Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 198 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: PHẬT Ở TRONG ANH (Đă bị đóng Đă bị đóng) Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
Hoangdat
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 109
Msg 81 of 143: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 8:15pm | Đă lưu IP  

Chào bạn only_one
HD xin đính chính lại phần kết luận đă trao đỗi với bạn only_one

Msg 78 of 80: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 12:32pm | Đă lưu IP

Cám ơn bạn only_one rất nhiều ,bạn đă phúc đáp rất t́nh cảm và rất dài so với câu hỏi của HD .thật khó nhọc cho bạn .

Nhưng như bạn đă viết; học và tu phải song hành mới có từ CHỨNG NGỘ .với lại phải có căn duyên th́ học mới thấm mới ngộ , v́ vậy Phật Giáo mới chia ra ngũ thừa ,chắc để cho các căn duyên khác nhau dể bề tu học ;c̣n việc giả lập lên hàng Bồ Tát chỉ có thể áp dụng cho một ít người có căn duyên tương ưng chứ ko phải với ai cũng áp dụng được .
Bạn viết trong cuộc sống hằng ngày ,chớp mắt chúng ta có thể là Bồ Tát thừa chớp mắt lại ớ hàng thiên thừa ;đều do Tâm chúng ta lay động hay là an định quyết định .và đưa ra bài kệ LỤC TỔ : " Tự tánh mê tức là chúng sinh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức Quán Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức đức Thích Ca, b́nh trực tức Phật Di - đà. Nhân ngă ấy là Tu-di, tà tâm là biển độc, phiền năo là sóng ṃi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỷ thần, trần lao là rùa tranh, tham sân là địa ngục, ngu si tức súc sanh''.
                                      
                                                        (Kinh Pháp Bảo Đàn)

Bài kệ Lục Tổ đă giải thích rất rỏ ,nói lên Tâm chúng ta thay đổi hàng ngày là như thế nào rồi . việc c̣n lại là do chúng ta tỉnh hay mê , chứ đâu liên quan đến việc có giả lập lên hàng Bồ Tát hay ko ,v́ bạn viết ;các Bồ tát ở đời (thường là người thật việc thật) sống bằng các hạnh BA LA MẬT (các hành động xuất thế gian) mà người tầm thường rất khó làm ‘’được vậy’’.
Cũng như bạn đă kể câu chuyện của Thiền sư Bạch Ẩn .và câu chuyện một ông lảo hút máu độc cho thiếu nữ vậy .th́ một người giả lập lên hàng Bồ Tát th́ làm sao làm được .

C̣n nữa ; từ đoạn Hoàng đạt đă thấy đấy ……………… đến Vô Ngă là Niến Bàn cũng nói lên Bật Bồ Tát phải do công phu tu tập khó nhọc mới đạt được .

Kết luận : vấn đề ko phải là ḿnh có giả lập ḿnh lên hàng Bồ Tát không .
mà ḿnh có đọc hiểu ,tu ,Thấm ,Ngộ được những Kinh sách Đức Phật để lại phù hợp với căn duyên của ḿnh hay
không ?
như bạn Hướng Nội đă viết :
câu chuyện ông lăo hút máu trong chân cô gái bị rắn cắn đă làm tôi xúc động cũng như bác Only One, tôi tin đó là Bồ Tát Bồ Tát ko phải một người hô phong hoán vũ mà theo tôi là một người đă sống và hành xử trên thế gian, hay nói đúng hơn là hành xử trên suy nghĩ của nhân thừa . HN tôi xin cuối đầu đảnh lễ Bồ Tát ko tên đó .
đây mới là h́nh ảnh Bật Bồ Tát mà ko cần phải giả lập vậy

Vài hàng trao đổi với bạn only_one mong bạn ko nhàm chán và tiếp tục cho góp ư cho HD

Chúc bạn thân tâm an lạc
Quay trở về đầu Xem Hoangdat's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Hoangdat
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 82 of 143: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 9:09pm | Đă lưu IP  


Chào các bạn,

Learner nóng ḷng muốn được đọc tiếp bài Phật ở trong Anh, chắc bài c̣n dài. Các bạn khác nghĩ sao?

Learner c̣n nhớ bạn OnlyOne đă yêu cầu chúng ta nếu có ǵ trao đổi về đề tài này, th́ xin quá bộ qua căn nhà Chúng sinh nguyên thuỷ là Phật để cùng nhau thảo luận.

Tội nghiệp bác vuithoi đang ở bên đó chờ . Ôi cô đơn                

Mến chào thân ái.
learner
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 83 of 143: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 9:31pm | Đă lưu IP  

 

Chào bạn Learner !

 

Bạn Learner đă viết : ''  .....Cám ơn bạn nhiều. Bài viết hay ''

 

Đọc bài của bạn, OnlyOne_0 tôi cũng phải bắt chiếc bạn sunbeam : '' cho đi những ǵ ḿnh vừa nhận '' th́ mới ngủ ngon được !

 

Như bạn Learner vừa nhắc, chúng ta nghỉ giữa chặng vừa vừa thôi ! Nghỉ dài quá th́ không c̣n gọi là đi nữa !. Dù sao tiện đây tôi cũng xin trao đổi nhanh với bạn Hoàng Đạt v́ thịnh t́nh của bạn ấy. Sau đó nếu vẫn là chủ đề '' Chúng sinh nguyên thuỷ là Phật '' th́ mời bạn HĐ sang topic đó. Cảm ơn bạn Hoàng Đạt.

 

Cảm ơn bạn nhiều ! Chúc bạn mạnh khỏe, an lạc !

 

OnlyOne_0

-------------------------

'' không có trí tuệ và không có chứng đắc ''

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 84 of 143: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 9:35pm | Đă lưu IP  

 

Chào bạn Hoàng Đạt !

 

OnlyOne_0 rất vui được trao đổi với bạn, có ǵ nhàm chán đâu chứ !. Nếu nhàm chán th́ đă không lên mạng ngồi tán gẫu như thế này. Tuy nhiên, các câu hỏi của bạn Hoàng Đạt, OnlyOne_0 đă trả lời từ bài trước rồi. Bạn để ư nhé:

 

'' 4/ V́ không ngộ được th́ phải giả lập, tức là đem cho ḿnh cái tâm gần giống tâm ngộ đạo (tâm bồ đề). Nếu không giả lập được th́ phải chấp nhận đi lại từ đầu A, B, C của hàng Nhân thừa phật giáo (Bạn hiểu thế nào là Phật ?. Thế nào là vô lượng kiếp ? Thế nào là Phàm phu (con người) ? Thế nào là vị Phật ?). Cũng giống như cháu bạn ở nhà đang học lớp một th́ muốn giải thích cho nó về phân số hay số thập phân bạn phải lấy cái bánh bẻ một phần ba ra cho nó thấy chứ bạn không thể viết là 1/3 được. V́ nó không hiểu thế nào là 1/3, nó chỉ có khái niệm về số nguyên (1,2,3,4,5...).''

 

V́ OnlyOne_0 đă chứng thấy ông già (vị Bồ tát thật) hút máu đọc ở chân cô gái nên không cần phải giả lập. V́ ngay lúc đó tâm bồ đề bắt đầu đă nhú mầm trong OnlyOne_0 này. Xin bạn lưu ư là học và tu Phật mà không nhú mầm bồ đề trong tâm th́ học chơi để cho vui thôi.

 

Nói thêm với bạn Hoàng Đạt là ngay khái niệm Phật sẽ không có nếu không có khái niệm chúng sinh. Khái niệm Phật chỉ tồn tại khi có khái niệm chúng sinh. Hay nói cách khác khái niệm phật phải nương nhờ vào chúng sinh mới tồn tại và ngược lại. Tâm mê là chúng sinh, tâm giác là Phật. Nếu không phân biệt mê hay giác th́ cũng chẳng có chúng sinh, cũng chẳng có Phật. Thế nên Thiền sư Bạch Ẩn đă viết:

 

                                       '' Chúng sinh nguyên thuỷ là phật

                                          Như nước trong băng         

                                          Ngoài nước không có băng

                                          Ngoài chúng sinh chẳng có phật ''

 

Thân chào ! Chúc bạn vui vẻ

 

OnlyOne_0

-------------------------

'' không có trí tuệ không có chứng đắc ''

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 85 of 143: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 9:37pm | Đă lưu IP  

 

Chào các bạn !

 

Nhân lúc kết thúc chương 2 của BNK giảng giải. OnlyOne_0 xin chép lại một đoạn trong bài hát Ở TRỌ của Trịnh Công Sơn để chúng ta suy ngẫm cho vui:

                                      

                                       '' Con chim ở đậu cành tre

                                         Con cá ở trọ trong khe nước nguồn

                                         Tôi nay ở trọ trần gian

                                       Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ''             

                                                                              

C̣n chúng ta, giờ này, phút này, tinh thần chúng ta đang ở trọ trên diễn đàn. Có người ở trọ 5 hay 10 phút, có người ở trọ vài tiếng, vài ngày, vài tháng, vài năm, vài chục năm. Âu cũng là cái duyên tương ngộ (ở trọ với nhau) !

 

 

OnlyOne_0

------------------------

'' không có trí tuệ và không có chứng đắc ''

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 86 of 143: Đă gửi: 05 May 2006 lúc 12:34am | Đă lưu IP  

Chương III - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải của OSHO do Thích Nữ Minh Tâm dịch

 

 

Chương 3 - Phủ Định Tri Thức

 

 

Tri thức là bệnh ung thư, là cái chết, là sự nguyền rủa. Chính qua cái lớp vỏ tri thức đó mà con người bị chia cắt ra với  đại thể. Tri thức tạo ra khoảng cách. Anh bắt gặp một cánh hoa dại trên triền núi, anh không biết cánh hoa đó là hoa ǵ, trí óc anh không hé ra một chút nhận thức nào, trí óc anh im lặng.

 

Anh nh́n đoá hoa, anh thấy đoá hoa, nhưng không có một ánh sáng tri thức nào loé lên – đó, đó chính là sự huyền nhiệm, đó chính là bí mật. Đoá hoa có mặt ở đó, anh có mặt ở đó. Chính qua sự huyền nhiệm, anh không bị chia cắt, anh đă bắc ngang được nhịp cầu nối liền cùng đại thể. Nhưng nếu anh nhận thức đây là hoa hồng hay hoa vạn thọ hay là cái hoa ǵ ǵ đi nữa, cái “nhận biết” đó liền cắt đứt nhịp cầu. Cánh hoa ở đó, anh ở đây, nhưng không có một cây cầu nào hết – anh biết rồi đó! Tri thức tạo ra khoảng cách. Anh càng sử dụng tri thức bao nhiêu, khoảng cách với Chân Ngă càng lớn bấy nhiêu; anh càng ít sử dụng tri thức th́ khoảng cách nhỏ dần hơn. Và nếu anh không nhận thức ǵ cả, ngay giây phút anh nh́n một sự vật, sẽ không có một khoảng cách nào, v́ anh chính là cây cầu, anh chính là cây cầu.

 

Anh yêu thương một phụ nữ hay một người phụ nữ nào đó yêu một người đàn ông – ngay cái giây phút, cái ngày mà t́nh yêu bùng vỡ trong anh, trong họ, không có một khoảng cách nào dấy khởi, chia cắt. Chỉ có sự huyền nhiệm, chỉ có sự bàng hoàng sung sướng, chỉ có sự hứng thú, chỉ có sự xuất thần, hạnh phúc – nhưng tuyệt nhiên không có bước chân của Tri Thức. Anh không biết người phụ nữ đó là ai và anh cũng không màng tới. Không có tri thức nên không có một cái ǵ chia đôi được anh. Đó chính là Cái Đẹp trọn vẹn nhất của t́nh yêu thuở ban đầu. Và rồi anh sống với người phụ nữ đó chỉ có 24 tiếng đồng hồ thôi: nhận thức dấy khởi lên. Bây giờ anh đă có một vài ư tưởng về người phụ nữ đó, đối tượng t́nh yêu của anh: anh biết cô ta là ai, anh đă có một h́nh ảnh, một nhân dáng trong anh. Chỉ có 24 tiếng đồng hồ thôi đă tạo thành quá khứ. 24 tiếng đồng hồ đó đă để lại dấu ấn trong tiềm thức, và rồi anh nh́n lại cũng người phụ nữ đó, giờ không c̣n ǵ là bí mật nữa, không c̣n ǵ ǵ hấp dẫn nữa, không c̣n ǵ là hứng thú, háo hức nữa. Anh đă biết người đó rồi, anh đă tụt xuống đồi rồi, cái đỉnh cao đó đă mất, không c̣n. Có một triết gia nói: “Dù là tuyệt thế giai nhân đi nữa, chỉ qua ngày hôm sau, cũng đă phai lạt, không c̣n quyến rũ, hấp dẫn nữa!”

 

Hiểu được điều đó là anh đă hiểu được rất nhiều. Hiểu được là tri thức chia rẽ sự thật, tri thức gây nên khoảng cách là hiểu được bí mật của thiền định. Thiền định là trạng thái của phi tri thức. Thiền định là vùng không gian trong vắt phẳng lặng, không bị vẩn đục hay khuấy động bởi tri thức.

 

Đúng vậy, có một câu truyện trong Kinh Thánh đă nói đúng rằng con người đă rơi ṭm xuống hố thẳm khi ăn phải trái cây tri thức. Không có một kinh điển nào trên thế giới này có thể vượt qua được ư nghĩa của tích truyện đó. Cái ẩn dụ đó là câu nói cuối cùng; không có một ẩn dụ nào đạt tới chiều cao nội tâm sâu như ẩn dụ Trái Cấm Tri Thức đó trong Kinh Thánh.

 

Nh́n chung th́ có vẻ thực là phi lư khi nói con người đă bị sai lệch, lăn ṭm xuống bởi lớp màn tri thức. Có vẻ thực phi lư bởi v́ luận lư là một phần của tri thức. Luận lư bảo bọc, nâng đỡ nhận thức. Có vẻ thực phi lư v́ luận lư là cội rễ chính, là lư do chính của sự thất bại của con người. Người nào luôn sống trong luận lư tuyệt đối, luôn luôn tỉnh trí, người nào không cho phép bất kỳ một luận lư nào xảy đến trong đời, kẻ đó chính là một kẻ điên. (*người dịch đưa thêm cho bạn đọc dễ hiểu: ví dụ bạn nói: 1+1=2 (luận lư); nhưng người dịch có thể nói: 1+1=3 (v́ một người cha cộng với người mẹ sanh ra một đứa con là ba người); hay có thể là 1+1=1 (sự hợp nhất của đại ngă, chỉ có một, không hai).

Sự tỉnh trí, lành mạnh cần phải cân bằng bởi sự không tỉnh trí, luận lư cần phi luận lư cân bằng. Những điểm đối xứng gặp nhau và cân bằng. Người duy lư là kẻ sống vô lư nhất - bởi v́ hắn ta sẽ vuột mất rất nhiều. Thực tế, hắn đă và tiếp tục mất đi tất cả những cái đáng yêu, đáng sống mà cuộc đời ban tặng cho hắn; hắn không bao giờ hưởng được Chân Thiện Mỹ của ḍng sống. Đó là sự thực! Hắn chỉ biết tán dóc tầm phào qua ngày đoạn tháng; cuộc đời hắn thật vô vị, tẻ nhạt. Hắn hoàn toàn là một con người trần tục.

 

Cái ẩn dụ trong Kinh Thánh đó mang một ư nghĩa nội tại thực sâu xa, rộng lớn. Tại sao con người lại bị rơi rụng, hụt hẫng v́ tri thức? Bởi v́ tri thức gây tạo nên khoảng cách, bởi v́ tri thức tạo ra “Tôi” và “Anh”, bởi v́ tri thức tạo ra “chủ thể” và “khách thể”,  “năng chi” và “sở chi”, “năng quán” và “sở quán”. Tri thức căn bản của nó là loại bệnh tâm thần phân liệt, nó cấu tạo ra sự chia rẽ, phân tích. Và rồi không có một cách nào để có thể bắc ngang được một nhịp cầu. Đó là lư do v́ sao người ta ngày càng thông thái, học thức chừng nào, th́ khả năng tiếp cận thực tế hay tâm linh càng giảm bớt đi chừng đó.

 

Chúa Giê Su đă có lư khi phán xét rằng: “chỉ có trẻ thơ mới được vào Thiên Đàng . . . chỉ có trẻ thơ mà thôi”.

 

Trẻ thơ có những đặc tánh, phẩm chất ǵ mà các anh, người lớn chúng ta đă mất.

 

Trẻ thơ có phẩm chất của Phi Tri Thức. Một đứa bé sống thực vô tư, ngây thơ và thánh thiện. Nó ngạc nhiên nh́n vạn sự, đôi mắt của nó thực vô cùng trong sáng. Nó nh́n sâu vào sự việc nhưng nó không có sự phán xét phân chia cũng không dấy lên một tư tưởng nào. Nó không dự tính ǵ cả, từ đấy nó sẽ thông suốt rơ ràng mọi sự.

 

Ngày hôm trước, chúng ta đă nói về sự phân biệt giữa thực tế và Chân Lư. Đứa bé nhận biết được Chân Lư, nhưng anh th́ chỉ hiểu biết được thực tế. Thực tế là cái mà anh tạo tác ra chung quanh con người anh, Chân Lư đơn giản như nó là; c̣n thực tế là cái mà anh vừa nhận thức – đó là cái tư tưởng của anh về Chân Lư.

 

Thực tế chứa đựng những sự việc và tất cả sự sự việc việc đó đều chia rời; song Chân Lư chỉ chứa đựng một năng lực vũ trụ. Chân Lư chỉ có một, thực tế th́ nhiều. Thực tế là quần hợp, Chân Lư là hợp nhất.

 

Trước khi chúng ta đi vào phần chánh kinh, chúng ta cần nên biết cơ bản là tri thức thật đáng nguyền rủa.

 

J.Krishnamurti đă nói: “Phủ đinh là im lặng”. Nhưng phủ định cái ǵ cơ chứ? - Phủ địn tri thức, phủ định sự bận rộn chiếm ngự trong nội tâm anh; để tạo ra một không gian không bị ràng buộc giới hạn. Một khi anh được thong dong thảnh thơi, anh sẽ hoà điệu được trong đại thể - nhưng khi anh bị ràng buộc, anh đă bị văng ra khỏi nhịp hoà điệu sống đó. V́ thế từ đó, bất cứ lúc nào anh có thể chạm tới được cái khoảnh khắc im lặng tột cùng đó, anh sẽ bơi lội được trong niềm hỷ lạc vô biên. Trong giây phút im lặng không mảy may xao động đó, cuộc đời mới thực có ư nghĩa làm sao, ngay cái giây phút im lặng đó, đời sống mới có một chiều cao vượt ngôn ngữ. Ngay cái giây phút đó, ngay cả khi cái chết thực sự xảy đến cho anh, cho tôi, cho người, đời sống vẫn là một điệu luân vũ, một sự chào đón nồng nhiệt, một buổi tiệc mừng, bởi v́ trong cái giây phút đó, không có ǵ ngoài hỷ lạc. Giây phút đó là ân sủng, là hỷ lạc, là thánh thiện, là liễu đạo.

 

Tri thức cần phải bị phủ nhận, chối bỏ; nhưng không phải v́ tôi nói như vậy, hay v́ J.Krishnamurti nói như vậy, v́ Đức Phật nói như vậy mà anh làm theo. Nếu anh phủ định tri thức v́ tôi nói như vậy, v́ anh nghe theo lời tôi, th́ anh “bị kẹt” rồi, những ǵ tôi nói đó là thế chấp vào cái tri thức vừa bị anh quăng bỏ đi, anh vứt bỏ cái này nhưng lại vác cái khác trám lấp vào chỗ trống tri thức đó. Và rồi anh bám víu vào những ǵ tôi nói, anh chấp thủ, anh khư khư ôm chặt nó. Anh quăng bỏ những thần tượng cũ của anh đi và thay thế cái mới vào – nhưng thực ra đó là tṛ chơi cũ nhưng với danh từ mới, tư tưởng mới, ư nghĩ mới mà thôi. Đó là “tṛ hề rượu cũ b́nh mới”. Như vậy th́ làm thế nào để phủ định tri thức? Dễ thôi, anh ạ, anh không cần phải thay thế ǵ cả, không cần phải trám lấp ǵ cả, không cần phải vay mượn ǵ cả. Anh chỉ cần nh́n rơ sự kiện, nh́n thấu đáo là tri thức tạo ra khoảng cách; tri thức tạo ra chia rẽ - anh nh́n sự kiện đó một cách nghiêm chỉnh, toàn diện, minh bạch, liễu đạt rơ ràng. Chỉ thế thôi! Chỉ thế thôi! Anh không cần phải vay mượn thế chấp bất cứ cái ǵ vào chỗ tri thức cả; cường độ mănh liệt của cái nh́n toàn triệt vấn đề đó đủ là ngọn lửa đốt cháy cái tri thức thành tro bụi rồi. Cường độ của cái nh́n toàn triệt đó được gọi tên là “Nội Tri”. Đúng, chính ngọn lửa nội tri đó sẽ đốt cháy tri thức, không có ǵ thay thế được – và chân không hiển hiện lộ bày ra trước cặp mắt trí tuệ của anh. Đó chính là chân lư tuyệt đối, một chân lư không bị vạy vọ, không méo mó, không có sự tích chứa tồn luỹ.

 

Anh phải “nh́n” cái ǵ tôi nói, anh đừng học cái ǵ tôi nói. Anh ngồi ở đây cạnh tôi mỗi ngày, anh nghe tôi nói thôi, anh đừng bắt đầu sưu tập những ǵ tôi nói. Ở đây, anh chỉ nghe tôi nói, “hăy lắng nghe”, hăy lắng nghe, đừng thu thập ǵ cả. Anh nghe tôi nói, và anh sẽ nghiệm thấy một thể nghiệm nội tại. Anh nên nghe tôi nói với tất cả năng lực của anh, với tất cả nhiệt tâm của anh, với tất cả tỉnh thức của anh, với trọn vẹn con người của anh, càng nhiều, càng trọn vẹn, càng tốt; nếu anh có thể làm được như vậy. Với tất cả sự nhiệt thành tỉnh thức đó, anh sẽ thấy được điểm đích anh muốn, và chính “cái thấy” đó là sự “chuyển hoá”. Anh không cần phải làm ǵ với sự chuyển hoá đó mà chính sự chuyển hoá nội tâm anh sẽ đem lại sự biến đổi. Nếu có một sự nỗ lực cưỡng cầu gượng ép nào khởi lên trong anh, chứng tỏ anh đă vuột mất rồi vậy cơ hội chuyển hoá. Nếu ngày mai anh trở lại và nói với tôi rằng: “À, tôi đă hiểu tri thức là một sự ghê tởm, rằng tri thức tạo ra khoảng cách. Vậy th́ bây giờ, làm cách nào để buông bỏ nó?” Khi anh hỏi tôi câu hỏi đó, anh đă xổng mất sự chuyển hoá rồi. Một khi tôi hỏi “làm sao, thế nào, tại sao v. v . . .” khởi lên, anh không c̣n cơ hội nắm bắt được chân lư. Câu hỏi “làm sao, thế nào, tại sao” không thể vọng khởi được, bởi v́ “làm sao, thế nào” đó, bản thân nó đă là tiền đề cho nhận thức, cho tri giác. Nó đ̣i hỏi nhiều tri kiến để giải quyết, để định nghĩa vấn đề. Cái câu hỏi “tại sao, thế nào, làm sao” đó đ̣i hỏi nhiều kỹ thuật, nhiều phương pháp là: “Phải làm ǵ bây giờ? Phải làm sao? Phải vạch ra phương án, hành động ǵ?” v. v và v. v. V́ thế, càng hỏi, càng mất, càng t́m, càng xa.

 

(*Người dịch đưa thêm: Chư Tổ đă dạy: “Đại nghi đại ngộ” – nhưng ở đây, chữ “nghi” và chữ “ngộ” có nghĩa là càng khởi lên thắc mắc, nghi ngờ, càng nhiều ngộ nhận, sai lầm. Ư nghĩa này khác hoàn toàn ư nghĩa “Đại nghi đại ngộ” trong công án nhà thiền là nghi t́nh càng lớn th́ sự chứng đạt càng thâm sâu.)

 

Một ngọn lửa tri giác nội tại đă đủ lắm rồi, nó không cần một sự cố gắng nỗ lực nhỏ nhoi nào nữa. Ngọn lửa tỉnh thức đó đă quá đủ để đốt cháy tất cả cái khối tri thức cồng kềnh mà anh đang ỳ ạch mang vác trên vai. Anh hăy nh́n điểm đích đó! Hăy nh́n thôi!

 

Anh hăy nghe tôi nói. Anh hăy đi với tôi. Hăy nghe tôi nói, hăy nắm lấy tay tôi và cùng tôi bay vào vùng chân không mà tôi đang giúp anh đạt tới. Hăy nh́n thấy những ǵ tôi nói, đừng vội tranh căi. Đừng nói có, đường nói không, đừng nói đúng, đừng nói sai, đừng đồng ư hay không đồng ư. Đừng khởi lên một ư nghĩ, tư tưởng nào cả trong anh. Anh chỉ cần hiện diện, có mặt tại đây với tôi ngay trong giây phút này và bất thần Ánh Sáng Thuần Nhất Nội Tri bứng sáng trong anh.

 

Nếu anh nghe tôi nói với toàn vẹn sự chú tâm của anh,và với sự chú tâm nhé, tôi không nói là tập trung tư tưởng; “với tất cả sự chú tâm” có nghĩa là anh nghe với năng lực tỉnh giác, chứ không phải với sự hoạt động của cái đầu óc nặng đầy nhận thức dớ dẩn phù phiếm của anh, anh đang nghe với sự nhậm lẹ, tỉnh thức, cởi mở, khôn ngoan.

 

Anh đang ở đây, bây giờ, với tôi. Đó là sự chú tâm: anh không có mặt ở đâu cả, chỉ ngay ở đây, lúc này. Trong tâm trí anh, không có sự so sánh, đối chiếu những ǵ tôi nói, với lề lối suy tư cũ rích của anh. Anh không phán xét, anh không so sánh. Trong nội tâm anh không có sự vọng khởi, so sánh, phán xét cái ǵ đúng, cái ǵ sai, đúng bao nhiêu, thế nào, sai bao nhiêu, thế nào . . .

 

Chỉ mới ngày hôm kia, tôi nói chuyện với một người đi t́m đạo. Anh ta có phẩm chất của một người nhiệt thành cầu đạo, nhưng anh ta chuyên trở tri thức nhiều quá. Khi tôi tiếp xúc, trao đổi tṛ chuyện với anh ta, mắt anh ta đẫm lệ. Tâm hồn tôi anh cởi mở hẳn ra và chan chứa chân t́nh – nhưng bỗng nhiên đầu óc, tri thức anh ta nhảy vọt vào và phá huỷ hết tất cả nét đẹp nội tâm đáng yêu đó. Anh ta vừa mới chuyển hướng về tâm và khai phóng tâm thức, th́ nhận thức nhẩy xổ vào lập tức. Những giọt lệ vừa mới trào ra khoé mắt, sắp sửa lăn tràn, chợt biến mất. Đôi mắt anh ta bỗng ráo hoảnh. Cái ǵ vậy? Cái ǵ đột biến xảy ra vậy? Th́ ra tôi đă nói một cái ǵ mà anh không thể đồng ư chấp nhận. Anh ta đă đồng ư với tôi trên một vài phương diện, một vài điểm nào đó thôi. Và rồi tôi đă chạm đến cái gốc cơ bản Do Thái giáo của anh ta, đă phản đối lại những ǵ Kabbala nói, do đó, tất cả thay đổi. Anh ta đă phản ứng lại với tôi như thế này: “Những ǵ ông nói vừa rồi đều đúng. Duy có một điểm là theo ông “Thượng Đế không có mục tiêu ǵ cả, rằng vạn hữu vũ trụ này hiện hữu chỉ là một nhân duyên, một t́nh cờ ngẫu nhiên. Điểm đó tôi không đồng ư, bởi v́ Kabbala đă nói khác, Kabbala nói rằng: “Cuộc đời này có mục đích, Thượng Đế có mục đích, rằng Thượng Đế đang dẫn đường chúng ta về một định mệnh nhất định, đó là trạm đích mà chúng ta phải đến”.

 

Anh ta không nh́n nhận rằng anh ta đă sẩy mất cái giây phút trực nhận chân lư bởi v́ sự so sánh đă chiễm chệ chế ngự tư tưởng anh. Có cái ǵ mà phải nêu Kabbala ra ở đây để so sánh? Tôi quan tâm quái ǵ đến Kabbala để phải né tránh? Có cái quái ǵ liên hệ giữa Kabbala và tôi? Khi anh ở bên tôi, với tôi, hăy dẹp qua một bên tri thức anh về Kabbala, về Du Già, về Mật Tông, về cái này cái nọ. Khi anh ở với tôi, hăy có mặt tại đây với tôi. Nếu anh hoàn toàn ở với tôi . . . và tôi không nói là anh đồng ư hay không đồng ư đâu nhé, hăy nhớ kỹ như vậy. Tôi không nói là anh phải đồng ư chấp nhận quan điểm của tôi; không có cái ǵ không phải đồng ư hay không đồng ư ǵ cả.

 

Khi anh nh́n đoá hoa hồng, anh đồng ư hay không đồng ư với nó? Khi anh nh́n buổi b́nh minh sớm mai, anh đồng ư hay không đông ư? Khi anh nh́n trăng sáng buổi tối, anh chỉ nh́n, đơn giản chỉ nh́n thôi. Kệ, mặc anh thấy hay không thấy những hiện tượng trước mặt, không có cái ǵ phải đồng ư hay không đồng ư. Dù anh có đồng ư th́ mặt trời, mặt trăng vẫn ở đó, dù anh không đồng ư th́ vũ trụ sơn hà vẫn thế; dù anh đồng ư hay không đồng ư, hoa vẫn nở, gió vẫn thổi, mây vẫn bay. . . Như vậy, hăy có mặt tại đây với tôi; đó là phương cách “có mặt” với người thầy, với một vị đạo sự. Anh chỉ có mặt với tôi vậy thôi, đơn giản vậy thôi. Tôi không t́m cách thuyết phục anh điều ǵ cả. Tôi không t́m cách thay đổi, cải giáo anh cái ǵ cả về lư thuyết, về triết lư, về tín điều, về thánh đường nào cả. Không! Tôi chỉ đơn giản chia xẻ với anh cái ǵ hiện hữu, cái ǵ đang xảy ra trong tôi, và trong sự chia xẻ hoà điệu đó, nếu anh đồng ư dự phần, th́ sự tỉnh giác đó cũng xảy đến cho anh. Đó là sự lây nhiễm. Đó là sự chuyển hoá nội tâm.

 

Khi tôi nói tri thức là ghê tởm, và rồi anh liền dấy lên sự đồng ư hay không đồng ư - thế là anh đă vuột mất cơ hội rồi! Anh chỉ nên nghe, chỉ nên nh́n, chỉ nên thấy và thể nhập vào toàn bộ tiến tŕnh tri thức ấy th́ anh mới nhận diện được là tri thức tạo ra khoảng cách, tri thức là rào cản như thế nào, tri thức xen giữa như thế nào, tri thức bành trướng như thế nào, sự vô tư thánh thiện đă mất như thế nào bởi tri thức, đời sống trở nên vớ vẩn, vô vị nhàm chán, tẻ nhạt như thế nào v́ tri thức. Sự huyền bí đă mất, và với sự biến mất của huyền bí, thượng đế, Chúa cũng biến mất theo luôn.

 

Sự huyền bí biến mất v́ anh nghĩ là anh đă biết. Một khi anh đă “biết” rồi, th́ có c̣n ǵ là bí mật nữa? Bí mật chỉ bí mật khi anh không biết, chứ đă biết rồi th́ c̣n ǵ gọi là bí mật nữa, phải không? Và hăy nhớ kỹ rằng con người không biết cái ǵ cả! Tất cả những ǵ chúng ta thu thập được đều là cỏ rác. Cái giá trị tuyệt đối vẫn c̣n xa tầm tay với. Những ǵ chúng ta thu lượm đây chỉ toàn là dữ kiện, sự thực hay chân lư vẫn không chạm tới được dù chúng ta đă nỗ lực thật nhiều.

 

Kinh nghiệm thực chứng đó không những chỉ là sự thể nghiệm của Phật, của Krishna, của Krishnamurti và Ramana, mà ngay cả Edison, Newton, Albert Einstein nữa. Đó là kinh nghiệm của các thi hào, các hoạ sĩ, các vũ công. Tất cả những nhà thông thái nhất trên thế giới đều công nhận một điểm là: chúng ta càng hiểu biết th́ chúng ta càng thấu đáo rằng đời sống là một giá trị tuyệt đối. Cái tri kiến của chúng ta không thể nào tiêu huỷ được sự bí mật của đời sống. Có những người dở hơi, ngớ ngẩn mới vỗ ngực cho rằng họ đă biết bí mật cuộc đời với mớ kiến thức thiển cận nhỏ hẹp đó của họ. Quả thực, chỉ có người tầm thường mới bám víu vào tri kiến; c̣n người thông thái sẽ vượt lên tầm nhận thức kiến giải đó. Người thông thái chỉ sử dụng kiến thức mà thôi - thực ra th́ kiến thức cũng hữu dụng ở một mặt tương đối nào đó – và họ biết rơ rằng cái Thức tàng ẩn bên trong vẫn c̣n tàng ẩn, che dấu, không hiển lộ. Chúng ta cứ tiếp tục truy t́m, chúng ta cứ tiếp tục nghiên cứu, chúng ta cứ tiếp tục t́m hiểu, nhưng Thượng Đế, Chúa vẫn không thấu đáo được.

 

Anh hăy nghe với sự chú tâm, với tổng thể con người anh, với nội tâm. Dưới chiều hướng đó, anh sẽ thấy được một cái ǵ đó, và chính cái thấy đó chuyển đổi anh. Anh đừng hỏi tại sao?

 

Đó là ư nghĩa câu nói của Krishnamurti: “Phủ định là im lặng”. Nội tại phủ nhận. Và một khi một cái ǵ đó bị phủ nhận và không có cái ǵ được thay thế vào th́ hoàn toàn chỉ c̣n sự Im Lặng - bởi v́ đó là khoảng không. Im lặng hoàn toàn v́ cái cũ bị thải hồi và không có cái mới thay vào. Sự im lặng đó, Phật đặt tên cho nó là Chân Không. Sự im lặng đó là Không, Chân Không Diện Hữu. Và chỉ có Chân Không Diện Hữu mới có thể kiến lập được trong thế giới của Chân Lư.

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 87 of 143: Đă gửi: 05 May 2006 lúc 12:37am | Đă lưu IP  

 

Chào bạn Hướng Nội !

 

Bài viết của bạn rất hay ! Chỉ toàn nói cái đúng - cái chân lư thôi ! Biết nói ǵ nữa !

 

Mời bạn tiếp tục trao đổi cùng mọi người !

 

Chúc bạn vui vẻ, an lạc !

 

 

OnlyOne_0

-----------------------

'' không có trí tuệ và không có chứng đắc ''

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 88 of 143: Đă gửi: 06 May 2006 lúc 12:21am | Đă lưu IP  

Chương III - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải của OSHO do Thích Nữ Minh Tâm dịch

 

Anh hăy nghe với sự chú tâm, với tổng thể con người anh, với nội tâm. Dưới chiều hướng đó, anh sẽ thấy được một cái ǵ đó, và chính cái thấy đó chuyển đổi anh. Anh đừng hỏi tại sao?

 

Đó là ư nghĩa câu nói của Krishnamurti: “Phủ định là im lặng”. Nội tại phủ nhận. Và một khi một cái ǵ đó bị phủ nhận và không có cái ǵ được thay thế vào th́ hoàn toàn chỉ c̣n sự Im Lặng - bởi v́ đó là khoảng không. Im lặng hoàn toàn v́ cái cũ bị thải hồi và không có cái mới thay vào. Sự im lặng đó, Phật đặt tên cho nó là Chân Không. Sự im lặng đó là Không, Chân Không Diện Hữu. Và chỉ có Chân Không Diện Hữu mới có thể kiến lập được trong thế giới của Chân Lư.

 

Tư tưởng không thể đứng vững, không thể kiến tạo ở đây. Tư tưởng chỉ hoạt động trong thế giới vật thể, bởi v́ tư tưởng cũng là một dạng vật thể - dù thật nhỏ nhiệm, thật nhỏ nhiệm vi tế, nhưng tư tưởng cũng vẫn là vật chất. V́ thế người ta có thể thâu vào máy tư tưởng hay ư nghĩ, v́ tư tưởng được chuyển thể qua lời nói. Đó là lư do tư tưởng có thể chuyển tiếp, có thể chuyên chở. Tôi có thể ném tư tưởng của tôi vào anh; anh có thể nắm giữ lấy nó. Anh có thể chiếm hữu nó; nó có thể ban tặng và có thể bị chiếm đoạt. Bản chất của tư tưởng là lưu chuyển, là thay đổi, là hoán cải, v́ nó là vật chất. Nó là một hiện tượng vật chất.

 

Chân Không không thể ban tặng. Chân Không không thể quăng ném vào anh. Anh có thể dự phần vào Chân Không, anh có thể phóng tới, chạy hút tới Chân Không, nhưng không có một ai có thể ban tặng Chân Không cho anh. Chân Không không thể luân chuyển từ người này sang người kia, từ vật này sang vật nọ, và chỉ có Chân Không mới kiến tạo trong thế giới Chân Lư mà thôi. Chân Lư chỉ được nhận diện khi trí năng vắng bóng. Muốn thấu triệt được Chân Lư th́ trí năng phải bị loại trừ. Phải dẹp quách cái trí năng nhiều chuyện đó đi! Nó phải im, phải bất động, phải chết đứng.

 

Tư tưởng không thể diễn đạt được chân lư, song chân lư có thể kiến tạo qua tư tưởng. Anh không thể đạt tới chân lư do sự suy nghĩ, nhưng khi anh đạt được chân lư, anh có thể sử dụng tư tưởng theo chức năng và đúng vị thế của nó.

 

Đó là những ǵ mà tôi đang ứng dụng, đó là những ǵ mà Phật đă ứng dụng, đó là tất cả những ǵ mà các vị đạo sư đă ứng dụng.

 

Những ǵ tôi đang nói đây chỉ là tư tưởng, song đằng sau cái tư tưởng đó, là Chân Không. Cái Chân Không đó không phải được sản xuất ra do tư tưởng, Chân Không vượt ra ngoài tầm suy luận, tư tưởng. Tư tưởng cũng không thể chạm đến chân lư; ngay chỉ nh́n chân lư thôi, tư tưởng cũng bất lực, không làm được. Anh đă từng quan sát một hiện tượng nào chưa? – đó, anh thấy đấy, anh không thể nào suy tư về Chân Không được, anh không thể nào tạo ra Chân Không nhờ vào tư tưởng được. Anh không thể suy nghĩ về Chân Không, nó không thể dùng suy tư lập luận mà hiểu được. Nếu anh có thể suy nghĩ về Chân Không, th́ đó chẳng phải là Chân Không ǵ cả. Tư tưởng phải biến mất th́ Chân Không mới hiển hiện; tư tưởng và Chân Không không bao giờ giao nhau, cả hai là hai con đường song song, không bao giờ gặp nhau ở một trung điểm. Một khi Chân Không đến, th́ tất cả các ẩn dụ sẽ được sử dụng để diễn tả Chân Không.

 

Nội tâm là trạng thái của phi tư tưởng, của sự bặt dứt luồng ư nghĩ. Bất cứ lúc nào anh quan sát một cái ǵ, anh phải luôn luôn thấy nó với tâm thái phi tư tưởng, tâm vẳng lặng, tâm ngừng bặt mọi dấu vết của ḍng suối ư tưởng miên động. Cũng vậy, ở đây, nghe tôi nói, có mặt ở đây với tôi, đôi lúc anh sẽ thấy. Nhưng những giây phút đó là khoảng cách, là khoảng trống. Tư tưởng này bay mất, tư tưởng khác không đến – và đó chính là khoảng trống giữa hai chập tư tưỏng; và ngay cả trong cái khoảng trống đó, có một cái ǵ loé lên, có một cái ǵ vang vọng, y như có người nào đó đánh trống. Cái trống th́ trống rỗng bên trong, cho nên người ta đánh trên mặt trống. Cái khoảng không trong ḷng cái trống rung chuyển và phát lên âm thanh. Cái âm thanh hùng hồn được xuất phát ra từ cái trống rỗng bên trong ḷng trống. Cũng vậy, khi anh ngưng bặt được làn sóng vọng tưởng, khi ḍng tư tưởng trong anh tịch lự, th́ sẽ có một cái ǵ đó tức khắc hiển lộ. Và rồi anh sẽ hiểu được, sẽ thấy được những ǵ tôi đang nói đây. Nó không phải, không c̣n là những từ ngữ được phô bày nữa, mà toàn thể là Ánh Sáng Nội Tri, là sự Chuyển Hóa, là cái Thấy thẩm thấu. Anh nh́n sự chuyển hoá đó, anh chia sẻ với tôi cảm nghiệm đó của anh.

 

Nội tri là trạng thái phi tư tưởng, không tư tưởng. Nó là khoảng cách trong sự diễn tiến di dịch của ḍng tư tưởng, và trong khoảng cách nhỏ nhiệm tí ti đó, chân lư hé nụ hoa hàm tiếu.

 

Từ ngữ tiếng Anh “Empty” (trống không) bắt nguồn từ căn nguyên nghĩa là “không ràng buộc, không vướng bận, nhàn rỗi”. Đó là một danh từ đẹp nếu anh hiểu đúng nghĩa cội gốc của nó. Căn rễ của danh từ “empty - trống không” này rất hàm xúc; nó có nghĩa là không vướng bận, không ràng buộc trên mặt tinh thần chứ không phải là thể xác hay vật chất. Nói theo danh từ nhà Phật, “không vướng bận” đây hàm ư là “không đắm nhiễu, không thủ chấp, không bị hạn cuộc bởi không gian hay thời gian”.

 

Anh hăy nhớ kỹ là khi tôi nói “không vướng bận, không ràng buộc” có nghĩa là một sự thư thái hồn nhiên, không căng thẳng, không di động, không ham muốn t́m cầu, không đi về đâu - chỉ Ở Đây, Ngay Tại Đây, Ngay Bây Giờ. Một tâm hồn thư thái, một trí năo không tồn đọng dồn ứ, đó là sự hiện hữu trong trinh, sự có mặt tràn đầy trọn vẹn – và tất cả mọi nhiệm màu huyền bí sẽ phát sinh từ khối hiện hữu vẳng lặng trong trinh đó. Vạn hữu chỉ nảy sinh từ cái “Không” tuyệt đối đó.

 

Những cây xanh kia, những ngôi sao kia, chúng ta, vạn loài, chư Phật... tất cả đều bắt nguồn và phát sinh từ khối Chân Như đó. Trong đó, anh là một với Chúa, anh là Chúa, là Thượng Đế.

 

Nếu anh bị ràng buộc, anh sẽ rơi xuống và bị hất tung khỏi vườn địa đàng. Nếu anh hoàn toàn khai phóng, anh đặt chân và sẽ bước vững chăi trên mảnh đất đầy hoa gấm của khu vườn thần tiên.

 

Anh đă trở về nhà!

 

Khi tâm trí anh không bị ràng buộc bởi thực tế, tư tưởng, vật chất hay ǵ ǵ đi nữa, th́ chân lư mới biểu hiện. Chỉ có trong Chân Không, sự gặp gỡ giao lưu mới nảy sinh. Chỉ có trong Chân Không, anh mới mở ḷng ra đón nhận chân lư và chân lư mới thể nhập vào trong anh. Chỉ có trong Chân Không, anh mới có thể hoài thai chân lư.

 

Tâm trí con người có ba tầng lớp.

 

Lớp thứ nhất là sự tồn chứa và ư thức. Anh luôn luôn cưu mang nội dung trong tâm trí anh - một tư tưởng nảy sinh, một khao khát vọng khởi, sự tức giận, tham đắm, ham mê. Anh luôn luôn có một cái ǵ đó trong tâm trí, và nó không bao giờ rảnh rỗi, nó luôn luôn bận rộn hoạt động. Ngày nọ qua ngày kia, tâm trí anh lăng xăng rộn rịp như xe cộ lưu thông trên xa lộ, xe nọ bám sát xe kia, chạy như mắc cửi, không dừng nghỉ. Khi anh ngủ, khi anh thức, tâm trí anh vẫn không ngừng hoạt động. Tuy nhiên, anh không nhận thức nó rơ rệt khi anh thức, anh gọi nó là tư tưởng, ư nghĩ; khi anh ngủ, anh đặt tên nó là mộng – song thực ra, tâm thức vẫn luôn trong tiến tŕnh hoạt động liên tục. Giấc mộng th́ có vẻ sơ khai nguyên thuỷ hơn, chỉ có thế thôi - bởi v́ tâm thức diễn đạt sự việc qua h́nh ảnh. V́ thế, trong những cuốn sách viết cho trẻ con, ta thấy những h́nh ảnh, mầu sắc, những ví dụ cụ thể, v́ đứa trẻ chưa khôn lớn, chỉ đoán nghĩ sự vật qua h́nh ảnh mà thôi. Và qua h́nh ảnh, trẻ con sẽ  học những từ ngữ - và từ từ, qua những h́nh ảnh thu hẹp nhỏ dần đi tác dụng và biến mất.

 

Con người nguyên thuỷ cũng sử dụng h́nh ảnh. Ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người là ngôn ngữ tượng h́nh. Tiếng Trung Hoa là dạng ngôn ngữ tượng h́nh: nó không có mẫu kư tự A, B, C. Nó là một trong những cổ ngữ.

 

Ban đêm, anh trở về đời sống nguyên thuỷ, anh quên mất cái tinh vi xảo nguỵ của anh lúc ban ngày và anh bắt đầu suy diễn nghĩ ngợi bằng h́nh ảnh – nhưng cả hai chỉ là một, cả hai giống nhau.

 

Và ở đây, sự phân tích nội tâm của ông bác sỹ tâm lư trị liệu thực là có giá trị - v́ ông ta đi sâu vào giấc ngủ của anh để t́m ṭi phân tích. Rồi, sự thực bộc lộ rơ ràng hơn, anh nguyên thuỷ nhiều hơn, anh sơ khai nhiều hơn, anh đơn thuần, giản dị nhiều hơn, anh không t́m cách trốn tránh hay lừa dối người nào cả, anh thành thực xác tín nhiều hơn. Lúc ban ngày, anh luôn tṛng lên cổ anh một nhân cách khác, một biểu tượng khác, một h́nh ảnh khác, anh luôn ẩn núp đằng sau những tấm mặt nạ người đó, những lớp nhân cách đó. Thật khó mà t́m ra con người thật của anh (hay bất cứ người nào khác). Anh phải đào sâu, lục lọi kỹ, đào bới thật sâu dưới những lớp nhăn hiệu đó, và thực ra càng t́m, anh càng cảm thấy đau, và con người anh cưỡng chống lại. Nhưng ban đêm, khi không có ai, khi anh trút bỏ lớp áo quần trên người ra, anh trút bỏ luôn những lớp mặt nạ nhân cách và anh sống thực với chính anh. Anh không cần phải che dấu nữa, v́ anh không tiếp xúc với ai cả  vào lúc này, anh đang sống một ḿnh với anh, anh đang ngồi một ḿnh trên giường, trong bốn bức tường đóng kín. Anh không chường mặt ra ḍng đời, anh đang sống trọn vẹn trong thế giới riêng tư của anh. Không có ǵ cần phải che dấu hay giả vờ.

 

Đó là lư do ông bác sỹ tâm lư đang t́m cách đi vào tận trong giấc mộng của anh, bởi v́ trong giấc mộng, anh sẽ hiện h́nh rơ ràng hơn. Song, đó cũng chỉ là hai mặt của một tṛ chơi cũ mà thôi, không có ǵ khác cả. Đó là trạng thái b́nh thường của tâm trí: trí năng và sự tàng chứa, ư thức cộng thêm tiềm tàng.

 

Trạng thái thứ hai của tâm trí là ư thức không tàng trữ một cái ǵ, đó là Thiền. Anh hoàn toàn tỉnh táo, và có một khoảng cách. Không có một tư tưởng xen tạp vào, không có một tư tưởng nào trước mắt anh, anh không ngủ, anh thức đây – nhưng không có một tư tưởng nào dấy động. Đó là cái nghĩa của Thiền.

 

Trạng thái thứ nhất là Tâm, trạng thái thứ hai là Thiền.

 

Và đây là trạng thái thứ ba. Khi kho tàng trữ biến mất, đối tượng khách thể biến mất th́ chủ thể không có cách ǵ đứng vững lâu dài được - bởi v́ cả hai tồn tại với nhau, nương tựa vào nhau để hiện khởi. Cái này là cái nhân của cái kia; cái kia là duyên của cái này. Cả hai cùng có mặt. Nếu không có sự tàng chứa, ư thức không thể đứng vững lâu dài, và cũng không cần phải có ư thức nữa, v́ ư thức là luôn luôn “ư thức về một cái ǵ”. Khi anh nói “ư thức”, anh sẽ được người ta hỏi “về cái ǵ?”. Anh nói “Tôi ư thức về. . .” Do đó, vật thể cần phải có chủ thể để hiện hữu. Một khi vật thể, đối tượng biến mất, th́ chẳng bao lâu chủ thể cũng biến mất luôn.

 

Cái trạng thái thứ ba là Định – không tàng chứa, không ư thức. Nhưng hăy nhớ kỹ là cái không tàng chứa, không ư thức này không phải là trạng thái của phi ư thức. Đó là trạng thái Phi Ư Thức, trạng thái chuyển hóa ư thức. Ư thức đă quay ngược về chính nó, cái ṿng tṛn đă tṛn, 360 độ. Anh đă về nhà. Đây là trạng thái thứ ba, Định, và cái trạng thái định này, Đức Phật gọi nó là Chân Không.

 

Trước hết hăy quăng bỏ cái kho tàng chứa đi, anh sẽ “không” được phân nửa, sau đó ném luôn cái Ư Thức – anh hoàn toàn “rỗng không”. Và cái “hoàn toàn không” đó là cái tuyệt mỹ nhất, đẹp nhất mà có thể xảy đến cho anh, đó chính là ân phước lớn nhất của anh.

 

Trong cái Chân Không đó, trong cái Ngă Không đó, có một sự an toàn và kiên cố trọn vẹn nhất, hoàn mỹ nhất. Anh sẽ vô cùng ngạc nhiên về điều đó - một sự an toàn và kiên cố khi anh không ngờ tới. Tất cả mọi lo sợ sẽ biến mất . . . bởi v́ cái Sợ căn bản là cái ǵ?

 

Nỗi Sợ thâm căn cố đế nhất, căn bản nhất của con người là sợ chết. Những sự sợ hăi khác chỉ là phản ánh lại cái sợ căn bản này mà thôi. Tất cả những cái sợ khác có thể rút gọn lại, có thể gom lại vào một cái sợ này thôi. Sợ chết, cái sợ rằng “một ngày kia, tôi sẽ biến mất khỏi cuộc đời này, một ngày kia, tôi sẽ chết. Tôi đang là tôi đây, và cái ngày cuối cùng đó sẽ tới và tôi sẽ không c̣n là tôi nữa”. Chính cái tư tưởng đó làm chúng ta run sợ; đó chính là sự sợ hăi thực thụ của con người.

 

Để tránh đi sự sợ hăi đó, chúng ta bắt đầu xoay sở t́m cách nào đó, phương pháp nào đó để chúng ta có thể sống lâu hơn. Và chúng ta thử t́m cách bảo đảm cuộc đời chúng ta – chúng ta bắt đầu t́m cách dàn xếp, thoả hiệp, ước lượng, chúng ta bắt đầu trở nên càng lúc càng phải t́m cách bảo đảm đời sống chúng ta thêm an toàn chắc chắn hơn v́ sự sợ hăi đó. Chúng ta bị tê liệt, bởi v́ càng ẩn núp trong sự an toàn, chúng ta càng giảm đi sự linh hoạt, sự sống của chúng ta càng giảm thiểu đi.

 

Cuộc đời hiện hữu trong tranh đua, cuộc đời hiện hữu trong khủng hoảng, cuộc đời cần sự mất an toàn. Cuộc đời lớn mạnh nhanh trên mảnh đất không an toàn bền vững. Khi nào anh cảm thấy bất ổn, th́ anh sẽ trực nhận ra rằng anh càng nhạy bén hơn, anh càng tỉnh giác hơn. Đó là nguyên nhân v́ sao những người giàu có lại có vẻ như đần độn, lừ đừ,thờ thẫn: một dáng vẻ ngớ ngẩn, lù khù bao trùm lấy con người họ. Họ sống trong sự bảo vệ an ninh cá nhân quá mức, họ được bảo vệ quá chu đáo đến nỗi con ruồi cũng khó lọt qua ṿng đai an ninh của họ - v́ thế họ đă mất đi cái tánh chất ghanh đua sống c̣n trong họ. Họ an toàn quá cho nên họ không cần phải thông minh, họ không cần phải vận dụng trí óc để tồn tại, sống c̣n. Họ được bảo vệ quá đáng, quá kỹ, họ an toàn quá - vậy cần ǵ phải tranh đua, thông minh ở đây? Sự thông minh chỉ cần khi phải tranh đua, khi phải sống c̣n, sự thông minh chỉ được kích động bởi sự tranh đua.

 

V́ thế, v́ sợ chết, chúng ta khát khao đi t́m một sự đảm bảo an toàn cá nhân, mong cầu một chương mục ngân hàng tài chánh quân b́nh, một bảo hiểm nhân thọ, một cuộc hôn nhân, một đời sống bền vững, một mái ấm; chúng ta là thành phần của một quốc gia, chúng ta gia nhập vào một hội đoàn chính trị hay gia nhập vào một đoàn thể tôn giáo – chúng ta trở thành những tín đồ Ấn Độ Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo. Đó là những phương cách hầu mong t́m được một sự an ninh, một sự đảm bảo. Đó là những phương cách để t́m thấy một nơi chốn để đi, để tới, để thuộc về - một đất nước, một nhà thờ hay một cơ sở tôn giáo. Chính v́ nỗi sợ hăi đó, những chính trị gia, và các tu sĩ mới khuynh loát được anh. Nếu anh không sợ hăi cái ǵ cả th́ những nhà chính trị và tu sĩ làm sao chống chế chi phối được anh? Chỉ có cách làm sao thoát ra khỏi sự sợ hăi khiến anh phải  t́m sự che trở, bảo vệ nơi các nhà chính trị hay tu sĩ, bởi v́ anh tin rằng các vị này có thể cung ứng, hay ít nhất ra các tu sĩ có thể hứa với anh là anh sẽ được an toàn, anh sẽ được bảo vệ, và chính lời hứa đó đă ràng buộc con người lại với nhau.

 

Một khi anh đă thấu triệt được Chân Không nội tại rồi, th́ anh sẽ không c̣n sợ hăi nữa bởi sự ám ảnh của cái chết. Trong Chân Không, Chết đă có mặt. Trong Chân Không, anh đă biến mất. Vậy làm sao anh có thể sợ hăi? Anh sợ cái ǵ? Anh sợ ai? Và ai là người sợ hăi? Trong Chân Không, tất cả sự sợ hăi đă biến mất, không c̣n. Bây giờ, không c̣n cái ǵ gọi là chết, không c̣n cái ǵ gọi là sợ nữa. Anh sẽ cảm thấy một tính cách như là bất tử, vĩnh hằng, phi thời gian. Chân lư thường trụ. Bây giờ anh không t́m sự an toàn nữa, không cần t́m nữa. Đó là t́nh trạng của một ẩn sĩ. Đó là t́nh trạng mà một người không cần phải là thành viên của một xă hội, một quốc gia, một cơ sở tôn giáo hay bất cứ một cái ǵ đại loại như thế.

 

Anh chỉ là anh, duy nhất là chính anh khi anh không là cái ǵ cả, khi anh không khoác lên con người anh một nhăn hiệu nào, một danh xưng nào dù danh xưng đó rất ư là thánh sống. Anh không cần phải hứa hẹn mà anh cũng không cần ai phải hứa hẹn với anh một điều ǵ. Anh có thể sống trong sự nổi loạn bởi v́ không có ǵ để mất (*người ta nổi loạn v́ muốn cái ǵ mới, nhưng nếu không có cái mất, cái được th́ nổi loạn làm ǵ cơ chứ?) Không ai có thể giết chết được anh bởi v́ anh đă “tự giết chết ḿnh” rồi. Không một ai có thể chiếm đoạt cái ǵ của anh bởi v́ anh đă buông xả tất cả những thứ ǵ có thể có thể lấy được. Bây giờ anh đang sống trong Chân Không, anh là Chân Không. Chính trong Chân Không, anh mới thấy sự an toàn kiên cố trọn vẹn nhất-một sự bền vững nhất- v́ ở đó không có cái ǵ gọi là chết cả; chết không thể hiện hữu trong Chân Không. Và với chết, thời gian cũng biến mất luôn. Chết không hiện hữu th́ tất cả mọi vấn đề rắc rối gây ra bởi chết và thời gian cũng biến mất luôn.

 

Trong sự tỉnh giác trọn vẹn về tánh chất Vô Thường, Không của chết và thời gian đó, trong chúng ta chỉ c̣n lại bầu trời trong suốt, vẳng lặng. Bầu trời vẳng lặng, tịch tịnh, trong suốt đó là Định, là Niết Bàn. Phật đă nói về bầu trời đó.

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 89 of 143: Đă gửi: 07 May 2006 lúc 10:27pm | Đă lưu IP  

Chương III - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải của OSHO do Thích Nữ Minh Tâm dịch

 

 

Anh chỉ là anh, duy nhất là chính anh khi anh không là cái ǵ cả, khi anh không khoác lên con người anh một nhăn hiệu nào, một danh xưng nào dù danh xưng đó rất ư là thánh sống. Anh không cần phải hứa hẹn mà anh cũng không cần ai phải hứa hẹn với anh một điều ǵ. Anh có thể sống trong sự nổi loạn bởi v́ không có ǵ để mất (*người ta nổi loạn v́ muốn cái ǵ mới, nhưng nếu không có cái mất, cái được th́ nổi loạn làm ǵ cơ chứ?) Không ai có thể giết chết được anh bởi v́ anh đă “tự giết chết ḿnh” rồi. Không một ai có thể chiếm đoạt cái ǵ của anh bởi v́ anh đă buông xả tất cả những thứ ǵ có thể có thể lấy được. Bây giờ anh đang sống trong Chân Không, anh là Chân Không. Chính trong Chân Không, anh mới thấy sự an toàn kiên cố trọn vẹn nhất-một sự bền vững nhất- v́ ở đó không có cái ǵ gọi là chết cả; chết không thể hiện hữu trong Chân Không. Và với chết, thời gian cũng biến mất luôn. Chết không hiện hữu th́ tất cả mọi vấn đề rắc rối gây ra bởi chết và thời gian cũng biến mất luôn.

 

Trong sự tỉnh giác trọn vẹn về tánh chất Vô Thường, Không của chết và thời gian đó, trong chúng ta chỉ c̣n lại bầu trời trong suốt, vẳng lặng. Bầu trời vẳng lặng, tịch tịnh, trong suốt đó là Định, là Niết Bàn. Phật đă nói về bầu trời đó.

 

Nhân vật được nêu lên trong những phẩm kinh này là một trong những đại đệ tử của Phật, ngài Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất là ai?

 

Ngày đầu tiên, tôi đă nói với anh là có 7 bậc thang. Bậc thang thứ bẩy là cấp Chuyển Hoá: Thiền, Mật Tông, đạo Lăo ở bậc thang này. Nấc thang thứ sáu là vượt qua phần tâm thức: pháp môn Du Già. Từ nấc thang thứ nhất đến nấc thang thứ sáu, phương pháp luyện tập vẫn c̣n quan trọng, “như thế nào, cách ra sao” vẫn c̣n qua trọng, kỹ thuật, phương thế luyện tập vẫn c̣n quan trọng. Nhưng khi anh đạt được tầng cấp thứ bẩy, anh sẽ thấy không có cái ǵ được xem là qua trọng nữa cả.

 

Xá Lợi Phất được nêu ra ở những phẩm kinh Bát Nhă này nguyên do v́ Xá Lợi Phất đă ở cấp thang thứ sáu. Xá Lợi Phất là một trong những đại đệ tử xuất sắc danh tiếng của Phật. Đức Phật có tám mươi vị đại đệ tử, và Xá Lợi Phất là một trong số tám mươi ấy. Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất thường ở bên cạnh Đức Phật.

 

Trước khi Xá Lợi Phất quy y với Phật, chính Xá Lợi Phất đă có năm ngàn đệ tử rồi (*theo nguyên tác, Osho viết rơ là: “Sariputra had hishelf five thousand disciples”, tuy nhiên ở đây, chúng ta không qua trọng con số 5000 hay 500 mà chính nội dung triết lư Bát Nhă mà Osho đang luận bàn đến mới qua trọng). Khi lần đầu tiên Xá Lợi Phất và năm ngàn đệ tử của ngài đến yết kiến Phật, Xá Lợi Phất đă có ư định sẽ tranh biện với Phật về giáo lư. Phật chỉ cười và nói: “Này Xá Lợi Phất, ngươi học rộng biết nhiều, nhưng ngươi không biết hết tất cả và ngươi cũng chẳng biết ǵ cả. Ta thấy ngươi gom góp tích chứa kiến thức cho thật sâu rộng, nhưng quả thực ngươi trống rỗng vô cùng. Ngươi đến đây để tranh luận với Ta và mong sẽ đánh thắng được ta, nhưng nếu quả t́nh ngươi thiết tha muốn tranh luận với Ta th́ ngươi nên đợi thêm một năm nữa rồi hăy đến”.

 

Xá Lợi Phất ngạc nhiên:

-“Một năm? Để làm ǵ vậy?”

Phật trả lời:

-“Ngươi nên giữ im lặng một năm, đó là cái giá phải trả. Nếu ngươi có thể giữ im lặng được một năm th́ ngươi có thể tranh luận với Ta, bởi v́ những ǵ Ta nói ngươi xuất phát từ sự Im Lặng. Ta đă thấy, này Xá Lợi Phất, rằng ngươi chưa từng bao giờ nếm mùi vị của sự im lặng. Ngươi chứa chất nhiều kiến thức quá, cái đầu của ngươi nặng quá. Ta cảm thấy tội nghiệp cho ngươi. Ngươi đă mang vác cái khối kiến thức nặng nề đó từ bao đời bao kiếp. Không phải đời này ngươi mới là người Bà La Môn. Ngươi đă từng là Bà La Môn nhiều kiếp qua. Và đă bao kiếp, ngươi đă vác mang bộ Kinh Vệ Đà và những bộ kinh điển khác. Giáo lư Kinh Vệ Đà đă là tiêu chuẩn sống của ngươi suốt bao kiếp qua, và ta đă thấy khả năng của ngươi. Ngươi là một con người uyên bác, song, lời hứa vẫn c̣n đó. Ngươi có thật nhiều kiến thức nhưng cái mớ kiến thức đó chưa chận được hết con người của ngươi; vẫn c̣n một vài cửa sổ hé mở. Ta muốn thời gian một năm để ngươi có thể rửa sạch các cánh cửa sổ đó đi, và sẽ có cuộc hội ngộ, nói chuyện giữa Ta và ngươi. Ngươi hăy quay lại gặp Ta một năm sau”.

 

Thật lạ lùng, Xá Lợi Phất đă đi du hoá khắp xứ Ấn để tranh luận và đánh bại mọi người. Đó là một cách sinh hoạt ở Ấn, những người đa văn, kiến thức sâu rộng thường đi khắp đó đây để khiêu chiến tranh luận và đánh thắng những kẻ khác trong những cuộc thư hùng khẩu chiến. Và những cuộc tranh biện so tài cao thấp đó được mọi người xem như là một việc làm đáng được tán dương tôn trọng nhất.

 

Nếu một học giả nào đó đánh thắng được tất cả mọi người trong các cuộc so tài khắp đất nước, th́ đó là một đại vinh dự, một chiến công hiển hách thoả măn bản ngă cá nhân. Người đó, có thể nói, huy hoàng hơn cả vua chúa hay đại đế, người đó có thể xem như giàu sang hơn cả những tay triệu phú.

 

Xá Lợi Phất đă đi du thuyết tranh tài như vậy. Và lư đương nhiên, anh không thể được xem như là “vô địch” nếu anh không thắng nổi Đức Phật, và Xá Lợi Phất đă đến khiêu chiến với Phật cũng v́ lư do này. V́ thế, Xá Lợi Phất đă bằng ḷng điều kiện chờ đợi thêm một năm nữa trong im lặng. Và trọn một năm, Xá Lợi Phất đă ngồi yên, trầm tư im lặng với Đức Phật. Trọn một năm, sự Im Lặng đă ngự trị trong ḷng Xá Lợi Phất.

 

Sau một năm, Đức Phật hỏi: “Nào, bây giờ chúng ta có thể nói chuyện với nhau, và ngươi có thể đánh bại Ta, Xá Lợi Phất. Ta vô cùng hoan hỷ nếu Ta bị bại dưới tay ngươi”.

 

Và Xá Lợi Phất đă cười, cúi đầu đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, xin Ngài hăy thâu nhận con. Trọn một năm trời đắm ḿnh trong im lặng, theo lời dạy của Thế Tôn, đôi lúc có một tiếng nói nội tri xảy đến trong con. Mặc dù con đang ở trong vị trí đối thủ với Thế Tôn, con đă nghĩ rằng: “Trong lúc ta ngồi đây cả năm trời trong im lặng, tại sao ta lại không thử lắng nghe người này nói cái ǵ nhỉ? V́ thế, thúc đẩy bởi ḷng ṭ ṃ, con bắt đầu lắng nghe Thế Tôn thuyết pháp. Và những lúc đó, Thế Tôn đă thâm nhập vào trong con, đă chạm đến trái tim con, đă dạo những khúc nhạc bất tuyệt trong cơ thể con và con đă nge được những tấu khúc đó. Thế Tôn đă đánh bại con trong Im Lặng, Thế Tôn đă thắng con không tốn một hơi sức nào, Thế Tôn thắng nhưng không thắng, con bại nhưng không bại”.

 

Từ đó, Xá Lợi Phất trở thành đệ tử của Phật và năm ngàn đệ tử của Xá Lợi Phất cũng trở thành đệ tử của Phật. Xá Lợi Phất là một trong những học giả nổi tiếng nhất đương thời ấy. Những lời kinh này thuyết lên cho Xá Lợi Phất:

 

“Thị Xá Lợi Phất, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị. . .”

 

“Này đây Xá Lợi Phất, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế. . .”

 

“Thị”, “Này đây” Xá Lợi Phất. . .” Đức Phật ngụ ư ǵ khi nhấn mạnh chữ “Thị, Này đây?” Phật có ư nói “cái khoảng không gian”. Phật nói: “Từ tầm nh́n ở thế giới mà ta đang hiện hữu đây, từ cái điểm chuyển hoá tâm thức, khoảng không gian nơi Ta hiện hữu và cơi vĩnh hằng nơi Ta hiện hữu. . .”

“Này đây Xá Lợi Phất, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. . .”

Đây là một trong những câu quả quyết, xác định quan trọng nhất trong giáo lư nhà Phật. Tất cả những phương cách tiếp cận của Phật giáo đều tuỳ thuộc vào câu nói đó; rằng sự biểu thị là sự không biểu thị, rằng Sắc không là cái ǵ cả nhưng lại là h́nh thái của chính Chân Không, và Chân Không cũng không là ǵ nhưng lại là Sắc, cái khả năng của Sắc.

 

Câu nói trên chẳng hợp lư chút nào và thoạt nghe có vẻ rơ ràng thực phi nghĩa. Làm sao mà Sắc lại là Không? Quả thực Sắc và Không là hai cái trái ngược nhau hoàn toàn. Làm sao mà Không lại có thể là Sắc? Chúng ta là hai cực chống trái nhau.

 

Có một điều mà chúng ta cần phải hiểu cho thông suốt trước khi chúng ta đi ngay vào chính văn phẩm Kinh Bát Nhă là Đức Phật không sử dụng luận lư mà Ngài sử dụng biện chứng pháp.

 

Có hai phương cách tiếp cận thực tế: một thuyết rất luận lư, có hệ thống. Aristotle là cha đẻ của ngành luận thuyết này ở Phương Tây. Luận thuyết này di chuyển trên một đường thẳng, một đường thẳng tắp. Nó không cho phép bất cứ một đối xứng nào; ở đây sự đối nghịch hoàn toàn bị bác bỏ. Luận thuyết này nói A là A và không bao giờ là không A. A không thể là không A. Đó là qui tŕnh luận lư của Aristotle – và nó có vẻ như hoàn toàn đúng, bởi v́ chúng ta đă học điều đó ở các lớp Tiểu, Trung và Đại học. Cả thế giới như bị Aristotle chi phối bởi luận thuyết: A là A và không bao giờ là không A.

 

Phương cách thứ hai về thực tế là Biện Chứng Pháp. Ở phương Tây, luận thuyết này dính liền với tên tuổi Heraclitus, Hegel. Diễn tŕnh biện chứng pháp này cho thấy rằng: ḍng sống di động về những điểm đối xứng nhau, qua những điểm đối nghịch – như ḍng sông tuôn chảy giữa hai bờ đối nhau, nhưng hai bờ sông đối nghịch nhau đó lại kềm giữ cho ḍng sông tuôn chảy giữa chúng. Cũng như luồng điện có hai cực: cực âm và cực dương. Nếu luận thuyết của Aristotle thực hiện hữu, th́ luồng điện không hợp lư. V́ Aristotle không chấp nhận có hai cực đối nhau, do đó hai cực âm và dương trong luồng điện không thể chấp nhận trong thuyết một chiều của Aristotle. Như thế, thượng đế cũng phi lư luôn, bởi v́ thượng đế tạo ra một đời sống mới không cần sự kết hợp của đàn ông và đàn bà, âm và dương, giống đực và giống cái. Nếu thượng đế được tạo ra bởi Aristotle trong quá tŕnh luận lư của Aristotle th́ bịnh đồng tính luyến ái và quan hệ t́nh dục với người khác giới sẽ bị bóp méo, xuyên tạc hay hiểu sai lệch. Rồi th́ đàn ông sẽ yêu đàn ông, đàn bà sẽ yêu đàn bà, và những điểm đối xứng nhau sẽ không bao giờ gặp gỡ.

 

Song, thượng đế th́ biện chứng vô cùng. Nơi nơi, những điểm đối xứng nhau đều gặp gỡ. Trong anh, con người anh, sống và chết gặp nhau. Nơi nơi, những điểm đối nghịch tương giao nhau – ngày và đêm, mùa hè và mùa đông. Cái gai và bông hoa gặp nhau, chúng nảy sinh ra trên cùng một cành cây, chúng nảy sinh ra cùng một nguồn. Đàn ông và đàn bà, trẻ và già, đẹp và xấu, thể xác và linh hồn, thế giới và thượng đế - tất cả đều đối nghịch nhau. Đây là một điệp khúc của những đối xứng. Những đối xứng không những chỉ tương hợp nhau mà c̣n cấu tạo nên một điệp khúc tuyệt vời nữa - chỉ có đối xứng mới tạo được tấu khúc. Nếu không, cuộc đời sẽ rất tẻ nhạt, đều đều, buồn chán, không c̣n là tấu khúc nữa. Đời sống sẽ đáng chán xiết bao! Nếu chỉ có một nốt nhạc cứ đều đều rỉ rả lặp đi lặp lại liên miên bất tận, đời sống sẽ vô vị tẻ ngắt và không có ǵ gọi là đáng sống nữa! (Trong t́nh cảm cũng vậy, nếu chỉ có một người nói và một người gục đầu vâng lệnh th́ chán chết!)

 

Phải có những đối nghịch: luận đề đụng phải những phi luận đề và sản sanh ra tổng hợp đề, và rồi ngược lại, tổng hợp đề lại trở thành luận đề tạo nên cái phi luận đề, và thế là một cái tổng hợp đề khác cao siêu hơn nảy sinh ra. Đó là sự tiến hoá của ḍng sống.

 

Phương pháp của Phật là biện chứng pháp, nó c̣n hữu hiệu hơn, xác thực hơn, giá trị hơn nữa.

Một người đàn ông yêu một người đàn bà, một người đàn bà yêu một người đàn ông – và ở đây, có cái ǵ đó cần phải hiểu rơ ràng hơn. Bây giờ, ở thời đại này, những nhà sinh thể học, những nhà tâm lư học đều phải đồng ư rằng người đàn ông không những chỉ là đàn ông mà hắn c̣n là người đàn bà nữa; và người đàn bà không những chỉ là một phụ nữ mà c̣n là một người đàn ông. V́ thế khi hai người đàn ông và đàn bà gặp nhau, không phải chỉ có hai người mà có tới bốn người gặp nhau. Người đàn ông gặp người đàn bà, nhưng người đàn ông c̣n có một người đàn bà ẩn núp kín trong con người hắn; người phụ nữ gặp người đàn ông và trong người phụ nữ cũng có một tên đàn ông giấu mặt – và chính hai kẻ ẩn mặt đó cũng gặp nhau. Chính sự gặp gỡ của hai kẻ ẩn mặt đó mới phức tạp, khó hiểu, sâu kín, quấn chặt vào nhau hơn, và cũng rối beng, rắc rối nhiều hơn. Người đàn ông là một người đàn bà, cả hai. Tại sao? - bởi v́ hắn được sinh ra đời từ cả hai giống đực và cái. Hắn thừa hưởng tinh huyết của cha hắn và tinh huyết của mẹ hắn. Máu của cha hắn (đàn ông) và máu của mẹ hắn (đàn bà) đang chảy trong huyết quản hắn. Anh cũng vậy, anh là cả hai giống đực và giống cái bởi v́ anh là giao điểm của hai cực đối xứng nhau đó. Anh là một tổng hợp! Thật khó mà từ bỏ hay phủ nhận một cái này và chỉ là cái kia.

 

Aristotle đă mặc nhiên theo công ước là chỉ có một chiều, không có đối nghịch và cách này cách kia, đă xảy ra rất nhiều rắc rối cho loài người, và những vấn đề xung đột đó dường như là khó giải quyết. Người đàn ông đă được dạy dỗ huấn luyện từ bé là phải ra dáng một nam nhi chi chí; có nghĩa là hắn không được tỏ ra có dáng vẻ điệu bộ ǵ phái nữ cả, không bao giờ được lộ vẻ mềm yếu của trái tim, không bao giờ tỏ vẻ chấp thuận mềm ḷng, mà phải luôn luôn hùng dũng, cứng cỏi, thô bạo. Hắn đă được dạy bảo là “con trai không được khóc, không được rên rỉ, v́ nước mắt là đàn bà, là yếu đuối”. Người nữ cũng được dạy dỗ là không được hành động, nói năng như đàn ông, không bao giờ thô bạo, không bao giờ được bày tỏ thái độ, ư kiến, lúc nào cũng phải phục tùng, chấp nhận.

 

Sự dạy dỗ đó đă trái ngược với thực tế và bóp méo cả hai phái nam, nữ. Ở một thế giới tốt đẹp hơn, hiểu biết hơn, người nam có thể là người nữ, người nữ cũng là người nam. Có nhiều trường hợp, hắn ta cần phải tỏ vẻ dịu dàng một chút, chiều chuộng một chút, nhường nhịn một chút, đáng yêu một chút. Và cũng có lúc, người phụ nữ cũng cần phải cương quyết, phản kháng, bày tỏ thái độ , ư kiến – trong giận dữ, trong tự vệ, trong nổi loạn. Nếu người phụ nữ lúc nào cũng thụ động, mềm yếu, không dám có ư kiến, th́ cô ta đă tự biến ḿnh thành kẻ nô lệ rồi. Một người phụ nữ thụ động là người đang mấp mé biến ḿnh thành nô lệ cho kẻ khác – và điều đó đă chứng minh qua nhiều thế hệ trước đây. C̣n người đàn ông cứng cỏi, thô bạo, không bao giờ dịu dàng, tử tế, là người đang bạo hành gây chiến, đang sử dụng bạo lực, đang châm ng̣i chiến tranh.

 

Con người đă tranh đấu, tiếp tục chiến đấu với nhau; h́nh như con người có mặt trên cuộc đời này chỉ để gây chiến với nhau. Ba ngàn năm qua, đă có năm ngàn cuộc chiến lớn nhỏ. Chiến tranh tiếp tục diễn ra, nơi này nơi kia, trái đất không bao giờ toàn vẹn và yên ổn cả. . . v́ chiến tranh diễn biến liên miên không ngớt. Chiến tranh xảy ra tại Đại Hàn, tại Việt Nam, tại Do Thái, Ấn Độ, Pakistan hay Bangladesh. . . tàn sát, chết chóc, thảm hoạ khắp nơi, những cuộc chiến vẫn tiếp tục, không ngừng.

 

Con người phải tiêu diệt lẫn nhau. Để là con người, hắn phải giết. Để làm người, hắn phải giết. Bảy mươi lăm phần trăm năng lực của con người đổ dồn vào nỗ lực gây hấn chiến tranh, chế tạo nhiều bom, bom hạt nhân, bom khinh khí, và c̣n nhiều nữa, nhiều nữa. Dường như mục đích chính yếu của con người trên trái đất này là chiến tranh. Những anh hùng chiến tranh được vinh danh ca tụng nhiều nhất. Những tên chính trị gia cố vấn chiến tranh đă trở thành những tên tuổi lừng lẫy trong lịch sử nhân loại như: Adolf Hitler, Winston Churchill, Joseph Stalin, Mao Trạch Đông - những tên tuổi đó sẽ c̣n tồn tại. Tại sao? Bởi v́ những kẻ này đă chiến đấu trong những cuộc đại chiến thế giới, họ đă tiêu diệt kẻ thù, v.v. Bất kể là trong tự vệ hay bùng nổ - v́ đó không phải là điểm chính – nhưng những kẻ đó là những kẻ gây chiến. Không một người nào biết ai là kẻ bùng nổ chiến tranh trước, không cần biết là bọn Đức Quốc Xă có bùng nổ gây chiến hay không, nhưng người thắng cuộc sẽ là người viết lại trang lịch sử. Kẻ thắng trận sẽ viết lại lịch sử và sẽ kết án kẻ đối địch là người khiêu chiến trước. Lịch sử sẽ thay đổi hoàn toàn nếu Adolf Hitler thắng trận. Vâng, đúng vậy, toà án quân sự quốc tế Nuremberg vẫn có ở đó nhưng kẻ bị kết án sẽ là những tướng lĩnh và chính trị gia người Mỹ và Anh, chứ không phải những tên phát xít độc tài Đức, Nhật, Ư.

 

Không một ai biết sự thật cả. Nhưng có một điểm chắc thực là: con người đă đầu tư hết năng lực của hắn vào chiến tranh. Lư do? Lư do là người đàn ông đă được dạy dỗ là phải sống cho ra vẻ đàn ông, cái phần “nữ tánh” của hắn đă bị chối từ, xoá bỏ. Và người nữ cũng vậy, phần “nam tánh” của cô ta cũng đă bị tiêu huỷ. Khi cô ta c̣n là một đứa trẻ con, cô ta không được đánh nhau với con trai, cô ta không được trèo cây, cô ta phải chơi búp bê, phải chơi những tṛ chơi làm nhà, nấu cơm, v. v. Thực là một quan kiến méo mó, lệch lạc, thảm hại.

 

Người nam đôi lúc, cần phải xử sự như người nữ, và người nữ cũng đôi lúc cần hành động như người nam - cả hai kết hợp với nhau, hài hoà với nhau. Đối nghịch không phải hoàn toàn đối nghịch, chúng c̣n là sự bổ sung cho nhau nữa th́ cuộc đời mới hoàn hảo.

 

Phật nói: “Này Xá Lợi Phất, trong thế giới của ta đây, Xá Lợi Phất, trong không gian của Ta, trong thời gian của Ta, Xá Lợi Phất, ở nấc thang thứ bảy, ở trạng thái phi tâm thức, ở trạng thái Định, Niết Bàn, Giác Ngộ - Sắc tức là Không, đàn ông là đàn bà, đàn bà là đàn ông, và sống là chết, chết là sống. Nghịch không phải nghịch, Xá Lợi Phất, v́ chúng tương quan tương tức với nhau, chúng thể nhập vào trong nhau”.

 

Để chứng minh căn bản nội tại đó Phật dạy:

 

“Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, biến hoá tức là phi biến hoá, phi biến hoá là biến hoá. Chúng không khác biệt ǵ nhau đâu, này Xá Lợi Phất, chúng là một. Hai mà một, một mà hai”.

“Không chẳng khác Sắc, Sắc chẳng khác Không, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.

 

Toàn thể ḍng sống và vạn hữu bao gồm những cái đối nghịch nhau, nhưng chúnh chỉ khác nhau trên bề mặ mà thôi, giống như hai bàn tay tôi, tôi có thể làm cho chúng đối nghịch nhau, tay trái và tay phải, nhưng thực ra cả hai tay đều là tay của tôi. Trong tôi, chúng là một.

 

Tại sao Phật lại giải thích điều này cho Xá Lợi Phất? Bởi v́ nếu anh hiểu được lời nói của Phật, anh không c̣n lo sợ nữa. Tất cả những nỗi lo sợ đều biến mất. Sống là Chết. Chết là Sống. “Là” tức “Không Là”, “Không Là” tức “Là”. Cũng chỉ là một tṛ chơi mà thôi. Như thế không có ǵ phải sợ hăi nữa, không c̣n vấn đề ǵ nữa. Với sự nội tri đó, anh đồng ư chấp nhận.

 

“Xá Lợi Phất, thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.

Này Xá Lợi Phất, các pháp vốn không tướng, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm. . .”

Phật dạy: “Tất cả các pháp vốn là Không. Chân Không đó hiện hữu trong cốt lơi của vạn pháp. “Không” có mặt trong cây, trong đá, trong ngôi sao. . .

 

Ngày nay, các khoa học gia đă công nhận rằng khi một hành tinh, một ngôi sao tan vỡ đi, nó biến thành một lỗ hổng đen ng̣m, không có ǵ hết. Nhưng cái Không đó không phải là rỗng không, không có ǵ, mà cái Không đó bao la, choáng ngợp, tràn đầy.

 

Cái quan niệm, cái giả thuyết một lỗ hổng đên ng̣m đó thực vô cùng giá trị và bổ ích giúp chúng ta hiểu sâu thêm về Phật. Một ngôi sao dù hiện hữu đă hàng triệu năm hay hàng trục triệu năm về trước, một ngày nào đó, nó cũng sẽ bị tan vỡ huỷ diệt đi. Tất cả các pháp hữu vi đều bị sanh diệt - hữu h́nh tức hữu hoại. Có sanh ra phải có diệt đi. Đó là một qui luật bất di bất dịch. Con người sống độ bảy mươi năm, nhưng rồi cái ǵ sẽ xảy ra? Mệt mỏi, chán ngán, hoang vắng, hắn biến mất, hắn trở về lại khối Chân Như Hợp Nhất thuở ban sơ. Qui luật Hợp  - Tan, Sanh - Trụ, dị - Diệt sẽ xảy ra cho mọi người, mọi sinh linh trên thế gian này, mọi hiện tượng trên thế gian này, không sớm th́ muộn, ắt nhiên phải xảy ra. Rặng núi Hy Mă Lạp Sơn hoành tráng kia, ngày nào đó sẽ biến mất, quả địa cầu này rồi sẽ biến mất, thái dương hệ kia rồi cũng biến mất. Nhưng khi một hành tinh lớn biến mất, nó biến đi về đâu? Nó biến vào chính nó, nó tan vào chính nó. Giống như một đống đồ vật khổng lồ, tự nó không vững là đổ sụp xuống. Như một ông già đang đi - một ông già đang đi - chợt ông ngă sụm xuống, bất động. Nếu anh để mặc cái xác ông lăo nằm đó, chẳng sớm th́ muộn, xác thịt ông ta sẽ tan ră vào bùn đất, trộn lẫn vào bùn đất và biến mất. Anh cứ để mặc cái xác chết nằm đó vài năm, rồi th́ xương cốt cũng tan huỷ vào đất và biến mất. Cái con người đó mới ngày nào đi đứng, nói cười, sống thở, yêu đương, tranh đua, hơn thua, v. v. bây giờ đă biến khỏi cuộc đời và mất dạng vào cái lỗ hổng đen ng̣m đó. Con người, các ngôi sao, trái đất này, tất cả đều biến mất.

 

Tại sao gọi là lỗ hổng đen ng̣m?Bởi v́ bấy giờ, vật thể đó không c̣n là một khối h́nh thể ǵ nữa cả, chỉ thuần là một cái Không tịch tịnh, trong suốt, mà Đức Phật đặt tên cho nó là “Chân Không Diện Hữu”. Và vùng Chân Không đó, uy mănh đến nỗi nếu anh đến gần, anh sẽ bị nó hút vào trong và anh cũng sẽ biến mất vào trong nó.

 

Trường hợp những chuyến bay vệ tinh thám hiểm không gian cũng đă bị hút vào những lỗ hổng đen ng̣m như vậy. Anh không thấy ǵ hết, không thấy ǵ cả - v́ những hành tinh không c̣n là cái ǵ nữa ngoài những lỗ hổng đen ng̣m. Chỉ c̣n là trống không – Chân Không - một màu không. Anh không thấy ǵ hết và anh có thể băng vượt qua vùng Chân Không đó. Nếu một vệ tinh không gian bay gần tới vùng Chân Không đó, nó sẽ bị hút mất vào trong, và nó không thể nào vượt ra ngoài được, không có đường nào để lọt ra ngoài.

 

Anh không c̣n nghe thấy ǵ về chuyến bay thám hiểm không gian đó nữa, về vệ tinh không gian đó nữa, cái ǵ đă xảy ra, nó đi về đâu, cái ǵ đă xảy ra cho những phi hành gia trên chuyến bay thám hiểm không gian đó?

 

Cái lỗ hổng đen không gian đó rất giống quan niệm về thuyết Chân Không của Phật. Tất cả những vật thể sẽ tan ră, huỷ hoại và biến mất đi vào đen tối, và sau một thời gian dài lặng nghỉ, chúng sẽ tái sinh trở lại và tiếp tục - sống chết, chết sống, tiếp tục sống chết, chết sống, tiếp tục măi. . . sống chết, chết sống, sống chết, chết sống. . .

 

Đó là qui tŕnh diễn tiến của ḍng sinh diệt hiện hữư của vạn loại vũ trụ.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 90 of 143: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 12:54am | Đă lưu IP  

Chương III - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải của OSHO do Thích Nữ Minh Tâm dịch

 

 

Cả ngày anh làm việc mệt mỏi, đến tối anh trở về nhà, anh gục xuống ngủ thiếp đi trong giấc say nồng. Anh tắt đèn, anh chui vào trong mền, nhắm mắt lại, và trong giấc ngủ sâu đó, ư thức anh tạm vắng mặt. Anh đă ch́m sâu vào trong lỗ hổng đen thui đó. Và trong khoảng thời gian không mộng mị, anh đă ngủ một giấc ngủ thật sâu lắng! Anh ngủ say y như anh đă chết vậy, và chính trong giấc ngủ say không mộng mị như chết thực đó, anh thực sự nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cái chết ngủ! Và sáng hôm sau, anh thức dậy, tươi mát hơn bao giờ hết, sảng khoái hơn bao giờ hết, sinh lực, dồi dào, trẻ trung, nồng thắm hơn bao giờ hết. Nếu anh biết cách ngủ say và sâu như thế nào, anh sẽ biết cách phục hồi sống lại như thế nấy. Như thế, dù mệt mỏi ră rời v́ sinh kế suốt ngày, nhưng nếu anh biết cách nghỉ ngơi, anh sẽ phục hồi sinh lực lại được. Ban ngày hoạt động cật lực, ban đêm phục hồi sinh lực, cứ thế mà tiếp tục, tiếp tục.

 

Con người là một phần tử nhỏ trong khối đại đồng vạn hữu này. Cái ǵ xảy ra cho con người th́ cũng sẽ diễn biến y hệt như thế cho vũ trụ trên một b́nh diện rộng lớn hơn. Ban đêm, anh biến mất vào Chân Không, ban ngày anh trở về h́nh thể. Sắc – Không, Không - Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc – Không, Không - Sắc, chỉ có hai bước đó thôi.

 

“Xá Lợi Phất, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt. . .

Này Xá lợi Phất, các pháp vốn không tướng, chẳng sanh chẳng diệt. . .”

Đức Phật đă nói: “Không cần phải làm ǵ hết, chỉ cần thấu triệt vấn đề”.

Đó là một câu nói cơ bản. Câu nói ấy có thể chuyển hoá cả cuộc đời anh nếu anh có thể quán triệt ư nghĩa tột cùng của nó.

 

“Các pháp không sanh không diệt. . .”

 

Không có một ai tạo ra các pháp, và cũng không có một ai có thể diệt đi các pháp. Đức Phật không tin Chúa hay thượng đế là một vị chủ tể, một đấng sáng tạo, một vị cai quản toàn thế giới này. Đó có thể là một giả thuyết không cần thiết, một h́nh thức nhị nguyên. Phật nói vạn vật tương quan tương duyên tự sanh ra, không ai sáng tạo cả. Không phải như mọi người nghĩ là Chúa phán: “Ánh sáng hăy có mặt (như trong Kinh Thánh đă nói), tức th́ ánh sáng xuất hiện chan hoà. Và ngày nào đó, Chúa lại phán: “Ánh sáng hăy tắt đi” – và ánh sáng biến mất”.

 

Tại sao lại đặt để Chúa như vậy? Tại sao Chúa lại phải làm một công việc hết sức vớ vẩn như vậy? Và Chúa phải làm đi làm lại hoài như vậy sao? Ánh sáng có mặt, ánh sáng tắt đi, ánh sáng có mặt, ánh sáng tắt đi. . . rồi cũng người này có mặt, người này chết đi, người kia có mặt, người kia chết đi – hăy nghĩ đến Chúa và cái công việc lẩn thẩn chán ngắt đó cúng sự ngán ngẩm mệt mỏi của Chúa. Đức Phật đă giải thoát cho Chúa, Phật nói không cần thiết phải lập ra một giả thuyết như vậy.

 

Thật tự nhiên, ḍng sống tự nhiên, mạch đời tự nhiên. Cây sanh ra mầm nụ, mầm nụ phát triển biến thành cây, rồi cây lại kết tụ thành hạt mầm. Vậy nụ mầm là cái ǵ? Đó là sự biến mất, sự vắng mặt của cây, cây đă đi vào không sắc, không h́nh tướng. Anh có thể bỏ vào trong túi anh cả ngàn hạt giống, nhưng anh không thể bỏ vào trong túi cả ngàn cây xanh. Cây xanh kia có một h́nh khối to lớn, hạt giống không có ǵ cả. Và nếu anh nh́n sâu tận vào trong cùng một cái hạt giống, anh sẽ không t́m thấy ǵ hết. Nếu anh không thấy ǵ hết và anh cũng không hiểu thấu được nguyên lư Sắc tức nhị Không, Không tức nhị Sắc trong lư Bát Nhă, th́ nếu có ai đưa cho anh một hạt giống và nói: “Này anh, anh hăy nh́n đây, cái hạt giống nhỏ xíu này mầu nhiệm lắm đó – nó có thể trở thành một cây cao to lớn, xum xuê, đầy hoa trái và chim chóc có thể làm tổ trên cây. . .” Anh sẽ ngạc nhiêm la lớn lên rằng: “Cái ǵ? Ông nói cái ǵ vậy? Cái hạt nhỏ xíu này à? Bộ ông cho là tôi điên khùng hay sao chứ? Làm sao cái hạt nhỏ xíu này lại sanh ra cây lớn được chứ? Thiệt t́nh hết chuyện nói!” Tuy nhiên anh đă hiểu lư Bát Nhă, anh đă hiểu trong “Không có Sắc”, trong “Sắc có Không” nên anh không ngạc nhiên ǵ cả về những điều tôi nói về những hiện tượng tự nhiên này. Sự mầu nhiệm đang xảy ra. Cái hạt giống nhỏ xíu này đang mang cả cái dấu ấn một cây cao to lớn, và tàng lá rậm rạp, với cành cây nặng trĩu, với hoa trái. . . và rồi mầm lại kết tụ thành trái, trái tụ lại thành hạt, hạt nẩy mầm thành cây, v. v.

 

Những khoa học gia đă chứng minh rằng ngay chỉ có một hạt giống đơn lẻ thôi cũng tạo ra cả một hành tinh xanh. Hạt giống đó cưu mang cả một khối tiềm năng khổng lồ, bởi v́ từ một hạt giống có thể tạo ra hàng triệu hạt giống khác, và cứ thế nảy sinh ra, nảy sinh ra triệu triệu hạt giống khác nữa. Cả một hành tinh xanh, cả một vũ trụ xanh kia sản sinh ra từ một hạt giống bé xíu này thôi. Nếu anh có thể quán triệt được như thế, trong hạt cải chứa đựng cả núi Tu Di, núi Tu Di nằm lọt trong hạt cải th́ anh đă thông suốt được Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc.

 

“Càn khôn tận thị mao đầu thượng,

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.”

(Càn khôn rút lại đầu lông xíu,

Nhật nguyệt nằm quanh hạt cải ṃng.”

Phật đă nói không có ai tạo ra vạn pháp và cũng không có ai diệt vạn pháp. Phật nói không cần phải đi lễ đài hay các nơi thờ tự và cầu nguyện thượng đế “Xin hăy ban cho cái này, xin hăy làm cái kia” – không có ai cả đâu.

 

Thông điệp của Phật là ǵ? Phật nói: “Hăy chấp nhận. Bản chất sanh diệt của vạn pháp là vậy. Thật tự nhiên, vạn pháp đến và đi, đi và đến. Tự nhiên, thật tự nhiên như vậy!”

 

Trong sự chấp nhận đó, trong bản thể đương nhiên đó, trong sự vật y như nó là đó, tất cả mọi lo âu, sợ hăi biến mất, anh đă giải thoát khỏi phiền năo. Và rồi không c̣n vấn đề ǵ nữa. Và cũng không có cái ǵ bị tan diệt, bị thay đổi hay sản sinh ra. Sự vật hiện hữu y như nó là; sự vật vẫn sẽ y như nó sẽ là. Anh không cần phải làm ǵ hết. Anh chỉ cần quán sát vạn sự vạn vật đang diễn tiến trước mắt anh. Anh có thể dự phần nào sự sự vật vật. Trong sự vật đó, chỉ thuần là im lặng, chỉ thuần là hỷ lạc. Hoàn toàn tự do! Tự do tuyệt đối!

 

“Thị chư pháp bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. . .”

(Tất cả các pháp chẳng sạch, chẳng dơ, chẳng tăng, chẳng giảm. . .)

 

Hiện hữu chẳng sạch, chẳng dơ. Cũng chẳng có một người nào là kẻ có tội hay thánh nhân.

Qua kiến nội tại của Đức Phật thực sự là một cuộc cách mạng lớn, một cuộc cách mạng vĩ đại. Phật tuyên bố rằng: “Chẳng có một vật ǵ lại chẳng dơ và cũng không có một vật ǵ lại chẳng sạch, vạn pháp như nhị thể - các pháp thể tánh vốn như vậy, chúng vốn y như chúng là”.

 

Tất cả các pháp chỉ là tṛ chơi trí năng mà loài người chúng ta đang ḷng ṿng chạy rong đùa giỡn, thế mà chúng ta lại c̣n gán ghép cấu tạo thêm những danh từ, tư tưởng sạch dơ, thánh thiện, tội lỗi vào tṛ chơi chữ nghĩa đó nữa.

 

Anh muốn những kẻ tội lỗi biến mất khỏi thế giới này hả? Họ chỉ biến mất khi những ông Thánh của anh biến mất - họ không biến đi trước đâu. Tội lỗi – Thánh thiện có mặt cùng nhau, tương qua tương tức với nhau. Cái này có, cái kia có. Cái này không, cái kia không. Anh muốn sự vô đạo đức biến mất? Vậy đạo đức cũng phải biến luôn. V́ có đạo đức th́ mới thấy cái không đạo đức. Cái không đạo đức phản ảnh lại đạo đức. Đó là thuyết Nhân Duyên của Phật giáo.

Cái này có, cái kia có,

Cái này không, cái kia không,

Cái này sanh, cái kia sanh,

Cái này diệt, cái kia diệt.

 

Các pháp trùng trùng duyên khởi vô tận. Không có một pháp nào, một vật thể nào là một đơn vị riêng lẻ, biệt lập, đứng một ḿnh, duy nhất cả. Anh có mặt v́ tôi có mặt. Chúng ta có mặt trên đời này v́ vạn hữu chúng sinh có mặt. Nếu không có anh th́ cũng chẳng có tôi. Chúng ta và vạn pháp tương quan, tương sanh và tương diệt. Như bóng tối và ánh sáng, ban ngày và ban đêm, nếu không có bóng tối, làm sao anh rơ biết đây là ánh sáng; nếu không có ban ngày sao anh biết bây giờ là ban đêm?

 

Quán chiếu từng bước, từng chi tiết cặn kẽ, đi sâu vào ḷng thực tại các pháp, lọt sâu vào ḷng sự vật, chúng ta thấu triệt các pháp do nhân duyên sanh, các pháp là vô ngă. Chủ thể, khách thể vắng bóng. Không có một cái ǵ chắc thực, không suy suyễn gọi là anh, là tôi, là mặt trời, là ngôi sao, là ḍng suối, là áng mây. . . Không. Vạn pháp quy Không. Chân Không trọn vẹn. Chân Như tuyệt đối.

 

Càng chia chẽ sự vật, chúng ta càng thông triệt sâu sắc những lời dạy của Phật về tánh cách Vô Thường, Vô Ngă, Không của vạn hữu nhân sinh để từ đó phát sanh Chánh Kiến, Chánh Tư Duy về bản thể, tổng tướng của thế giới chung quanh chúng ta. Phật nói không có một cái ǵ chẳng bao giờ tăng, chẳng bao giờ giảm. Sự trong sạch, sự không trong sạch, đều là tạo tác của tâm. Anh có thể nào nói cái cây kia là đạo đức hay không đạo đức? Anh có thể nào nói với một con vật rằng nó là kẻ tội lỗi hay ông thánh? Hăy nh́n vạn pháp với cái nh́n thật thông minh, soi suốt, cái nh́n tuyệt đối: không có tội lỗi, không có thánh thiện, không có đạo đức, không có phi đạo đức. Khi anh nh́n được bản chất sự vật đúng y như nó là, như thực thể, như thực tánh, như thực tướng th́ c̣n đâu sự lo sợ của anh nữa? Sức ảnh hưởng chi phối của lo âu sợ hăi không c̣n đất đứng trong tâm khảm anh và chúng phải biến mất, chúng phải chuyển hoá và cũng chẳng có cái ǵ phải phát triển, phải đầu tư nữa.

Bản thể vạn pháp cứu cánh như thị.

Thực tánh sự sự vật vật vốn đúng y như chúng đương là; và cũng chẳng có mục đích để t́m tới, để tiến tới nữa, bởi v́ chẳng có một giá trị nào tương xứng để anh phải đánh đổi, để anh phải dốc toàn lực, toàn tâm phóng hút tới một mục tiêu anh đă đặt để ra. Dù đó là mục tiêu tâm linh đi chăng nữa, anh vẫn c̣n bị ràng buộc vào sự tham cầu trá h́nh và chưa chạm được tới ṿng đai chân lư Bát Nhă.

 

Cuộc hành tŕnh đó là cuộc hành tŕnh không mục đích, không mục tiêu rong ruổi t́m cầu: cuộc hành tŕnh tâm linh vô sở đắc, vô sở trụ. Một cuộc du hành hoàn toàn trong trắng, không gợn một bợn nhơ tham cầu sở đắc nào; cũng không có nhân vật nào đứng đằng sau hành động cả. Tất cả sự việc đang diễn tiến, đang xảy ra nhưng không có một tác nhân nào cả. Nếu có người hành động th́ lại có vấn đề rồi – nào là cầu nguyện, nào là thuyết phục, nào là kết bạn với tác nhân đó, v. v. Anh mong cầu, anh tính toán lời lỗ trong hành động, trong mục tiêu; người nào không cùng trí hướng, không cùng tư tưởng, không là bạn với anh, sẽ bị đày xuống hoả ngục. Đó là những ǵ các con tin cuồng tín Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo nghĩ như vậy (hay bị nhồi nhét phải có những tư tưởng méo mó như vậy).

 

Những tín đồ Hồi giáo cực đoan lập luận rằng những ai không phải là tín đồ Hồi giáo sẽ bị đày xuống địa ngục, c̣n những ai ngoan đạo sẽ được lên thiên đàng cùng thánh Allah. Tín đồ cực đoan Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ giáo cũng có lối suy nghĩ như vậy. Những ai không phải là con chiên của Chúa, của thần Visnu hay thánh Allah sẽ bị đoạ đày đời đời ở địa ngục.

 

Phật dạy: “Không có kẻ tội lỗi, không có bậc thánh nhân, không có cái ǵ sạch, chẳng có cái ǵ dơ. Sự vật vốn y như nó là”.

 

Phật đă cắt đoạn ngay gốc rễ. Phật nói: “Bản chất của ngươi thế nào th́ ngươi là thế nấy. Không có cái ǵ cần phải phát huy thêm, cũng không có nơi nào để đi tới cả”.

 

Và tôi, tôi cũng có một phương cách tiếp cận như thế: “Anh đă hoàn hảo như anh đă từng hoàn hảo”, “cái thêm” đó không cần thiết, không thể có. “Cái thêm” đó, ví dụ như: cần hoàn mỹ hơn, cần trong sạch hơn, cần thánh thiện hơn, cần thông minh hơn, cần thành đạt hơn v. v. và v. v. - sẽ tạo ra nhiều vấn đề rắc rối cho anh. Chính “Cái thêm hơn” đó bắt anh chạy thục mạng, làm cho anh điên. Anh hăy chấp nhận sự tự nhiên, hăy sống tự nhiên, giản dị, khoáng đạt, sung măn, hỷ lạc, từng phút giây. Đó, đó chính là sự thánh thiện, sự linh thiêng chân thành nhất – v́ anh là tất cả, tất cả là anh; không phải anh đắc quả thánh th́ anh mới là tất cả - mà tự bản chất anh đă là tổng thể.

 

Phật nói: “Này Xá Lợi Phất, bất cứ nơi nào Ta hiện hữu, nơi đó không dơ, không sạch, không tốt, không xấu. Này đây, nơi Ta hiện diện, Niết Bàn – Luân Hồi là một, Thiên Đàng - Địa Ngục không hai. Không có sự phân biệt nào giữa hai thế giới đó. Không có sự phân chia ranh giới giữa hai thế giới đó. Không có sự phân biệt kỳ thị giữa phàm tục và thánh thiện. Nơi nào Ta hiện hữu, nơi đó mọi phân chia đều vắng bóng bỏi v́ những sự phân chia đều bắt nguồn từ vọng tưởng. Một khi vọng tưởng biến mất, mọi phân cách cũng biến mất”.

 

Chính vọng tưởng, chính tạo tác của tâm bày đặt ra có kẻ tội lỗi, có bậc thánh nhân. Xấu - Tốt đều nảy sinh ra từ vọng tưởng. Chỉ có vọng tưởng mới tạo tác ra phân cách. Và Phật nói: “Khi trí năng biến mất, vọng tưởng biến theo, và không c̣n nhị nguyên đối đăi nữa. Duy nhất chỉ c̣n Một. Một là Tất Cả. Một trong Tất Cả. Tất Cả trong Một.

 

Có một câu nói nổi tiếng của thiền sư Tăng Xán: “Trong vương quốc Chân Lư Tuyệt Đối, không có “cái Ta” cũng chẳng có cái “không Ta”. Một khi trực chỉ nhận diện được Chân Tâm rồi, ta chỉ nói đó là “không hai”. Một trong Tất Cả, Tất Cả trong Một, nếu ta nắm được chân lư đó, ta sẽ không c̣n lo âu nữa về con người không hoàn hảo của ta!”

 

Tuyệt hay! Một trong Tất Cả - Tất Cả trong Một - nếu ta nắm được chân lư đó, ta sẽ không c̣n lo âu nữa về con người không hoàn hảo của ta! Không có sạch, không có dơ. Hăy nh́n nó, và nh́n thẳng nó, ngay bây giờ để về sau này đừng có đến gặp tôi và hỏi phải làm thế nào, ra sao. Không có “thế nào, ra sao” cả. Kiến thức nảy sinh ra từ danh từ “thế nào, làm sao” đó, v́ đặt câu hỏi là phải suy nghĩ câu trả lời, là phải vận dụng trí năng – mà trí năng, kiến thức chính là sự phiền toái, phức tạp, đáng ghê sợ. Không có sự tạo tác méo mó, lệch lạc của tâm, anh thể nhập làm một với đại đồng vũ trụ. Không có sự tạo tác của tâm chia chẽ giữa anh và thực tại, tất cả mọi phân biệt sẽ biến mất, anh sẽ bắc được nhịp cầu nối liền cả hai. Anh bị chỏng gọng, bị bật rễ bởi chính sự méo mó lệch lạc của vọng tưởng đó. Hăy buông bỏ nó ngay, hăy quăng bỏ nó ngay đi! Hăy nh́n thẳng vào thực tại, với sự rỗng rang tâm trí, không khởi niệm, không quan tâm đến tại sao, thế nào. Anh chỉ nh́n vạn hữu với trọn vẹn sự ngây thơ trinh nguyên của tâm hồn anh, của tư tưởng anh. Anh nh́n với vô phân biệt trí, vô dụng công, và tất cả lo âu hăi sợ sẽ biến mất.

 

Nh́n, chỉ nh́n đơn thuần với đôi mắt trẻ thơ!

Vắng bóng mọi lo âu phiền năo, anh sáng suốt, anh nhậm lẹ, anh tỉnh thức. Anh là Phật!

 

Anh là Phật! Nhưng anh đă lăng quên v́ anh vác mang trên vai anh nhiều tri kiến lệch lạc sai lầm. Anh vốn có cặp mắt trí tuệ, nhưng anh lại tṛng vào những cặp kính màu nhị nguyên. Những cặp kính đó lệch lạc, không chuẩn xác, pha màu, và anh nh́n cuộc đời, nh́n vạn hữu qua cặp kính mầu đó; và những cặp mắt kính đó tạo ra những h́nh ảnh sai lạc, không đúng. Anh đă bị ảo giác đánh lừa! Hăy vứt bỏ cặp mắt kính xuống! Hăy vứt bỏ tri thức!

 

Phủ nhận tri thức và im lặng – trong sự im lặng đó, anh là chân lư linh thiêng. Anh chưa từng là một cái ǵ khác, anh vẫn măi măi là chính anh, là chân lư.

Phủ nhận tri thức, phủ nhận trí năng và an nhiên như xưa. Anh là Phật, anh măi măi là một vị Phật, là chân lư thực tại.

 

Hôm nay, anh hiểu được như thế là quá đủ rồi!

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 91 of 143: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 12:22pm | Đă lưu IP  

Bát Nhă Ba La Mật ĐaTâm Kinh

B́nh Anson

sưu tầm


Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong các kinh căn bản và phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa. Bài kinh nầy là một trong các bài kinh của bộ Bát Nhă kết tập tại Ấn Độ qua bảy thế kỷ, từ năm 100 T.C.N. đến 600 C.N. Khi được truyền sang Trung Hoa, Tâm Kinh đă được nhiều vị cao tăng chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán: ngài Cưu Ma La Thập dịch vào khoảng năm 402-412 C.N., ngài Huyền Trang dịch năm 649 C.N., ngài Nghĩa Huyền (700 C.N.), ngài Pháp Nguyệt (732 C.N.), ngài Bát Nhă và Lợi Ngôn (790 C.N.), ngài Trí Tuệ Luận (850 C.N.), ngài Pháp Thành (856 C.N.) và ngài Thi Hộ (980 C.N.). Trong các bản dịch nầy, bản dịch của ngài Huyền Trang là phổ thông nhất.

Riêng tại Việt Nam, bản dịch của ngài Huyền Trang được chuyển sang chữ quốc ngữ Hán Việt và thường dùng để tŕ tụng hằng ngày. Quư vị cao tăng cũng có phát hành nhiều sách để giải thích nghĩa kinh, trong đó các sách của quư Ḥa thượng Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ, và Thích Nhất Hạnh là phổ thông nhất.

Sau đây là một số bài dịch Việt-Anh của Tâm Kinh mà tôi đă sưu tầm trong thời gian qua.

-ooOoo-

Bản tụng Hán Việt:

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhă Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhăn nhĩ tỷ thiệt thân ư, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhăn giới năi chí vô ư thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đơa y Bát nhă Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhă Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhă Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhă Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

-ooOoo-

Bản dịch nghĩa:

Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhă Ba la mật, th́ soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác ǵ không, không chẳng khác ǵ sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ư. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhăn giới cho đến không có ư thức giới.
Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, v́ không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhă nầy th́ tâm không c̣n chướng ngại, v́ tâm không chướng ngại nên không c̣n sợ hăi, xa ĺa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời v́ nương theo trí tuệ Bát Nhă nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhă Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ năo, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhă Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
(Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)

-ooOoo-

Bản phổ thơ:
(Thích Nhất Hạnh)

Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhă Ba La Mật
(tức Diệu Pháp Trí Độ)
Bổng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.

Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác ǵ không
Không chẳng khác ǵ sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
C̣n lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhăn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ư (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
Từ nhăn đến ư thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lăo tử
Cũng không hết lăo tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc

V́ không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương Diệu Pháp Trí Độ
(Bát Nhă Ba La Mật)
Th́ tâm không chướng ngại
V́ tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hăi
Xa lià mọi vọng tưởng
Xa ĺa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối

Chư Bụt trong ba đời
Y Diệu Pháp Trí Độ
Bát Nhă Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhă Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lư bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhă Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:

Yết đế, Yết đế
Ba la Yết đế
Ba la Tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha

-ooOoo-

Phổ thơ lục bát:
(Đây là một bài phổ thơ mà tôi học được từ một vị tu sĩ thuộc hệ phái Khất Sĩ)

Khi hành Bát Nhă Ba La
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
Thấy ra năm uẩn đều Không
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua

Nầy Xá Lợi Tử xét ra
Không là sắc đó, sắc là không đây
Sắc cùng không chẳng khác sai
Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau
Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn ,một màu không không

Nầy Xá Lợi Tử ghi ḷng
Không không tướng ấy, đều không tướng h́nh
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
Vậy nên trong cái chơn không
Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ư, thân
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
Từ không giới hạn mắt nh́n
Đến không ư thức, vô minh cũng đồng
Hết vô minh, cũng vẫn không
Hết già, hết chết, cũng không có ǵ
Không khổ, tập, diệt, đạo kia
Trí huệ chứng đắc cũng là không không

Sở thành, sở đắc bởi không
Các v́ Bồ Tát nương tùng huệ năng
Tâm không c̣n chút ngại ngăn
Nên không c̣n chút băng khoăng sợ ǵ
Đảo điên mộng tưởng xa ĺa
Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau, xưa
Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu năo phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.

Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha

-ooOoo-

Bản dịch Việt:
(Thích Tâm Thiện, Sài G̣n, 1998)

Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng

1. Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng (1), Người Tỉnh Thức B́nh Yên (2) soi sáng như thật rằng tự tịnh của năm hợp thể (3) đều là Không (4), liền thoát ly mọi khổ ách.

2. Này người con ḍng Sari (5), h́nh thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác h́nh thể. H́nh thể là chân không, chân không là h́nh thể. Cảm xúc (6), niệm tự (7) và tư duy (8) và ư thức (9) đều là như vậy.

3. Này người con ḍng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không, nó không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm.

4. V́ thế, này người con ḍng Sari, trong Không không có h́nh thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ư thức (10); không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư; không có h́nh thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, xúc chạm (11) và hiện hữu (12). Không có đối đượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ư thức; không có minh, không có vô minh (13), không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau và không có con đuuờng đưa đến sự chấm dứt khổ đau (14); không có tri giác (15) cũng không có sự thành tựu tri giác, v́ chăng có quả vị của tri giác nào để thành tựu.

5. Người Tỉnh Thức B́nh Yên, do sống an lành trong Tuệ giác vô thượng mà thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, v́ không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hăi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

6. Tất cả chư Phật trong ba đời (16) đều nương tựa vào Tuệ giác vô thượng mà thành tựu (17) chánh giác.

7. V́ thế, nên biết rằng Tuệ giác vô thượng là sức thần (18) kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác vô thượng này là sự thật, là chân lư. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng:

"Đi qua, đi qua
Đi qua bờ bên kia,
Đă đi qua đến bờ bên kia, reo vui!"

Chú thích:

(1) Trí tuệ Bát nhă (Prajnàpàramità).
(2) Dịch từ "Quán Tự Tại" theo cách chiết tự.
(3) Năm tổ hợp hay năm uẩn (skandhas).
(4) Vô tự tính hay bản tính Không (Sunyata).
(5) Mẹ của Sariputa là người rất thông minh nên có hiệu là Sari. Trung Hoa dịch chữ Sariputa là Xá Lợi tử, nghĩa là, đứa con ḍng Xá Lợi (Sari). Do đó, tác giả dịch là Người con ḍng Sari, lối dịch này đă được sử dụng trong bản dịch "Kinh Ruột Tuệ Giác Siêu Việt" của Thi Vũ, do HT. Trí Quang giới thiệu, xuất bản năm 1973, tại Paris.

(6) Thọ uẩn
(7) Tưởng uẩn
(8) Hành uẩn
(9) Thức uẩn
Bốn uẩn (hợp thể) này thuộc về tâm lư, sắc uẩn (hợp thể vật chất) thuộc về vật lư.

(10) Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (5 uẩn).
(11) Xúc (trong sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
(12) Hiện hữu đọc được dùng đồng nghĩa với pháp (dharma).
(13) Vô minh (ignorance), nguồn gốc của sự khổ đau.
(14) Tứ đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế).
(15) Tri giác (dịch từ Vô tri diệc vô đắc).
(16) Ba đời: quá lhứ, hiện tại, vị lai.
(17) Thành tựu ở đây có nghĩa là đă giải thoát khỏi thế giới nhị nguyên, không c̣n phân biệt, đối đăi nhân-pháp, hữu-vô v.v...
(18) C̣n được dịch là linh ngữ hay thần chú (mantra).

-ooOoo-

Bản phổ thơ Anh ngữ:
(cung cấp bởi: Laurence Cox - lcox@alf2.tcd.ie , Trinity College, Dublin, Ireland)

THE HEART SUTRA

The Bodhisattva of Compassion,
when he meditated deeply,
saw the emptiness of all five skandhas
and sundered the bonds that caused him suffering.

Here then,
form is no other than emptiness,
emptiness no other than form.

Form is only emptiness,
emptiness only form.
Feeling, thought and choice,
consciousness itself,
are the same as this.

All things are the primal void,
which is not born or destroyed,
nor is it stained or pure,
nor does it wax or wane.

So, in emptiness, no form,
no feeling, thought or choice,
nor is there consciousness.
No eye, ear, nose, tongue, body, mind.
No colour, sound, smell,
taste, touch or what the mind takes hold of,
nor even act of sensing.

No ignorance nor all that comes of it,
no withering, no death,
no end of them.

Nor is there pain, or cause of pain,
or cease in pain,
or noble path to lead from pain,
nor even wisdom to attain.
Attainment too is emptiness!

So know that the Bodhisattva,
holding to nothing whatever
but dwelling in prajna wisdom,
is freed from delusive hindrance,
rid of the fears bred by it,
and reaches clearest Nirvana.

All Buddhas of past and present,
Buddhas of future time,
Using this prajna wisdom
Attain full and perfect enlightenment.

Hear then the great dharani,
the radiant peerless mantra,
the prajnaparamita
whose words allay all pain,
hear and believe its truth!

Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha

-ooOoo-

Bản dịch Anh ngữ:
(cung cấp bởi: Raja Hornstein, devaraja@well.com )

GREAT WISDOM BEYOND WISDOM HEART SUTRA

Avalokiteshvara Bodhisattva, when practicing deeply the Prajna Paramita, perceived that all five skandhas in their own being are empty and was saved from all suffering.

O Shariputra, form does not differ from emptiness; emptiness does not differ from form. That which is form is emptiness; that which is emptiness form. The same is true of feelings, perceptions, formations, consciousness.

O Shariputra, all dharmas are marked with emptiness. they do not appear nor disappear, are not tainted nor pure, do not increase nor decrease. Therefore in emptiness: no form, no feelings, no perceptions, no formations, no consciousness; no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind; no color, no sound, no smell, no taste, no touch, no object of mind; no realm of eyes...until no realm of mind-consciousness; no ignorance and also no extinction of it...until no old-age and death and also no extinction of it; no suffering, no origination, no stopping, no path, no cognition, also no attainment with nothing to attain.

A bodhisattva depends on Prajna Paramita and the mind is no hindrance. Without any hindrance no fears exist. Far apart from every perverted view one dwells in nirvana. In the three worlds all buddhas depend on Prajna Paramita and attain unsurpassed complete perfect enlightenment. Therefore, know the Prajna Paramita is the great transcendent mantra, is the great bright mantra, is the utmost mantra, is the supreme mantra which is able to relieve all suffering and is true not false; so proclaim the Prajna Paramita mantra, proclaim the mantra that says:

Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha

-ooOoo-

Bản dịch Anh ngữ:
(Trúc Huy, truc_huy@yahoo.com, tháng 10-1999)

Heart of Perfect Wisdom

The Bodhisattva Avalokitesvara, from the deep course of Prajna wisdom, saw clearly that all five skandhas were empty and sundered all bonds of suffering.

Sariputra, know then: form does not differ from emptiness, nor does emptiness differ from form. Form is no other than emptiness, emptiness no other than form. The same is true of feelings, perceptions, impulses and consciousness.

Sariputra, all dharmas are marked with emptiness. None are born or die, nor are they defiled or immaculate, nor do they wax or wane. Therefore, where there is emptiness, there is no form, no feeling, no perception, no impulse, nor is there consciousness. No eye, ear, nose, tongue, body, or mind. No color, sound, smell, taste, touch, or object of mind. There is no domain of sight nor even domain of mind consciousness. There is no ignorance nor is there ceasing of ignorance. There is no withering, no death, nor is there ceasing of withering and death. There is no suffering, or cause of suffering, or cease in suffering, or path to lead from suffering. There is no cognition, nor even attainment.

So know that the Bodhisattva, indifferent to any kind of attainment whatsoever but dwelling in Prajna wisdom, is freed of any thought covering, get rid of the fear bred by it, has overcome what can upset and in the end reaches utmost Nirvana. All Buddhas of past and present, and Buddhas of future time, through faith in Prajna wisdom, come to full and perfect Enlightenment.

Therefore, one should know the Prajna paramita as the mantra of great knowledge, the miraculous, the utmost, the unequalled mantra, whose words relieve all suffering. This is highest wisdom, true beyond all doubt.

Know then and proclaim the Prajna paramita mantra. It spells like this:

Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
(Gone, gone, gone beyond, gone altogether beyond, Bodhi, rejoice!)

(English translation: Trúc Huy)

-ooOoo-

Bản dịch Pháp ngữ:
(Trúc Huy, truc_huy@yahoo.com, tháng 10-1999)

Le Sutra de l'Esprit de la Grande Vertu de Sagesse

Lorsque le Bodhisattva Avalokitesvara accomplit profondément la grande Vertu de Sagesse, il considéra les cinq agrégats comme vides et traversa ainsi toutes les souffrances et afflictions.

Sariputra, les formes ne sont pas différentes du vide. Le vide n'est pas différent des formes. Les formes ne sont rien d'autre que le vide. Le vide n'est rien d'autre que les formes. Il en est de même des sensations, des perceptions, des formations mentales et de la conscience.

Sariputra, tous ces dharma ont l'aspect du vide. Ils ne naissent ni ne disparaissent. Ils ne sont ni souillés ni purs. Ils ne croissent ni ne décroissent. C'est pourquoi, dans le vide, il n'y a pas de forme, de sensation, de perception, de formation mentale ni de conscience. Il n'y a pas d'oeil, d'oreille, de nez, de langue, de corps ni de mental. Il n'y a pas de couleur, de son, d'odeur, de saveur, de toucher ni d'objet de pensée. Il n'y a pas de domaine du visuel et pour finir pas de domaine de la connaissance mentale. Il n'y a pas d'ignorance et pas plus de cessation de l'ignorance. Pour finir, il n'y a pas de vieillesse ni de mort, et pas plus de cessation de la vieillesse ni de la mort. Il n'y a pas de souffrance, d'origine, de cessation ni de chemin. Il n'y a pas de connaissance ni même d'obtention.

Comme il n'y a rien à obtenir, c'est pourquoi les Bodhisattva s'appuient sur la vertu de sagesse. Leur esprit ne conna? pas d'entrave, ainsi ils n'ont pas de peur. En se libérant des erreurs et des égarements, ils atteignent enfin l'ultime Nirvana. Tous les Bouddhas du passé, du présent et du futur, en s'appuyant sur la vertu de sagesse, ont obtenu le suprême et parfait Éveil.

Aussi professe-t-on la vertu de sagesse. Par un grand mantra miraculeux, par un mantra de grande connaissance, par un mantra insurpassable, par un mantra sans égal. Il supprime toute souffrance, en vérité et sans fausseté.

Voilà donc le mantra qui proclame la grande Vertu de Sagesse. Ce mantra dit:

Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
(Allez, allez, allez au-delà, allez complètement au-delà, sur la rive du Satori!)

(Traduction francaise: Trúc Huy)

Bản Hán văn:

 

 

 

Bản chữ Phạn

 

 

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 92 of 143: Đă gửi: 14 May 2006 lúc 11:54pm | Đă lưu IP  

Chương III - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải của OSHO do Thích Nữ Minh Tâm dịch

 

 

Xin các bạn đọc chương này với ḷng trắc ẩn và t́nh yêu thương con người. Nếu không làm được th́ xin bạn bỏ qua, coi như chưa từng nh́n thấy. OnlyOne_0 không b́nh luận. Cảm ơn bạn nhiều !

 

 

Chương 4

Hiểu Biết – Qui Luật Duy Nhất

 

Câu hỏi thứ nhất:

Osho thân mến,  

Tôi sanh ra trong một gia tộc nhiều bất hạnh.  Bên ngoại tôi đă xảy ra bốn vụ tự tử.  Ngay cả bà ngoại tôi cũng tự tử.  Tự tử ảnh hưởngthế nào đến cái chết của một người?  Làm sao vượt qua được sự hiểu biết lệch lạc, sai lầm về cái chết khi nó đă trở thành tiêu đề của một ḍng họ, gia đ́nh?

 

 

Hiện tượng chết là một trong những hiện tượng bí ẩn nhất và tự tử cũng là một hiện tượng bí ẩn.  Đừng suy luận đơn thuần trên bề mặt tự tử làǵ.  Tự tử có thể là nhiều thứ, có thể v́ nhiều thứ.  Không đơn thuần đâu.  Sự hiểu biết cá nhân của tô là những người tự tử là những người nhậy cảm nhiều nhất trong thế giới loài người.  Họ là những rất thông minh.  Thật đấy, bạn ạ.  Bởi v́ chính sự nhậy cảm của họ nên họ thấy khó mà đối diện hay chịu đựng nổi cái thế giới loạn thần kinh này.

 

Xă hội này là một xă hội điên loạn.  Nó hiện hữu trên những nền tảng cơ bản điên loạn.  Toàn bộ lịch sử của nó là loch sử của điên loạn, của bạo lực, của chiến tranh, của hủy diệt.

 

Có người nào đó nói rằng: “Nước tôi là nước lớn mạnh nhất thế giới” – Nhưng ngày nay nước đó đang bị khủng hoảng điên loạn.  Lại có người nào đó nói rằng: “Tôn giáo của tôi là tôn giáo tuyệt đối, tôn giáo cao nhất trên thế giới” – ngày nay tôn giáo đó đang bị khủng hoảng, sai lầm và điên loạn.  Và sự điên loạn đó đă thấm sâu vào tận cùng xương tủy, và con người đă trở thành ngớ ngẩn, vô cảm.  Họ phải trở thành những con người vô cảm như vậy, nếu không, đời sống sẽ không thể chịu đựng nổi.

 

Bạn phải vô cảm để đối mặt với thế giới khủng hoảng này, với cuộc đời nhiễu nhương này, nếu không, bạn sẽ bị hất văng ra ngoài, bạn sẽ bị lạc điệu.  Nếu bạn không hoà điệu đươcï với nhịp sống quay cuồng của cơn trốt xoáy xă hội, xă hội đó sẽ lên án là bạn bị “mát dây, bị chạm điện” rồi đó.  Cái xă hội này nhiễu loạn nhưng nếu bạn không tự điều chỉnh để theo đúng bước với nó, nó sẽ cho rằng bạn điên, bạn khùng.

 

V́ thế, một là bạn cũng “chạm,” cũng “điên” như mọi người trong xă hội, trong thế giới này; hai là  bạn phải t́m cách thoát ra khỏi nó, và đó là phương cách một số người đă làm: tự tử.

 

Cuộc đời đă không c̣n có thể nhẫn chịu được nữa.  Thự c khó ḷng đối diện và ứng phó nổi với bao nhiêu người chung quanh bạn – v́ tất cả bọn họ đều điên cả.  Bạn sẽ làm ǵ nếu bạn bị quăng bỏ vào nhà thương điên?

 

Sự cố đó đă xảy ra cho một người bạn của tôi; anh ta bị nhốt vào bịnh viện tâm thần chín tháng theo lệnh của ṭa án.  Sáu tháng sau, anh ta phát khùng thật, anh ta có thể đă bị ảnh hưởng như những người điên trong bệnh viện – anh ta t́m thấy một chai Phenol (một loại chất tẩy) trong nhà tắm và anh ta nốc cạn.  Trong 15 ngày, anh ta đau đớn vô cùng v́ tiêu chảy và ói mửa; do tiêu chảy và ói mửa dữ dội đó, ngẫu nhiên anh ta bỗng sáng suốt trở lại.  Hệ thống tuần hoàn tiêu hóa của anh ta được tẩysạch, chất độc được tẩy sạch.  Anh ta nói với tôi rằng 3 tháng cuối cùng (theo lệnh án) là 3 tháng khó klhăn nhứt, vô cùng khó khăn – anh ta nói: “Sáu tháng đầu tiên thật đẹp v́ tôi điên, và mọi người đều điên cả.  Mọi việc diễn biến giản dị và tốt đẹp, không có vấn đề ǵ cả.  Tôi ḥa điệu được với toàn bộ thế giới điên loạn chung quanh tôi.”

 

Khi anh ta uống Phenol và bị tiêu chảy ói mửa suốt 15 ngày, một sự cố ngẫu nhiên t́nh cờ nào đó, toàn bộ hệ thống tiêu hoá, thần kinh của anh ta được tẩy sạch, bao tử anh ta được tẩy sạch.  Anh ta không thể ăn ǵ được trong 15 ngày sau đó – v́ anh ta ói mửa quá mức, bao tử làm việc quá độ nên giờ anh at phải nhịn đói để bao tử dưỡng sức trở lại.  Anh ta nghỉ ngơi trên giường trong ṿng 15 ngày.  Sự nghỉ ngơi đó, sự nhịn đói đó, sự tẩy tịnh đó – thật ngẫu nhiên, t́nh cờ – đă giúp anh ta tỉnh táo ra, anh ta tỉnh thực sự.  Và anh ta đi gặp bác sĩ, nói với họ rằng: “Tôi đă tỉnh rồi” – nhưng tất cả bọn họ đều phá lên cười.  Họ nói “Mọi người điên đều nói như vậy cả.”  Anh ta càng cố chứng minh rằng anh ta tỉnh táo, họ càng không tin “Đúng là điên nữa rồi, người điên nào cũng nói là “tôi tỉnh” cả.  Thôi anh cứ đi đi, và làm việc của anh đi, anh chỉ được thả ra khi có lệnh của ṭa án.”

 

Anh bạn tôi kể lại rằng: “Ba tháng cuối cùng đó thật kinh khủng, khó chịu đựng vô cùng.  Nó như một cơn đại ác mộng!  Một cơn ác mộng ghê gớm!”  Có nhiều lúc anh ta đă toan tự tử.  Tuy nhiên anh ta là một người giàu ư chí, nghị lực. Anh ta cố nhủ ḷng chỉ c̣n 3 tháng nữa thôi, anh ta có thể chờ đợi, phải chờ đợi dù thực khó nhẫn chịu được hoàn cảnh đó!  Mấy người điên cứ đến phá anh ta, người th́ giựt tóc, kẻ th́ lôi chân, có kẻ bỗng dưng nhẩy xổ vào anh ta, nhẩy chỉ để mà nhẩy thôi, không có lư do, duyên cớ ǵ hết.  Điên mà!  Tất cả những sự cố đó đă từng diễn biến trong sáu tháng qua, và anh ta cũng đă là một phần tử của đám người điên khùng đó.  Anh ta cũng đă từng làm những hành động ngớ ngẩn như vậy, anh ta là một phần tử của cái xă hội điên loạn đó nên không có ǵ dễ sợ cả.  Nhưng ba tháng sau cùng, anh ta không chịu đựng nổi v́ anh ta đă “tỉnh” – anh ta “tỉnh” – và mọi người c̣n điên.

 

Trong cái thế giới điên loạn này, nếu bạn tỉnh táo, nhậy cảm, thông minh th́ một là bạn phải điên loạn, hai là bạn phải tự tử hoặc bạn phải trở thành một ẩn sĩ.  Cái ǵ đây?

 

Câu hỏi trên là của bà Jane Ferber, vợ của đạo hữu Bodhi Citta(Bồ Đề Tâm).  Bà ta đến gặp tôi đúng lúc.  Bà ta có thể trở thành một ẩn sĩ và tránh được giải pháp tiêu cực tự tử.  Ở phương Đông, thống kê về số những người tự tử không nhiều lắm, v́ họ đă chọn cách đi tu là một giải pháp thay thế tốt nhất cho sự nổi loạn hay tự tử.  Bạn có thể rút chân ra khỏi xă hội, phương Đông chấp nhận.  Bạn có thể bắt đầu làm những công việc riêng của bạn, phương Đông tôn trọng ư kiến đó.  Do đó, sự khác biệt giữa Aán Độ và Mỹ là một phần năm:  cứ 5 người Mỹ tự tử th́ chỉ có một người Ấn mà thôi và hiện tượngtự tử là hiện tượng nổi cộm dầy nhứt ở Mỹ.  Thông minh phát triển, nhậy cảm phát triển, nhưng xă hội lại lù đù ngớ ngẩn.  Xă hội không cung ứng nổi một thế giới thông thái – vậy th́ phải làm ǵ bây giờ?  Không lẽ cứ tiếp tục chịu đựng đau khổ măi như vậy sao?  Bởi vậy, có người đă nghĩ rằng, “Tại sao không quăng bỏ hết tất cả xuống?  Tại sao không chấm dứt đau khổ ngay?  Tại sao không trả hết lại cho Chúa, cho Thượng Đế?”

 

Ở Mỹ, nếu đi tu trở thành một phong trào lớn mạnh th́ chắc chắn mật độ tự tử sẽ giảm ngay xuống, bởi v́ con người sẽ có một lối thoát và thay thế tốt đẹp hơn và có nhiều sáng tạo hơn giải pháp tự tử.

 

Bạn có biết phong trào Hippie không?  (*Hippie” có nghĩa là một phong trào cuối những năm 60, người ta bác bỏ xă hội có tổ chức và những tập tục xă hội đă được kiến lập, kết hợp với những người khác và chọn một lốisống độc đáo, kiểu ăn mặc khác thường.  Hippie sau trở thành một phong trào phản chiến ở Mỹ.  Phong trào này lớn nhanh mạnh nhất vào thập kỷ 60 trở đi, khi cuộc nội chiến Việt Nam bùng nổ mạnh và người Mỹ trực tiếp tham gia vào cuộc chiến này.  Dân Hippie để tóc dài, chạy xe gắn máy phân khối lớn, tụ tập ở với nhau tại những căn nhà lưu động hay vùng hoang dă, thiên nhiên.  Họ thường là những văn nghệ sĩ, sáng tác và hát những loại nhạc phản chiến, ca tụng ḥa b́nh nhân loại.)

 

Bạn có quan sát thấy rằng tại sao dân Hippie không tự tử?  Thế giới tương đối này là thế giới mà mức độ tự tử thật phổ biến.  Dân Hippie có thể xem như là một loại ẩn sĩ – một ẩn sĩ chưa hoàn toàn tỉnh giác về những ǵ họ làm nhưng có thể nói họ làm đúng, không sai; có thể họ đang ḍ dẫm lư tưởng hay một đời sống ẩn sĩ.  Dân Hippie tuyên bố rằng: “Tôi không muốn là một phần tử của cái tṛ chơi mục nát thối rửa, tôi không muốn là một phần tử của tṛ chơi chính trị.  Tôi không muốn tham dự vào đó.  Tôi “thấy” mọi việc, tôi thấy rơ và tôi muốn đờisống của chính tôi.  Tôi không muốn bị giết ở bất cứ mặt trận nào.  Tôi không muốn chiến đấu, tôi không thích chiến tranh v́ có nhiều việc tốt đẹp hơn, ư nghĩa hơn, đúng đắn hơn, xác thực hơn và lợi ích hơn cần phải làm.”

 

Nhưng đối với hàng triệu người khác, tư tưởng ấy không là ǵ cả; xă hội đă tước đoạt hết tất cả khả năng phát triển của họ.  Họ bị kẹt cứng rồi.  Họ bị vướng mắc rồi.  Người ta tự tử bởi v́ họ cảm thấy bị vướng mắc, bị kẹt và họ không tài nào t́m ra được lối thoát.   Họ bị lúng túng mắc kẹt trong cái túi, cái bao xăhội; và bạn càng thông minh bao nhiêu, bạn càng lúng túng khó xử, mắc kẹt trong cái túi đăy xă hội đó bấy nhiêu, không thể nào thoát ra được.  Và rồi bạn dự định sẽ làm ǵ?  Xă hội khôngcho phép bạn bất cứ một sự thay đổi, thay thế nào: cái xă hội này không cho phép bất cứ một h́nh thức thay thế xă hội nào khác.

 

Đời sống ẩn sĩ là một h́nh thái thay đổi biến cải xă hội.  Thực lạ lùng là ở Ấn Độ, mật độ tự tử lại là mật độ thấp nhất thế giới.  Nếu đứng về mặt lư luận th́ nó phải là cao nhất mới đúng, bởi v́ dân chúng đói khổ, thiếu ăn, sống rất cơ hàn khổ cực.  Nhưng hiện tượng lạ thường đó lại nhan nhăn khắp nơi là: dân nghèo lại không tự tử.  Người nghèo không có lư tưởng hay mục tiêu ǵ để sống, họ cũng chẳng chết v́ một cái ǵ cả.  Bởi v́ họ nghèo, họ đói nên họ chỉ bận tâm về cái ăn, cái mặc, một chỗ trú chân, tiền bạc . . . những thứ thật tầm thuờng, vậy thôi.  Họ không đủ hơi sức để nghĩ đến chuyện tự tử, họ chưa sung măn để nghĩ đến chuyện đó.  Xứ Mỹ th́ có quá nhiều thứ, Ấn Độ th́ chẳng có ǵ cả.

 

Vừa mới ngày hôm nọ thôi, tôi đọc thấy có một người nào đó viết một câu rằng: “Dân Mỹ có Jimmy Carter, Johnny Cash và Bob Hope.  Dân Ấn th́ chỉ có một Morarji Desai khô khan, ngớ ngẩn, đă chết.  Họ chẳng có tiền bạc ǵ và rất  ít, rất ít hy vọng.”

 

“Cash” có nghĩa là tiền mặt và cũng là họ của Johnny Cash.

“Hope” có nghĩa là hy vọng và cũng là họ của Bob Hope.

(Câu nói trên của mộtngười Aán Độ nào đó là một lối dùng chữ ví von, đối chiếu).

 

Nhưng thế mà họ vẫn không tự tử, họ vẫn sống, vẫn vui hưởng cuộc đời.  Ngay cả những người ăn mày cũng hân hoan, vui vẻ.  Qủa t́nh không có ǵ để cho họ hào hứng về cuộc sống cả; nhưng họ vẫn hy vọng, hy vọng một ngày mai tươi đẹp hơn sẽ đến với họ.

 

Tại sao ở Mỹ lại có quá nhiều vụ tự tử vậy?  Những vấn đề b́nh thường của đời sống con người đăơ biến mất, trí năng đă tự do vọt cao hơn phần ư thức b́nh thường.  Trí năng có thể vượt qua phần thể xác và vượt qua chính nó nữa.  Yù thức con người sẵn sàng chắp cánh để bay cao xa nhưng xă hội không cho phép nó làm điều đó.  Trong mười người tự tử th́ hết chín là những người nhậy cảm.  Thấy được sự vô nghĩa của kiếp sống, thấy được sự sỉ nhục thô bỉ mà cuộc đời áp đặt, thấy tất cả những thỏa hiệp dàn xếp mà con người vô cớ tự bày đặt ra chẳng v́ một cái ǵ hết, thấy mọi thái độ không cởi mở, không hài ḥa, vui vẻ của con người đối với nhau, nh́n chung quanh và thấy rằng “Kẻ ngu mà kể chuyện th́ chẳng có ư nghĩa ǵ cả,” họ quyết định t́m cách giải thoát khỏi cái thân xác uế trược này.  Gỉa dụ như họ có được đôi cánh th́ chắc họ đă không nghĩ đến chuyện tự tử đâu.

Tự tử c̣n có một ư nghĩa khác nữa mà chúng ta cần phải hiểu rơ.  Ở đời, mọi thứ dường như rất giống nhau, bắc chước lẫn nhau.  Bạn không thể có cái xe mà người khác không có.  Hàng triệu người có cùng một loại xe mà bạn đang có.  Hàng triệu người khác đang sống một đời sống như bạn đang sống, xem cùng một loại phim, một loại truyền h́nh như bạn, đọc cùng một loại báo như bạn đang đọc.  Cuộc đời mọi người sao giống nhau quá, không có một cái ǵ riêng biệt để cho bạn làm, để cho bạn trở thành.  V́ thế, tự tử có vẻ là một hiện tượng độc nhất, một phương pháp duy nhất: đó là bạn có thể chết cho chính bạn, không có ai chết thế cho bạn được.  Cái chết của bạn đó là cái chết của bạn, không phải của người nào khác.  Chết là độc nhất!  (*Osho sử dụng từ “của” (of) có nghĩa là con người sở hữu mạng sống, cuộc đời của ḿnh, và tùy nghi có quyền sử dụng nó.)

 

Hăy nh́n hiện tượng – Chết là độc nhất, riêng biệt – nó định nghĩa, nó chứng minh bạn là một cá thể độc lập, nó cho bạn cái nhân cách của chính bạn, cái con người cá thể của chính bạn.  Xă hội đă tước đoạt cái cá nhân đó của bạn, bạn chỉ c̣n là một kẻ phụ thuộc tầm thường, mộ cái răng trongloạt răng ở vành một bánh xe, một con vít nhỏ trong guồng máy.  Không có ǵ thay thế được.  Nếu bạn chết đi, không có một ai thương nhớ bạn cả, vị trí của bạn sẽ và chắc chắn được thay thế.   Nếu bạn là một giáo sư đại học, một giáo sư khác sẽ được điều về thay thế bạn trên bục giảng khi bạn chết.  Ngay cả bạn là một ông tổng thống đi chăng nữa, một ông tổng thống khác sẽ thay thế vị trí đó ngay, ngay tức khắc cái giây phút bạn chết, bạn biến mất khỏi cuộc đời này.  Bạn được thay thế!

 

Sự việc đó, ư nghĩa đó thật xót xa, thật đau, nó làm cho bạn đau thật thấm thía – rằng bạn chẳng có giá trị ǵ nhiều, rằng bạn sẽ không c̣n được ai nhắc nhở tới nữa, rằng một ngày kia bạn sẽ biến mất và sớm muộn ǵ những người có tiếc nhớ bạn cũng biến mất luôn.  Rồi th́, cũng coi như bạn chưa từng có mặt.  Hăy suy nghĩ về ngày đó.  Hăy suy nghiệm về ngày đó.  Bạn sẽ biến mất khỏi ḍng sống . . . Phải, có thể trong vài ngày thôi, có vài người nhớ thương bạn – người yêu của bạn sẽ đau khổ khóc thương bạn, các con cái của bạn sẽ nhớ bạn, có thể vài người bạn thân của bạn sẽ nhắc nhớ tới bạn; nhưng rồi dần dần, thời gian trôi qua, họ vẫn phải sống và bước tới, hoài niệm kư ức của họ cũng phai nhạt dần đi, yếu đi, và từ từ lăng quên.  Song, có thể với những người mà bạn đă từng có một giao t́nh thật sâu đậm, thiết tha, khi họ c̣n sống, thỉnh thoảng bạn sẽ được họ nhắc nhở tới, nhưng một khi những người này cũng nằm xuống th́ bạn thực sự bị lăng quên và bị bỏ rơi, như chưa hề quen biết, như bạn chưa từng góp mặt vào ḍng sống bao giờ.  Và rồi có ǵ khác biệt đâu nếu bạn đă có mặt hay chưa từng có mặt ở cuộc đời này.

 

Cuộc đời không cho bạn một sự kính trọng độc nhất đặc biệt nào.  Cuộc đời làm bẽ mặt bạn quá, sỉ nhục bạn quá, hạ thấp gía trị bạn quá.  Nó đẩy đưa, lèo lái bạn đến cái hố thẳm, nơi mà bạn chỉ là một con vít trong cái guồng máy khổng lồ, nơi mà bạn chỉ là một cái răng trong loạt răng ở vành bánh xe, nơi mà bạn chỉ là một vật phụ thuộc, không quan trọng.  Nó làm cho bạn trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt.  Trong tay nó, bạn chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt tầm thường thực sự.  Tóm lại, cái chết cũng độc nhất vô nhị như vậy.  Và tự tử c̣n độc nhất hơn cả cái chết nữa.  Tại sao? – bởi v́ cái chết xảy ra, cái chết đương nhiên đến với bạn, bạn không tạo ra cái chết, nhưng tự tử lại chính là sản phẩm do chính bạn tạo ra.  Chết không nằm trong tầm tay của bạn: khi nó tới là nó tới.  Nhưng với tự tử, bạn là tác nhân, bạn chính là người hành động, bạn không phải là nạn nhân.  Bạn chính là người đă đưa tay cầm lưỡi hái tự kết liễu mạch sống của chính ḿnh.  Bạn hoàn toàn kiểm soát được sự tự tử, bạn làm chủ lấy nó.

 

Bạn cũng không thể làm ǵ khác hơn được với “Sanh,” cũng giống như một tai nạn xảy ra, cha mẹ bạn giao hợp với nhau và sự kết hợp tinh huyết của cha mẹ bạn đó sanh ra bạn.  Bạn không có dự án sẽ được sanh ra, bạn không tính toán sẽ được sanh ra, “Sanh” là một kết hợp tự nhiên, thế thôi.

Ở đời, có ba vấn đề sống c̣n, khẩn yếu:  Sanh, Yêu và Chết.  “Sanh” đă xẩy ra, không có làm ǵ khác hơn được.  Bạn không đ̣i hỏi, không yêu cầu được sanh ra hay không sanh ra.  Bạn là nạn nhân của sự cố đó.  T́nh yêu cũng vậy; bạn cũng bất lực trước t́nh yêu.  Một ngày kia, bạn bị một “cú sét ái t́nh” với người nào đó, bạn không pḥng hờ, bạn không dự đoán, bạn không chuẩn bị ǵ cả.  T́nh yêu đến là đến.  “Sanh và Yêu” là hai sự cố ngẫu nhiên, t́nh cờ kết hợp xẩy ra rồi; giờ chỉ c̣n “Chết” là cái màbạn có thể quyết định chờ đợi là nạn nhân của nó hay là ra tay trước.

 

Tự tử là giải pháp tiêu cực mà người tự tử thường biện luận rằng: “Hăy để cho tôi làm một việc mà ít nhất ra, tôi cũng có quyền lựa chọn và hành động theo ư của tôi, tôi có quyền sở hữu với cuộc đời tôi; một cuộc đời, một thế giới mà tôi sanh ra thật t́nh cờ, thật ngẫu nhiên, không do tôi chọn lựa.  Đó là tôi tự kết liễu cuộc đời tôi!  Ít nhất ra đó cũng là một hành đông mà tôi được tự do chọn lựa và xử sự theo ư ḿnh!”

 

Con người bất lực trước “Sanh và Yêu,” nhưng với “Chết” con người có thể thay thế, có nghĩa là chấp nhận nó sẽ tới bất kỳ lúc nào hay tự ḿnh chọn cách chết và ngày giờ chết.  Bạn có thể là nạn nhân hoặc là người quyết định.

 

Cái xă hội này đă tước đoạt hết tất cả phẩm giá của bạn.  Đó là lư do v́ sao nhiều người tự tử – bởi v́ họ cho rằng tự tử là lấy lại cái phẩm giá mà họ đă bị đánh cắp, cái giá trị mà họ đă bị mất.  Họ có thể nói thẳng với Chúa hay thượng đế của họ rằng: “Tôi đă chối bỏ cái thế giới và đời sống của Ngài!  Chúng không c̣n giá trị ǵ nữa!”  Hầu hết những người tự tử là những người nhậy cảm, giàu t́nh cảm hơn ai hết, c̣n hơn là những kẻ chỉ sống lây lất vô vị qua ngày.  Nhưng tôi không bao giờ chấp nhận giải pháp tự tử là đúng đâu nhé!  Tôi chỉ nói tự tử là khả năng có thể xảy ra cao nhất khi con người giáp mặt với cuộc sống và chịu đựng không nổi.

 

Từng giây phút, từng khoảnh khắc cuộc đời thật đẹp, thật mỹ miều đáng yêu; từng giây phút, từng khoảnh khắc đó thật cá nhân, chỉ cho riêng từng người, mỗi người; không có giây phút nào giống giây phút nào, cũng chẳng bao giờ tái diễn.  Giây phút sống nào đă trôi qua là qua đi mất.  Bởi vậy, bạn hăy cẩn trọng, hăy nâng niu từng tấc thời gian, từng khoảnh khắc cuộc đời!  V́ nó thật vô cùng qúi giá, nếu mất đi rồi, bạn không bao giờ lấy lại được.  Do đó, không cần phải tự tử.  Từng giây phút sống sẽ mang hạnh phúc mới đến cho bạn, sẽ mang ân phước thiêng liêng đến cho bạn – từng khoảnh khắc tuyệt vời đó sẽ giúp bạn tự định giá trị là “chính ta là người độc nhất, bởi v́ ta độc nhất!  Trước ta không hề có ai giống ta và sau ta cũng không hề có.  Ta là ta, độc nhất,” nhưng xă hội bắt buộc bạn trở thành một phần tử của đội quân khổng lồ đó.  Xă hội không bao giờ muốn bạn đi con đường riêng của bạn.  Xă hội muốn bạn phải là một thành viên của đám đông: bạn là một người Ấn Độ giáo, một người Thiên Chúa giáo, một người Do Thái giáo, một người Mỹ hay một người Ấn Độ – là thành viên của bất cứ đoàn thể tôn giáo nào, của bất cứ tập quần xă hội nào cũng được, nhưng phải là một phần tử xă hội, không phải không được.  Bạn không được và không bao giờ được quyền là chính bạn; và những người muốn là chính họ . . . và những người muốn là chính họ đó mới là hạt nhân của xă hội, là ṇng cốt của xă hội.  Họ chính là những người giá trị nhất trên trái đất này.  Trái đất này c̣n một chút hương thơm và nhân bản chính là nhờ vào những con người này.  V́ thế, họ đă tự tử.  Tuy nhiên, đây là kinh nghiệm của tôi.  Tự tử và Ẩn Tu có thể thay thế cho nhau.  Bạn có thể là một nhà ẩn sĩ khi bạn đă tới một mức mà nếu không đi tu, bạn sẽ tự tử.  Ẩn tu có nghĩa là “tôi cố gắng trở về với chính con người tôi khi c̣n sống! Tôi sẽ sống cuộc đời của chính tôi!  Tôi sẽ sống cho chính tôi với lối sống, đường hướng của chính tôi.  Tôi không để bị ảnh hưởng, bị chi phối, tôi không để bị đánh lừa, bịp bợm bởi những bài thuyết giảng rỗng tuếch, lệch lạc nữa.  Tôi không hành động như cái máy, như một tên người máy nữa.  Tôi sẽ không c̣n đắp xây lư tưởng nào nữa, và tôi cũng không có một lư tưởng nào nữa.  Tôi sẽ sống trọn vẹn trong phút giây này, tôi sống thực sự trong phút giây này.  Tôi tự nguyện làm điều đó, và tôi sẽ đánh đổi tất cả, cả cuộc đời tôi cho phút giây Sống Trọn Vẹn đó!”

 

Ẩn tu là một chọn lựa đúng đắn, thích hợp nhất, là một sự trả giá, đánh đổi khôn ngoan nhất, hợp lư nhất, một sự liều lĩnh đầy thú vị và tuyệt vời nhất.

 

Những vị tu sĩ chính là những người thực tiễn, khôn ngoan, sâu sắc, thông minh nhất khi đánh đổi những giả tạm thế gian cho một đời sống tâm linh cao thượng, thanh khiết, an lạc và giải thoát vĩnh cữu.

 

Jane, tôi muốn nói với bạn rằng: “Nh́n sâu vào đôi mắt bạn, tôi thấy đúng thực là khả năng và ư muốn tự tử đă ẩn hiện trong mắt bạn.  Nhưng tôi nghĩ rằng bạn sẽ không tự tử đâu, bạn sẽ đi tu!  Bạn may mắn hơn bốn người trong ḍng họ bạn!

 

Thực tế th́ những người thông minh nào cũng dám tự tử cả, cũng dám chọn cho ḿnh một cái chết, duy chỉ có những kẻ ngu mới không bao giờ dám tự tử.  V́ những kẻ ngu đắm say trong ảo mộng cuộc đời, họ có bao giờ nghĩ sâu xa hơn đằng sau, bên trong những ảo mộng phù du đó, có cái ǵ khác hơn là chỉ ăn uống, ngủ nghỉ và t́nh dục?  V́ họ không quan tâm đến cuộc đời nên họ cần ǵ phải tự tử?  Chỉ có những người khôn ngoan sâu sắc mới nh́n thấy được sự vô giá trị của một đời sống vật chất tầm thường không mục đích, sự phi lư vô nghĩa của kiếp nhân sinh.

Thông minh có nghĩa là nh́n sâu vào sự kiện.

 

Bạn có mục tiêu cuộc sống nào không?  Đời sống bạn có vui vẻ không?  Đời sống bạn có nên thơ không?  Đời sống bạn có sáng tạo được ǵ không?  Bạn có hân hoan khi bạn góp mặt vào cuộc sống?  Bạn có vui sướng khi bạn được sanh ra đời không?  Bạn có cám ơn thượng đế không?  Có khi nào, với tất cả sự thành kính trong ḷng, bạn nghĩ rằng cuộc đời bạn là một ân sủng của thượng đế không?  Nếu không, tại sao bạn lại tiếp tục sống chịu đựng như vậy?  Hăy biến mất đi.  Một kẻ nào đó sẽ chiếm lấy vị trí xă hội của bạn và có thể hắn ta sẽ làm khá hơn bạn.  Đừng lo.  Những tư tưởng này chỉ đến trong những đầu óc thông minh và những người thông minh đó chọn giải pháp tự tử.  Tuy nhiên, những người thông thái hơn cả những người tự tử thông minh kia là những ẩn sĩ.  Những vị tu sĩ bắt đầu sáng tạo ra một đời sống có giá trị, có ư nghĩa, sống cho đáng sống, sống cho ra sống.  Họ không chọn giải pháp tiêu cực như vậy.  Thế th́ taiï sao bạn lại để mất cơ hội vàng đó chứ?

 

Triết gia Heidegger đă nói: “Cái chết tách tôi ra khỏi cuộc đời, cho tôi sự cô đơn và cho tôi là tôi, là chính tôi!  Đó là cái chết của tôi, không phải cái chết của đám đông người kia, mà cái chết của tôi cũng chẳng phải thuộc về một ai cả.  Mỗi người chúng ta chết cái chết riêng của ḿnh; chết khôngbao giờ tái diễn.  Tôi có thể dự một cuộc thi hai, ba lần; tôi có thể so sánh định giá cuộc hôn nhân thứ hai của tôi với cuộc hôn nhân đầu tiên, và cứ thế mà tiếp tục.  Nhưng tôi chết chỉ có một lần mà thôi.  Tôi có thể lập gia đ́nh bao nhiêu lần cũng được, tôi có thể thay đổi việc làm bao nhiêu lần cũng được, tôi có thể thay đổi chỗ ở, phố thị bao nhiêu lần cũng được; nhưng tôi chết chỉ cómột lần mà thôi.  Cái chết qủa đúng là một sự thách thức bởi v́ nó có cả hai tính chất cố định và bất định.  Tánh chất cố định của cái chết là chắc chắn cái chết phải xảy đến cho muôn loài, không một loài nào có thể tránh được.  Có sống là có chết!  Một qui luật tàn khốc, xác định.  C̣n tánh chất bất định của nó có nghĩa là không một ai có thể nào đoán trước được cái chết sẽ đến lúc nào, có thể hôm nay, có thể ngày mai, năm nay, nhiều năm sau hay là có thể ngay bây giờ, lúc này đây . . .”

 

V́ tánh chất cố định và bất định của cái chết, chúng ta hăy nên an nhiên thán ngợi cái chết.  Chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, v́ thế đừng cho rằng thật là chán nản, ai oán, bi quan hay bệnh hoạn nếu suy nghiệm về cái chết.  Không phải vậy đâu, bởi v́ chết là sự kết thúc của cuộc đời, chết là đoạn cuối của một vở tuồng sân khấu, chết là chấm dứt một vai tṛ, chết là đỉnh cao của ḍng sinh mệnh.  Bạn nên ghi chú về cái chết.  Chết đang đến – dù bạn tự tử hay tự nó đến – chết vẫn đang đến với bạn, đang tác động trên h́nh hài, cơ thể bạn trong từng sát na.  Nó ắt nhiên phải xảy ra.  Bạn phải sửa soạn cho nó, và cách duy nhất sửa soạn cho cái chết, cách đúng nhất, không phải là tự tử mà là tập chết từng phút giây quá khứ.  Đó là cách đúng nhất.  Đó là pháp môn mà một ẩn sĩ phải thực hành: diệt đi từng phút giây quá khứ, không mang vác quá khứ trên vai, dù chỉ một sát na, một nháy mắt thời gian.  Từng phút giây, bạn hăy chết đi trong quá khứ và sanh ra trong hiện tại.  Phút giây hiện tại đó mới giúp cho bạn tươi mát, trẻ trung, sống động, sung măn; phút giây hiện tại đó giúp bạn dồi dào sinh lực và đầy cảm hứng xuất thần.  Và người nào biết cách diệt từng phút giây quá khứ sẽ biết cách chết như thế nào; đó là Nghệ Thuật Chết cao nhất.  Như thế, khi cái chết vật lư tới, người đó nhẩy múa với cái chết, người đó ôm choàng lấy cái chết!  Chết là tri kỷ, là bạn thân; chết không phải là kẻ thù.  Thượng đế cũng đến với bạn trong h́nh thức chết như vậy.  Đó là sự an nghỉ thư thái hoàn toàn trong hiện hữu.  Đó là sự đang trở thành trong tổng thể, đó là sự hợp nhất lại thành một với tổng thể.  V́ thế đừng gọi chết là lệch lạc, sai lầm hay bệnh hoạn.

Bạn nói rằng: “Tôi sanh ra trong một gia tộc có tới bốn người tự tử, kể cả bà ngoại của tôi.”

 

Đừng lên án những người đó, bạn ạ, và cũng đừng nghĩ rằng, dù chỉ một phút giây thôi, những người đó là sai lầm, lệch lạc hay bệnh hoạn; cũng đừng gọi chết là méo mó, sai lầm, nó không phải như thế.  Những người thân của bạn chỉ là nạn nhân.  Họ không thể đương đầu với cái xă hội thác loạn, thần kinh này, và họ quyết định biến mất khỏi trần thếâ, đi vào cái vô tri, cái không biết.   Hăy tội nghiệp cho họ, hăy rũ ḷng thương đến họ, đừng lên án họ.  Đừng chê trách, đừng phỉ báng, đừng đặt tên – đừng gọi cái chết của họ là méo mó, lệch lạc, sai lầm, bệnh hoạn hay bất cứ cái ǵ khác.  Hăy rũ ḷng thương xót và thông cảm đến họ!

 

Bạn không cần phải theo chân họ, nhưng bạn hăy cảm thông, hăy hiểu họ.  Chắc chắn, họ đă đau khổ, đă chịu đựng thật nhiều.  Không phải dễ dàng đâu khi một người tự tay cắt đoạn mạch sống của chính ḿnh:  họ chắc chắn phải đớn đau, phải đau khổ kinh khủng, họ chắc chắn chỉ thấy sống là địa ngục trần gian.  Con người không bao giờ dễ dàng chọn cái chết, v́ ham sống sợ chết là bản năng sinh tồn tự nhiên của mọi loài chúng sinh hữu t́nh.  Con người tranh đấu, con người giành giựt, con người cố vượt thắng qua mọi t́nh thế và điều kiện, cốt chỉ để sinh tồn.  Một khi người nào đó đoạn bỏ sinh mạng ḿnh có nghĩa là có một cái ǵ đó quá mức chịu đựng của họ, vượt quá khả năng nhẫn chịu của họ; sự đ̣i hỏi yêu cầu nào đó quá mức khiến họ phải chọn giải pháp tự đoạn ĺa ḍngsống.  Hăy bi cảm, hăy xót thương và hiểu biết họ nhiều hơn!   Và khi bạn hiểu rằng có một cái ǵ lệch lạc, không đúng th́ đó chính là cái xă hội mà chúng ta đang sống đây lệch lạc, chứ không phải những người đó lệch lạc.  Cái xă hội này là cái xă hội bị méo mó, sai lầm và bệnh hoạn.

 

Xă hội nguyên thủy sơ khai, không có một ai tự tử cả.  Tôi đă đến những bộ lạc c̣n sơ khai, man dă ở Ấn Độ: hàng thế kỷ qua, những con người nguyên thủy đó không biết cái ǵ là tự tử, người nào là người tự tử.  Họ không có một thống kê nào, một báo cáo nào về một trường hợp tự tử cả.   Tại sao? V́ con người ở xă hội nguyên thủy sống thực tự nhiên, thật khoáng đạt; xă hội đó không bị méo mó bệnh hoạn, không bị nhiễm độc.  Nó không lèo lái con người đến những điều kiện bất nhiên, trái ư.  Cái xă hội nguyên thủy đó chấp nhận, nó cho phép người ta chọn con đường của riêng họ, đi con đường của riêng mỗi người, sống cuộc đời của riêng mỗi người.  Đó là quyền sống của mỗi người, của cá nhân chúng ta.  Ngay cả người nào đó bị “chạm,” bị “mát,” xă hội cũng chấp nhận, v́ đó là cái quyền tự do được “chạm,” được “mát,” của cá nhân người đó.  Không có sự kết án.  Quả thực, trong xă hội nguyên thủy, những người “bị chạm thần kinh” cũng được coi trọng như những nhà huyền bí học – v́ họ cũng có một loại huyền bí siêu linh nào đó bao vây con người họ.  Nếu bạn nh́n vào mắt một người bị thần kinh và một nhà huyền bí học, bạn sẽ thấy có một cái ǵ đó giống nhau ghê lắm – một cái ǵ đó xa vắng, mơ hồ, một cái ǵ đó không định nghĩa được, một cái ǵ đó mù mờ như mây, một cái ǵ đó như hỗn loạn, như những v́ sao lạc kia.  Nhà huyền bí học và người mắc bịnh thần kinh thực giống nhau.  Tất cả những người bị thần kinh có thể không phải là những nhà huyền bí học, nhưng tất cả những nhà huyền bí đều”thần kinh.”  Tôi muốn xác nhận nghĩa “thần kinh” ở đây là họ đă vượt qua tầm trí năng, vượt qua phần tâm thức.  Người bị thần kinh có thể đă bị rơi xuống dưới vùng tâm thức, nhưng nhà huyền bí hocï là người đă vượt qua phần tâm thức – song có một cái giống nhau giữa họ – là cả hai không sống trong phần tâm trí của họ: cái phần tâm trí tầm thường hữu hạn.  Ở xă hội nguyên thủy, ngay cả những người bị thần kinh cũng được tôn trọng, thực sự được tôn trọng, tôn trọng đáng kể.  Nếu người đó bị thần kinh hay chọn cách “chạm thần kinh” cũng không sao.  Xă hội sẽ chăm sóc, lo lắng nơi ăn chốn ở cho anh ta.  Xă hội sẽ yêu thương anh ta, yêu thương cả cái “chạm thần kinh” dễ thương đó.  Xă hội nguyên thủy không có những luật lệ cứng ngắc cố định, và rồi chẳng có một ai tự tử cả v́ Tự Do vốn được ǵn giữ nguyên vẹn, không sứt mẻ.   Nhưng một khi xă hội đ̣i hỏi sự nô lệ và hủy diệt tự do của bạn, bóp méo dày ṿ cuộc sống bạn, làm tê liệt đi tâm hồn bạn và làm khô cằn đi trái tim bạn . . . th́ bạn sẽ cảm thấy rằng tốt nhất là nên chết hơn là chấp nhận sự đoạ đày tinh thần đó.

 

Đừng gọi những người tự tử là bệnh hoạn, lệch lạc.  Hăy thương yêu họ, họ đă đớn đau quá nhiều, họ là nạn nhân.  Và bạn hăy cố gắng hiểu cái ǵ đă xảy ra cho họ, chính sự Hiểu Biết, Cảm Thông, và Chia Xẻ đó sẽ giúp bạn có cái nh́n vào chính nội tâm bạn, vào chính bên trong con người bạn.  Không cần phải nhắc đi nhắc lại nữa, tôi đă cho bạn cơ hội để bạn tự là chính ḿnh.   Tôi đă mở cánh cửa tâm linh cho bạn.  Nếu bạn hiểu được, bạn sẽ thấy tiêu điểm của ḍng sống, nhưng nếu bạn không hiểu th́ quả thực là khó vô cùng.  Tôi có thể cứ tiếp tục gào thét và bạn chỉ nghe thấy những ǵ bạn có thể nghe với đôi tai thịt của bạn, bạn chỉ có thể nghe những ǵ bạn muốn nghe mà thôi, những ǵ bạn muốn nghe mà thôi. (Thật buồn!)

  

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 93 of 143: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 7:06am | Đă lưu IP  

vuithoi đă viết:
Bởi chúng sinh phàm phu th́ đă tạo nghiệp trong vô lượng kiếp trôi lăn trong luân hồi sinh tử nên thấy thật có phiền năo cần phải tu tập để đoạn trừ , do đó chẳng thể rời ĺa phương tiện. Bậc Đại Bồ tát đă giác ngộ tuyệt đối nên biết chẳng phải thật có phiền năo v́ vậy chẳng chấp trước phương tiện.

Chúc Vũ Hoàng Nguyên an lạc,

vuithoi



chào Vui thoi ,

Đúng là như vậy bậc Bồ Tát do đă giác ngộ tuyệt đối , không c̣n dính mắc vào thế gian nên không những không chấp trước phương tiện mà c̣n nh́n thấu suốt bản chất mọi phương tiện , mọi pháp đều là hư ảo không thực , không phải là cứu cánh .

Phàm phu th́ ngược lại cần có phương tiện tu tập để về bến giác do đó khi sở ngộ th́ phàm phu lập tức buông rời phương tiện để bước lên bờ giác ngộ , chứ không lư luận phương tiện để rồi dính mắc không thoát ra được .

Vũ Hoàng Nguyên

Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 94 of 143: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 7:37am | Đă lưu IP  

Hoangdat đă viết:
Chào anh vuithoi anh vuhoangnguyen
Chào bạn only_one

Những ngày qua HD may mắn được theo dỏi sự trao đổi phật pháp đỉnh cao giữa bạn và các bạn khác . đặc biệt là giữa bạn only_one và anh vuhoangnguyen xoay quanh câu   :’’ * NẾU ĐĂ LÀ PHẬT TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP THẾ TẠI SAO CHÚNG SINH C̉N TÁI SINH LUÂN HỒI SANH TỬ ? ( NGOẠI TRỪ CÁC BẬC BỒ TÁT THỊ HIỆN ĐỘ SINH ) .’’

Mà câu hỏi của anh VHN là : Tôi cũng mong anh OnlyOne_O trả lời các câu hỏi này để tôi hiểu hơn về quan điểm của anh nêu ra CHÚNG SINH ĐĂ LÀ PHẬT TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP ? Tôi biết có những người cũng có thắc mắc như anh DTD vậy .

     (I) Thuyết Tứ Đế : có Khổ - Tập - Diệt - Đạo
                Thuyết 12 nhân duyên: có vô minh (là nguôn gốc sinh tử) và dạy cách diệt vô minh
      
      (II) Bát Nhă TK : không có Khổ - Tập - Diệt - Đạo
                                 không có vô minh     và không có hết vô minh

Nếu mang tâm trạng của một người đang tu Nhân thừa sẽ thấy rất chối, và vô lư. V́ tại sao Đức Phật trước đây dạy đời chúng ta khổ, chúng ta đang huân tập sự khổ th́ phải diệt khổ và hành đạo diệt khổ. Mà nguồn gốc của khổ là do chúng ta luân hồi - sinh tử do vô minh. Mà bây giờ Đức Phật lại nói không có khổ, tập, diệt, đạo, không có vô minh và không có hết vô minh Câu trả lời ngay trước mặt nếu chúng ta là Bồ tát. V́ các Bồ tát đă dứt hết các lậu, nghiệp nên không c̣n bị ô nhiễm, dính mặc nữa. Các ngài đă thoát ra hoàn toàn sự đối đăi của thế gian. V́ không dính mắc nên các ngài không c̣n cái tôi, cái của tôi nữa.

Chúc bạn only_one và các bạn trao đổi vui vẽ .



chào Hoàng Đạt ,

Các câu hỏi của tôi về CHÚNG SINH ĐANG LÀ PHẬT TỪ VÔ LƯỢNG KIẾP đến nay OnlyOne_ O vẫn chưa trả lời nổi do đó vẫn c̣n bỏ ngỏ . Tôi biết ḿnh đang nói chuyện với ai và ở cấp độ nào , v́ người mới học Pháp th́ hay thích nói Pháp lắm tràng giang đại hải . Người tu lâu th́ thâm thúy vi diệu Phật học do họ đă sở ngộ thực chứng nên ít dùng lời v́ biết cốt lỏi của Đạo Phật nằm ở đâu .

Bạn Hoàng Đạt thấy đó ngay cả thuyết Tứ Diệu Đế linh hồn của Đạo Phật mà OnlyOne _O hiểu quá sơ sài khi cho rằng không có KHỔ - TẬP - DIỆT - ĐẠO , chỉ là người đứng bên ngoài Đạo Phật . Giáo lư Phật Pháp rất sâu sa vi diệu không thể hiểu bằng trí thông thường mà phải bằng sở chứng định tâm . Cũng không thể lấy ư tưởng người khác vay mượn thành của ḿnh nếu không thực hành giáo lư và chiêm nghiệm . ĐỨC PHẬT khi nói không có Khổ Tập Diệt Đạo là nói với bậc Bồ Tát đă giác ngộ tuyệt đối , chứ không phải nói với chúng sinh c̣n đang ngụp lặn trong bể khổ trong vô lượng kiếp . Để đạt được cái không này th́ trước đó trong vô lượng kiếp bậc Bồ Tát đă tạo vô lượng công đức vô hạn chứ không phải chỉ nói một tiếng không là tự nhiên tức khắc ngộ thành không như phàm phu nghĩ đơn giản như vậy . Người đă giác ngộ th́ thấy các pháp chỉ là phương tiện như nhau nên không tranh luận làm ǵ , phàm phu th́ bị trói buộc trong ngủ uẩn bị ngủ uẩn sai xử , điều khiển nên thấy các pháp khác nhau mà phát sinh kiêu mạng phân biệt thừa này , thừa kia làm bản ngă dấy khởi mà thối đọa mà không biết .
Vài ḍng san sẻ với bạn HĐ .

Vũ Hoàng Nguyên

   
Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 95 of 143: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 8:15am | Đă lưu IP  

Hoangdat đă viết:
Chào anh vuithoi anh vuhoangnguyen
Chào bạn only_one

Ở đây HD có chổ ko hiểu muốn hỏi bạn only_one .theo như bạn viết muốn đọc hiểu Bát Nhă Tâm Kinh hay các Kinh đại thừa khác th́ ḿnh phải giả lập nâng ḿnh lên hàng Bồ Tát để đọc .vậy tôi xin lấy ví dụ : HD đang là phàm phu nhân thừa và sẽ giả lập lên hàng Bồ Tát nhưng trí hiểu biết của HD vẩn là hàng nhân thừa ,vậy làm sao HD có thể đọc hiểu kinh đại thừa trong khi trí hiểu biết chỉ là nhân thừa , Bồ Tát th́ có thể giả lập được v́ chỉ là Bồ Tát trên danh xưng .c̣n trí hiểu biết th́ ko thể dùng trí giả lập được ,cho dù được th́ cái biết ấy cũng ko thực , nếu dùng nó ko những ko mang lại cho ḿnh ích lợi ǵ ,mà c̣n quên luôn cái trí hiểu biết nhân thừa của ḿnh ;tưởng ḿnh là Bồ Tát Thiệt …
Cũng chưa có câu trả lời .

vậy theo HD nhận xét . ḿnh có giả lập ḿnh lên hàng Bồ Tát cũng ko chắc ǵ đọc hiểu được những Kinh dưới sức hiểu biết của ḿnh .
C̣n Kinh dành cho các bậc Bồ Tát ,th́ dành cho những bậc đă sẳn có căn cơ tương ưng , chứ đâu phải như bạn only_one viết giả lập lên hàng Bồ Tát đơn giản vậy được .

Mong bạn only_one giải thích thêm về sự thắc mắc cũng như nhận xét của HD .
V́ sự giải thích của bạn sẽ giúp cho trí HD sáng thêm .

Chúc bạn only_one và các bạn trao đổi vui vẽ .



Hoàng Đạt đặt câu hỏi này xác đáng nếu giả lập ḿnh lên hàng Bồ Tát th́ không phải đạo Phật nữa mà đă đi ra ngoài đạo Phật . Điều này có nói đến trong hạnh Bồ Tát Đạo Tứ Nhiếp Pháp mà ai cũng biết khi học giáo lư Phật học . OnlyOneOne_O v́ không biết Tứ Nhiếp Pháp nên hiểu sai trật về hạnh Bồ Tát . Đạo Phật không có sự giả tạo mà chỉ có con đường duy nhất chân thật là phải bằng công phu tu tập gian khổ mà viên thành đạo quả . Nếu cố gượng ép lấy trí phàm phu mà đo lường trí tuệ Bồ Tát , tưởng ḿnh đang là Bồ Tát th́ không thực bởi trí tuệ là quan trọng bậc nhất trong Phật Pháp . Muốn là Bồ Tát th́ phải biết gieo nhân theo Tứ Nhiếp Pháp . Muốn hiểu kinh điển giáo lư phải công phu thực hành các pháp . Một Bậc Bồ Tát th́ đạo lực phi thường nhưng rất b́nh dị , đơn sơ tùy theo sứ mạng , hạnh nguyện mà thị hiện hóa độ chúng sinh , chứ không phải khai triển thần thông , phi hành biến hóa như người đời thường hay lầm tưởng .

Không có chuyện trong chớp mắt một phàm phu trở thành bậc Bồ Tát ngoại trừ các chư vị đại căn cơ đă tu nhiều kiếp . Hầu hết chúng sinh đều phải vất vả , tinh tấn tu hành , tạo vô lưọng công đức để về bến bờ giác ngộ . Nghiệp lực mà chúng sinh tạo ra từ vô lượng kiếp luôn chi phối chúng sinh từ hữu h́nh đến vô h́nh . Các đại đệ tử của ĐỨC PHẬT dù đă chứng đắc trí tuệ , thần thông đầy đủ nhưng khi nghiệp cũ đ̣i cũng phải trả nghiệp xưa theo lẽ công bằng .

Phải hết sức cẩn thận khi đọc các mẩu chuyện hay bài kệ về Thiền Sư Bạch Ẩn để tham khảo bởi đây là sự sở ngộ của một vị cao tăng chứ không phải lời của ĐỨC PHẬT đă dạy bảo . Phải biết luôn lấy lời của ĐỨC PHẬT làm kim chỉ nam , làm gốc trong mọi vấn đề tu tập Phật học.
Chúc bạn HĐ an lạc .

Vũ Hoàng Nguyên

Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 96 of 143: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 11:08am | Đă lưu IP  

 

Chào các bạn trên diễn đàn !

 

Khi đọc xong bài luận văn dài ḍng, tốn kém thời gian và sự công sức vất vả của bạn Vũ Hoàng Nguyên, OnlyOne_0 tôi vô cùng xúc động. V́ vậy xin tất cả các bạn cho bạn Vũ Hoàng Nguyên một tràng pháo tay ! Xin cảm ơn các bạn ! Xin cảm ơn Vũ Hoàng Nguyên !

 

Chúc các bạn vui vẻ, an lạc !

 

OnlyOne_0

---------------------------

'' không có trí tuệ và không có chứng đắc''

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 97 of 143: Đă gửi: 16 May 2006 lúc 2:28am | Đă lưu IP  

OnlyOne_0 đă ngụy biện , c̣n lẽo lự .
Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 98 of 143: Đă gửi: 16 May 2006 lúc 3:31am | Đă lưu IP  


Mến chào bạn vuhoangnguyen,

Theo cảm nghĩ của learner th́ chúng ta nên tôn trọng chủ nhà là bạn OnlyOne_0. Chủ đề này vẫn chưa kết thúc mà learner nghĩ chắc có nhiều bạn khác trên diễn đàn muốn tiếp tục đọc thêm. Nếu bạn muốn chia sẻ kinh nghiệm về tu tập của bạn, learner sẽ là người đầu tiên xin được học hỏi (xin mở một chủ đề mới cho riêng bạn).
Phật ở trong anh hay Phật KHÔNG ở trong tôi, không quan trọng, vấn đề là đạt được Tâm an khi gặp chuyện trái tai, gai mắt ( khó lắm thay!)

Chúc bạn thân tâm thường an lạc.
learner
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 99 of 143: Đă gửi: 17 May 2006 lúc 6:09am | Đă lưu IP  

(tiếp theo)

  Đừng gọi những người tự tử là bệnh hoạn, lệch lạc.  Hăy thương yêu họ, họ đă đớn đau quá nhiều, họ là nạn nhân.  Và bạn hăy cố gắng hiểu cái ǵ đă xảy ra cho họ, chính sự Hiểu Biết, Cảm Thông, và Chia Xẻ đó sẽ giúp bạn có cái nh́n vào chính nội tâm bạn, vào chính bên trong con người bạn.  Không cần phải nhắc đi nhắc lại nữa, tôi đă cho bạn cơ hội để bạn tự là chính ḿnh.   Tôi đă mở cánh cửa tâm linh cho bạn.  Nếu bạn hiểu được, bạn sẽ thấy tiêu điểm của ḍng sống, nhưng nếu bạn không hiểu th́ quả thực là khó vô cùng.  Tôi có thể cứ tiếp tục gào thét và bạn chỉ nghe thấy những ǵ bạn có thể nghe với đôi tai thịt của bạn, bạn chỉ có thể nghe những ǵ bạn muốn nghe mà thôi, những ǵ bạn muốn nghe mà thôi. (Thật buồn!)

 

Bạn của tôi, một nhà tâm lư học, đă đến và hỏi (một câu hỏi dài ḷng tḥng): “Tại sao ông (Osho) cứ lăi nhăi là phải buông bỏ bản ngă chứ?  Không có một ai có thể xả ngă được!  Tại sao cứ phải lăi nhăi một điều vô ích như vậy?”

 

             Làm sao anh ta biết là không có một ai có thể làm được điều đó?  Làm sao anh ta biết được là không có một ai?  Thực ra, điều đó đă có người làm được, và chỉ có một số rất ít, rất ít người thực hiện được hành động xả ngă, buông bỏ được cái ta.  Rất ít người làm được, nhưng cái số ít đó đă thành công, v́ họ đă tự hành tŕ để thắng được chính họ, họ đă cho phép họ phải thành công khi thực hành hạnh xả ngă.  Nhưng những người khác không muốn như vậy, họ không cho phép họ làm điều đó, họ không chuẩn bị, không sẵn sàng để buông xả cái ta, cái Ta hợm hĩnh, đáng ghét, nhiều chuyện của họ.

 

             Ông bạn tâm lư gia đó nói với tôi rằng: “Này Osho, tôi thấy trong ông cái bản ngă to lớn cồng kềnh của ông đấy nhé” – v́ là nhà tâm lư nên ông bạn tôi khẳng định – “tôi thấy cái bản ngă to lớn, cái ta vĩ đại ẩn núp trong con người của ông đấy!”                                

 

Nhưng thực sự anh ta không thấy ǵ cả nơi tôi.  Anh ta chỉ thấy cái phản chiếu của bản ngă.  Cái bản ngă đó chiếu lại chính nó.  Cái bản ngă cứ tiếp tục cấu tạo những h́nh ảnh của chính nó.  Nếu anh ta thực có thể thấy được tận sâu thẳm tâm hồn tôi, th́ anh ta đến gặp tới để làm ǵ cơ chứ?  Anh ta nên để dành th́ giờ đó để nh́n sâu vào tận đáy tâm hồn anh ta.  Nếu anh ta có được cái nh́n nội tri xuyên suốt rơ ràng như vậy, mục đích anh ta đến đây để làm ǵ?  Không có mục tiêu nào cả, v́ anh ta đă hiểu thấu rơ ràng rồi, th́ đến gặp tôi để làm ǵ?  Và nếu anh ta đă khẳng định rằng cái bản ngă con người đó không thể nào xả ly được, th́ anh ta đă chọn cho ḿnh một thái độ, một quyết định rồi.  Một quyết định không cần phải thử nghiệm qua, không cần phải kinh qua. Tôi không nói bản ngă có thể buông bỏ được!  Tôi nói là bản ngă không thực thể, không hiện hữu! – làm sao ông ta có thể đánh rơi một vật ǵ xuống khi chính bản thân nó không thực thể, không hiện hữu?  Phật cũng không nói là bản ngă có thể buông bỏ được, Ngài nói “hăy quán chiếu bản ngă, hăy nh́n sâu vào bản ngă”ơ – nhưng v́ ta không thấy ǵ hết nên bản ngă đă biến mất.

 

             Những ǵ mà ông ta có thể làm được là khi ông ta bước sâu vào trong tận cùng con người ḿnh, ông ta không thấy một cái ǵ gọi là cái Ta, ông ta chỉ thấy một sự Im Lặng bao trùm.  Không có Ta, không có sự khống chế của cái ǵ gọi là “Ta” trong cái hợp thể gọi là con người này.

 

             “Buông bỏ cái Ta” không có cái nghĩa giản dị tầm thường là bạn cầm cái ta của bạn trên tay rồi thả tay ra cho nó rơi xuống đất một cái bộp.  “Buông bỏ cái Ta” là một lối so sánh, một ẩn dụ.  “Xả Ngă” có nghĩa là khi bạn quán sát tận cùng gốc rễ nội tâm bạn, tận cùng chiều sâu con người bạn, bạn nh́n vào và không t́m thấy cái ǵ hết, không thấy một cái ǵ gọi là cái ta cả – cái ta đă biến mất, không c̣n – nói cho đúng là không có một cái ta nào thực thể hiện hữu cả – cho nên nếu nói “cái ta “biến mất cũng không đúng, không chính xác nữa, bởi v́ không có cái ta nào ở đó th́ làm ǵ có biến mất?  Đó là một sự ngộ nhận, một nhận thức sai lầm là có một cái Ta thực sự hiện hữu.

 

             V́ thế, đáng lẽ tốt hơn hết là ông bạn tâm lư gia đó hăy quán sát chính ḿnh, ông ta lại đi nh́n tôi, t́m ṭi bản chất của tôi!  Và v́ ông ta là một nhà tâm lư học, một nhà phân tích tâm lư nên ông ta đă vội đưa ra một luận định – nhưng chính cái luận định đó lại làhàng rào cản v́ cái Ngă không thực hiện hữu trong tôi, nó cũng chẳng có trong ông tâm lư gia, trong cả bạn, trong cả mọi người.  Cái Ngă không hiện hữu!  Đó chỉ là một tư tưởng không xác thực hiện hữu, nó chỉ là một tư tưởng mà thôi.  Cũng giống như trong bóng tối, bạn tưởng lầm sợi dây là con rắn và bạn chạy trối chết – nhưng đến sáng, ra nh́n rơ lại th́ thấy đó chỉ là sợi dây – nhưng nó cũng đă làm cho bạn một mẻ thất kinh hồn vía!  Con rắn không có ở đó, con rắn không có thực nhưng nó ảnh hưởng đến thực tại.   Sự nhận thức lệch lạc cũng thực như sự hiểu biết đúng đắn.  Nó không chân xác nhưng nó thực là!  Đó là sự khác biệt giữa Chân Lư và Thực Tại.  Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn có thực bởi v́ hệ quả của sự tưởng lầm là thực có.

 

             Những ǵ Phật nói, những ǵ tôi nói là bạn hăy cầm một ngọn đèn và đi vào trong pḥng.  Nh́n thật kỹ xem có rắn hay không.  Phật thấy là không có con rắn nào hiện hữu trong Ngài cả. Tôi cũng thấy là không có con rắn nào trong tôi.  Và cái ngày mà tôi thấy không có cái ǵ hiện hữu trong tôi đó, tôi nh́n vào mắt mọi người chung quanh tôi. Và tôi cũng không t́m thấy cái ǵ cả.  Đó là một ư nghĩ không t́m thấy được.  Đó là cơn mộng. Nhưng nếu bạn có quá nhiều mộng mị, có thể bạn đă chiếu những giấc mộng mơ đó của bạn lên tôi.  Và tôi không thể làm ǵ được đối với những mộng mơ đó của bạn.  Nếu bạn muốn chiếu, bạn cứ chiếu.  Tôi không quan tâm và cũng không thể làm ǵ khác hơn được.  Cũng ví như bạn đeo kính màu xanh th́ bạn nh́n cả thế giới này màu xanh, bạn đeo màu hồng, cả thế giới này màu hồng.  Cuộc đời biến đổi muôn mầu sắc tùy theo cặp kính mắt của bạn.  Và rồi bạn đến gặp tôi và nói: “Ḱa Osho, ông đang đeo cặp kính màu xanh.” Tôi sẽ làm ǵ?  Tôi có thể làm ǵ đây?  Tôi chỉ có thể nói: “Bạn hăy tháo cặp mắt kính bạn đang đeo đi!”  Bạn nói: “Chưa có một ai có thể tháo bỏ cặp mắt kính của ḿnh cả.  Chuyện đó không bao giờ xảy ra được! Thật khó lắm!”

 

             Song, vấn đề tháo bỏ được hay không đó không phải là vấn đề của tôi, đó là vấn đề của bạn.  Tôi thực tội nghiệp và thương xót bạn, bởi v́ nếu đó là ư nghĩ của bạn th́ bạn sẽ đau khổ suốt cả cuộc đời – bản ngă của bạn sẽ gây đau khổ cho bạn.  Một ư nghĩ, một tư tưởng không thực nhưng tưởng lầm là có thực tạo nên đau khổ.  Thực ra, đau khổ là ǵ?  Đau Khổ là khi bạn có một vài tư tưởng, cảm nghĩ nào đó không phù hợp, không xác thực với Chân Lư; đó là đau khổ.  Thí dụ như, bạn nghĩ là những viên đá cuội này là thức ăn và bạn ăn nó, thế là bạn đau đớn khó chịu, bạn bị đau bao tử.  Nhưng nếu nó là thức ăn thực th́ bạn sẽ không đau đớn khó chịu, bạn sẽ cảm thấy hài ḷng, thỏa măn, ưng ư.  Đau khổ nẩy sinh khi tư tưởng của bạn không phù hợp tương quan với thực tế; thư thái, an lạc, hoan hỷ sẽ đến khi tư tưởng của bạn đi đôi với thực tại.  An lạc là sự tương quan phối hợp giữa bạn và chân lư.  Đau khổ là sự phân cách giữa bạn và chân lư.  Khi bạn nghịch chiều với chân lư, bạn đang rơi vào địa ngục tâm hồn ḿnh; khi bạn thuận ḍng chân lư, bạn ở tại thiên đường – thế thôi.  Và đó là toàn bộ vấn đề bạn cần phải nắm bắt và thấu hiểu.

 

             Người đàn ông đó từ xứ Mỹ xa xôi đă t́m đến gặp tôi.  Nghe những cuốn băng giảng của tôi, anh ta đă nảy sinh cảm nghĩ về tôi.  Anh ta đă đến đây, đă trao đổi tṛ chuyện với tôi, nhưng nếu đó là cách anh ta suy tưởng về mọi vấn đề th́ anh ta đăvuột mất cơ hội giáp mặt với chân lư.  Và hăy nhớ cho rằng, đó không phải là chuyện của tôi.  Nếu bạn nghĩ tôi là một kẻ bản ngă nặng, cám ơn bạn – đối với tôi không thành vấn đề.  Đó là ư nghĩ của bạn, bạn hoàn toàn tự do và suy nghĩ theo cách của bạn.  Tuy nhiên, nếu bạn xác quyết về sự nhận định đó th́ cái ǵ sẽ xảy ra?”

 

             Anh ta nói: “Tôi đă gặp, đă biết, đă sống gần các vị được phong Thánh của nhiều tôn giáo nhưng tất cả bọn họ đều cá nhân chủ nghĩa rất nặng.”

 

             Theo tôi, có thể bạn đang đeo chỉ có một cặp mắt kính mầu và đi khắp mọi nơi.  Bạn tiếp tục gây tạo cho riêng bạn một thực tại, một thực tại chỉ của riêng bạn, và thực tại đó không chính xác, không thực.  Đó là lư do v́ sao Đức Phật khẳng định rất nhiều về Chân Không, về tâm Không – bởi v́ khi tâm thức của bạn rỗng rang, không gợn lên một tư tưởng nào, th́ bạn không thể phản chiếu về một cái ǵ cả.  Và bạn sẽ thấy rơ cái ǵ là cái ǵ.  Khi bạn không gợn lên một tư tưởng nào, khi tâm bạn đơn thuần rỗng rang trong suốt, một tấm gương Tâm chiếu soi th́ bất cứ cái ǵ đến trước mặt bạn đều sẽ được chiếu soi thông suốt, cái nào ra cái nấy, không vặn vẹo, không méo mó, không lệch lạc.  Vạn vật rành rành y như nó là.

 

             Tôi nói bạn không có mặt cùng với ông thánh nào cả.  Tôi không nói là những ông thánh đó không phải là chân nhân.  Tôi chỉ nói bạn ở nơi các vị thánh đó, nhưng bạn không có mặt trong họ, bạn không ở với họ.  Nếu bạn không thể có mặt với tôi, làm sao bạn có thể hiện diện với các bậc thánh đó được?  Bạn không có mặt với bất cứ vị thánh nhân nào cả.  Bất cứ nơi nào bạn đi, bạn vác theo cái mớ tâm lư học của bạn, cái mớ học thức mà bạn đă thâu lượm được chung quanh ḿnh.  Và cái mớ kiến thức và tâm lư đó thực vô dụng cho bạn.  Thực vô dụng!                   

 

Nhưng bạn cứ đi tiếp tục, tiếp tục đi khuyến dạy mọi người, bạn chỉ bảo họ điều này, khuyến khích họ việc kia, góp ư với họ vấn đề nọ, v.v và v.v.   Bạn lại gây tạo cho họ những t́nh trạng xúc năo, phức tạp như cũ, y hệt như những ǵ đă xảy ra, không có ǵ khác cả. 

 

Lời khuyến dạy của người điều trị tâm lư thực sự tác động đến người khác khi lời dạy đó chính là kinh nghiệm thực tiễn, kinh nghiệm sống thực cả một cuộc đời, kinh nghiệm thực chứng tâm lư của cá nhân nhà điều trị tâm lư đó.

 

Bạn nói rằng những lời cổ nhân dạy về “buông bỏ tự ngă, buông bỏ tâm thức” không kết quả ǵ à?  Không, có kết quả chứ!  Tôi đă gặt hái được kết quả khi thực hành lời khuên dạy đó của cổ nhân.  Lời dạy đó có ích cho tôi, nhưng tôi biết nó không ứng dụng được ǵ nơi bạn.   Không có ǵ sai lầm trong lời dạy đó cả, chỉ có cái ǵ lệch lạc, méo mó, sai lầm trong bạn mà thôi.  V́ thế, nó không tạo được kết quả ǵ nơi bạn.  Hàng triệu triệu người đă gặt hái được kết quả khi thực hành hạnh “xả ly Ngă – Thức,” và có thể ngay chính người hàng xóm nhà bạn là một người đă giác ngộ nhưng bạn không có khả năng để thấy được đó thôi.

 

Đă có nhiều người giác ngộ . . .

Có một người Mỹ đi t́m chân lư qua Ấn Độ.  Anh ta nghe nói rằng có một đạo sĩ huyền bí Sufi nổi tiếng ở Ducca, tiểu bang Bangladesh; v́ thế anh ta đă vội vă t́m tới (người Mỹ nào cũng vội vàng hấp tấp chạy cả).  Anh ta gặp một người tài xế taxi và nói: “Hăy chở tôi đến gặp nhà đạo sĩ huyền bí đó ngay!”

 

Người tài xế taxi phá lên cười và nói: “Anh thực sự quan tâm đến vấn đề đó hả?  Vậy là anh hên qúa rồi, anh gặp đúng ngườiù đó nghen.  Không có ai biết cái ông đạo sĩ đó cả ngoài tôi. Tôi đă sống với ông ta suốt 50 năm rồi!”

_ “Năm mươi năm?  Vậy ông ta độ bao nhiêu tuổi vậy?” anh chàng người Mỹ hỏi.

_ “Ông ta cũng năm mươi tuổi thôi.”

Anh chàng người Mỹ nghĩ rằng: “Cái lăo tài xế này chắc điên rồi!”

Thế là anh ta bước xuống xe và hỏi thăm mấy người tài xế taxi khác, nhưng không một ai biết về nhà đạo sĩ Sufi này cả.  Anh ta đành buộc ḷng phải quay trở lại lăo tài xế taxi đầu tiên.

-“Đấy, tôi đă bảo anh mà.  Không một ai biết đâu ngoài tôi.  Anh cứ lên xe đi, tôi chở anh đến đó cho.”

Và lăo tài xế taxi đó chở anh chàng người Mỹ đó ṿng ṿng hết đường nọ đến đường kia.  Ducca là một thành phố cổ, những đường phố thật hẹp và nhỏ, lăo tài xế chạy hết đường nọ sang đường kia độ vài tiếng đồng hồ – và anh chàng người Mỹ cảm thấy sung sướng v́ đă tiến tới gần mục tiêu t́m kiếm, chờ đợi.  Khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ sau, lăo tài xế taxi dừng xe trước một căn nhà nhỏ hẹp nghèo nàn.  Lăo quay lại nói: “Anh ngồi đây nhé.  Tôi vào trong gặp đạo sư trước đă.”

Lát sau có một người phụ nữ đi ra và mời anh chàng người Mỹ đó vào nhà.

Khi anh ta bước vào trong nhà th́ thấy lăo tài xế taxi đă ngồi sẵn ở ghế.  Lăo nói:

-“Này con, vào đây, con cần ǵ hỏi ta nào?”

Anh chàng người Mỹ không thể tin nổi vào đôi mắt ḿnh.  Anh ta lắp bắp hỏi: “Ông, ông là đạo sư đó hả?”

-“Phải, ta là đạo sư đây.  Ta đă sống với lăo đạo sư đó suốt 50 năm và không một ai biết cả.”

Nhưng trong tâm bạn sẽ dấy lên những tư tưởng: “Làm sao mà lăo tài xế taxi này có thể là đạo sư được?” . . . Bạn cứ thử tưởng tượng tôi là lăo tài xế taxi đó đi . . . Bạn sẽ không tin đâu, phải không?  Người bạn tâm lư gia của tôi đó cũng sẽ không tin đâu! ?  Không thể được.

Bạn đă có sẵn những tư tưởng, ư nghĩ trong đầu óc.  Bởi v́ những tư tưởng đó, bạn đă lạc mất đường, có qúa nhiều vấn đề, có qúa nhiều vấn đề chung quanh bạn.  Trái đất này không bao giờ vắng bóng đạo sư đâu.  Họ ở mọi nơi, nhưng bạn không thể thấy!  Và khi bạn muốn thấy họ, bạn chạy tới Ṭa Thánh Vatican, La Mă, bởi v́ bạn cho rằng chỉ có ông Đức Giáo Hoàng mới là người chứng minh.  Nhưng thực tế, làm sao một vị giác ngộ có thể là ông Đức Giáo Hoàng được?  Không có một bậc giác ngộ nào lại đồng ư cái quan niệm vô nghĩa phi lư đó.  Bậc giác ngộ thà làm một người tài xế taxi c̣n hơn.

 

Xin bạn hăy quăng bỏ những tư tưởng đó đi khi bạn ở đây, dù chỉ vài giây.  Bạn hăy mở ḷng ra, đừng có thành kiến là “Điều đó không thể xảy ra được!” Không, điều đó đă xảy ra!  Kết quả tốt của sự Xả Ly Ngă – Thức đă xảy ra cho tôi.  Hăy nh́n sâu vào đôi mắt tôi, hăy cảm nhận tôi, và bạn sẽ thấy sự an lạc nội tâm chan ḥa trong bạn, nếu bạn xả bỏ được Ngă – Pháp chấp.

 

Đó là lư do v́ sao tôi nói Tri Thức thật đáng nguyền rủa và cần nên quăng bỏ nó!

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 100 of 143: Đă gửi: 19 May 2006 lúc 12:03am | Đă lưu IP  

(tiếp theo)

 

Câu hỏi thứ hai:

 

Osho thân mến,

“Tôi là một con người yếu đuối.  Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên, tôi cảm thấy là tôi thư thái, thoải mái về sự yếu đuối, bạc nhược của tôi.  Tôi có cần phải can đảm và mạnh mẽ lên chăng?”

 

Không có ǵ là “phải, cần, nên,” cả.  Phải buông bỏ đi những danh từ  “phải, cần, nên” đó th́ anh mới trở thành một con người tự nhiên, b́nh thường được.  Và có ǵ sai khác, bất thường, có ǵ lạ lùng đâu khi chúng ta yếu đuối?  Tất cả mọi người đều yếu đuối.

 

Chúng ta chỉ là những phần tử nhỏ nhiệm trong vũ trụ bao la.  Chúng ta chỉ là những giọt nước mong manh trong đại dương sâu thẳm kia.  Chúng ta chỉ là những hạt cát li ti trong biển cát mênh mông kia.  Làm sao chúng ta mạnh được? – nhưng mạnh hay can đảm đểû làm ǵ?  để chống đối ai cơ chứ?  Phải, tôi biết anh đă được dạy dỗ là anh phải uy dũng lên, anh phải can đảm lên, anh phải hung bạo lên v.v. và v.v. Từ bé, anh đă được dạy là phải tranh đấu, phải tham cầu, phải phô trương bản ngă.  Anh đă được dạy dỗ mọi h́nh thức bạo hành, bởi v́ anh đă được nuôi dạy để cưỡng hiếp kẻ khác, cưỡng bức thiên nhiên.  Anh không được nuôi dạy để yêu thương.

 

Ở đây, thông điệp là T́nh Thương – vậy anh cần sức mạnh để làm ǵ?  Thông điệp ở đây là Xả Ly.  Thông điệp này là sự đón nhận, hoàn toàn đón nhận bất cứ cái ǵ đến.

 

Sự yếu đuối là một nét đẹp.  Hăy thư thái trong nó, chấp nhận nó, vui vẻ với nó.  Sự yếu ớt có cái đẹp của riêng nó, có niềm hỷ lạc của riêng nó.

 

Tôi mong anh đừng sử dụng danh từ “yếu đuối, bạc nhược,” bởi v́ danh từ đó có tính cách kết án, chỉ trích, hủy diệt.  Anh hăy nói “Tôi là một phần tử,” và phần tử đó thật mong manh, không sức mạnh và cần nương dựa.  Cái chút phần đó chỉ hiệu nghiệm khi sát nhập vào tổng thể.  Sức mạnh của anh hiện hữu trong chân lư, ngoài ra không có sức mạnh nào khác.  Chân lư là sức mạnh, yếu đuối là con người.  Sức mạnh là thượng đế, yếu đuối là chúng sanh.  Anh hăy thử chống chọi lại với ḍng sông đi, anh cứ thử bơi ngược ḍng đi và anh sẽ thấy ta yếu đuối thế nào.  Song, nếu anh buông thả toàn thân, trôi nổi theo ḍng nước – cứ thả trôi theo ḍng, không bơi lội ǵ cả, cứ để cho ḍng sông mang anh đến bất cứ nơi nào nó chảy tới – và anh sẽ thấy không có một sự yếu đuối nào cả.  Một khi cái ư nghĩ “phải mạnh lên” đă được quăng bỏ đi, th́ cũng chẳng có cái yếu đuối nào cả.  Cả hai yếu tố “mạnh, yếu” đều biến mất một lượt.  Anh chẳng có mạnh cũng không yếu.  Anh không là ǵ cả; thượng đế cũng chẳng mạnh chẳng yếu. 

 

Anh nói với tôi rằng “Đây là lần đầu tiên, anh có cảm giác được thoải mái về sự yếu đuối của anh.”  Một cảm giác tốt: đừng đánh mất cảm giác đó.  Một cảm giác đúng đấy, anh bạn: hăy thư giăn, hăy thoải mái đi – đó là tất cả lời chỉ dạy của tôi.  Anh hăy thoải mái, hăy buông thả con người anh, đừng gượng ép ǵ cả.  Anh đừng quan tâm anh là ai, là ǵ, là bất cứ cái ǵ cũng được.  Anh hăy chính là anh.  Anh đừng cưỡng cầu, áp đặt bất cứ một ư nghĩ tư tưởng nào lên con người anh, lên tâm hồn anh.  Anh đừng làm cho ḿnh điên lên chứ: không cần phải như thế.  Anh hăy buông xả, buông xả ngay cả cái tư tưởng buông xả.  Chúng ta không đi đâu cả, chúng ta chỉ ở đây, ngay giây phút này.  Và cái phút giây hiện tại này thật đẹp, thật tuyệt vời y như khúc khải hoàn ca chiến thắng vậy.  Anh đừng tṛng lên nó bóng dáng tương lai nào, nếu không, anh sẽ phá hủy cái giây phút hiện tại tuyệt đẹp đó.  Tương lai là nọc độc, là nguy hiểm.  Hăy buông xả, thoải mái và an hưởng sự thư thái tâm hồn đó.  Nếu tôi có thể giúp anh thư thái và an hưởng hồn nhiên, tôi đă hoàn thành công việc của tôi.  Tôi đă thành công.  Nếu tôi có thể giúp anh buông xả những tư tưởng, cảm nghĩ của anh “anh sẽ làm ǵ hay sẽ không làm ǵ, sẽ như thế nào hay không như thế nào,” nếu tôi có thể tước đoạt hết tất cả những yêu cầu đ̣i hỏi bắt buộc anh phải thế này thế nọ, tôi đă đặt gánh nặng xuống.  Một khi anh đă quăng bỏ hết những giáo điều, những tập tục, những nghi thức rườm rà của lề thói xă hội, con người, và anh đă sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại, anh sống trọn vẹn từng khoảnh khắc thời gian – thật tự nhiên, giản dị, b́nh thường, hồn nhiên, sung măn, an lạc th́ đó, đó là bữa tiệc mừng lớn nhất, ngon lành nhất mừng anh đă trở về nhà!

 

             Anh đă trở về nhà!    

 

Anh đừng lẩn thẩn lôi thôi hỏi tôi rằng “Tôi có cần phải mạnh hơn, can đảm hơn . . .”

Để làm ǵ?  Cho cái ǵ?  Anh hăy cố gắng hiểu lời tôi; tuy sự việc hơi phức tạp một chút nhưng chúng ta hăy truy cứu tận cùng vấn đề.  Tất cả sự vật trên thế gian này đều tương đối liên quan với nhau.  Nếu không có cái yếu của anh, làm sao tôi biết tôi mạnh?  Nếu cô gái này không xấu th́ cô gái kia sao thành hoa hậu được?  Nếu không có người này thấp kém, làm sao anh so sánh và cho người kia là tiến bộ, là hiểu biết cao hơn?  Nếu không có cái dưới th́ không có cái trên, không có đàn bà th́ không có đàn ông, không có tội lỗi th́ không có thánh thiện, không có vô minh th́ không có giác ngộ v.v.  Do đó, ta nhận xét rằng cái này là nhân cho cái kia, cái kia là duyên cho cái khác – trùng trùng vô tận – không có một pháp nào đứng tách biệt, riêng rẽ, độc lập cả, mà vạn pháp nương vào nhau sanh sanh diệt diệt.  Anh có mặt v́ tôi có mặt, anh không c̣n v́ tôi vắng bóng.  Nhưng con người không hề hay chưa bao giờ quán chiếu triệt để như vậy nên họ luôn t́m kiếm, chụp giựt, mong cầu, chiếm giữ – và cuộc rượt bắt đó không bao giờ chấm dứt.  Cả cuộc đời anh sẽ tiêu phí đi trong sự mong cầu chiếm đoạt ôm ấp đó.  Nhưng anh có biết không, anh càng mong cầu, càng sở hữu nhiều chừng nào, tận cùøng thâm tâm anh, anh sẽ cảm thấy anh nghèo nàn chừng nấy.  Càng tham, càng sở hữu, lại càng không bao giờ thỏa măn, càng khổ đau thêm. 

 

Hăy buông bỏ vọng tâm!  Một khi anh buông bỏ được yếu – mạnh, khôn – dại, giàu – nghèo . . . anh sẽ đạt được niềm hỷ lạc của sự chuyển hóa tâm thức.  Đó là Bát Nhă Ba La Mật – Trí Tuệ đáo bỉ ngạn, trí tuệ vượt qua bờ bên kia, trí tuệ được chuyển hóa – không phải là kiến thức.

 

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 

<< Trước Trang of 8 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.6719 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO