, giết Phật”, đó là câu tuyên bố bất hủ của Thiền sư Lâm Tế về cạm bẫy này.

 

 

Xuống núi

 

Trong ngành hội họa Phật giáo Trung Hoa, Phật Thích Ca Mâu Ni (vị Phật lịch sử) vẫn thường được minh họa trong tư thế đang đi, trong khi người xuống núi, chứ không phải trong tư thế tọa thiền. Cái nguyện vọng được an trú măi trong trạng thái của thực tại tột cùng tự nó đă là một mâu thuẫn nội tại (contradictio in terminis). Nhận thức về thực tại tối hậu tức khắc đưa chúng ta trở về với thế giới qui ước, thế giới của ư niệm và suy tưởng, của quan hệ và mơ ước, nhưng lần này với một số ảo tưởng ít hơn hẳn. Như Mark Epstein đă diễn tả: vấn đề không nằm ở chính sự ước ao mà ở sự kiện chúng ta chờ đợi nơi đối tượng của sự ước ao hơn quá cái mức mà đối tượng của sự ước ao có thể cung cấp cho chúng ta.

 

Dừng lại làm hiển lộ. Qua nh́n sâu mọi sự trở nên sáng tỏ. Sự minh bạch rơ ràng này đưa đến giải thoát. Câu chuyện [đời] không chấm dứt nơi chiếc gối tọa thiền. Với sự tự tại này, chúng ta sống đời sống hàng ngày bằng một thái độ khác. Và như thế, đương nhiên trong bài viết tiếp, chúng ta sẽ nhận định về đạo đức.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 7 of 7: Đă gửi: 01 June 2006 lúc 9:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Kính chào mọi người,

Phật ở trong anh là bài thuốc đối trị bịnh t́m cầu bên ngoài. Tiếc rằng, người t́m cầu bên ngoài lại thấy Phật ở trong anh là chuyện của ai đó cho nên lại thành chuyện bên ngoài.

Thực ra chuyện này chẳng có ǵ là mới mẻ nếu t́m hiểu kinh điển. Như trong kinh Viên Giác có câu: "Dứt hết vô minh trọn thành Phật đạo". Đâu không phải đây là câu nói khác của câu "Phật ở trong anh" sao ? Nếu không anh th́ ai dứt hết vô minh trọn thành Phật đạo ?

Lại nữa, "Phật ở trong anh" nào đâu phải anh là Phật nếu không dứt hết vô minh.

Nói Phật ở trong anh là nói cái bản thể tương đồng. Nào đâu nói hiện tướng là Phật.

Điều này không chỉ chúng ta mà cả ngài Xá Lợi Phất trong hội Pháp Hoa cũng nghi ngờ vậy. Không chấp nhận điều này th́ không bao giờ có thể thành Phật c̣n chấp nhận điều này một cách mù quáng cho ḿnh là Phật th́ luân hồi vô lượng kiếp.

Một đề tài rất tuyệt vời như vậy mà nay lại đến nông nỗi này.

Mong mọi người tạm quên những chuyện cá nhân để cho đề tài được tiếp tục.


Kính chúc mọi ngựi an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma



Learner xin bạn OnlyOne_0 nếu c̣n hứng thú th́ tiếp tục post bài PỞTA tại nơi đây. Nếu ai có bất đồng quan điểm xin mở một chủ đề mới để mọi người có thể đóng góp. Mong lắm thay.


Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.9219 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO