Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 193 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: PHẬT Ở TRONG ANH (Đă bị đóng Đă bị đóng) Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 1 of 143: Đă gửi: 18 April 2006 lúc 6:54am | Đă lưu IP  

Phật ở trong Anh

Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - osho

(Thích Nữ Minh Tâm dịch)

Tôi đănh lễ vị Phật trong anh. Anh có thể không biết; anh có thể chưa hề mơ nghĩ đến chính ḿnh là một vị Phật; rằng Phật tánh vốn sẵn có trong anh; là trung tâm điểm của bản thể; Phật tánh đó không phải là một cái ǵ sẽ xảy đến ở tương lai mà nó đă vốn hằng hữu thường trụ.

Chân Như, Phật tánh là uyên nguyên, là cuội nguồn xuất xứ mà cũng là mục đích tâm linh cuối cùng của anh. Từ Chân Như chúng ta đến và cũng như Từ Chân Như chúng ta đi tới. Chỉ một danh từ Chân Như đó thôi đă dung chứa tất cả - toàn thể ḍng sống nhân quần từ A đến Z – nhưng anh đang mê ngủ nên anh không nhận thức rơ anh là ai. Anh phải quay trở về, anh phải t́m cho ra và nhận mặt rơ rằng con người thật của anh, anh phải nh́n sâu vào tận đáy hồn anh. Sự chạm mặt, sự đối diện với chính anh sẽ giúp anh thấy lại được Phật tánh của ḿnh. Ngày mà con người nh́n thấy được chính họ, toàn thế giới hiện hữu sẽ bừng sáng; nhưng không phải cái “tôi” của con người đó giác ngộ, cái “tôi” nhỏ bé tầm thường đó phải tan biến đi trước khi con người giác ngộ. V́ thế không thể nói “tôi giác ngô” mà chỉ có sự “giác ngộ”.

Từ phút giây bừng tỉnh cơn mê dài đó, tôi không thấy ǵ hết ngoài Phật – dù dưới nhiều dạng h́nh, dưới nhiều danh hiệu, với hàng ngh́n lẻ một vấn đề - nhưng Phật vẫn thế, như như bất biến.

V́ thế, tôi cúi đầu đănh lễ vị Phật trong anh.

Tôi vô cùng sung sướng khi thấy hằng hà sa số Phật đang quy tụ về đây. Sự kiện anh đến với tôi là sự khởi nguyên bắt đầu của tánh trực nhận. Ḷng tôn kính chân thành từ đáy trái tim anh cho tôi, t́nh yêu trinh nguyên tận đáy hồn anh cho tôi, chính là niềm Tôn Kính và T́nh Yêu cho khả tánh Phật của anh. Niềm Tin anh dành cho tôi không phải là niềm tin vào cái ǵ ngoài con người anh, mà đó chính là ḷng Tự Tin Tuyệt Đối. Anh tin chính anh, chính con người anh qua tôi. Anh tin vào chính anh, anh nh́n thấy con người thật của anh  qua h́nh bóng tôi. Khi đến gần tôi, hoà nhập vào tôi, anh đă đến với anh, anh đă tan biến vào biển Chân Như Phật Tánh trong anh. Chỉ có sự Trực Nhận thẩm thấu. Anh đă chạm đến sự trực nhận. Hạt kim cương vốn từng ở đó, nhưng anh đă lăng quên, hay anh chưa từng nhớ đến nó từ lúc anh góp mặt vào ḍng đời luân chuyển.

Emerson đă nói một câu bất hủ: “Con người là Thượng Đế trong hoang tàn đổ nát”. Tôi đồng ư và cũng không đồng ư. Về nội tại, sự thực cũng có lẽ là như vậy, nhưng con người không đúng như nó đă là. Chiều sâu nội tại vẫn ở đó nhưng có phần lật ngược. Con người không phải là Thượng Đế trong đổ nát điêu tàn, mà con người chính là Thượng Đế trong sáng tạo; con người là một vị Phật đang thành.

Mầm giác ngộ vốn có sẵn ở đó, và có thể khai hoa nở nhụy bất cứ lúc nào: chỉ cần một cố gắng nho nhỏ mà thôi, chỉ một sự giúp đỡ rất nhỏ mà thôi... và sự giúp đỡ đó không phải là nhân tác động để mầm giác ngộ đâm chồi – v́ Phật tánh, v́ giác ngộ vốn đă hiện hữu trong anh tự xưa nay. Sự cố gắng đó của anh chỉ là cái duyên thúc đẩy để vén lên bức màn vô minh, để chỉ cho anh thấy cái tiềm ẩn, sâu thẳm, dấu kín trong anh. Đó là một sự khám phá nhưng sự thực vốn không thay đổi, luôn hằng hữu.

Chân lư măi măi bất diệt.

Hăy lắng nghe những lời kinh tuyệt diệu này v́ đó chính là những lời kinh quan trọng nhất trong toàn bộ văn chương giáo lư nhà Phật. V́ thế, những câu kinh này đă được gọi là Tâm Kinh, Kinh Trái Tim, phần cốt lơi của thông điệp giáo lư của Đức Phật.

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 2 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 1:07am | Đă lưu IP  

 

Phật ở trong Anh

Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - osho

(Thích Nữ Minh Tâm dịch)

phần tiếp theo

 

Nhưng tôi đây muốn bắt đầu đi từ cái khởi nguyên của Tâm Kinh. Chỉ từ điểm này, Phật giáo mới đúng là thích hợp, thích ứng: cứ để yên đấy trong tâm cái tư tưởng “Ta là một vị Phật”. Tôi biết anh sẽ cảm thấy tự phụ, kiêu ngạo, ra vẻ ta đây hoặc là sẽ không tin hoàn toàn và cho lập luận “Ta là một vị Phật” đó đầy tính chất giả thuyết. Cũng đúng thôi, tự nhiên thôi, tôi biết chắc như vậy; v́ người nào phải có một niềm tin bất di bất dịch, tuyệt đối lắm mới đón nhận nổi tư tưởng “Ta là một vị Phật sẽ thành”. Cứ để yên đấy đi, khoan dấy động vội - cứ để yên tư tưởng đó trong nụ mầm sẵn có. Chung quanh sự kiện đó, có rất nhiều việc bắt đầu xảy ra, và chỉ chung quanh sự kiện đó, anh có thể sẽ nhận hiểu được nghĩa lư Tâm Kinh.

Bát Nhă Tâm Kinh (Prajnaparamita Sutras) thật vô cùng cô đọng, xúc tích, hàm chứa, sâu nhiệm và quyền năng tột bực. Nhưng với nền tảnh đó, với cái nh́n nhận định trong tâm tư: Anh là một vị Phật, rằng anh sẽ thành một vị Phật, rằng anh có tiềm năng Phật tánh giác ngộ để có thể trở thành một vị Phật, rằng không có cái ǵ khiếm khuyết, tất cả đều sẵn sàng, chỉ cần sắp đặt mọi vật cho có trật tự, và cũng chỉ cần một chút ư thức, một chút tỉnh thức thôi... và anh cũng chỉ cần thắp sáng ngọn đèn trong căn nhà tối tăm của anh, th́ một khi ánh sáng toả ra, bóng tối liền biến mất, anh sẽ t́m thấy lại được kho tàng vốn có nhưng bị che dấu tự bấy lâu nay. T́m lại được kho tàng tâm linh, anh sẽ không c̣n là một tên ăn mày khốn khổ nữa, anh sẽ là một quốc vương, một hoàng đế, một vị Phật. Cả một vương quốc tâm linh đồ sộ đó là của anh, thuộc về anh, là chính anh!

Song, anh sẽ không bao giờ xác được vương quốc tâm linh đó nếu anh cứ tự cho rằng ḿnh là một tên ăn mày. Anh sẽ không bao giờ dám mơ ước tới chứ đừng nói chi là nói tới, nói ra và tin chắc là ḿnh thực giàu có, ḿnh thực là hoàng đế cả. Cái tư tưởng “anh là một tên ăn mày, anh thiệt là vô minh ngu ngốc, anh đầy tội lỗi” đă được các tu sĩ rao giảng trên bục đàn từ bao thế kỷ nay đến nỗi nó thấm sâu vào máu xương anh, thôi miên anh, khiến anh hụp lặn trong vùng ảo giác mờ mịt, và biến anh trở thành mộ con cừu non kêu be be những tiếng kêu vô vọng ngờ nghệch.

Bây giờ, vùng ảo giác đă tan biến, thuật thôi miên đó dă mất hiệu lực. Để bẻ gẫy đập tan cái tṛ thôi miên gây ảo giác đó, tôi bắt đầu bằng cách cúi đầu “đănh lễ vị Phật trong anh”. Đối với tôi, anh đă là Phật từ vô lượng kiếp xa xưa. Tất cả những nỗ lực của anh để được giác ngộ thật lẩn thẩn, buồn cười làm sao nếu chính anh không dám đón nhận sự thực thuần chất đó. Sự hiểu biết nhận thức đó tiềm tàng sâu xa, không hiển lộ ra, và chính anh phải sống với sự thực đó. Anh phải đoan quyết “Ta là một vị Phật!” Đây là một sự thực bắt đầu hợp lư, đúng lúc, đúng thời cơ. Hăy bắt đầu với nhận thức đó và anh đừng e sợ, lo lắng là sự nhận thức “Ta là một vị Phật” sẽ cấu tạo ra cái tự ngă hợm hĩnh. Đừng lo sợ ǵ cả, v́ toàn bộ tiến tŕnh giáo lư Bát Nhă Tâm Kinh sẽ giúp anh phóng thể, khai sáng cái bản ngă: cái “Tôi” đó thực không hiện hữu - chỉ cái “Tôi” đó là cái duy nhất không hiện hữu, không thực! Ngoài ra tất cả đều thực có.

Có nhiều đạo sư đă nói: “Thế giới này là ảo ảnh và linh hồn mới hiện hữu – cái “Tôi” là thực, ngoài ra đều là ảo giác.” Đức Phật lại giảng trái ngược lại: “Cái tôi là không thực, c̣n những thứ khác là thực.” Tôi đồng ư với Đức Phật về quan điểm này hơn tất cả những lập thuyết, quan niệm của những đạo sư khác.

Chiều sâu nội tại giác tĩnh của Phật thật sâu thẳm vô cùng; là chiều sâu tỉnh giác kín nhiệm nhất, không ai và cũng không có cái ǵ sánh bằng. Chưa có một ai có thể đặt chân tới, len lỏi tới lĩnh vực bí mật kín nhiệm như thế; chưa có một ai có thể chạm tay tới chiều sâu và cao của Chân Lư như Đức Phật. Cho nên đừng sợ ǵ cả, hăy để tư tưởng “Ta là một vị Phật” lan toả thấm sâu vào từng tế bào cơ thể anh và từng lớp ư nghĩ suy tư của anh, hăy để nó chui vào từng góc kẹt, xó xỉnh của ḍng sống hiện hữu của anh, rằng “Ta là một vị Phật”. Đừng lo sợ ǵ cả. “Cái tôi” và “Phật tánh” thực ra không thể tồn tại, hiện hữu cùng một lúc được. Một khi Phật tánh hiện diện, th́ cái Tôi phải vắng bóng, y như bóng tối phải tan biến nhường chỗ cho ánh sáng tràn vào.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 3 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 2:24am | Đă lưu IP  

Kính chào OnlyOne_0,

Bài viết thật dễ thương. Tác giả thấm được tư tưởng và tôn chỉ kinh Pháp Hoa, đặc biệt là phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát, cũng là nền tảng của Đại Thừa Phật pháp.

Cảm ơn OnlyOne_0 đă dịch và post bài này.

Mong được nghe tiếp những phần sau.

Chúc OnlyOne_0 an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 4 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 4:08am | Đă lưu IP  

OnlyOne_0 đă viết:

<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 12pt 0mm; TEXT-ALIGN: center" align=center><B style="mso-bidi-font-weight: normal"><SPAN style="FONT-SIZE: 18pt; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">Phật ở trong Anh<?:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /><o:p></o:p></SPAN>


<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 12pt 0mm; TEXT-ALIGN: center" align=center><B style="mso-bidi-font-weight: normal"><I style="mso-bidi-font-style: normal"><SPAN style="FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - </SPAN><B style="mso-bidi-font-weight: normal"><I style="mso-bidi-font-style: normal"><SPAN style="FONT-FAMILY: '.VnTimeH'">osho<o:p></o:p></SPAN>[/FONT]


<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 12pt 0mm; TEXT-ALIGN: center" align=center><B style="mso-bidi-font-weight: normal"><I style="mso-bidi-font-style: normal"><SPAN style="FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">(Thích Nữ Minh Tâm dịch)<o:p></o:p>[/FONT]</SPAN>


<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 6pt 0mm; TEXT-INDENT: 26.95pt; LINE-HEIGHT: 130%; TEXT-ALIGN: justify"><B style="mso-bidi-font-weight: normal"><SPAN style="FONT-SIZE: 13pt; LINE-HEIGHT: 130%; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">Tôi đănh lễ vị Phật trong anh. Anh có thể không biết; anh có thể chưa hề mơ nghĩ đến chính ḿnh là một vị Phật; rằng Phật tánh vốn sẵn có trong anh; là trung tâm điểm của bản thể; Phật tánh đó không phải là một cái ǵ sẽ xảy đến ở tương lai mà nó đă vốn hằng hữu thường trụ.<o:p></o:p></SPAN>


<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 6pt 0mm; TEXT-INDENT: 26.95pt; LINE-HEIGHT: 130%; TEXT-ALIGN: justify"><SPAN style="FONT-SIZE: 13pt; LINE-HEIGHT: 130%; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">FAMILY: 'Times New Roman'">Mầm giác ngộ vốn có sẵn ở đó, và có thể khai hoa nở nhụy bất cứ lúc nào: chỉ cần một cố gắng nho nhỏ mà thôi, chỉ một sự giúp đỡ rất nhỏ mà thôi... và sự giúp đỡ đó không phải là nhân tác động để mầm giác ngộ đâm chồi – v́ Phật tánh, v́ giác ngộ vốn đă hiện hữu trong anh tự xưa nay</SPAN><SPAN style="FONT-SIZE: 13pt; LINE-HEIGHT: 130%; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">. Sự cố gắng đó của anh chỉ là cái duyên thúc đẩy để vén lên bức màn vô minh, để chỉ cho anh thấy cái tiềm ẩn, sâu thẳm, dấu kín trong anh. Đó là một sự khám phá nhưng sự thực vốn không thay đổi, luôn hằng hữu.<o:p></o:p></SPAN>


<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 6pt 0mm; TEXT-INDENT: 26.95pt; LINE-HEIGHT: 130%; TEXT-ALIGN: justify"><SPAN style="FONT-SIZE: 13pt; LINE-HEIGHT: 130%; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">Chân lư măi măi bất diệt.<o:p></o:p></SPAN>


<P =Msonormal style="MARGIN: 0mm -3.1pt 6pt 0mm; TEXT-INDENT: 26.95pt; LINE-HEIGHT: 130%; TEXT-ALIGN: justify"><B style="mso-bidi-font-weight: normal"><SPAN style="FONT-SIZE: 13pt; LINE-HEIGHT: 130%; FONT-FAMILY: 'Times New Roman'">Hăy lắng nghe những lời kinh tuyệt diệu này v́ đó chính là những lời kinh quan trọng nhất trong toàn bộ văn chương giáo lư nhà Phật. V́ thế, những câu kinh này đă được gọi là Tâm Kinh, Kinh Trái Tim, phần cốt lơi của thông điệp giáo lư của Đức Phật.<o:p></o:p></SPAN>





Bài giảng này nghe qua thật đẹp về Phật tánh chung đồng về mặt lư luận , tôi có nghe giảng của 1 vị Thầy người nước ngoài về đề tài này , nghe giữa chừng th́ tôi bỏ đi về . Trong thực tế màn vô minh che mờ chúng sinh trong vô lượng kiếp luân hồi sanh tử , không thể nói là cố gắng chút xíu là có thể thành Phật . Muốn thành Phật phải tu qua rất nhiều kiếp , và do biết sự khó khăn , gian khổ này mới có Bồ Tát Đạo tu tập qua vô lượng kiếp mới viên thành Phật đạo .

Có sự khác nhau giữa bậc Thánh và phàm phu về thời gian và không gian . Bậc Thánh khi chứng đắc th́ không c̣n khái niệm về thời gian và không gian nữa nên thấy 100,1000 kiếp như trong nắm tay , thấy trời đất vũ trụ trong tâm thức của ḿnh nên thấy rất gần . C̣n Phàm phu th́ thấy không gian bao la , thời gian th́ quá dài dù là chỉ vài kiếp .
Hạnh Bồ Tát Đạo chân chính tu tập không bao giờ xác định thời gian , khi công hạnh đủ đầy , phước tâm linh viên măn , tâm thanh tịnh , phát trí huệ th́ giác ngộ chứ không định trước thời gian .
Nhiều khi chúng ta đọc kinh văn nghe nói chỉ 1 câu nói mà giác ngộ th́ tưởng là giác ngộ rất dễ dàng nhưng thật ra vị này đă tu tập tích lũy công đức , độ sinh trong nhiều kiếp trước đó nay đến lúc chín muồi th́ giác ngộ .

Trích đoạn : " Mầm giác ngộ vốn có sẵn ở đó, và có thể khai hoa nở nhụy bất cứ lúc nào: chỉ cần một cố gắng nho nhỏ mà thôi, chỉ một sự giúp đỡ rất nhỏ mà thôi... và sự giúp đỡ đó không phải là nhân tác động để mầm giác ngộ đâm chồi – v́ Phật tánh, v́ giác ngộ vốn đă hiện hữu trong anh tự xưa nay "

Sự đề cao Phật tánh quá mức dễ phát sinh ngă mạn , điều này thấy rất nhiều qua thực tế tu tập . Nếu lư luận cho rằng sự giác ngộ là do tự Phật tánh mà có th́ đă sai lệch quá đà . Bởi bất cứ một tâm linh chúng sinh nào cũng cần phải có giáo lư Phật Đà , lời của ĐỨC PHẬT soi sáng mở đường và nổ lực tự thân mới khai mở tâm linh được . Chỉ có ĐỨC PHẬT là Giáo chủ duy nhất mở đường mà thôi , điều này cũng đă xác định rơ trong kinh văn . Không có ĐỨC PHẬT mở đường với giáo lư của Ngài th́ vĩng viễn chúng sinh không có con đường giải thoát . Đây là điều cần phải minh định cho rơ trong Phật học .
Vài ḍng đóng góp ư kiến . Xin lưu ư nếu có sự khác nhau về quan điểm là do kinh văn cổ xưa của ĐỨC PHẬT để lại nguyên bản khác với sự phát triển của chư Tổ sau này mở rộng về mặt lư luận mà thôi .

Diệp Tấn Dũng



Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 5 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 7:52am | Đă lưu IP  

 

Phật ở trong Anh

Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - osho

(Thích Nữ Minh Tâm dịch)

phần tiếp theo

 

Trước khi vào Tâm Kinh, chúng ta cần trang bị một số kiến thức, cần chuẩn bị tư thế, cần thể nhập thông suốt một số vấn đề.

Những kinh sách Phật giáo cổ xưa có nói về Bảy Tháp Báu, giống như các đạo sĩ Sufi (huyền bí của Hồi Giáo) nói về Bảy Thung Lũng, và Ấn Độ Giáo rao truyền về bảy Bánh Xe Luân Hồi.

Tháp báu thứ nhứt tượng trưng thuần vật chất.

Tháp báu thứ nh́ là thân tâm hợp.

Tháp báu thứ ba biểu tượng cho tâm lư.

Tháp báu thứ tư là tâm – ư thức.

Tháp báu thứ năm là thuần tâm thức.

Tháp báu thứ sáu là vượt qua phần ư thức.

Tháp báu thứ bảy là siêu thức.

Tâm Kinh Bát Nhă thuộc về tháp báu thứ bảy; đó là sự thể nhập vào siêu thức, vào Chân Như Tuyệt Đối, và đó cũng là ư nghĩa của Phạn ngữ “Prajnapramita – Trí Tuệ đáo bỉ ngạn”, trí tuệ rốt ráo cùng tột, trí tuệ siêu việt. Cái trí tuệ rốt ráo đó chỉ đạt được khi anh đă chuyển hoá được tất cả những nhăn hiệu, những giá trị, những bảng đánh giá cao thấp đúng sai; khi trong anh chỉ c̣n một ngọn lửa Tỉnh Giác Thuần Nhất, không pha tạp, không khói đen bám chung quanh. Đó là lư do các tín đồ Phật giáo thờ kính tôn trọng quyển kinh nhỏ bé này, quyển kinh rất nhỏ này, quyển cốt lơi kinh điển này và đặt tên là Tâm Kinh – Kinh Trái Tim – là trái tim, là tinh tuư, là cốt tuỷ Phật giáo.

Tháp thứ bảy, Siêu Thức, với biểu tượng bánh xe ngàn cánh sen (sahasrar chakra: sahasrar có nghĩa là ngàn cánh sen, chakra là bánh xe), là biểu tượng của ḍng luân chuyển tuyệt đối: không có cái ǵ che dấu, tất cả đều được phơi bày trọn vẹn, linh động, đầy sức sống kín nhiệm, rạng ngời. Ngàn cánh hoa sen bừng nở, xông toả, cả bầu trời tràn ngập mùi hương vi diệu, toàn thái hư e thẹn ch́m trong cái Đẹp Tối Thượng, vũ trụ và chúng sanh đón nhận ân sủng giáng phàm đó.

Trong cái thế giới hiện đại tân kỳ này, người ta đang nỗ lực đi t́m cái cốt tuỷ, cái chân nhuỵ của con người; nhưng chúng ta cũng cần phải t́m hiểu là những nỗ lực tân tiến đó sẽ dẫn chúng ta đi tận đâu, về đâu?

Pavlov, B. F. Skinner và những nhà nhân cách học khác, đă đi ḷng ṿng theo ṿng bánh xe Muladhar (Muladhar Chakra theo Ấn Độ giáo: “muladhar” có nghĩa là nền tảng cơ bản, “chakra” là bánh xe). Họ cho rằng con người cơ bản chỉ là phần vật chất thân xác. Họ kẹt cứng ở tầng tháp thứ nhất, họ mắc cạn với phần vật lư và đă quên tất cả. Những nhà học giả này t́m cách giải thích hiện tượng con người chỉ qua phần vật lư, vật chất mà thôi. Thái độ và quan niệm tư duy đó đă trở thành vật cản bịt mắt họ khiến họ không thể thấy ǵ hết ngoài thân xác tứ đại (đất, nước, gió, lửa) kết hợp nên h́nh thể một con người. Một khi ngay từ đầu, anh từ chối không thấy ǵ hết ngoài thân tướng vật lư, anh đă từ chối luôn sự phát triển và khai phóng tâm linh. Tư duy đó rất lệch lạc, thiên kiến.... một nhà nhân cách học, một người vô thần... hay tất cả những người nào tin là con người không có ǵ ngoài thân xác tứ đại th́ cánh cửa Chân Lư Tối Thượng đă đóng sầm vào mặt họ rồi vậy. Họ đă mù rồi vậy. Anh không cần phải t́m ṭi hay chứng minh là cái thân tướng hữu hạn đó có thực hay không có thực; điều đó không cần, v́ không ai chối bỏ sự hiện hữu của một thân xác tứ đại – song, nếu đời sống con người thực ra chỉ thuần là vật lư, chỉ là cái thể xác này: anh ăn, anh thở, tiêu hoá, làm t́nh và sanh con đẻ cái, v.v. và v.v. và một ngày kia anh chết – th́ quả t́nh sự có mặt của con người trên trái đất này quả ư quá là vô vị, rỗng tuếch. Con người chẳng qua giống như cái máy, bấm nút là chạy; cơ thể đ̣i hỏi ǵ th́ sống theo bản năng như vậy; không có một cái ǵ sâu xa hơn, cao thượng hơn, thanh khiết hơn?

Triết gia Skinner có viết một quyển sách nhan đề là “Beyond Freedom and Dignity” (Vượt Ngoài tự Do và Phẩm Chất); theo tôi, nên sửa lại là “Below Freedom and Dignity” (Dưới Tự Do và Phẩm Chất). Đó là phần thấp nhất, phần xấu xa nhất khi nói về con người. Thân xác con người không có ǵ sai, không có ǵ xấu cả; tôi không chống đối lại thân xác – nó là một toà tháp tuyệt đẹp – nhưng sự xấu xa len lỏi vào khi anh nghĩ thân xác là trên hết; thân xác là tất cả nghĩa sống, là hạt nhân của cuộc đời.

Con người cũng được ví như cái cầu thang có bảy nấc, và cái cầu thang đó bắc nhịp liên lạc thế giới này với thế giới khác; cái gạch nối giữa phần vật chất và thượng đế. Thân xác là cái nấc thang thứ nhất. Nó sẽ tuyệt hảo nếu anh dùng nó để bước tiếp lên sáu nấc thang kia; nhưng nếu anh dừng lại ở nấc thang thứ nhất và tôn thờ đam mê cái nấc thang thân xác này, bỏ quên sáu nấc thang kia th́ anh đă kẹt cứng ở đó, và tự anh đă tiêu huỷ đời anh trong ô trược. V́ thế, những người theo chủ nghĩa Duy Vật đều bị kẹt cứng, họ luôn cảm thấy có cái ǵ thiếu thốn, có cái ǵ hụt hẫng. Họ bị chết cứng ở nấc thang thứ nhất, không tiến đi đâu được. Họ chạy ḷng ṿng, quanh đi quẩn lại một địa điểm. Họ cảm thấy mệt mỏi, chán chường và bắt đầu đi t́m cái chết để giải quyết vấn đề bức xúc tâm lư. Những sự nỗ lực của họ đều vươn tới đi t́m “cái mới” nhưng thực ra, có cái mới nào đâu?

 

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 6 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 2:20pm | Đă lưu IP  

 

Để đáp lại tấm ḷng của bạn vuithoiDiệp Tấn Dũng cùng nhiều bạn khác trong diễn đàn, OnlyOne_0 có vài ư kiến cá nhân trước khi post phần tiếp theo:

 

   Trước hết đây là chủ đề : Bát Nhă Tâm Kinh giảng giải. Nghĩa là người đọc muốn hiểu được nó phải tự ḿnh đứng vào hàng Bồ tát (Bồ Tát thừa). V́ kinh này Đức Phật giảng cho hàng Bồ Tát chứ không phải giảng cho người tu Nhân thừa. Người tu Nhân thừa là c̣n trong ṿng đối đăi (kinh Nhân Quả Ba Đời) Đức Phật giảng rất rơ về điều này. Ṿng đối đăi là ǵ ? Là người tu c̣n có tâm phân biệt (tâm Nhị Nguyên) mong gieo nhân để được quả. Nếu gieo nhân mà không được quả tương ứng th́ sao ? Th́ buồn phiền, đau khổ, tức là vẫn chưa dứt được phiền năo, khổ đau. Ví dụ như anh cưu mang người bạn trong những lúc sa cơ lỡ vận nhưng người đó khi qua cơn hoạn nạn lại coi anh không ra ǵ, thậm chí c̣n oán trách anh. Điều này làm anh bực tức, buồn khổ v́ anh thấy gieo nhân (nhân tốt) mà lại được quả xấu (tức là gieo nhân mà lại không được qủa tương ứng). Đấy gọi là tu Nhân thừa - tâm Nhị Nguyên.

 

   Hầu hết trong chúng ta vẫn đứng ở hàng này (Nhân thừa - Nhị Nguyên) nên tâm trạng khi đọc Bát Nhă Tâm Kinh vẫn không cảm nhận được - v́ chúng ta phải dùng tâm Nhất Nguyên (không c̣n phân biệt đối đăi: không c̣n phân biệt hay - dở, khen - chê, tốt - xấu ...). V́ không có dở th́ làm ǵ có hay, không có xấu th́ làm sao so sánh để biết cái đó tốt....Chỗ này tốt, nhưng sang chỗ khác lại xấu mất rồi, cho nên trong kinh nói : '' Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc'' là vậy.

 

 " Khi Bồ tát quán tự tại hành sâu Bát Nhă Ba La Mật Đa…". Câu đầu tiên của kinh là nói về hành động của Bồ tát và những việc Bồ tát làm và hành động để đạt tới đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác (thành Phật).

 

    Osho (ông là một người không theo tôn giáo nào) đă đọc Bát Nhă Tâm Kinh và giảng giải nó theo đúng cách mà Đức Phật đă làm - con đường trung đạo. Như dịch giả Thích nữ Minh Tâm đă viết: Bạn hăy đọc OSHO với con người thật của bạn, không phải con người xă hội hay tôn giáo.

 

   Tôi rất hàm ơn và khâm phục Osho khi ông mở đầu bài viết dài của ḿnh về Bát Nhă Tâm Kinh đă nâng người đọc lên hàng Bồ tát, hàng Phật: '' Tôi đảnh lễ vị Phật trong anh.'' . Một thâm ư của Osho rằng tôi (tôi ở đây là tác giả Osho) bắt đầu nói chuyện với anh - với vị Bồ tát, một vị Phật theo đúng cách mà Đức Phật dạy trong Bát Nhă Tâm Kinh. Chỉ có như vậy anh mới tiếp nhận được cái tư tưởng, cái tâm thức mà tôi gợi mở, trao đổi, hoà nhập trong anh.

 

   Tôi (OnlyOne_0) giả thiết rằng nếu ai trong chúng ta cũng coi nhau là Phật th́ thử hỏi đâu c̣n tham lam, sân hận, khổ đau. Cảnh giới ta bà này là cảnh giới Phật v́ chúng ta ai cũng là Phật.

 

  Một sự thật là chúng ta rất khó thành Phật. Về điều này tôi đồng ư với quan điểm của bạn Diệp Tấn Dũng . Đơn giản là v́ trong thuyết Mười hai nhân duyên Đức Phật đă giảng rơ điều này: Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Già Chết 

 

1. Vô minh (ảo tưởng) duyên Hành : giao phối dục của cha mẹ - thuộc về quá khứ

2. Hành duyên Thức :  lúc thụ thai - thuộc về quá khứ

3. Thức duyên Danh Sắc (các chức năng tâm thức và vật chất): sự phát triển sau khi thọ thai - thuộc về quá khứ

4. Danh Sắc duyên Lục Nhập (năm giác quan và ư c̣n gọi là sáu căn): sự phát triển của sáu căn này trong tử cung - thuộc về quá khứ

5. Lục nhập duyên Xúc (giai đoạn của trẻ em hai hay ba tuổi) - thuộc về quá khứ

6. Xúc duyên Thọ (giai đoạn của trẻ em sáu hay bảy tuổi) - thuộc về quá khứ

7. Thọ duyên Ái ( sự yêu thương về giới tính): giai đoạn của thanh niên mười bảy hay mười tám tuổi - thuộc về hiện tại

8. Ái duyên Thủ (bảo thủ, cố chấp): giai đoạn sau hai mươi tám tuổi - thuộc về hiện tại

9. Thủ duyên Hữu (tính sở hữu cái tôi, cái của tôi): gia đoạn hôn nhân - thuộc về hiện tại

10. Hữu duyên Sanh ( sinh con cái) - thuộc về vị lai  

11. Sanh duyên Già Chết (sầu, ưu bi, khổ năo) - thuộc về vị lại

 

Từ nhân duyên 1 đến 6 (Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ) là thuộc về quá khứ gọi là căn bản vô minh. C̣n từ nhân duyên 7 đến 11 (Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Già Chết) thuộc về hiện tại và vị lai được gọi là chi mạt vô minh. Bây giờ chúng ta có giỏi đến mấy cũng không thể diệt được căn bản vô minh v́ căn bản vô minh là vô minh ban đầu, nó thuộc về quá khứ đă qua rồi. Nên hiện tại chúng ta cố gắng là làm sao tiêu diệt được chi mạt vô minh. Phá được chi mạt vô minh rồi th́ chúng ta sẽ dứt được sanh tử (thành Phật). C̣n nếu chưa phá được nó th́ chúng ta đi măi trong sanh tử (luân hồi trong Lục đạo) .

 

Chi mạt vô minh được bắt đầu từ cảm thọ. Khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc với sáu trần chúng ta mới biết vui buồn, hờn giận, yêu ghét ... đó là  Thọ duyên Ái. Từ Ái duyên Thủ tức là chúng ta muốn níu kéo, giữ ǵn những ǵ ḿnh yêu thích, không chấp nhận những ǵ ḿnh ghét bỏ - thường gọi là chấp thủ hay là kiến chấp. Đến đây tôi lại không đồng ư với quan điểm của bạn Diệp Tấn Dũng

 

   Ở đây và ngay bây giờ, khi chúng ta đang đọc về Bát Nhă Tâm Kinh giảng giải, nhưng chúng ta vẫn kiến chấp - chỉ đọc và nghe những ǵ ḿnh thấy hợp với ḿnh, đúng với ư ḿnh từ trước đến nay th́ khi nào chúng ta mới phá được chi mạt vô minh. Có người đảnh lễ gọi ta là Phật mà ta c̣n hoảng hốt sợ hăi th́ làm sao ta đọc được kinh dành cho Phật thừa và Bồ tát thừa. Chúng ta hăy học tập ngay ở người dịch - Thích nữ Minh Tâm - là một nữ tu sĩ Đạo Phật mà vẫn dịch lời văn rất trong sáng, đẹp đẽ, rất sát nghĩa và ư của tác giả, cho dù có nhiều câu, nhiều đoạn Osho vẫn vơ đũa cả nắm khi nói về các tu sĩ. Bản thân cuộc đời Osho cũng  đầy sóng gió và là cơ hội để nhiều người chống lại ông khi ng̣i bút của ông vẫn kiên cố, không lay động khi hạ bút viết theo quan điểm của ḿnh.

 

   Chúng ta c̣n kiến chấp bởi v́ chúng ta chưa hiểu  đúng Phật. Từ ''Phật'' là ǵ ?. Từ ''Phật'' đọc là Budha tiếng Trung hoa gọi là Phật Đà với nghĩa là  giác ngộ. Giác ngộ trong đạo Phật khác xa so với các sự giác ngộ khác nên chúng ta gọi là Phật là ông Phật để tránh không gọi là ông giác ngộ. Người giác ngộ trong đạo Phật gọi là ngộ Đạo hay đắc Đạo (thành Phật). Tuy nhiên như một Thiền Sư nổi tiếng đă nói : ''tiểu ngộ  th́ vô số c̣n đại ngộ th́ không nhiều '', Với những giây phút tiểu ngộ - giây phút đó anh là Phật.

 

   Nếu một người đến gần chúng ta mà bảo rằng ông ta là Phật. Chắc chắn rằng chúng ta sẽ không tin. Chúng ta sẽ đ̣i ông ta phải hô mây, gọi gió, phải biến hoá để chúng ta giàu có hơn, làm phép thuật để ngày mai chúng ta trúng xổ số, để ngày mai khi mở két chúng ta đă có đầy tiền mà không phải làm ǵ hết. Điều này cũng dễ hiểu thôi v́ từ hồi thơ ấu ông bà, cha mẹ chúng ta đă kể cho chúng ta nghe những chuyện cổ tích về ông Bụt, ông Phật có quyền năng biến hoá để độ cho con người - nó đi theo chúng ta trong Vô minh (Vô minh duyên Hành từ trong bụng mẹ mà ! - tôi và bạn đều như vậy không khác) .

 

  Khi bạn đă có khái niệm về từ ''Phật '' là giác ngộ hay ngộ đạo th́ bạn dễ dàng chấp nhận ông ta là Phật khi ông ta đă giác ngộ hay ngộ đạo. Chỉ có người ngộ đạo (Bồ tát, Phật) mới dạy bạn thành Phật, thành Bồ tát được thôi, c̣n nếu không bạn phải tự ngộ (Vô sư trí).

 

  Càng gần tới giác ngộ hay ngộ đạo, Phật càng lấy đi của bạn nhiều hơn:  '' ...không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức ...'' tức là Phật đă lấy đi cái tôi và cái của tôi, lấy đi cái ngă và ngă sở hữu. Cho đến lấy đi cả trí tuệ (trí hữu sư - trí có thầy, nương tựa vào thầy) và cả tâm mong cầu đạt được đạo quả trên con đường tu Phật (Phật quả): ''... không có trí tuệ và không có chứng đắc...'' .  Bây giờ chúng ta đang ngồi trong nhà lầu, đi xe hơi, vợ đẹp, con khôn; có một vị Bồ tát đến hỏi: '' Ngươi có muốn thành Phật không ? Muốn thành Phật th́ hăy từ bỏ nhà cửa, vợ con, để chân đất, đầu trần đi khất thực 49 năm như Đức Phật ngày xưa. Thậm chí ngươi không cần biết phải giảng pháp như Đức Phật, ta vẫn sẽ cho người thành Phật ''. Đến đây tự mỗi chúng ta đă t́m ra câu trả lời cho ḿnh rồi. Nếu một người không có ngă và ngă sở hữu th́ người ấy là Phật. Vô ngă là Niết Bàn. V́ chỉ có chư Phật mới được hưởng hương vị của Niết Bàn. Ai vô ngă người ấy là Phật. V́ không có cái tôi, không có cái của tôi nên người ấy đă diệt được chi mạt vô minh - nguồn gốc tạo ra sinh tử. Người ấy thành Phật.

 

   Tôi xin kể câu chuyện thành Phật (diệt chi mạt vô minh - c̣n gọi là hạnh Bồ tát) của thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin Ekaku) trích trong tập Thiền sư Nhật Bản của John Stevens ( Thanh Chân dịch) và cũng được kể đến trong 10 câu chuyện Thiền nổi tiếng của OSHO.

"Thiền sư Hakuin rất được mọi người trọng vọng kính nể v́ phong cách đạo đức thánh thiện của ông.

Một ngày kia, có một người con gái trẻ đẹp nhà gần chùa của thiền sư bỗng bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô gái vô cùng tức giận và xấu hổ nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai lịch t́nh nhân của cô. Ban đầu cô con gái không chịu nói ǵ cả, nhưng sau cùng v́ bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Ha kuin.

Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt hai tiếng "Thế à!"

Sau khi đứa bé chào đời, gia đ́nh cô gái mang đứa bé quẳng cho Hakuin nuôi. Trong thời này, Hakuin đă bị tai tiếng và nhiều người chê bai trách móc ông đủ điều; nhưng Hakuin vẫn thản nhiên như không, dường như câu chuyện kia chẳng có dính líu ǵ đến ông cả.

Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bồng nó đi xin sữa khắp nơi.

Một năm sau, cô gái v́ cảm thấy ray rứt hối hận nên đă thú thực với cha mẹ là người cha đứa bé không phải là Hakuin mà là một chàng thanh niên làm việc ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về.

Thiền sư Hakuin vẫn thản nhiên như không, thốt lên hai tiếng "Thế à!"

  V́ không có cái danh dự, danh tiếng tôi, của tôi nên cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu chẳng khác nhau nên ai vu oan, giáng họa cho ḿnh cũng chẳng cần thanh minh - v́ không có sở hữu cái tôi th́ làm ǵ có danh dự của tôi nên chỉ cần nói: '' thế à !''.

 

  Khi nuôi thằng bé lớn, mẹ nó và gia đ́nh xin lại cũng không tiếc công sức nuôi nấng cực nhọc, cũng không đ̣i hỏi đối đăi, v́ không có cái của tôi, tức là không có công nuôi thằng bé ấy lớn là công của tôi....; nên cũng chỉ buông một câu: '' thế à !''.  Trong chúng ta đây ai có thể làm giống như thiền sư nhỉ ?!!!.

 

    Đến đây tôi xin kết thúc câu chuyện của ḿnh bằng bài Toạ Thiền Ca của thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin Ekaku - tôi gọi là Bồ tát Bạch Ẩn) để lại cho hậu thế chúng ta tu tập thành Phật như thiền sư. Bài này được trích trong tập Thiền sư Nhật Bản của John Stevens ( Thanh Chân dịch):

                                       Chúng sinh gốc là Phật

                                       Giống như nước với băng

                                       Ngoài nước không có băng

                                       Ngoài chúng sinh, chẳng có Phật

                                       Đạo gần bên chẳng biết

                                       Măi t́m cầu xa xôi

                                       Thật đáng thương xót thay !

                                       Như kẻ tắm trong nước

                                       Lại chết ṃn v́ khát

                                       Như con nhà phú gia

                                       Lại tha phương cầu thực

                                       Ta trôi lăn sáu cơi

                                       Bởi vô minh khuất lấp

                                       Vật vờ trong màn vô minh

                                       Làm sao thoát ly sinh tử ?

                                       ........

                                       ........

                                       .......

                                       Vô tướng là sắc tướng

                                       Lui tới tất thong dong

                                       Vô niệm là tâm niệm

                                        Du hí cơi Pháp giới

                                       Lồng lộng trời tam muội

                                       Ngời ngời trăng tứ chí

                                       Bổn lai nào thiếu chi

                                       Niết Bàn ngay trước mắt

                                       Cơi này là Tịnh Độ

                                       Thân này là Phật thân.

 

Chúc các bạn vui khỏe, an lành.

OnlyOne_0

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 7 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 10:25pm | Đă lưu IP  

Kính chào Bác OnlyOne_0 và Bác Diệp Tấn Dũng,

Bát Nhă Ba La Mật là phương tiện tối diệu chẳng dừng lại ở quả vị nào.

Sự đề cao Phật Tánh chính là cách nói khác của Bát Nhă. Bát Nhă chỉ ra những cái chẳng phải là Cái Biết. C̣n đề cao Phật tánh chính là chỉ thẳng Tánh Biết, là dụng của Cái Biết mà chúng ta chỉ thấy qua dụng nên mới nhơn đó chỉ bày.

Những cái chẳng phải là Cái Biết chẳng rời Cái Biết mà có và Cái Biết cũng chẳng rời những cái chẳng phải Cái Biết mà nhận ra.

Viết đến đây chợt nhờ đến 1 bài kệ của Tổ:

Tâm tùy vạn cảnh chuyển.
Chuyển xứ thật năng u.
Tùy lưu nhân đắc tánh.
Vô hỉ diệt vô ưu.

Là Phật là chúng sanh Cái Biết này chẳng tăng chẳng giảm nhưng thành Phật th́ phải "nhập" được Cái Biết này và phát nguyện độ sanh. Đây chính là chổ mà chư Tổ nói "Kiến Tánh thành Phật" v́ đạt được cái căn bản thành Phật vậy. Chẳng phải là Phật như đức Thích Ca.

Thiếu phần nguyện độ sanh không thể thành Phật. Đó là sự khác nhau giữa con đường Thanh Văn Thừa và Bồ tát thừa.

Tuy nhiên, đó chỉ là cái nh́n từ phàm phu chúng ta. Chư vị Alahan cũng không dừng lại ở quả vị của ḿnh mà sẽ phát nguyện sau khi nhập Niết bàn.

Chúng ta thường mơ hồ về Niết bàn và cũng thật khó mà diễn tả v́ nó không thuộc trong sự biết của chúng ta.

Hiện tại chúng ta nương dựa vào Bát Nhă mà nhận ra những sai lầm mà chúng ta đang mắc phải để rời ĺa. Thật sự nói rời ĺa chứ là chẳng chấp trước.

Kinh Ma Ha Bát Nhă Ba La Mat đă viết:
V́ chẳng chấp trước tất cả pháp nên đầy đủ Bát Nhă Ba La Mật


Cốt lơi nằm trong câu này.

Muốn học đầy đủ Bát Nhă Tâm Kinh th́ nên học Kinh Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật. Bát Nhă Tâm Kinh quá sức cô đọng khiến cho người học thường lầm. Nếu chưa thấu được Kinh Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật mà học Bát Nhă Tâm Kinh quả là một sự thiếu sót quá lớn. Đại Trí Độ Luận chính là luận giảng giải tinh tường nhất về Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật.

Chúng ta thường có tâm mong chóng thành tựu. Rất tiếc điều này chính là trở ngại rất lớn cho việc thành tựu.

Lại chúng ta có tâm học bất cứ điều ǵ qua lăng kính "thức" của chúng ta. Những sở học không rời khỏi thức. Đây là sự khác biệt giữa 1 học giả và 1 hành giả. Do đó mà chư tổ nói hiểu không hiểu đều sai v́ chưa rời ĺa máy tâm ư thức vậy.

Như đă nói trên, nhờ năng lực của nguyện độ tất cả chúng sanh mà không rơi vào Thanh Văn Thừa. C̣n Trí Tuệ chính là điều cần có để đi trên con đường Bồ Tát Thừa hay Phật thừa.

Chúng ta thường có khuynh hướng học những điều cao siêu, là tối thượng thừa. Rất tiếc ngay chỗ này đă không thể nhập Phật đạo. Chẳng phải Phật Đạo ngăn cản mà chính tâm phân biệt của chúng ta vậy.

Phật thừa là bao hàm tất cả thừa. Chẳng có cao siêu hay thấp thường v́ vậy chẳng có khen chê đề cao hay hạ thấp. Có chăng chỉ là phương tiện để chúng sanh rời ĺa chấp trước. Rời ĺa chấp trước chính là Bát Nhă vậy.

Kính chúc 2 bác an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 8 of 143: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 10:50pm | Đă lưu IP  

(...Tiếp theo Bát Nhă tâm Kinh Giảng Giải - OSHO)

V́ thế, những người theo chủ nghĩa Duy Vật đều bị kẹt cứng, họ luôn cảm thấy có cái ǵ thiếu thốn, có cái ǵ hụt hẫng. Họ bị chết cứng ở nấc thang thứ nhất, không tiến đi đâu được. Họ chạy ḷng ṿng, quanh đi quẩn lại một địa điểm. Họ cảm thấy mệt mỏi, chán chường và bắt đầu đi t́m cái chết để giải quyết vấn đề bức xúc tâm lư. Những sự nỗ lực của họ đều vươn tới đi t́m “cái mới” nhưng thực ra, có cái mới nào đâu? Tất cả chỉ là những món đồ chơi, những món đồ giải trí.

Hăy ngẫm nghĩ câu nói này của Frank Sheed: “Linh hồn con người đang dăy dụa khóc than kêu gào ư nghĩa, mục đích cuộc sống” – nhưng các khoa học gia lại nói: “Này bạn, điện thoại đây!” hoặc “Hăy nh́n ti vi đi!” – y hệt như người ta đang cố gắng dụ dỗ đứa con nít khóc nhơng nhẽo đ̣i mẹ nó, bằng cách cho đứa bé kẹo hay làm tṛ hề chọc cho nó cười quên đi. Cũng vậy, hàng loạt phát minh tân kỳ kỹ thuật sản sinh ra để kềm chân con người lại, để hắn cảm thấy lúc nào cũng bận rộn với công việc, khiến hắn không c̣n dịp nghĩ tới những ǵ đang gây xáo trộn đời sống hắn. (Anh có thấy là mâu thuẫn và ngớ ngẩn buồn cười không? Con người phát minh ra nhiều sáng kiến để sống tiện nghi, sung măn, song chính con người lại tự ràng buộc ḿnh vào những tiện nghi vật chất ấy để rồi tù túng, đau khổ trong đó.)

Cả một thế giới hiện đại tân kỳ đó không ban tặng cho anh cái ǵ ngoài những viên kẹo đắng bọc đường; những đồ chơi hấp dẫn để anh vui chơi; nhưng anh vẫn khóc đ̣i mẹ, vẫn khóc đ̣i t́nh yêu, đ̣i ư thức, đ̣i một cuộc sống có ư nghĩa. Những viên kẹo, những tṛ chơi đó chỉ hấp dẫn được anh trong chốc lát thôi, rồi anh lại thấy chán, thấy mệt, và các nhà thông thái kia lại đi t́m những cái mới lạ cho anh.

T́nh trạng sống như vậu thật là kỳ quặc ngớ ngẩn. Làm sao chúng ta có thể sống dật dờ bệnh hoạn hết t́m thú vui sang tṛ chơi khác như thế nhỉ?. Chúng ta đă bị kẹt cứng ở nấc thang thứ nhất rồi.

Hăy nhớ là anh đang ở trong cơ thể anh, nhưng anh không phải là cái thể xác vật lư này, anh hăy để cho ḍng ư thức tiếp tục hiện hữu trong anh, anh sống với thể xác này, và nó là một chỗ cư trú tuyệt hảo. Tôi không bao giờ khuyên anh hăy chống lại thân xác, không bao giờ, dù chỉ là phút giây. Tôi không bao giờ nói anh hăy nhàm ghét ghê tởm thân xác như một số các nhà Tâm Linh học, qua nhiều thế kỷ trước, đă từng khuyến cáo đệ tử phải chán bỏ thân xác. Các nhà Duy Vật quan niệm thân xác vật chất là tất cả; c̣n các nhà Duy Linh th́ quan niệm ngược lại”Phải tiêu hủy thân xác này, v́ nó là ảo ảnh, là mê lầm. Một khi thân xác tiêu, th́ ảo ảnh trong anh sẽ tự động tiêu trừ.”

Trạng thái tiêu cực đó là phản ứng của các nhà Duy Linh Học. Họ đặt ra tṛ hề đó để phản bác lại các nhà Duy Vật Học, nhưng thực ra họ cũng là thành viên của một vụ buôn bán trao đổi, không có ǵ khác hơn hay khá hơn cả. Thân tướng này thật đẹp, nó vốn thực hữu, sống động và tràn đầy cảm tính yêu thương. Nó cũng cần được chăm sóc, vỗ về nâng niu. Thân tướng hợp thể đó là món quà của Thượng Đế ban tặng cho loài người. Đừng để một phút giây nào đối kháng lại nó, và cũng đừng khởi niệm một phút giây nào anh chỉ là thân tướng ngũ ẩn này. Anh phải đi xa hơn nữa, anh hăy sử dụng thân tướng này của anh như một đ̣n bẩy, một bàn đạp búng anh lên cao và đi xa hơn nữa.

Tầng tháp thứ hai là phần Thân Tâm Hợp Nhất. Tâm lư học của Freud nằm gọn ở phần này. Tính chất phân tích của hệ thống tâm lư học của Freud có chút cao sâu hơn triết thuyết của Skinner và Pavlov.

Freud tiến sâu, tiến thẳng hơn nữa vào những vùng bí mật của tâm lư con người, vượt qua trạng thái mộng tưởng. Freud không những chỉ là một nhà nhân cách học mà ông c̣n là một nhà phân tích nghiên cứu mộng tưởng con người.

Mộng tưởng hiện hữu trong anh như là một ảo giác. Nó là một sự biểu thị, là một biểu tượng; nó là sứ giả của ư thức. Anh hăy biết cách ứng dụng mộng tưởng, nhưng đừng bao giờ bị biến hoá thành mộng. Anh không phải là mộng và cũng đừng ồn ào nhặng xị cả lên v́ vấn đề mộng hay không mộng như Freud đă từng làm. Tất cả những nỗ lực của các nhà phân tâm học đều như là phóng hút tới vùng thế giới của mộng tưởng. Hăy ghi nhận kỹ như vậy, hăy nhớ kỹ như vậy; anh phải hiểu rơ ràng thông điệp của nó và thực ra anh không cần phải t́m tới bất cứ một người nào để phân giải mộng tưởng của anh. Nếu chính anh không hiểu nổi ước mộng của anh th́ không ai có thể hiểu nổi, bởi v́ ước mộng là “ước mộng của chính anh”. Và ước mộng đó thật cá nhân đến nỗi không ai có thể mơ giống anh cả. Không một ai mơ ước giống ai; mỗi người là một thế giới của riêng ḿnh; mỗi người có mơ ước của riêng ḿnh, không một ai có thể giải thích cho người khác hiểu vùng sâu mơ ước riêng tư đó – nó như là một vùng cấm địa, một mảnh đất thiêng không ai có thể đặt chân vào ngoại trừ chủ nhân của nó.

Vùng đất thiêng của anh, tôi có thể nh́n vào, chỉ đứng ngoài nh́n vào mà thôi, nhưng không đặt chân tiến vào cấm địa được.

Không cần phải phân tích giải nghĩa ước mơ: anh chỉ nên nh́n tổng thể ước mơ đó với sự sáng suốt, tỉnh thức sâu xa và anh sẽ nhận chân rơ ràng thông điệp của nó. Không cần phải tốn công chầu chực một ông bác sĩ tâm lư nào cả ba, bốn năm trời như vậy cả.

Người nào ban đêm nằm mộng rồi ban ngày lại đi tới nhà tâm lư học hay phân tâm học nhờ họ giải thích giấc mơ của ḿnh th́ không chóng th́ chầy, người đó sẽ bị lẩn quẩn bao bây bởi cái mớ hỗn độn mơ mộng, phân giải đó.

Cũng như người đứng ở nấc thang thứ nhất quá chấp chặt vào thân xác vật lư; người thứ hai kẹt cứng vào t́nh dục, bởi v́ tính chất xác thực nhất của nấc thang Thân Tâm Hợp là t́nh dục. Bất cứ những ǵ anh làm, anh đến hỏi Freud, th́ ông ta sẽ giải thích cho anh qua từ ngữ và tính chất t́nh dục vọng khởi trong anh. Không có ǵ khác hơn trong lối nghiên cứu phân tâm của Freud. Freud sống trong bùn đục, ông ta không thể tin, không tin vào hoa sen (có nghĩa là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn). Nếu anh mang đến cho Freud  một đoá hoa sen, ông ta nh́n hoa sen và liệt kê nó vào bùn rác ngay. Freud sẽ nói: “Cái này chẳng là cái ǵ cả, chẳng có giá trị ǵ cả, nó chỉ là bùn mục thôi.” Có nghĩa là, theo Freud, môi trường th́ sản sanh ra loại đó. Néu anh là con người hàng thịt, lớn lên anh sẽ làm tên đồ tể v́ anh đă được nuôi bằng môi trường máu thịt thú vật; nếu anh là con một giáo sư, lớn lên anh sẽ thích nghiên cứu học hỏi v́ anh đă được tưới tẩm bằng hương vị sách vở v.v. Rồi tất cả những vần thơ, nét đẹp đều bị bóp méo, xuyên tạc qua định nghĩa t́nh dục. Michelangelo là một đại nghệ sĩ à? - Nghệ thuật của ông ta cũng bị vặn vẹo theo góc độ t́nh dục – và những người theo Freud đă càng lúc càng lún sâu vào chiều dài phi lư vô nghĩa đó. Họ cho rằng: Michelangelo, Goethe hay Byron, tất cả những kiệt tác nghệ thuật của những đại nghệ sỹ này, những kiệt tác được hàng triệu người trên thế giới chiêm ngưỡng, những tuyệt tác đem lại niềm vui, hưng phấn cho cuộc đời, cho con người – theo cách nh́n chủ quan của những người theo Freud – cũng chẳng là ǵ cả ngoài sự ức chế t́nh dục được miêu tả qua nghệ thuật, và họ có thể c̣n lệch lạc cho rằng Goethe đă mắc bệnh thủ dâm.

Thật vô lư và buồn cười hết sức! Nhưng Freud là vậy, quan niệm phân giải tư tưởng con người của ông là vậy. Trong cái thế giới hắc ám đó của Freud, nghệ thuật să bị biến thành bệnh lư học, thơ văn đă biến thành bệnh lư học, tất cả đều đă bị bóp méo vo tṛn xuyên tạc. Nếu những phân tích nghiên giải của Freud là đúng và thành công th́ đă không có Kalida, Shakespeare, Michelangelo, Mozart, Wagner. Mọi người đều b́nh thường nhưng Freud đă nh́n lệch lạc, đă bi quan hoá cuộc đời nên nh́n ai cũng cho là họ xấu xa, mắc bệnh tâm lư cả. Bậc siêu nhânh cũng bị Freud hạ xuống thấp. Đức Phật cũng bị Freud cho là bệnh luôn. Cái lối lập luận phân tích tâm lư đó của Freud đă làm tiêu ṃn suy giảm đi tánh chất vĩ đại của con người. Hăy cảnh giác cẩn thận! Đức Phật không bịnh; chính Freud mới là người bị bệnh. Sự im lặng của Phật, niềm đại lạc của Phật, sự hoan hỷ của Phật không có ǵ gọi là bất thường, bịnh hoạn cả; đó là sự khai hoa nở nhuỵ toàn vẹn của ḍng sống tâm linh con người. Nhưng theo Freud con người b́nh thường là con người không bao giờ hát ca, không bao giờ nhảy múa, không bao giờ hoan hỷ, cầu nguyện, th́ên định hay sáng tạo. Con người b́nh thường, theo Freud, là con người sáng đi làm, chiều tối về, ăn uống, mgủ và chết; không để lại một dấu vết ǵ, một bút tích ǵ sau lưng cả. Cái con người b́nh thường đó thật tầm thường, ngu ngốc và “đă chết” (ngay khi hắn c̣n sống). Freud th́ cũng chẳng sáng tạo được ǵ. Và hăy coi chừng, một người có đầu óc và tầm suy luận tầm thường th́ sẽ không chấp nhận có kẻ khác hơn ḿnh. Đó mới là điều tai hại.

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 9 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 5:26am | Đă lưu IP  

Chào bạn OnlyOne_0

Tôi trao đổi với bạn vài lời về nhận định của bạn về Bát Nhă Tâm Kinh nhé . Trước hết đúng là BNTK giảng cho hàng Bồ Tát , chứ không phải cho chúng sinh , nên lời kinh thâm sâu vi diệu vô cùng . Tuy nhiên cách hiểu của bạn về nhân quả đă chệch hướng . Một người khi hiểu đạo là ǵ rồi th́ THI ÂN BẤT CẦU BÁO , họ giúp người bất vụ lợi bằng một tâm nguyện hoàn toàn vị tha v́ lợi ích an vui của người khác . Do đó không có việc sân hận bực tức khi người ta phản phúc ḿnh , thái độ sân hận bực tức này chỉ có ở người đời thôi . Người hiểu Đạo th́ giúp đời bớt khổ , thêm một chút an vui cho cuộc đời . Theo luật nhân quả khi bạn giúp ai th́ ngay đó tâm hồn tự động bạn thấy an vui , chỉ ngoại trừ bạn không giúp ai th́ không có cảm giác an vui này . Hơn nữa khi một hành động giúp người khác tự động phúc báu sẽ quay trở lại bạn trong thời gian thích hợp tùy tâm của bạn .
Theo quy luật cuộc sống và đường đi của nhân quả th́ khi ta giúp ai không bắt buộc chính người đó phải trả ơn ta , cho dù ta không cần nhớ nhưng sẽ có người khác giúp lại ta hay sự may mắn chắc chắn sẽ đến với ta trong thời gian dài hay ngắn . Người có thiện tâm th́ th́ giúp đỡ người khác , người khác này khi ổn định lại giúp đỡ người khác nữa , cứ giúp nhau măi thế và phước cứ tăng trưởng dần theo thời gian . Luật nhân quả luôn công bằng âm thầm chi phối tất cả mọi người .
Người hành Đạo th́ luôn biết tinh tấn tu tập và tạo phước vô lậu tâm linh , Thiền Định , Đạo Quả mà đi đến giải thoát .

Câu Sắc chẳng khác không , không chẳng khác sắc người phàm phu không hiểu nỗi mà một bậc Bồ Tát đă tu qua nhiều kiếp nhập vào Định thật sâu mới hiểu được sự huyển hoá vô thường này chứ không phải suy nghỉ đơn giản như bạn cứ nghĩ ḿnh suy nghĩ b́nh thường là giống được suy nghĩ như Bồ Tát . Nhưng một bậc Bồ Tát dù biết rằng cuộc đời là không thật , là huyển hóa nhưng vẫn thị hiện quyết tâm hóa độ chúng sinh ở cơi ta bà này trong vô lưọng kiếp . Chính điều này đă mở ra một chân trời rộng mở cho Phật pháp .

Bạn OnlyOne_0 nhận xét :

Tôi rất hàm ơn và khâm phục Osho khi ông mở đầu bài viết dài của ḿnh về Bát Nhă Tâm Kinh đă nâng người đọc lên hàng Bồ tát, hàng Phật: '' Tôi đảnh lễ vị Phật trong anh.'' . Một thâm ư của Osho rằng tôi (tôi ở đây là tác giả Osho) bắt đầu nói chuyện với anh - với vị Bồ tát, một vị Phật theo đúng cách mà Đức Phật dạy trong Bát Nhă Tâm Kinh. Chỉ có như vậy anh mới tiếp nhận được cái tư tưởng, cái tâm thức mà tôi gợi mở, trao đổi, hoà nhập trong anh "

Theo thiển ư của tôi sự nâng cao Phật tánh này đă đi quá đà và tạo ngă mạn trổi dậy trong tâm thức . Và cũng không có ĐỨC PHẬT nào đă giảng dạy như vậy trong kinh điển cổ xưa như bộ kinh Ahàm , Nikaya . Nếu bạn OnlyOne_0 lập luận cho rằng mọi ngựi ai cũng đang là PHẬT cả th́ không cần tu tập làm ǵ nữa . Lập luận này nếu người đă giác ngộ th́ không sao bỡi họ có trí tuệ của bậc giác ngộ nhưng đa số mọi người đều là phàm phu nói như thế dễ gây hiểu lầm phàm phu mà tưởng ḿnh đang là PHẬT sẽ tổn phước rất nặng và lui sụt thoái đọa trên đường tu tập .

Trích : Có người đảnh lễ gọi ta là Phật mà ta c̣n hoảng hốt sợ hăi th́ làm sao ta đọc được kinh dành cho Phật thừa và Bồ tát thừa. Chúng ta hăy học tập ngay ở người dịch - Thích nữ Minh Tâm - là một nữ tu sĩ Đạo Phật mà vẫn dịch lời văn rất trong sáng, đẹp đẽ, rất sát nghĩa và ư của tác giả, cho dù có nhiều câu, nhiều đoạn Osho vẫn vơ đũa cả nắm khi nói về các tu sĩ.

Hiện nay có rất nhiều nguồn kinh sách nhưng tu học th́ phải chọn lọc , không phải bất cứ bài dịch nào cũng đúng theo nguyên lư cổ xưa mà đă thêm thắt vào kinh văn sau này rất nhiều . Nhiều giáo phái đă tự xưng ḿnh là PHẬT đời mạt pháp này rất nhiều . Người chân tu thật sự th́ b́nh dị , đơn sơ mộc mạc , ẩn tàng trong việc tu tập , giúp đỡ bá tánh , độ sinh chứ không ai lại nêu ra một lư luận chúng sanh là PHẬT cả . Điều này cần xét lại trong việc tu học Phật Pháp . Có một số Pháp môn tu như thế của ĐT và MT sau này đă dẫn đến quả điên loạn rất nhiều do tổn phước nặng mà ra . Cứ nh́n vào kết quả từng bước trong việc tu tập Phật Đà th́ sẽ nhận chân ra sự thật chứ không nên câu nệ vào kinh văn , giáo lư phát triển sau này .

Ngay cả lư KHÔNG của Phật giáo bạn OnlyOne_0 cũng không hiểu tới về câu nói : không có trí tuệ , không có chứng đắc .....không có sắc thọ tưởng hành thức .....
Nếu bạn không đi từ cái có th́ vĩnh viễn bạn sẽ không có cái không . Nếu không có mang thân xác giả tạm này tu tập trong vô lưọng kiếp để tích lũy công đức , phước tâm linh , hành thiện , độ sinh th́ không có ngày chứng đắc . Cái không là sự vô thường , là sự chứng đắc của Đạo Phật chung đồng vạn hữu chứ cái không không nằm trong lư luận của phàm phu .
Vài ḍng trao đổi với bạn OnlyOne_0 .

Diệp Tấn Dũng



Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 10 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 7:26am | Đă lưu IP  


Chào bạn OnlyOne_0 và bạn Dũng,

Thấy hai bạn trao đổi Phật pháp cao tầng nên thấy váng đầu quá, không biết ai đúng ai sai

nhưng sunbeam hiểu theo Phật Pháp sơ cấp th́ ai cũng có Phật tánh(chắc chắn), có đôi lúc tâm Phật xuất hiện trong tíc tắc rồi biến mất. C̣n thành Phật như Phật Thích Ca th́ chắc hơi bị hiếm

Vậy coi ai cũng là Phật th́ cũng chẳng sao, v́ đức khiêm hạ của ḿnh càng tăng , tốt đấy chứ.

Phật là người biết hết mọi sự chứ không phải là

MỘT ONLYONE
ĐẠO
CHÂN LƯ
Đấng TUYỆT ĐỐI....

Không thể bàn được ...v́ dùng các phương tiện tương đối mà lạm bàn cái tuyệt đối th́ KHÔNG THỂ ĐƯỢC.

Thân chào hai bạn.

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 11 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 10:11am | Đă lưu IP  

Kính chào mọi người,

Kinh Pháp Hoa đă viết:

.....
Hoặc ở trong đồng trống

Chứa đất thành miếu Phật

Nhẫn đến đồng tử giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật,

Những hạng người như thế

Đều đă thành Phật đạo.

......


Việc đề cao Phật tánh chẳng làm cho chúng sanh ngă mạn chút nào v́ ai ai cũng vậy. Mà ai ai cũng vậy th́ có ǵ mà ngă mạn chứ

Kinh Pháp Hoa là nền tảng cho Nhứt thừa Phật pháp. Chưa có nền tảng này mà học Giáo Lư Đại Thừa th́ không thể nào được. Dù có học Giáo lư Đại thừa đi nữa cũng chỉ là học những ǵ phù hợp với sở kiến mà thôi.

Người có tâm Đại thừa không bao giờ phỉ báng. Tất cả pháp phật chỉ dạy đều khế căn khế cơ. Việc quở trách trong kinh là quở trách tâm chấp trước nơi sở chứng. Đó chính là phương tiện Bát Nhă.

Việc khen chê của chư Tổ là nhằm kích phấn việc tu học của đệ tử. Người tin chắc vào pháp môn không những không hề bị lay động mà c̣n lấy đó để bổ túc những thiếu sót của bản thân.

Như người mắt sáng, nghe diễn tả cái tai voi khi gặp liền nhận ra cả con voi. Bởi chúng sanh căn cơ chậm lụt nên không thể kham nổi sự diễn tả cả con voi nên đành phải chia cắt để cho dễ tiếp thu. Sự ra đời của các môn phái không ngoài mục đích này.

Một điều mà hiện nay đang mắc phải là chúng ta tu tập trước khi ngộ. Phải ngộ rồi mới nhập được. Nếu không cũng chỉ luẩn quẩn trong ṿng nhân quả thiện ác luân hồi.

Kinh Viên Giác đă viết:
]

-Thiện nam tử! Vô thượng diệu giác cùng khắp mười phương không gian và thời gian, sanh ra Như Lai và tất cả pháp, bản thể đồng nhau, b́nh đẳng bất nhị, nên những người tu hành thật chẳng có hai. Nếu tùy thuận phương tiện th́ số ấy vô lượng, nay qui nạp lại, theo các tánh sai biệt phải có ba thứ.

1. Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát ngộ biết Viên Giác vốn trong sạch, dùng giác tâm trong sạch ấy phát khởi quán chiếu, lấy tịnh làm hạnh quán tâm thể chẳng động.
..........

phương tiện này gọi là thiền quán Sa Ma Tha.

2. Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát ngộ biết Viên Giác vốn trong sạch, dùng giác tâm trong sạch ấy phát khởi quán chiếu, biết tánh của giác tâm và căn trần đều do huy­n hoá mà sanh khởi các huyễn, nay dùng huyễn trí (thỉ giác) diệt trừ kẻ huyễn (vô minh), th́ hiện thân biến hoá như huy­n, khai phá vô minh để độ chúng huy­ễn.
.............

Những Bồ Tát này tu theo chánh hạnh kể trên th́ được diệu hạnh viên măn, cũng như mầm Chơn Như trưởng thành nơi đất pháp thân. Phương tiện này gọi là thiền quán Tam Ma Bát Đề.

3. Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát ngộ biết Viên Giác vốn trong sạch, dùng giác tâm trong sạch ấy phát khởi quán chiếu, chẳng chấp huyễn hoá và tướng tịnh, liễu tri thân tâm đều là chướng ngại, nay chẳng chấp giác minh (giác minh là cội gốc của vô minh) chẳng ke chướng ngại, th́ được diệt hẳn cảnh ngại và vô ngại.
...........

Phương tiện này gọi là Thiền Na.


Để bước chân trên con đường Bồ tát, phát nguyện độ tất cả chúng sanh là bước đầu tiên. Chưa phát được nguyện này th́ chưa thể đi được trên con đường này.

Các thời kinh trong các chùa "Đại thừa" thường kết thúc bởi bài kệ:

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo"

Người thật phát tâm th́ nhất định sẽ rúng động khi đọc đến đoạn này. Ai đọc đoạn này mà thân tâm không rúng động th́ chưa thể đi trên con đường Bồ tát v́ chưa phát tâm. Có phát là phát ư mà thôi.

Dĩ nhiên, nếu thật phát ư th́ có ngày tâm sẽ phát. C̣n nếu đọc suông th́ chỉ mang lại công đức thiện hữu lậu trong ṿng nhân quả luân hồi.

Kinh Đại Bửu Tích - Phẩm Đại thừa phương tiện 38 đă viết:

Đức Phật phán dạy : “Nầy Trí Thắng ! Bồ Tát hành phương tiện dùng một vắt cơm bố thí cho tất cả chúng sanh. Tại sao ? V́ Bồ Tát hành phương tiện đem một vắt cơm nhẫn đến bố thí xuống đến loài súc sanh nguyện cầu Nhứt thiết trí, do Bồ Tát nầy cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề dùng hai nhơn duyên sau đây để nhiếp thủ tất cả chúng sanh : một là cầu Nhứt thiết trí tâm, hai là nguyện phương tiện. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện vậy. Lại nầy Trí Thắng ! Đại Bồ Tát thấy người bố thí th́ sanh ḷng tùy hỉ, đem căn lành tùy hỉ nầy nguyện cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cũng nguyện người thí kẻ thọ chẳng rời Nhứt thiết trí tâm, dầu người thọ là hàng nhị thừa cũng nguyện họ chẳng rời Nhứt thiết trí tâm. Đây gọi là đại Bồ Tát hành phương tiện vậy.
......


Tóm lại, chưa phát nguyện độ tất cả chúng sanh chưa thể học Đại thừa.

Học mà chưa ngộ th́ chưa thể tu tập. Văn Tư Tu là con đường để học, không thể đi ngược được.

Kính chúc mọi người an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
MINHMINH
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1272
Msg 12 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 10:44am | Đă lưu IP  

PHẬT Ở NƠI ĐÂU ? PHẬT Ở TRONG TÔI ?!
VÔ MINH CHE LẤP BÓNG NGÀI RỒI
BỞI CHƯNG PHÀM TỤC NÊN TÔI ĐĂ
MƯỢN CƠI VÔ THƯỜNG ĐỂ LÀM VUI .
Quay trở về đầu Xem MINHMINH's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi MINHMINH
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 13 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 12:20pm | Đă lưu IP  

Chào bạn Diệp Tấn Dũng !

 

OnlyOne_0 đọc xong bài viết góp ư của bạn rồi. OnlyOne không buồn, không vui trao đổi với bạn nhé:

OnlyOne_0 đọc xong bài viết của bạn rội  và mừng cho ban. Buồnvui vẻ về bài viết góp ư của bạn với mấy ư chung sau đây:

Điều thứ nhất: chúng ta may mắn được làm thân người đời này.

Điều thứ hai: Làm thân người rồi lại được nghe Phật pháp

Điều thứ ba: Nghe Phật pháp rồi lại được tranh luận về Phật pháp.

    Điều thứ ba này không phải lúc nào, chỗ nào chúng ta cũng thực hiện được đâu. Đặc biệt là ở trong các chùa,các thiền viện và tu viện. Chúng ta thường chỉ được lắng nghe, cùng lắm là căn vặn vài câu về Phật pháp là cùng. Ở đây chúng ta cùng tranh luận về giáo lư mà chúng ta yêu mến, chúng ta say mê một cách thoải mái, tự do. Vậy th́ tại đây và bây giờ, chúng ta nên biết hưởng niềm vui và hạnh phúc này.

 

    Tranh luận là để trí của tôi, trí của bạn cùng sáng lên. Tranh luận là để bàn chân Phật  trong bạn, trong tôi được lau chùi sạch sẽ, đẹp đẽ lên thôi. Nếu cùng nhau ngồi lau chùi bàn chân Phật, bực với tôi th́ bạn hăy đánh tôi, mắng tôi là dốt nát, là ngu chứ đừng đánh vào chân Phật. Như thế là bạn tổn phước lắm đấy. Như thế chúng ta cùng chịu nghiệp chung (tôi chịu đồng nghiệp với bạn v́ bạn tức tôi th́ bạn mới đánh cả Phật) c̣n bản thân bạn th́ bị nghiệp nặng hơn.

 

Bạn (Diệp Tấn Dũng) đă viết : '' không ai lại nêu ra một lư luận chúng sanh là PHẬT cả. Điều này cần xét lại trong việc tu học Phật Pháp . Có một số Pháp môn tu như thế của ĐT và MT sau này đă dẫn đến quả điên loạn rất nhiều do tổn phước nặng mà ra '' .

 

''Chúng sinh đều là Phật'' Bạn có biết ai nói ra  không ? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra đấy. Không những nói như thế mà Đức Phật c̣n nói chúng sinh trong quá khứ đă là Phật, hiện tại cũng là Phật (nhưng v́ vô minh che mờ Phật tính) và vị lai cũng là Phật (sau khi đă phá sạch vô minh). Trong các kinh, Đức Phật thường nói ''chư Phật trong ba đời...'': chư Phật nghĩa là rất nhiều Phật, hằng hà sa số Phật, c̣n ba đời được hiểu là đời quá khứ, hiện tại, và vị lai. Chư Phật ở đâu mà ra nhiều thế ?: Từ lục đạo mà ra. Trong lục đạo là ai ?: Là chúng sinh.

 

Đến đây tôi không muốn trao đổi ǵ thêm nữa v́ tôi thấy không nên nhắc tiếp như các câu mà bạn đă viết trong bài trao đổi của ḿnh. Tôi không đủ can đảm đánh máy lại để nhấn mạnh nữa (sự thật là các câu phía trên của bạn Diệp Tấn Dũng là tôi copy , đặt nghiêng và gạch chân chứ không dám gơ lại trên bàn phím).

 

   Đến đây tôi tặng bạn Dũng đường link do tôi search cụm từ: "chúng sinh đều là Phật '' trong trang web: quangduc.com. Đây là một trang web chứa dữ liệu rất lớn về Phật giáo mà ai nghiên cứu Phật giáo đều biết để bạn học hỏi, nghiên cứu thêm (tôi không dám search  thêm trong nhiều trang web Phật giáo khác):

Quang Duc Homepage - Vietnamese - English Buddhist library

Thân tự chứng minh hết thảy đạo lư do Đức Phật nói - Chúng sinh đều là Phật vị lai, một ngày nào đó đều sẽ thành Phật (Chứng). Dịch xong ngày 15-7-1996 ...
www.quangduc.com/coban/155dacsac7.html - 24k - Cached - Similar pages

Triết Học Phật Giáo ...... ... . Triết học Phật Giáo Ấn Độ Nguyên ...

... và do đó làm cho chúng sinh đều là Phật hay ít nhất th́ cũng sẽ thành Phật. Từ ư tưởng chúng sinh đều có Phật tính, dù c̣n bị màn vô minh che phủ, ...
www.quangduc.com/triet/72trietando.html - 63k - Cached - Similar pages

Thiền Định Phật Giáo ...... ... . VÀI CHÚ GIẢI VỀ THIỀN ĐỐN NGỘ ...

Tất cả chúng sinh đều là Phật. Tất cả những dựng lập và hành động đều ở trong không gian trùm khắp này từ thuở khởi đầu. Tất cả những ǵ được nhận diện bởi ...
www.quangduc.com/Thien/17thiendon11.html - 41k - Cached - Similar pages

Triết Học Phật Giáo ...... ... . Khái Luận Triết lư Kinh Hoa ...

Chúng sinh đều là Phật sẽ thành". Đức Phật đă chỉ Con Đường Sáng cho nhân loại đi theo và khai thị cho ai nấy biết rơ mỗi người đều có những chủng tử Phật ...
www.quangduc.com/triet/40hoanghiem1.html - 73k - Cached - Similar pages

Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới ...... ... . ĐẠT MA HUYỀN TRANG Điều ...

Tất cả chúng sinh đều là Phật như ḿnh. Vậy th́: Ḿnh chẳng cứu ai cả. Không có vị Phật nào hơn tôi, vậy tôi không phải van xin, phải nguyện cầu ai cả. ...
www.quangduc.com/Danhnhanthegioi/ 77datmahuyentrang1.html - 288k - Cached - Similar pages

Thiền Định Phật Giáo ...... ... . Thiền, Ánh B́nh Minh PHƯƠNG TÂY ...

Tất cả chúng sinh đều là Phật, được phú cho trí tuệ và đạo đức." Cho tôi hỏi từng vị: Quí vị có thật tin rằng Phật đă không lầm lẫn khi nói điều này hay ...
www.quangduc.com/Thien/37binhminh2a.html - 238k - Cached - Similar pages

Quang Duc Homepage - Vietnamese - English Buddhist library

Một điều mà chúng tôi thấy cần phải bắt chước là các vị ấy luôn luôn tâm tâm niệm niệm: "Tất cả chúng sinh đều là Phật sẽ thành". ...
www.quangduc.com/Thanhtich/20duongxuphat.html - 513k - Cached - Similar pages


Bạn Dũng thân mến ! Khi đọc đến đây bạn cũng đừng buồn v́ nếu bạn có lỗi với Đức Phật là do cái trí hữu sư - cái vô minh trong bạn chứ không phải cái trí vô sư - Phật tánh trong bạn.

 

Tôi luôn tin rằng một ngày nào đó bạn sẽ thành Phật v́ bạn đă là Phật từ vô lượng kiếp. Tôi đảnh lễ vị Phật trong bạn !

 

Chào thân ! Chúc bạn vui vẻ, an lành

OnlyOne_0

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 14 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 12:54pm | Đă lưu IP  

(Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - Osho - Thích Nữ Minh Tâm dịch)
Phần tiếp theo

Nấc tang thứ ba là phần Tâm Lư Học. Alfred Adler (một tâm lư gia và điều trị tâm lư người Áo 1871 – 1937) sống trong thế giới tâm lư này, trong lănh vực ư chí vươn tới năng lực. Thế giới tâm lư học của Adler thực ra cũng c̣n luẩn quẩn trong ṿng cá nhân, tự ngă – nhưng ít nhất ra, nó cởi mở hơn thế giới t́nh dục của Freud. Nhưng vấn đề ở đây là như Freud quan niệm tất cả đều liên quan đến t́nh dục, th́ Adler lại hạ giảm mọi sự việc xuống cấp thấp của sự phức tạp. Người ta cố gắng cho được tốt đẹp v́ họ cảm thấy họ c̣n thấp kém. Một người đang nỗ lực vươn tới sự Toàn Bích v́ người đó tự cảm thấy ḿnh c̣n thấp kém, và một người đang cố gắng để đạt giác ngộ, đó là một người đang đi trên con đường phát huy năng lực. Nhưng duy cho cùng, điều đó không hẳn đúng – Đức Phật, Chúa Giê Su, Krishna - những con đường của các bậc siêu nhân này đi không phải là những con đường phát huy tự ngă. Khi Đức Phật chứng đắc, Ngài không hề khởi lên ư niệm cao thấp, trên dưới ǵ cả. Hoàn toàn không. Phật không hề có ư nghĩ Ngài thánh thiện hơn anh, hoàn toàn không. Phật vẫn ung dung cúi nh́n xuống trân trọng chào toàn thể vạn vật vũ trụ đang hiện hữu xung quanh Ngài. Tất cả đều thánh thiện, ngay cả một hạt bụi cũng thánh thiện. Không, Phật không hề nghĩ là Ngài cao thượng hơn mọi chúng sinh khác, và Ngài cũng không hề khát khao đạt tới sự vượt thắng tha nhân đó. Phật không cảm thấy thấp kém cũng chẳng thấy cao tột ǵ. Ngài sinh ra là một Thái tử, quyền uy giàu sang tột bực, đứng đầu thiên hạ... nhưng Ngài vẫn tự tại như không. Không có cái ǵ chi phối được Ngài.

Nhưng Adler th́ không. Ông ta tin rằng mục đích con người đang t́m kiếm c̣n có cái ǵ cao hơn, khác hơn Tự Ngă. Adler suy nghĩ khá hơn Freud, khá hơn một chút. Tự ngă cao hơn t́nh dục một chút thôi, chỉ một chút thôi.

Nấc thang thứ tư là Tâm Ư Thức, trung tâm điệm. Carl Jung, Assagioli và vài triết gia khác lọt vào địa hạt này. Họ vượt cao hơn Pavlov,





Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 15 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 1:00pm | Đă lưu IP  

Kính chào các bạn !

 OnlyOne_0 đọc xong bài viết của các bạn rồi  và mừng cho các ban. Buồn vui vẻ về bài viết góp ư của các bạn với mấy ư chung sau đây:

 

Mừng v́ các bạn đă lên diễn đàn, đă trao đổi th́ mới biết cái hay, cái dở của mỗi người. Bản thân tôi - OnlyOne_0 này cũng vậy.

Mừng v́ có một diễn dàn hay và thú vị, được gặp nhiều người có tâm huyết nhiệt t́nh với diễn đàn và Phật pháp.

Buồn vui vẻ: Buồn bởi cái vô minh chung - trí hưu sư ai cùng có, ai cũng mê lầm OnlyOne_0 này cũng vậy (nếu không đă thành Phật rồi). Vui vẻ bởi cái Phật tánh - trí vô sư luôn sẵn ở trong ḿnh không mất (dù qua vô lượng kiếp). Chắc chắn ở một kiếp nào đó tôi và các bạn sẽ thành Phật.

 Tôi luôn tin rằng một ngày nào đó bạn sẽ thành Phật v́ bạn đă là Phật từ vô lượng kiếp. Tôi đảnh lẽ vị Phật trong bạn !

 Chào thân ! Chúc các bạn vui vẻ, an lành !

 OnlyOne_0

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 16 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 7:48pm | Đă lưu IP  

Nam mô Thường Bất Khinh Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh.

Nam mô Định Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam mô Vô Tận Ư Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát

Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát



***

Sửa lại bởi phoquang : 20 April 2006 lúc 7:55pm
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 17 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 11:47pm | Đă lưu IP  

Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - Osho - Thích Nữ Minh Tâm dịch)
Phần tiếp theo

     Nấc thang thứ tư là Tâm Ư Thức, trung tâm điểm. Carl Jung, Assagioli và vài triết gia khác lọt vào địa hạt này. Họ vượt cao hơn Pavlov, Freud và Adler; họ mở rộmg ra nhiều trường hợp có thể xảy ra hơn. Họ chấp nhận thế giới vô lư phi nghĩa: họ không hạn chế họ vào lư luận. Họ có lư hơn nhiều người - họ chấp nhận cả sự phi lư. Sự phi lư không bị phủ nhận từ chối nhưng được chấp nhận. Đó là tiêu điểm mà môn Tâm Lư Học dừng lại - ở nấc thang thứ tư, và nấc thang thứ tư là chặng giữa của cầu thang, bên này ba, bên kia ba.

Môn Tâm Lư Học chưa phải hoàn toàn là môn khoa học. Nó bị kẹt ở giữa. Nó rung rinh, không vững chắc. Nó mang tính chất lập luận, giả thuyết hơn là kinh nghiệm, và vẫn c̣n bị tranh chấp.

Nấc thang thứ năm là Tâm Thức: Hồi Giáo, Ấn Độ giáo, Thiên Chúa giáo - những cơ cấu tổ chức tập hợp quần chúng tôn giáo này bị mắc kẹt ở nấc thang thứ năm này. Tất cả những tôn giáo có hệ thống tổ chức, những giáo đường. . . đều kẹt cứng ở đây. Họ không tài nào đi xa hơn phần Tâm Thức. Họ chỉ đến đấy, mắc kẹt ở đấy.

Nấc thang thứ sáu là Vượt Qua Phần Tâm thức – có thể đơn cử pháp Du Già thiền định và một số pháp môn tu tập khác. Trên khắp thế giới, trong vài thế kỷ qua, người ta đă khai triển và gặt hái khá nhiều kết quả trong các phương pháp thực nghiệm tâm linh này. Chúng không nặng tính cách giáo điều nhưng nghiêng hẳn về cách thức phát triển tâm linh. Anh phải thực tập cả thân và tâm; anh phải sáng tạo ra một sự hoà hợp tối thiểu nào đó trong anh để anh có thể lướt lên sự hoà điệu đó, cưỡi lên vầng mây hoà điệu đó và vượt qua vùng thực tại. Pháp Du Già có thể giúp anh hữu hiệu hoá sự phóng thể đó.

Sự kiện ấy chính là nấc thang thứ sáu, phần vượt tâm thức; và nấc thang thứ bảy là Siêu thức: đạo Lăo, Thiền và Mật Tông. Sự thể nghiệm tâm linh của Phật là ở tầng tháp thứ bảy này – Bát Nhă Ba La Mật Đa, có nghĩa là Trí Tuệ Siêu Thoát, cái trí tuệ chỉ phát sáng nơi anh khi anh đă vượt qua thân ngũ uẩn và trong anh chỉ  thuần c̣n một khối băng trinh, trong suốt, thức tỉnh nhậm lẹ.

Một ngày nọ, tôi chợt bắt gặp một tờ quảng cáo xe hơi Mỹ. Tờ quảng cáo đó để trên mui xe và chỉ có hàng chữ: “Có một cái ǵ để quư vị tin vào”.

Quả thực con người chưa hề bị rớt xuống thấp đến như vậy. “Có một cái ǵ để tin vào!” Anh tin vào chiếc xe hơi à? – Vâng, quả đúng như vậy, người ta tin vào nhà cửa của họ, tin vào xe hơi của họ, tin vào tài khoản ngân hàng của họ. Nếu anh nh́n xung quanh anh, amh sẽ ngạc nhiên vô cùng – Chúa, Phật, Thánh. . . bay biến đi ráo hết rồi, nhưng niềm tin của thiên hạ vẫn c̣n đó. Chúa không c̣n nữa, nhưng bây giờ thay thế chỗ đứng của Chúa là chiếc xư hơi Cadillac hay Lincoln! Chúa đă biến mất nhưng người ta đă lập ra những ông thánh mới – Stalin, Mao Trạch Đông. Chúa đă bị dẹp bỏ và người ta tôn sùng mê cuồng những ngôi sao điện ảnh như thiên thần, thánh sống.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ư thức nhân loại, con người đă rơi xuống quá thấp như vậy, và ngay cả có đôi lúc anh chợt nhớ đến thánh, đến Chúa. . . th́ những danh từ đó thật trống rỗng vô hồn, chúng chỉ là những danh từ đọng trên môi anh mà thôi. Có thể khi nào anh đau đớn, khi nào anh thối chí nản ḷng, th́ lúc đó anh mới sử dụng Chúa - cứ y như Chúa là viên thuốc aspirin làm giảm cơn đau cho anh. Đó là cách mà những cái “mệnh danh tôn giáo” đă dai dẳng rền rĩ bên tai anh, khiến anh phải tin: “Hăy dùng Chúa (aspirin) 3 lần mỗi ngày, bạn sẽ không c̣n đau đớn nữa!” V́ vậy, mỗi khi anh đau đớn khó chịu, anh liền nhớ đến Chúa. Chúa không phải là viên aspirin; Chúa không phải là người diệt trừ cơn đau cho anh.

Có một số người nhớ đến Chúa theo thói quen; có một số người th́ nhớ đến Chúa theo tính cách nghề nghiệp hơn. Ông tu sĩ là người nhớ đến Chúa hay Phật nghề nghiệp hơn cả. Ông ta đă được trả công để nhớ đến Chúa, để rao giảng về Chúa. Ông ta đă lăo luyện, thành thục trong công việc này.

Đúng vậy có người nhớ đến Chúa theo thói quen, có người nhớ đến Chúa theo nghề nghiệp, nhưng chẳng có ai nhớ đến Chúa trong t́nh thương sâun đậm cả. Nhiều người đă lăi nhăi réo gọi tên Chúa hằng giờ khi họ gặp buồn phiền, đau khổ - nhưng khi họ vui sướng, thoả măn tràn đầy th́ họ quên béng mất Chúa hay thánh thần.

Những ngựi đó thực ra, đă bị nhồi sọ từ lúc c̣n tấm bé – và cái tư tưởng đă bị nhồi sọ đó đă thấm sâu vào xương tuỷ như người bệnh ghiền thuốc lá. Khi anh hút thuốc, có khi anh cũng cảm thấy chẳng ngon lành ǵ cả, nhưng nếu anh không hút th́ anh lại cảm thấy thiếu thiếu một cái ǵ. Cũng vậy, như anh nhớ đến Chúa, Phật ngày đêm, sáng tối tụng kinh, bái sám, cầu nguyện miệt mài hàng giờ, nhưng chẳng có ấn tượng ǵ lưu lại trong đầu óc anh; song nếu anh không lăi nhăi cầu kinh th́ lại thấy như thiếu sót một cái ǵ mơ hồ, không tên gọi. Đó, đó chính là thói quen, chỉ là thói quen mà anh đă lập đi lập lại hàng ngàn lần như con vẹt từ thuở thiếu thời đến khi anh trưởng thành khôn lớn. Những lời nguyện, những câu kinh đă trở nên quá quen thuộc, nhàm chán, máy móc đến độ anh không cần phải mấp máy miệng th́ những câu, những chữ đó cũng đă bật ra khỏi đôi môi anh rồi – v́ chúng đâu có nằm trong trái tim anh, chúng chỉ là những sản phẩm tôn giáo máy móc! Nhưng nếu anh không cầu nguyện, không tụng kinh th́ anh cảm thấy có cái ǵ khang khác, thiêu thiếu. Niềm tin của anh đă trở thành máy móc, thông lệ. Anh hăy cẩn thận coi chừng đừng biến Chúa, Phật. . . thành lề thói, thành tập tục, thành nghề nghiệp máy móc như vậy.

Tôi có nghe một câu chuyện khá ngộ nghĩnh như thế này: “Người ta kể rằng xưa kia có một đạo sĩ danh tiếng, rất nổi tiếng, đă được Hoàng Đế đương kim hứa ban thưởng cho một con ngựa thật qúi giá nếu vị đạo sĩ này có thể nhập định dưới ḷng đất một năm. Nhà Vua biết rất rơ là ông đạo sĩ này rất thích ngựa, rất mê ngựa – nên con ngựa quí giá đó sẽ là phần thưởng cho ông đạo sĩ.

Ông đạo sĩ bằng ḷng và được chôn sống trong một ḥm cây dưới đất. Nhưng trong thời gian một năm đó, vị Hoàng Đế đương triều bị lật đổ và trong giai đoạn hỗn loạn ấy, cũng không ai nhớ đến chuyện ông đạo sĩ được chôn sống đó cả.

Một vương quốc mới được thành lập và mười năm trôi qua. Một hôm, có người chợt nhớ tới ông đạo sĩ và bàng hoàng tự hỏi: “Ông đạo sĩ ra sao rồi, đă chết chưa?” Câu chuyện được tâu lên vị Tân Vương và nhà vua hạ lệnh đào đất moi ông đạo sĩ lên. Khi được lôi ra, ông đạo sĩ vẫn c̣n nhập định sâu xa. Một vị đạo sĩ khác tụng một câu thần chú bí mật vào tai ông ta và ông ta tỉnh dậy. Câu nói đầu tiên của ông đạo sĩ là: “Con ngựa của tôi đâu?”

Mười năm lặng thinh dưới đất; nhưng đầu óc vẫn không thay đổi ǵ hết. “Con ngựa của tôi đâu?” Có thực ông đạo sĩ đó nhập định? Ông ta có chuyên tâm nghĩ đến Thượng Đế, thánh thần? Ông ta quả thực rất điêu luyện, rất giỏi về kỹ thuật nín hơi thở, gần như chết vậy, nhưng đó chỉ là kỹ thuật mà thôi. Mười năm chôn sống như vậy, mười năm lặng thinh không nói, tuy nhiên đầu óc không thay đổi được một chút nào. Ông đạo sĩ giỏi kỹ thuật nín hơi chỉ v́ con ngựa!

Chúng ta cũng vậy! chúng ta cũng chỉ máy móc cầu nguyện, nhớ đến Chúa, đến Phật, đến Thánh Thần – nhưng chẳng có ǵ khác lạ xảy ra cả; chẳng có một đốm sáng giác ngộ nào vụt đến chuyển hoá tâm tư chúng ta cả.

Sự sự, vật vật đều có thể xảy ra, nhưng phải xảy ra từ Tâm. V́ thế, quyển Kinh này mới mang tên là “Bát Nhă Tâm Kinh” Nói như thế, có nghĩa là trừ phi anh làm bất cứ chuyện ǵ với t́nh yêu rộng lớn, tính quả cảm dấn thân, sự chân thành, lời cam kết chác chắn, sự xác thực, anh làm với cả con người anh; nếu không, chẳng có sự cố nào xảy ra cho anh cả.

Đối với một số người nào đó, tôn giáo như là một cánh tay giả; cánh tay đó chẳng có hơi ấm, chẳng có sức sống.Và mặc dầu nó giúp cho người ta có thể gượng gạo làm việc, nó không thể và không bao giờ trở thành một chi phần của thân thể người ta được; v́ một ngày nào đó, nó có thể sẽ bị rơi rụng ra bất cứ lúc nào.

Anh hăy nhớ kỹ là sự cố đó đă xảy ra cho hàng triệu người trên trái đất này rồi nó cũng có thể xảy ra  cho anh. Đừng tạo ra một cánh tay giả, hăy để cánh tay thật mọc ra trong cơ thể anh. Chỉ như thế đời anh mới có niềm vui thực thụ - không phải là nụ cười giả tạo trên môi, không phải là cái thứ hạnh phúc vay mượn mà anh vờ như đang có, không phải là lớp mặt nạ; mà là sự thực, hạnh phúc thực, sức sống thực. Thói thường, người ta hay khoác lên người nhiều thứ: có người th́ tạo một nụ cười đẹp, có người th́ ra vẻ bộ mặt từ bi, có người th́ khoác lên ḿnh một phong cách đáng yêu, hiền lành, lịch lăm – nhưng tất cả giống như lớp áo quần anh đang mặc trên người mà thôi. Trong anh, trong họ, tận sâu vào tâm khảm, anh và họ vẫn y như cũ, tệ hại xấu xa, đầy tham lam sân hận, không thay đổi, không ǵ mới. Bởi thế, Tâm Kinh Bát Nhă là một sự thay đổi lớn, một sự chuyển hoá cùng tột, là một cuộc cách mạng tâm hồn.

Câu đầu tiên, câu mở đầu, bao giờ cũng là câu hỏi: “Ta là ai”? và anh cứ tiếp tục hỏi như thế. Câu hỏi đó như là một công án giúp anh trở về với bản thể từ vô thỉ của anh. Có thể khi anh tự vấn”Ta là ai?” sẽ có câu trả lời: “Ta là thân xác này” – Không – và lại có câu trả lời thứ ba “Ta là tự ngă” – Không - v.v. và v.v. câu thứ tư, thứ năm, thứ sáu...

Hăy nhớ anh chỉ dừng lại sự tư duy khi không c̣n một câu trả lời nào nữa cho câu hỏi của anh. Khi anh đă vượt qua cả sáu câu trả lời (6 nấc thang, 6 tầng tháp) và anh vẫn tiếp tục công án “ Ta là ai?”; lúc đó, sẽ chẳng c̣n câu trả lời nào nữa, chỉ có sự Im Lặng Tuyệt Đối.

Câu hỏi đó rền vang trong chính nội tại của anh “ Ta là ai?” và Im Lặng; không có câu trả lời dấy động. Anh đang hiện hữu triệt để, và không có một âm ba rung động nhẹ nào. “ Ta là ai?” - chỉ có sự Im Lặng trọn vẹn tột cùng. Và rồi phép lạ xuất hiện: anh không thể đề ra một câu hỏi nào nữa. Những câu trả lời đă trở nên vô nghĩa, và những câu hỏi cũng trở nên vô nghĩa, rỗng tuếch. Đầu tiên, câu trả lời biến mất, và câu hỏi cũng biến mất - bởi v́ câu hỏi và câu trả lời tồn tại tương quan với nhau, không tách rời. Như hai mặt một đồng tiền, nếu mặt này mất, mặt kia không thể c̣n. Và khi câu trả lời và câu hỏi biến mất, anh mới chợt thẩm thấu trực nhận rằng: đó là sự Chuyển Hoá Tâm Thức.

Anh biết nhưng anh không thể nói; anh biết nhưng anh không thể diễn đạt lưu loát về sự chuyển hóa đó được. Anh biết con người thật của anh là ai, nhưng anh không thể dùng ngôn ngữ bày tỏ được. Đó là sự Hiểu Biết Sống, đó không phải là kinh viện, không phải là chữ nghĩa danh tự, không phải vay mượn giả tạm ǵ cả; nó không thuộc về ngựi khác. Sự Chuyển Hóa Tâm Thức đó phát ở trong anh, là của chính anh.

Và với sự phát khởi chuyển hoá đó, anh là một vị Phật. Và rồi anh đột nhiên cười phá lên khi anh nhận ra rằng anh đă là Phật từ vô thỉ, không phải bây giờ anh mới thành Phật – nhưng anh có bao giờ anh quán chiếu sâu xa như vậy đâu; anh chạy lẩn quẩn, anh chạy ṿng quanh t́m kiếm ngoài con ngựi anh, và anh không hề quay trở về nhà xưa bến cũ.

Triết gia Arthur Schopenhauer đang rảo bước xuống một con đường vắng tanh. Ch́m đắm trong suy tư, ông ta va nhầm vào một người bộ hành khác đi ngược chiều. Bị một cú đau điếng, người kia phát cáu, gắt ầm lên: “ Vô ư chửa, lăo già kia ! Lăo nghĩ lăo là ai hử?” vẫn ch́m đắm mê man trong suy tưởng, Schopenhauer lẩm bẩm: “ Ta là ai ? Nào ta có hề biết ta là ai ?”

Đúng vậy, không một ai biết cả.

Sự nhận thức rằng “ Ta không biết ta là ai ?” là điểm khởi hành của cuộc hành tŕnh.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 18 of 143: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 11:51pm | Đă lưu IP  

 

  Kính chào các bạn !

 

 

  Bạn Diệp Tấn Dũng đă viết : '' Hiện nay có rất nhiều nguồn kinh sách nhưng tu học th́ phải chọn lọc , không phải bất cứ bài dịch nào cũng đúng theo nguyên lư cổ xưa mà đă thêm thắt vào kinh văn sau này rất nhiều . Nhiều giáo phái đă tự xưng ḿnh là PHẬT đời mạt pháp này rất nhiều.''

 

 

Tôi xin bổ xung về tác giả và dịch giả để làm rơ ư này để các bạn được biết:

 

1. Về tác giả OSHO, Đức DaLai Lama XIV đăviết: ''Osho là bậc thầy chứng ngộ đang làm việc với tất cả các khả năng để giúp cho nhân loại vượt qua giai đoạn khó khăn về phát triển tâm thức''

 

2. Về dịch giả Thích Nữ Minh Tâm:

          - Đệ tử của Sư Bà Viện Chủ Chùa Phước Hải (Quận 10, Sài G̣n)

          - Sinh năm 1957 tại Sài G̣n

          - Học sinh tiểu học trường Lycée Blaise Pascal 1962-1968 (Đà Nẵng)

          - Học sinh trung học cở sở trường Régina Pacis (Sài G̣n) 1969-1972

          - Học sinh trung học trường Marie Curie (Sài G̣n) 1972-1974

          - Xuất gia tu học 1977 đến nay

          - Tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học Đại Học Vạn Hạnh (Sài g̣n) 1988-1992

          - Tốt nghiệp Cử Nhân Anh Ngữ Đại Học Tổng Hợp (Sài G̣n) 1992

          - Tốt nghiệp Cao Học Phật Học tại New Delhi University, Ấn Độ 1994-1996

          - Hiện đang theo học Cao Học Triết và Tôn Giáo tại Đại Học Virginia, Hoa Kỳ

 

Thích nữ Minh Tâm đă viết: Bạn hăy đọc OSHO với con người thật của bạn, không phải con người xă hội hay tôn giáo.

 

Osho không phải là người thuộc tôn giáo nào. Ông đăc biệt yêu quư Đạo Phật và dành rất nhiều tác phẩm đời ḿnh cho việc phát triển tâm thức trong Đạo Phật. Bản thân ông chưa bao giờ quy y Đạo Phật - v́ ông muốn tâm linh của bản thân được trưởng thành trong sự hồn nhiên, tự ḿnh chứng ngộ bằng trí vô sư. Osho đă viết: " từng câu tôi viết sẽ tạo ra rắc rối cho bất kỳ ai muốn tổ chức một tôn giáo quanh tôi".

 

OnlyOne_0 tôi đề nghị các bạn đọc tác phẩm của OSHO không phải bằng những ǵ Dalai Lama XIV nói về Osho. Hăy đọc Osho bằng trí vô sư có sẵn trong bạn.

 

 Chào thân ! Chúc các bạn vui vẻ, an lạc

  OnlyOne_0

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 19 of 143: Đă gửi: 21 April 2006 lúc 6:47am | Đă lưu IP  

Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - Osho - Thích Nữ Minh Tâm dịch)
Phần tiếp theo

Câu kinh thứ nhất:

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh,

Cúi đầu đănh lễ Trí Tuệ Rốt Ráo, Trí Tuệ Siêu Thoát, Linh Thiêng !

Đây là một lời khẩn cầu tha thiết. Tất cả kinh điển của Ấn Độ đều bắt đầu bằng lời cầu khẩn một cái ǵ đó hay v́ một lư do nào đó. Điều ấy không áp dụng tại các quốc gia khác với những ngôn ngữ khác, và cũng không xảy ra ở xứ Hy Lạp. Người Ấn Độ hiểu một cách sâu xa rằng con người là những thân tre rỗng ruột mà trong đó sự Vô Cùng Vô Hạn đang tuôn chảy. Chúng ta đang viện dẫn sự Vô Hạn Vô Cùng đó, chúng ta đă tự biến ḿnh thành phương tiện của sự Vô Cùng đó. Đó cũng là lư do không một người nào biết ai chính là tác giả bản Kinh Bát Nhă. Bản Kinh đó không được ghi chú bút hiệu nào v́ người viết cũng không tin là chính ḿnh có khả năng viết được những câu kinh tuyệt vời diễm lệ ấy. Người viết cũng chỉ phương tiện, là một con người viết tốc kư. Bản Kinh Bát Nhă đă được đọc lên cho người viết, và họ kính cẩn cúi đầu ghi chép lại những ǵ Chư Phật giảng thuyết ra; chứ họ không thể nào là người sáng tác ra được bản kInh Bát Nhă.

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh,

Cúi đầu đănh lễ Trí Tuệ Rốt ráo, Trí Tuệ Siêu Thoát, Linh Thiêng !

Từng lời, từng chữ trong câu kinh mở đầu đă đong đầy ư nghĩa huyền nhiệm, đă chuyên trở trùng trùng nghĩa lư giáo pháp.

“ Trí Tuệ Rốt Ráo, Siêu Thoát” là sự chuyển dịch của từ “ Bát Nhă Ba La Mật Đa” (Pragyaparamita). “Pragya” nghĩa là trí tuệ. Hăy nhớ kỹ như thế này, cái Trí Tuệ Rốt Ráo này, Trí Tuệ Bát Nhă này không phải là cái kiến thức lượm lặt được ở học đường, ở sách vở. Kiến thức là những ǵ đến qua tầm suy luận, kiến thức không bao giờ là bản chất, là nguyên bản sơ khai cả, kiến thức là sự vay mượn.

Trí Tuệ mới chính là sự nguyên lai bản chất, chính là nguồn gốc. Trí Tuệ, không phải là cái lượm lặt bên ngoài; Trí Tuệ nẩy sinh tự trong anh. Trí Tuệ Bát Nhă không phải là cái hoa hồng giả bằng nhựa mà anh mua ở ngoài chợ, nó chính là đoá hồng thật mọc trên cây, mọc ra từ thân cây. Nó mọc ra từ cái cốt lơi của cây hoa hồng, từ tận cùng chiều sâu của cây, hoa hồng khai nhuỵ và phát triển.

“ Pragya” nghĩa là Trí Tuệ (Wisdom), nhưng trong Anh ngữ, danh từ thông minh (Intelligence) lại mang một hàm ư khác; nó mang nghĩa “kiến thức” (knowledge) nhiều hơn. Trong Anh ngữ, kiến thức không ẩn chứa một chút kinh nghiệm sống nào: anh học ở đại học, anh thâu lượm gặt hái kiến thức của các ông thầy và anh tự cho là ḿnh hiểu biết (nhưng thực ra, anh chỉ nhai lại kiến thức của ông thầy truyền đạt lại cho anh, như con voi nhai bả mía, con ḅ nhai cỏ khô, và chính ông thầy cũng nhai lại kiến thức của thầy ông ta, anh nhai lại của ông thầy anh...cứ thế mà tiếp tục.)

Trí Tuệ th́ lại khác, anh dấn thân bương chải ngoài đời, và anh học hỏi kinh nghiệm ở trường đời, ở ngay chính những thăng trầm biến đổi của cuộc đời. Một ngựi thanh niên có thể có nhiều kiến thức nhưng không bao giờ thông thái được; bởi v́ sự thông thái, trí tuệ cần có thời gian suy tư nghiền ngẫm và kinh qua thực tế. Một người thanh niên có thể có nhiều bằng cấp: anh ta có thể là Tiến sĩ, là Cao học - điều đó không khó ǵ – nhưng chỉ có một người trưởng thành lớn tuổi mới khôn ngoan sâu sắc được. Sự thông minh uyên bác (theo người Tây phương định nghĩa) là những kiến thức, kinh nghiệm thâu lượm được của một người nào đó, nhưng cả hai vẫn chỉ là lớp vỏ bên ngoài, không diễn đạt đúng thực nghĩa “ Trí Tuệ”.

“Pragya” – Trí Tuệ không phải là kiến thức cũng không phải là sự thông thái b́nh thường  mà người ta thường hiểu. Trí Tuệ là sự “ minh triết của tâm hồn, ở bên trong con người” – không phải sự thâu lượm, không thông qua những người khác, không qua đời sống vật dục và những liên hệ của đời sống vật dụng. Minh triết được cảm nhận thấu triệt trong Im Lặng Tuyệt Đối, trong chiều sâu nội tại của một cá thể. Anh mang sự minh triết đó như hạt giống có sẵn trong anh, và hạt giống đó cần một mảnh đất tốt để gieo trồng. Trí Tuệ đó luôn luôn là nguồn gốc, luôn luôn là của anh. trong anh, chỉ trong anh.

Nhưng anh hăy nhớ kỹ cho rằng khi tôi nói “của anh” tôi không hề ẩn ư có một tự ngă nào khởi dậy trong anh cả. “Của anh” có nghĩa là cái trí tuệ siêu việt đó luôn hàm tàng trong bản tánh uyên nguyên của anh, trong bản chất của anh, nhưng không phải là cái bản ngă cố hữu đáng ghét đâu nhé - bởi v́ cái bản ngă thuộc về một phần trong ư thức, chứ không phải trong sự Im Lặng Nội Tại của anh.

“Paramita” – Ba La Mật Đa có nghĩa là “Vượt qua” – đáo bỉ ngạn - vượt qua bờ bên kia - vượt qua bờ sanh tử - vượt qua không gian và thời gian. Anh đă vượt qua vùng không có thời gian ấn định. Anh đă chạm đến mảnh đất nội tại mà không gian cũng không c̣n dấu vết – Phi không gian, Phi thời gian. Cả hai Không – Thời gian đều biến mất. Thời gian ở ngoài anh. Không gian ở ngoài anh. Đó là giao điểm trong anh khi Không  - Thời gian vắng bóng. 

 Có người hỏi chúa Giê su: “Chúa hăy nói cho con biết về vương quốc của Đức Chúa Trời ! Có cái ǵ đặc biệt ở đó không ?” Người ta kể lại rằng Chúa đă trả lời: “Nơi đó, thời gian không c̣n hiện hữu.” Đó là vĩnh cữu, nơi thường hằng bất diệt. Đó là vùng Phi thời gian, Phi Không gian. Anh không c̣n xác định cái Không - Thời gian th́ làm sao anh biết anh đang ở nơi chốn nào. Bây giờ, anh hăy nh́n tôi, tôi không thể nói tôi đang ở đây được, v́ tôi cũng đang có mặt ở đó. Tôi không thể nói tôi đang ở Ấn v́ tôi cũng đang hiện diện ở Trung Hoa. Tôi cũng không nói tôi đang hiện hữu trên hành tinh này v́ tôi hiện không có mặt tại đây. Một khi tự ngă vắng bóng th́ anh chỉ c̣n là một với đại thể. Anh là Tất Cả, Tất Cả là anh. Anh có mặt khắp nơi và cũng không nơi nào hết. Anh không hiện hữu như là một đơn vị riêng lẻ, nhưng anh hoà tan, hoà nhập vào đại thể, như giáo lư Kinh Hoa Nghiêm “Tất Cả là Một, Một là Tất Cả”.

Nh́n ḱa sáng nay, trên chiếc lá xinh đẹp kia, có một giọt sương mai đọng trên lá và lóng lánh dưới tia nắng mặt trời, thật đẹp, thật tuyệt vời, đẹp vô tả. Nhưng rồi, giọt sương đó bắt đầu lăn nhẹ, lăn nhẹ khỏi ḿnh lá và rơi vào đại dương. Khi giọt sương c̣n đọng trên cành lá: ở đó c̣n có chiều không gian và thời gian, c̣n có một định nghĩa, một cái được đặt tên riêng biệt là “giọt sương”. Nhưng khi nó rơi vào biển cả th́ nó không c̣n cái tên “giọt sương” đơn lẻ nữa, v́ nó đă ḥa nhập vào đại dương mênh mông kia. Bây giờ giọt sương đó có mặt ở khắp nơi, và anh không c̣n t́m thấy giọt sương nữa. Anh không c̣n định hướng, không c̣n đặt để vị trí cho nó nữa v́ bây giờ đại dương là nơi chốn của nó. Đại dương và nó bất phân hai, cả hai là một, một chực thể không chia cắt. Khi anh không cắt xén thực tại, khi anh và thực tại không phân hai, Trí Tuệ Bát Nhă trong anh mới khơi dậy. Cái Trí Tuệ siêu việt, rốt ráo, đáo bỉ ngạn đó !

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa

Một câu khiêu khích tuyệt diễm đầy bí ẩn, hóc búa: Tôi cúi đầu đănh lễ Trí Tuệ Bát Nhă khi anh đă vượt qua được bến bờ kia. Và Trí Tuệ đó thật linh thiêng, thật đáng yêu biết chừng nào – linh thiêng v́ anh đă thể nhập là một với tổng thể; đáng yêu v́ cái tự ngă gây tạo nên bao sự xấu xa, lỗi lầm trong cuộc đời anh đă không c̣n nữa. Satyam, Shivam, Sunderam: đó là Chân, Thiện, Mỹ. Chân, Thiện, Mỹ là ba đức tính cao quí nhất của con người – và Trí Tuệ Bát Nhă gồm đủ ba đức tính Chân Thiện Mỹ đó.

Tại sao Trí Tuệ Bát Nhă lại được tôn kính như vậy? Bởi v́ Chư Phật đă được sanh ra từ Trí Tuệ Bát Nhă này cho nên trong Tâm Kinh đă nói: “Bát Nhă là mẹ của Chư Phật”. Các Đức Phật đă được hoài thai trong Bát Nhă. Anh giác ngộ, anh là Phật ngay khi anh dự phần vào trong Bát Nhă Trí. Anh là Phật khi giọt sương mai rơi ṭm và biến mất trong đại dương. Anh là Phật khi thực tại không c̣n chia cách. Anh là Phật khi không c̣n sự đối kháng mâu thuẫn của nội tâm.

Bát Nhă Trí thánh thiện linh thiêng v́ anh là một trong tất cả. Anh ca hát nhẩy múa với Bát Nhă Trí. Anh giống như chiếc lá đang nhẩy múa trong gió kia; chiếc lá uốn éo nhảy múa theo gió, trong gió, thật đơn sơ hoà điệu, chiếc lá nhẹ nhàng theo điệu múa của gió, chiếc lá không có “cái ta” riêng của nó, chiếc lá không hề cưỡng lại gió, gió đưa nó đến đâu, lá đưa ḿnh ru nhẹ theo. Sự hoà điệu Vô Ngă đó, tôi gọi đó là thánh thiện; các kinh điển gọi đó là linh thiêng.

Sự linh thiêng theo Phạn ngữ (Sanskrit) là “Bhagavati”. Có thể nói, “Bhagavati” chính xác hơn, đúng nghĩa hơn danh từ “Holy” của Anh ngữ, v́ danh từ “holy” (thánh thiện) thiên về Thiên Chúa Giáo nhiều hơn; có vẻ thần quyền nhiều hơn.

“Bhavagati” là danh từ giống cái. Bhagavan là danh từ giống đực. Trước hết Tâm Kinh, trong bản Phạn ngữ, không dùng danh từ “Bhagavan” mà sử dụng danh từ “Bhagavati” – danh từ giống cái – v́ nguồn gốc của vạn sự vạn vật đều là giống cái, không phải giống đực. Đó là Âm, không phải Dương. Đó là Mẹ, không phải Cha.

Quan niệm thần quyền của Thiên Chúa giáo là giống đực. Chúa trời, Chúa Giê Su là cha, không phải mẹ. Điều đó thấy không đẹp lắm. Cái ta” của giống đực không thể nghĩ rằng Chúa là một người đàn bà được; cái “ta” của giống đực đó muốn Chúa phải là một người đàn ông. Và anh thấy cả một khối tập quyền Thiên Chúa giáo đặt để là: cả ba ngôi thánh thần đều là giống đực cả - Chúa Trời cha là nam, Chúa Giê Su con là nam, Thánh Thần cũng là nam. Các đấng thiêng liêng là giống đực; một giáo hội cũng gồm toàn là giống đực cả. Nhưng anh chớ quên rằmg giống cái mới là căn bản, nền tảng của sự sống; chỉ có người đàn bà mới có khả năng mang thai được; chỉ có người đàn bà mới có khả năng sanh con được, mới ban tặng cho đời một sức sống mới. Sự sống mới chỉ hiện hữu qua người phụ nữ, trong người phụ nữ.

Tại sao sự sống mới chỉ hiện hữu trong người phụ nữ? Không phải là chuyện vô cớ hay t́nh cờ đâu. Sự sống chỉ hiện hữu trong người phụ nữ bởi v́ chỉ có giống cái mới có đủ tư cách và điều kiện sản sinh ra - bởi v́ giống cái là giống dễ thụ cảm. Giống đực là giống hay khiêu chiến, thích tấn công, chỉ có giống cái mới có khả năng tiếp thụ, hoà nhập và vượt qua.

Kinh điển sử dụng “Bhavagati”, không phải là “Bhagavan”. Điểm này quan trọng lắm, không phải lơ mơ đâu. Cái trí tuệ rốt ráo mà tất cả Chư Phật từ trong đó sanh ra là một yếu tố giống cái, là người mẹ; cái bào thai của người mẹ. Một khi anh nghĩ Chúa hay Thượng Đế ǵ ǵ đó là cha th́ dường như anh chẳng hiểu anh đang làm ǵ.

Người cha là một sự vật phản tự nhiên, không phù hợp. Cái tư cách “Cha” đó không hiện hữu ở ḍng sống tự nhiên. Nó chỉ có mặt vài ngàn năm nay; nó là một sản phẩm do người sản xuất. C̣n người mẹ hiện hữu khắp nơi, người mẹ là tự nhiên, là sức sống. Người cha góp mặt vào cuộc đời v́ tư sản. Người cha là một thành phần kinh tế, không phải thiên nhiên. Và một khi tư sản biến mất, người cha cũng bị biến mất theo. Người mẹ luôn tồn tại và măi măi tồn tại. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi một thế giới không có phụ nữ, một cuộc đời không có mẹ; nhưng chúng ta vẫn sống dễ dàng và tốt đẹp khi không có cha. Và ngay cả cái tư tưởng “Cha, giống đực” đó cũng chứa đựng nhiều quá khích. Anh có từng để ư nhận xét như vậy chưa ? Chỉ có người Đức mới gọi tổ quốc họ là “Quê cha” (Fatherland), ngoài ra tất cả các quốc gia khác đều gọi là “Đất mẹ” (Motherland).

Khi anh gọi “Fatherland”, anh đă bắt đầu châm ng̣i cho sự nguy hiểm, huỷ diệt; anh đă đặt chân trên sự nguy hiểm. Sớm hay muộn ǵ, bản chất kích động trong anh sẽ bùng nổ, phát động chiến tranh, v́ mầm mống, hạt giống xâm lược tấn công đó có sẵn trong anh.

Tất cả những tôn giáo nghĩ rằng Thượng Đế hay Chúa là cha, là giống đực, đều là những tôn giáo quá khích. Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo là những ví dụ cụ thể. Và anh cũng biết rất rơ rằng Chúa bên Do Thái giáo là một vị Chúa đầy sân hận, vị kỷ. Chúa (Do Thái giáo) cũng kêu gào tuyên bố: “Nếu ngươi không theo Ta, tức là ngươi đă chống lại Ta, và Ta sẽ trừng phạt huỷ diệt ngươi. Ta rất độc tài, ích kỷ, các ngươi phải tôn sùng một ḿnh Ta thôi, chỉ một ḿnh Ta thôi”.

Trái lại, những người nghĩ Thượng Đế là một bà mẹ hiền th́ không bao giờ là những kẻ cuồng bạo được, họ không bao giờ gây chiến tranh hận thù, họ không bao giờ là những kẻ bạo động.

Tín đồ đạo Phật không bao giờ gây hấn chiến tranh v́ lư do tín ngưỡng tôn giáo. Lịch sử Phật giáo không hề có một cuộc thánh chiến nào. Phật giáo không bao giờ có ư nghĩ cải đạo hay nhồi sọ tư tưởng một người nào bằng vũ lực, bằng đe doạ.

Tín đồ Hồi giáo đă muốn cải tạo người khác bằng thanh gươm, bằng bạo lực; họ đă đi ngược lại lời nguyện của họ, họ đă làm trái lương tâm và Thánh Mohammed của họ đâu có dạy họ sử dụng bạo lực như vậy bao giờ đâu ?

Phật giáo là tôn giáo duy nhất trên thế giới không bao giờ và cũng không cần phải rù quến bất cứ ai vào đạo hay cải đạo. Chỉ có đạo Phật là một tôn giáo không bạo động, v́ sao ? V́ quan niệm và bản chất của chân lư đạo Phật là Âm, là giống cái, là nhu ḿ hiền thục.

“Cúi đầu đănh lễ Trí Tuệ siêu việt, Trí Tuệ rốt ráo, linh thiêng!”.

Hăy nhớ cho rằng Chân Lư là cái Đẹp Tuyệt Đối. Chân Lư Đẹp v́ Chân Lư là ân phước. Chân Lư không thể nào xấu được, và cái xấu cũng không thể nào thành Chân Lư được. Cái xấu là ảo ảnh, là mê lầm, là giả tưởng.

Khi anh nh́n một người có diện mạo không tươi đẹp, anh đừng bao giờ bị cái xấu bên ngoài của người đó đánh lừa anh nhé; anh hăy t́m sâu kỹ hơn bên trong con người đóvà anh sẽ thấy một nhân cách thật đẹp, một nhân bản giá trị ẩn nấp trong họ. Đừng bị cái xấu đánh lừa. Cái xấu nảy sinh là do quan niệm thiển cận, hời hợt của anh. Sự Sống thật đẹp, Chân Lư thật đẹp, Hiện Hữu thật đẹp – hoàn toàn không có cái xấu (nhưng thói thường, người ta lại coi trọng diện máo bên ngoài, dáng vẻ bên ngoài, những cái hào nhoáng bên ngoài và quay lưng hay không biết ǵ cả về cái Đẹp thực sự của một con người. Thế mới chết chứ!)

Nữ tính đó thật đẹp, thật đáng yêu, thật thánh thiện vô cùng – nhưng anh hăy nhớ kỹ rằng cái tính chất “thánh thiện” được định nghĩa đó không mang ư nghĩa dung tục tầm thường như những thứ khoái lạc thế tục và ô uế đâu nhé.

Không, tất cả đều thánh thiện trong sáng. Không có một cái ǵ trần tục và ô uế cả. Tất cả đều linh thiêng v́ Tất Cả là Một, hoà nhập vào nhau thành Một.

Đó là Chư Phật (viết hoa) và phật (viết thường) nghĩa là tánh giác ngộ sẵn có trong tất cả vạn hữu hàm linh: có phật cây, phật chim chóc, phật đàn ông, phật đàn bà v.v nhưng tất cả đều là phật, đều có sẵn tánh giác ngộ. Tất cả đều đang đi trên con đường thành Phật. V́ thế, con người không phải là Thượng Đế trong hoang tàn đổ nát; con người là Thượng Đế trong sáng tạo, trong sự trở thành, trên con đường thánh quả.

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 20 of 143: Đă gửi: 21 April 2006 lúc 1:52pm | Đă lưu IP  

Chương I - Bát Nhă Tâm Kinh Giảng Giải - Osho - Thích Nữ Minh Tâm dịch)
Phần tiếp theo


Câu Kinh thứ nh́:

“Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không. . .”

(Khi ngài Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa pháp Bát Nhă Ba La Mật Đa, th́ ngài soi thấy năm uẩn đều không. . . )

Avalokita (Quán Tự Tại) là tên một vị phật. Căn nguyên từ “Avalokita” có nghĩa là người đứng ở trên cao nh́n xuống. Avalokita - người nh́n xuống từ trên cao, bậc giác ngộ ở tầng tháp thứ 7, tầng tháp ngàn cánh hoa sen, tầng siêu ư thức, và từ nơi cao đó, bậc đạt đạo nh́n xuống thế gian. Lẽ dĩ nhiên, những ǵ anh nh́n thấy bắt đầu từ trung điểm anh đang đứng, từ không gian nơi chốn anh đang đứng. Nếu người nào đứng ở tầng thứ nhất - tầng vật chất - th́ khi họ nh́n bất cứ vật ǵ hay sự việc ǵ, họ cũng nh́n từ gáoc độ họ đang đứng, tầng thứ nhất. Người sống theo vật chất th́ khi họ nh́n anh, họ chỉ nh́n thấy thân xác anh mà thôi, họ không thể nh́n hợ tầm nh́n vật lư của họ được; cũng vậy, tầm nh́n sự vật của họ cũng tuỳ thuộc vào góc đọ anh đang đứng, vào cái mà anh chú mục tới.

Người nào sống đam mê dục vọng th́ quan tâm đến vật dụng. Người  nào đói ăn th́ đôi mắt láo liêng t́m kiếm vật thực. Anh hăy cảnh giác chính anh! Anh nh́n sự vật trước mắt anh, và mỗi lần anh nh́n, th́ những sự vật đó lại có vẻ khác đi v́ thực ra chính anh là người thay đổi chứ không phải sự vật thay đổi.

Vào buổi sáng sớm, sự vật dường thể như đẹp hơn, đáng yêu hơn, tràn đầy nhựa sống hơn, tâm hồn anh cũng tươi mát hơn, khoẻ khoắn hơn v́ anh đă ngủ được một giấc ngon không mộng mị, một giấc ngủ sâu dài, thoải mái. Anh đă nếm được cảm giác an lạc sảng khoái của siêu thức; mặc dù trong giấc ngủ, anh không ư thức được ǵ. V́ thế, vào buổi sáng mai, vạn vật đẹp hơn tươi thắm hơn. Người ta cũng trở nên hoà nhă hơn, từ bi hơn, duyên dáng hơn, người ta trong sáng ngây thơ hơn. Nhưng khi hoàng hôn đến, cũng những con người tươi mát đó, trở nên cáu kỉnh, gay gắt, khó chịu, cộc cằn, chán nản hơn. Cũng vẫn những con người đó, buổi sáng th́ đầy nhựa sống yêu đời, có vẻ như sắp chứng thánh đến nơi, nhưng đến chiều tối th́ hoàn toàn trái ngược. V́ sao? V́ suốt cả ngày họ đă sống trong sự chao đảo rối rắm, trong bất an của ḍng đời xuôi ngược, trong tốc độ vật chất và họ bị quay cuồng trong đó.

Con người toàn bích là người có thể ứng hiện xuyên suốt bấy lớp tầng tháp đó một cách dễ dàng – đó là con người của Tự Do Nội Tại Tuyệt Đối – con người không trụ vào bất cứ một điểm cố định nào, giống như cái ṿng quay tṛn: anh có thể điều chỉnh nó ở bất cứ một góc độ nào. người hoàn tự do cũng vậy, người đó có thể di động trên mọi phương hướng, trong mọi hoàn cảnh và không hề bị ngoại cảnh ảnh hưởng hay va chạm đến.

Sự trong sáng chân thực của người đó không bao giờ biến mất, chân tánh đó măi măi tồn tại trong sự chuyển hoá.

Cũng vậy, chư Phật có thể đến với anh, chạm vào cơ thể anh và chữa lành những vết đau thể xác cho anh. Chư Phật ở trong anh, là anh - tuỳ duyên tự tại - Phật đến đến đi đi không ngăn ngại, ứng hiện biến hoá vô cùng tận, đó là tính chất “nhậm vận” của Như Lai.

Bồ Tát Quán Tự Tại khi quán chiếu sâu xa pháp Bát Nhă Ba La Mật Đa. . .

Câu kinh này ngụ ư là cái trạng thái siêu thức đó không phải là trạng thái tĩnh của một vật thể. Trạng thái tĩnh của một vật thể là trạng thái chết, đứng lặng. Trạng thái Siêu Thức Tâm Linh là một quá tŕnh di động xuyên suốt, Tĩnh trong Động, Động mà Tĩnh, giống như mặt nước phẳng lặng của ḍng suối, không gợn sóng nhưng thực ra đanh âm thầm tuôn chảy về đại dương. Trạng thái đó không phải danh từ; nó là “động từ” (v́ ngay trong chữ “động từ” đă có sự di động). Nó luân lưu di động không ngằn mé. V́ thế, người Ấn Độ giáo đă mệnh danh nó là “ngàn cánh sen”, ngàn cánh sen là một con số biểu tượng cho sự Vô Cùng Vô Tận. Cánh sen này che cánh sen kia, cánh này đến cánh khác, lớp lớp trùng trùng vô hạn. Cuộc hành tŕnh về Bảo Sở bắt đầu nhưng không kết thúc. Đó là một cuộc hành tŕnh vô tận, bất diệt.

Bồ Tát Quán Tự Tại khi quán chiếu sâu xa pháp Bát Nhă Ba La Mật Đa. . .

Bồ Tát Quán Tự Tại, như một ḍng sông tuôn chảy về thế giới siêu linh, mầu nhiệm, thế giới của ngài được mệnh danh là Bồ Tát. Một lần nữa phạn ngữ “Iswara” cần phải ghi chú. Phạn ngữ “Iswra” được chuyển dịch là “bậc Thánh bậc Bồ Tát”. “Iswra” có nghĩa là “sung măn tài sản tâm linh”, cái tài sản tâm linh sung măn tự trong bản chất, không ai có thể đánh cắp được, không ai có thể tước đoạt đi được.

Nhưng tư sản vật chất mà anh đang sở hữu một ngày nào đó sẽ mất đi, sẽ bị đánh cắp; một ngày nào đó, Thần Chết gơ cửa nhà anh và sẽ lấy đi tất cả. Hữu h́nh tức hữu hoại. Tất cả các pháp hữu vi như mộng huyễn, như mây bay ánh chớp, như ráng chiều – không có một cái ǵ có thể tồn tại măi măi không thay đổi dưới lưỡi búa khắc nghiệt của qui luật Vô Thường; tất cả rồi sẽ bị huỷ hoại, tiêu diệt, ngoại trừ Chân Tánh, ngoại trừ Bát Nhă Trí.

Viên Kim Cương Bất Hoại Bát Nhă Trí đó sẽ không bao giờ bị Thần Chết hay Vô Thường phá huỷ tước đoạt. Người nào có được viên kim cương Bát Nhă Trí, người đó là bậc Bồ Tát, là “Iswara”, là “Bhagavan”.

Danh từ phạn ngữ “Bhagavan” có nghĩa là bậc giải thoát, bậc cứu độ chúng sanh. Bây giờ, hạnh nguyện tự độ, độ tha là của chính người đó; hạnh nguyện đó không tuỳ thuộc, không lệ thuộc vào bất cứ cái ǵ. Nó hoàn toàn độc lập. Nó không do duyên khởi nên cũng không do duyên diệt. Không Sinh Không Diệt – Bát Nhă Trí hay Chân Tánh là bản chất tự nhiên sẵn có của con người, nhưng bởi vô minh vọng động nên che lấp đi bản tánh uyên nguyên đó.

Bồ Tát là một danh từ đẹp, là một quan niệm sống đẹp nhất trong Phật Giáo. Bồ Tát là bậc đă đạt tới một địa vị có thể dừng chân nghỉ để an hưởng cảnh vui Niết Bàn thanh tịnh sau bao nhiêu kiếp tu hành, nhưng lại t́nh nguyện ở lại trong chốn sinh tử để cùng chúng sinh chia vui sẻ buồn.
Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 

Trang of 8 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.8828 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO