Tác giả |
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 1 of 28: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 12:53am | Đă lưu IP
|
|
|
Theo nhà du hành vũ trụ Nga Georgi Mikhailovich đôi khi từ trên vũ trụ có thể nh́n thấy những hiện tượng lạ lùng. Anh kể: “Một lần chúng tôi bay trên bầu trời Mông Cổ th́ đột nhiên nh́n thấy một h́nh người khổng lồ có chiều cao phải đến 100, thậm chí 200km. Chúng tôi nh́n thấy rơ đầu, hai tay và hai chân người đó. Chúng tôi gọi đấy là ‘người tuyết’ bởi v́ chính là tuyết đă tạo ra h́nh người ấy”.
Trong hơn 40 năm qua đă có hơn 400 nhà du hành vũ trụ thuộc nhiều nước khác nhau bay trên quỹ đạo quanh trái đất. Họ tiếp xúc với nhiều hiện tượng mới lạ, kể cả những hiện tượng bí ẩn. Nhưng thường thường họ thích im lặng về những ǵ không thể giải thích nổi. Vả lại người ta cũng không khuyên họ tâm sự về vấn đề này. Tuy nhiên, theo lời đồn đại th́ nhà du hành vũ trụ đầu tiên Yuri Gagarin có lần lỡ lời nói rằng, nếu được phép th́ anh sẽ kể "nhiều điều thú vị về chuyến bay của ḿnh".
Dưới đây là một số "điều thú vị" mà Giáo sư Kirill Butusov đă lượm lặt được qua lời kể của các nhà du hành vũ trụ.
Từ trên vũ trụ nh́n thấy được cả ngôi nhà nhỏ trên mặt đất
Người đầu tiên nhận thấy “hiệu ứng phóng đại các vật thể trên mặt đất” là nhà du hành vũ trụ Mỹ Gordon Cuper. Ông kể rằng khi bay trên bầu trời Tây Tạng, ông nh́n thấy bằng mắt thường những ngôi nhà và những công tŕnh xây dựng khác tại đây. Điều này thật bí ẩn v́ từ khoảng cách 300 cây số th́ hoàn toàn không thể phân biệt nổi những vật thể như vậy.
Nhà du hành vũ trụ Nga Vitali Sevastjanov đă cung cấp thêm bằng chứng nữa: “Rút cuộc, hôm nay tôi đă thấy Sôchi. Tôi nh́n thấy rơ mồn một hải cảng và ngôi nhà nhỏ hai tầng của chúng tôi”.
Hiệu ứng phóng đại này c̣n được nhà du hành vũ trụ Nga Yuri Glazkov xác nhận: “Chúng tôi bay trên bầu trời Brazil. Đột nhiên tôi nh́n thấy một dải hẹp trên đường xa lộ. Trên đường là một chiếc xe buưt đang phóng nhanh, thậm chí tôi c̣n nhận thấy chiếc xe có màu xanh”.
Tiếng chó... sủa trên bầu trời
Những âm thanh bí ẩn trong vũ trụ đă được miêu tả đầy chất thơ qua lời kể của nhà du hành vũ trụ Nga Vladilav Volkov (anh hy sinh khi trở về trái đất năm 1971): “Màn đêm đen đang trôi vùn vụt ở phía dưới. Đột nhiên từ khoảng màn đêm ấy bỗng vọt lên tiếng chó sủa. Tôi cảm thấy dường như đó là tiếng con chó Laika của chúng ta (đă bị chết trong vũ trụ). Sau đó tôi nghe thấy rành rọt tiếng trẻ con khóc và những tiếng ǵ đó nữa. Không thể giải thích được mặc dù cảm thấy rất rơ ràng”.
Theo lời kể của nhạc trưởng dàn nhạc điện tử Viacheslav Mesherin th́ Yuri Gagarin sau khi nghe dàn nhạc của ông biểu diễn đă nhận xét là khi ở trên quỹ đạo, anh đă nghe thấy một giai điệu rất giống giai điệu mà dàn nhạc của ông vừa biểu diễn.
“Người vô h́nh” đứng sau lưng
Đôi khi trên quỹ đạo xuất hiện “hiệu ứng hiện diện”. Vào một thời điểm nào đấy, nhà du hành vũ trụ đột nhiên cảm thấy như có ai đó vô h́nh phía sau lưng đang nh́n chằm chằm vào gáy ḿnh rồi th́ thầm lên tiếng. Những tiếng th́ thầm ấy vang lên từ đâu đó trong đáy sâu ư thức, đại để như sau: “Ngươi đến đây quá sớm và như vậy là không đúng. Hăy tin ta bởi v́ ta là tổ tiên của ngươi. Ngươi không nên có mặt ở đây mà hăy mau mau trở về trái đất, chớ vi phạm những quy luật của tạo hóa” (?). Và để tăng thêm phần thuyết phục, giọng th́ thầm đó thường kể một câu chuyện mà chỉ gia đ́nh nhà du hành đó được biết và có liên quan đến bậc tổ tiên này. Vậy ai đă th́ thầm như vậy trên độ cao hàng trăm kilômet? Và không rơ thực hư chuyện này ra sao?
Câu chuyện trên đây là do một nhà du hành vũ trụ đề nghị giấu tên kể lại cho Giáo sư Kirill Butusov. Theo lời giáo sư th́ nhà du hành vũ trụ đó khẳng định rằng, anh không phải là người duy nhất nghe thấy những tiếng th́ thầm như vậy khi bay trên quỹ đạo.
Biến thành khủng long
Người đầu tiên công khai về hiện tượng này vào năm 1995 tại Viện Quốc tế sinh thái nhân chủng vũ trụ là nhà du hành vũ trụ Sergei Krichenski. Hóa ra khá nhiều nhà du hành vũ trụ cảm thấy những cảm giác lạ lùng trong khi bay trên quỹ đạo. Chẳng hạn, có người đột nhiên cảm thấy ḿnh ra khỏi h́nh hài con người rồi biến thành con vật nào đó. Hơn thế nữa, anh dường như được ghép nối với một nguồn thông tin lạ và nhận được những lời cảnh báo về các t́nh huống có thể xảy ra. Thậm chí, một đồng nghiệp của Krichenski đă có lần kể cho anh nghe về việc ḿnh biến thành... khủng long. Hơn nữa anh ta c̣n cảm thấy như ḿnh đang bước trên một hành tinh nào đó, thỉnh thoảng lại vượt qua ghềnh thác, vực thẳm (?).
Nhiều nhà du hành vũ trụ ghi nhật kư trong suốt thời gian bay trên quỹ đạo, họ ghi chép cả về những hiện tượng bí ẩn, thậm chí “hoang đường”. Nhưng họ kiên quyết không công bố những ghi chép ấy v́ sợ bị mọi người không tin. Nhưng một số nhà khoa học, chẳng hạn như Giáo sư Kirill Butusov lại cho rằng cần nghiên cứu những hiện tượng có vẻ như kỳ lạ ấy. Những cuộc nghiên cứu như vậy sẽ không chỉ góp phần bảo đảm an ninh cho các chuyến bay mà rất có thể sẽ hé mở thêm phần nào bức màn bí mật của vũ trụ
Vũ Việt (Theo Komsomolskaia Pravda)
|
Quay trở về đầu |
|
|
octieu Hội viên

Đă tham gia: 25 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 378
|
Msg 2 of 28: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 8:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thế gian quả lắm điều thần bí. Nghe nói hiện tại đă phát hiện 150 hành tinh giống trái đất. Không biết những hành tinh này sự sống trên đó thế nào nhỉ? Ở đó con người ngự trị hay con vật ǵ khác?... Đó là chưa kể đến hằng hà sa số những hành tinh chưa phát hiện được.
OT nghĩ quy luật tự nhiên cũng như quy luật toán học thôi. Cái ǵ cũng có quy luật và cứ thế vận hành. Chỉ có điều không biết làm sao để biết quy luật đó thế nào thôi. Chỉ cần biết quy luật số mệnh con người là có thể khám phá được tự nhiên và ngược lại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 3 of 28: Đă gửi: 06 May 2006 lúc 9:08am | Đă lưu IP
|
|
|
Boriska - cậu bé từ sao Hỏa
Ngày 11/1/1996, một bé trai khác thường đă ra đời tại thành phố nhỏ Volzhsky, vùng Volgograd của Nga. Bà Nadezhda Kipriyanovich hạ sinh cậu bé vào một buổi sáng đẹp trời. "Tất cả diễn ra một cách nhanh chóng và tôi không cảm thấy đau đớn ǵ cả. Khi các nữ hộ sinh cho tôi xem đứa bé, nó nh́n tôi với ánh mắt của một người lớn. Là bác sĩ khoa Nhi, tôi biết rằng trẻ sơ sinh không thể tập trung ánh nh́n như thế. Nhưng đứa con của tôi nh́n tôi với cặp mắt nâu mở to. Ngoài điều đó ra, nó là một đứa bé b́nh thường như bao đứa bé khác", bà nhớ lại.
Khi hai mẹ con từ bệnh viện phụ sản về, bà bắt đầu chú ư đến những điều kỳ lạ ở cậu con. Đứa bé được đặt tên là Boris, hiếm khi khóc và hầu như không bị bệnh. Nó lớn lên như bao đứa trẻ khác, nhưng bắt đầu nói tṛn câu khi mới được 8 tháng tuổi. Khi chơi tṛ xếp h́nh, Boris làm rất hoàn chỉnh với độ chính xác rất cao. "Tôi có một cảm giác kỳ lạ là chúng tôi như những người khách lạ với nó, trong khi nó đang cố gắng h́nh thành mối quan hệ tiếp xúc với mọi người", bà mẹ nói.
Khi Boris hay Boriska, như cha mẹ cậu gọi một cách tŕu mến, lên hai tuổi, cậu bắt đầu vẽ tranh, đầu tiên là những bức vẽ trừu tượng trộn lẫn giữa màu xanh và màu tím. Xem xét các bức vẽ này, một số nhà tâm lư nói rằng cậu bé có thể t́m cách vẽ hào quang của những người mà cậu thấy xung quanh. Khi chưa tṛn 3 tuổi, Boris bắt đầu nói chuyện với cha mẹ về vũ trụ.
Bà Nadezhda cho biết: "Nó có thể gọi tên tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng. Nó cho tôi biết tên và số lượng ngân hà. Đầu tiên, tôi tỏ ra sợ hăi và nghĩ rằng con ḿnh bị thần kinh và quyết định kiểm tra xem các tên này có thật không. T́m xem trong vài quyển sách thiên văn, tôi bị sốc khi phát hiện ra cậu con trai chưa đầy 3 tuổi của ḿnh biết rất nhiều về môn khoa học này".
Tiếng đồn về nhà thiên văn học tí hon lan nhanh khắp thành phố. Boris bỗng dưng trở thành người nổi tiếng. Nhiều người hiếu kỳ t́m đến và muốn biết v́ sao cậu lại biết nhiều điều đến vậy. Boriska sẵn sàng nói với các vị khách về những nền văn minh ngoài trái đất; về sự tồn tại của các chủng tộc loài người cổ, có chiều cao đến 3 m, về khí hậu tương lai và những thay đổi toàn cầu. Mọi người lắng nghe cậu bé nói với sự thích thú nhưng phần đông không tin tưởng mấy vào những câu chuyện này.
Cha mẹ Boriska quyết định làm lễ rửa tội cho con trai của ḿnh. Qua những diễn biến trên, họ nghĩ rằng có một cái ǵ đó không ổn nơi Boriska.
Sau đó, Boriska bắt đầu nói với mọi người về tội lỗi của họ. Cậu nói với một chàng trai gặp trên đường rằng anh ta nên từ bỏ ma tuư, nói với một ông chồng không nên lừa dối vợ... Những lời tiên tri này thường cảnh báo mọi người về các rắc rối và tai họa sắp đến.
Nadezhda để ư rằng con trai của bà thường cảm thấy khó chịu về một thảm họa nghiêm trọng sắp đến. "Khi chiếc tàu ngầm Kursk sắp ch́m, Boriska tỏ vẻ rất đau đớn. Nó cũng cảm thấy đau khổ trong cuộc khủng hoảng con tin ở Beslan và không chịu đi học trong những ngày diễn ra tấn thảm kịch này", bà nhớ lại.
Khi được hỏi cảm giác về những ngày xảy ra thảm kịch ở Beslan, Boriska cho biết cậu như bị đốt nóng từ bên trong. "Giống như có một ngọn lửa đang cháy ở bên trong tôi. Tôi biết rằng câu chuyện ở Beslan sẽ có một kết cục khủng khiếp".
Boriska hoàn toàn lạc quan về tương lai của nước Nga. "T́nh h́nh trong nước dần được cải thiện. Tuy nhiên, hành tinh trái đất sẽ trải qua hai năm nguy hiểm là 2009 và 2013. Những thảm họa này có liên quan đến nước" - cậu bé tiên đoán.
Gần đây, Boriska đă khiến các nhà khoa học Nga quan tâm. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu sóng vô tuyến và từ tính của trái đất, Viện hàn lâm khoa học Nga, đă chụp ảnh quầng sáng phát ra mạnh mẽ một cách bất thường của cậu bé. Giáo sư Vladislav Lugovenko cho biết: "Cậu ta có ảnh phổ màu da cam - điều này cho thấy cậu là một người vui vẻ, rất thông minh. Có một lư thuyết, theo đó năo của người có hai loại trí nhớ cơ bản: trí nhớ hoạt động và trí nhớ biệt lập. Một trong những khả năng đáng chú ư nhất của năo người là lưu trữ thông tin về trải nghiệm, cảm xúc và những tư duy cả trong lẫn ngoài, từ không gian thông tin của vũ trụ.
Có một số cá nhân đặc biệt có thể thu thông tin từ khu vực này. Theo quan điểm của tôi, mỗi người được kết nối với không gian bằng những phương tiện kênh năng lượng".
Theo Lugovenko, người ta có thể đo được năng lực ngoại cảm của con người với sự giúp đỡ của các thiết bị đặc biệt. Các nhà khoa học hiện đại trên khắp thế giới đă thực hiện các công tŕnh nghiên cứu trong nỗ lực giải mă bí ẩn của những đứa trẻ phi thường. "Boriska là một trong những đứa trẻ phi thường đó. Dường như chúng có một sứ mệnh quan trọng nhằm thay đổi hành tinh chúng ta. Một số có chuỗi xoắn ốc ADN rất tốt, giúp chúng có hệ miễn dịch mạnh một cách đáng kinh ngạc, có thể đánh bại cả bệnh AIDS. Tôi đă gặp những trẻ em như vậy ở Trung Quốc, Ấn Độ... Tôi chắc rằng chúng sẽ thay đổi tương lai của nền văn minh chúng ta", ông nói.
Trong khi các cơ quan không gian hàng đầu thế giới đang cố gắng t́m kiếm dấu vết sự sống trên sao Hoả, cậu bé Boriska, 9 tuổi đă kể với cha mẹ và bạn bè của cậu mọi thứ về nền văn minh trên đó.
Một nhà báo Nga gần đây đă tṛ chuyện với Boriska về kiến thức và trải nghiệm đặc biệt của cậu:
- Xin chào Boriska, cậu thực sự đă từng sống trên sao Hoả như mọi người đồn đại?
- Vâng, đó là sự thực. Tôi c̣n nhớ thời điểm khi tôi đă 14 hay 15 tuổi, những người sao Hoả lúc đó đang tiến hành chiến tranh cho nên tôi phải tham gia trong các cuộc đột kích từ trên không cùng các bạn tôi. Chúng tôi có thể du hành trong không gian bằng cách bay trong con tàu h́nh tṛn. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát cuộc sống trên trái đất từ con tàu h́nh tam giác. Tàu không gian của người sao Hoả rất phức tạp. Chúng có nhiều lớp và có thể bay khắp nơi trong vũ trụ.
- Hiện nay có sự sống trên sao Hoả không?
- Có. Nhưng nhiều năm qua hành tinh đă mất khí quyển v́ thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, người sao Hoả vẫn sống dưới mặt đất. Họ thở bằng khí carbonic.
- Những người sao Hoả trông thế nào?
- Họ rất cao, cao hơn 7 m. Họ sở hữu những năng lực lạ thường.
Bà Nadezhda Kipriyanovich cho biết: "Khi chúng tôi đưa cậu bé ra trước nhiều nhà khoa học, bao gồm các chuyên gia UFO, thiên văn, sử học, họ đồng ư rằng cậu bé không thể bịa ra những chuyện như vậy. Những thuật ngữ khoa học và ngoại ngữ mà Boriska nói thường được các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực này sử dụng".
Các bác sĩ về y học cổ truyền thừa nhận năng lực phi thường của cậu bé, mặc dù họ không tin cậu từng sống trên sao Hoả từ kiếp trước.
Nguồn: http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2006/04/3B9E9395/
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 4 of 28: Đă gửi: 06 May 2006 lúc 10:26am | Đă lưu IP
|
|
|
Những sự trùng hợp kỳ lạ
Trong cuộc sống có những sự trùng hợp khó tin và không thể giải thích được, khi đó một cách tự nhiên người ta bắt đầu nghĩ đến khía cạnh bí ẩn của số phận
Liệu có thể giải thích những chuyện trùng hợp kỳ lạ là tṛ chơi của sự ngẫu nhiên hay khoa học có những lư thuyết khác về vấn đề này?
Ngày 28/7/1900, Vua Italy Umberto I ăn tối trong nhà hàng ở thành phố Monza. Người ta được biết chủ của nhà hàng cũng có tên Umberto, sinh ra cùng ngày với nhà vua, trong cùng một thành phố, vợ của họ có cùng một tên, đám cưới cũng diễn ra trong cùng một ngày, c̣n nhà hàng khai trương đúng vào ngày nhà vua lên ngai vàng.
Nhà vua và người dân thường này rất vui vẻ nhân cuộc gặp gỡ kỳ lạ này và thống nhất sang ngày hôm sau sẽ đến sân vận động. Nhưng đến buổi sáng, chủ nhà hàng Umberto đột ngột qua đời, nhà vua tỏ ḷng tiếc thương và chỉ vài giờ sau ông bị một kẻ vô chính phủ bắn chết. Số phận của họ chỉ không giống nhau ở điểm 2 người chết ở những nơi khác nhau.
Vào năm 1944, vài ngày trước khi quân đồng minh đổ bộ lên Normandy, trên tờ Daily Telegraph ở Anh có in một tṛ đoán ô chữ “vô hại”, nhưng đáp án của nó là mă của chiến dịch mấu chốt trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ 2, thậm chí cả tên của chiến dịch nhảy dù Overlord. T́nh báo Anh đă phải sửng sốt: chiến dịch có thể sẽ hoàn toàn đổ vỡ. Tuy nhiên, người ta t́m hiểu được là các ô chữ này do một thầy giáo phổ thông không liên quan ǵ tới vấn đề quân sự lập ra.
Vào năm 1896, nhà văn viễn tưởng Morgan Robertson đă xuất bản ở London cuốn tiểu thuyết Cái chết của Titan về chuyến đầu tiên và cũng là cuối cùng của chiếc tàu thủy chở khách lớn nhất thế giới, đă lâm nạn v́ đụng vào núi băng trôi. Chiếc tàu hư cấu “Titan” và chiếc “Titanic” có trên thực tế, bị ch́m vào năm 1912, giống nhau cả về vẻ ngoài và các điểm đặc trưng của tàu, thậm chí giống cả về số nạn nhân. Chiếc “Titan” được viết trong sách cũng lâm nạn vào tháng 4/1912...
Ngày 6/8/1978, vào 21h40, chiếc đồng hồ báo thức yêu thích của Giáo hoàng Paolo VI bỗng nhiên rung chuông. Nó đă hoạt động suốt 55 năm mà không hỏng hóc ǵ và vẫn được đặt vào 6 giờ sáng, nhưng chính vào thời điểm đó chủ nhân của nó đă kết thúc cuộc sống trên thế gian.
Nghệ sĩ nổi tiếng Antony Hopkins, khi nhận vai trong phim Những cô gái ở đường Petrovka, đă không sao t́m mua được cuốn tiểu thuyết này, nhưng ông lại nhặt được trên chiếc ghế ngoài đường chính cuốn sách như vậy với lời đề tặng của tác giả dành cho đạo diễn phim.
Làm sao có thể giải thích sự trùng hợp ngẫu nhiên số phận bi thảm của các tổng thống Mỹ được bầu lên trong những năm có số kết thúc bằng số 0? Các tổng thống Lincoln (1860), Garfield (1880), McKinley (1900), đều bị giết, Harrison (1840) chết v́ viêm phổi, Roosevelt (1940) chết v́ viêm tủy xám, Harding (1920) bị nhồi máu nặng. Tổng thống Reagan bị mưu sát vào năm 1980.
Trong năm 2000 ông Bush bước vào Nhà Trắng. Số phận đă bảo vệ bản thân ông, nhưng chính trong thời gian ông cầm quyền, tại Mỹ đă xảy ra vụ khủng bố ngày 11/9 khủng khiếp nhất trong lịch sử.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 5 of 28: Đă gửi: 24 May 2006 lúc 6:58am | Đă lưu IP
|
|
|
Những dự báo phi thường của nữ tiên tri mù Bungary
TP - Năm 1980, Vanga - một phụ nữ mù Bungary đă tiên đoán khoảng năm 2000, Kursk sẽ ngập ch́m trong nước. Bà cũng từng có linh cảm về vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ.
Một trong những tiên đoán gây sốc nhất là vào năm 1980, khi bà Vanga nói rằng: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, khoảng tháng 8/1999 hoặc 2000, Kursk sẽ ngập ch́m trong nước và cả thế giới sẽ rơi lệ v́ điều đó”.
20 năm sau lời tiên đoán đă ứng nghiệm một cách kinh hoàng. Vào đúng tháng 8/2000, một tàu ngầm nguyên tử của Nga được đặt tên theo thành phố Kursk đă gặp một tai nạn khủng khiếp và ch́m đắm dưới đại dương.
Khả năng phi thường sau tai nạn
Vanga (Vangelia) Pandeva sinh ngày 31/1/1911 và mất ngày 11/8/1996. Bà sống tại thành phố Petrich, Bungary và khi chết, được an táng tại sân nhà thờ Saint Petca vùng Rupite.
Năm 12 tuổi Vanga đă bị một cơn lốc cuốn đi và sau đó người ta t́m thấy bà c̣n sống sót dưới lớp đất, đá, mắt dính đầy cát.
Sau đó những ngày c̣n lại trong cuộc đời của Vanga chỉ là màn đêm. Vanga bắt đầu có khả năng tiên đoán từ năm 16 tuổi khi bà giúp cha ḿnh t́m lại được con cừu bị đánh cắp.
Bà có thể miêu tả một cách tỉ mỉ, chính xác nơi con vật bị bọn trộm cất giấu. Khả năng tiên đoán phi thường của bà càng thể hiện rơ sau tuổi 30.
Đă có rất nhiều chính khách từng viếng thăm Vanga. Có lần Adolf Hitler đă đến gặp bà, sau đó người ta thấy ông ta ra về với vẻ mặt rất rầu rĩ.
Lời tiên đoán và sự thật kinh hoàng
“Đáng sợ! Đáng sợ! Những anh em đồng đạo của Hoa Kỳ sẽ ngă xuống sau khi bị những con chim sắt tấn công. Những con sói sẽ gầm rú trong lùm cây và máu của những người vô tội sẽ chảy”. (1989).
Và điều đó đă xảy ra như dự đoán. Ṭa Tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (New York) đă đổ sập bởi vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001.
Tháp đôi cũng có nghĩa khác là “sinh đôi” (Twins) hay c̣n gọi là anh em. Những kẻ khủng bố đă khống chế toàn bộ hành khách trên máy bay - “những con chim sắt” và lao vào ṭa tháp.
Lùm cây trong tiếng Anh có nghĩa là “bush” nên ở đây có thể cũng ám chỉ đến tên của vị Tổng thống đương nhiệm của Hoa Kỳ, ông Bush.
“Vô số thiên tai và thảm họa sẽ xảy ra với loài người. Tâm lư con người sẽ bị thay đổi và họ sẽ bị chia rẽ bởi chính niềm tin của họ…”.
Lời tiên đoán đó có vẻ cũng đă ứng nghiệm. Những thời điểm tồi tệ theo tiên đoán đă đến. Một điều ǵ đó đang xảy ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lư chung của chúng ta khi thảm họa sóng thần cuối năm 2004 cướp đi hàng chục ngàn sinh mạng.
Giờ đây chúng ta đang phải chứng kiến hàng loạt các cuộc tấn công khủng bố, xung đột sắc tộc đẫm máu.
“Chúng ta đang chứng kiến những sự kiện trọng đại đáng mừng. Hai nhà lănh đạo vĩ đại đă bắt tay”. Hai nhà lănh đạo ở đây đă được ám chỉ là Gorbachev và Reagan. Thế nhưng chúng ta vẫn c̣n phải đợi khá lâu mới đến Tám Một, khi đó ḥa b́nh trên trái đất mới được xác lập”. (Tháng 1/1988).
Nếu lời tiên đoán đó ứng nghiệm th́ phải chăng Tám Một ở đây được ám chỉ việc Nga gia nhập nhóm G7 và bây giờ là nhóm G8, khi 8 là 1 rất có thể những bước tiếp theo là những nỗ lực cho ḥa b́nh trên thế giới.
“Mọi thứ sẽ tan chảy như đá trước ánh hào quang của Vladimir. Nga không chỉ sống sót mà c̣n chi phối thế giới”.
Điều này dường như cũng đang ứng nghiệm với một nước Nga đang trỗi dậy dưới thời của Tổng thống Vladimir Putin.
Lời khuyên của Vanga
“Những thứ tưởng như rất đáng sợ và nguy hiểm lại không đáng sợ. Những thứ mà sự nguy hiểm và đáng sợ của nó không thể hiện ra bên ngoài mới đáng sợ. Nó có thể gây ra một điều ǵ đó nghiêm trọng làm xáo trộn cuộc sống chúng ta”.
nguồn: http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?Article ID=37264&ChannelID=5
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 6 of 28: Đă gửi: 27 May 2006 lúc 10:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Phân biệt màu sắc bằng tay
Sergei Fetisov, một người khiếm thị ở thành phố Vladimir, Nga có khả năng đặc biệt: phân biệt màu sắc bằng xúc giác. Ngoài ra, ông c̣n có thể "thấy" được quầng sáng của một người và biết được người đó bị đau ở đâu.
Sergei bị mù ở tuổi 14 từ một lỗi lầm của chính ḿnh. Do hiếu động, cậu bé nghĩ cách chế tạo một khẩu súng ngắn rồi đem ra bắn thử. Khẩu súng nổ ngay trên tay, một viên đạn bay vào mắt trái và làm tổn thương phần sọ của Sergei. Các bác sĩ cho rằng cậu bé này sẽ không sống nổi, nhưng em đă vượt qua được tuy phải chịu đựng cảnh mù vĩnh viễn.
Không c̣n thấy ánh sáng, nhưng Sergei Fetisov không đầu hàng số phận, ông đă sống và lao động với một nghị lực mạnh mẽ. Ông tham gia Hội những người khiếm thị Nga, học để đọc sách bằng chữ nổi và đảm trách công việc của người giao hàng. Cách đây vài năm, trong một dịp t́nh cờ, Sergei phát hiện ḿnh có một năng lực đặc biệt. Một phụ nữ đến Hội người khiếm thị để dạy cho những người mù phân biệt màu sắc bằng xúc giác. Đa số những người ở hội đều không thể nói được màu sắc từ tấm thẻ của bà đưa ra, chỉ có Sergei là phân biệt được cả. Sau giai đoạn rèn luyện kiên tŕ, Sergei đă thành thạo trong việc phân biệt màu sắc bằng cách sờ lên một vật.
Tuy nhiên, không phải ai cũng tin vào khả năng đặc biệt của Sergei, ngay cả những người bạn thân của ông cũng hoài nghi về khả năng phân biệt màu sắc bằng những ngón tay này. Họ thường t́m dịp để thử tài ông.
Có lần, một người phụ nữ quen đến đánh đố Sergei về màu tóc của bà. Sergei nắm lấy mớ tóc, giữ nó trong tay thật lâu mà chưa nói được chính xác màu ǵ. Sau đó, ông lúng túng nói: "thật ra tóc của chị có nhiều màu... Hơi lạ là nó có cả màu đỏ, trắng và đen". Nghe thế, người phụ nữ phá lên cười. Bà nói rằng đă nhuộm tóc với nhiều màu cách nay không lâu. Và Sergei đă nói đúng các màu trong số nhiều màu tóc kỳ quặc đó.
Không lâu sau, Sergei đă làm cho mọi người ngạc nhiên khi ông bộc lộ một số năng lực khác nữa, ví dụ như có thể "thấy" được hào quang phát ra của một người và nói được người đó đang bị đau ở đâu. Ông nhấn mạnh rằng ḿnh không thể chẩn đoán bệnh mà chỉ cảm nhận được khi người đối diện bị nhức đầu hay đau răng. Ông thấy được quầng sáng bằng cách sờ vào đối tượng. "Quầng sáng của mỗi người mỗi khác, nhưng nó không bao giờ là đơn sắc. Hào quang tốt th́ sáng, màu vàng hay đỏ, c̣n hào quang xấu th́ có màu đen hay nâu", ông giải thích.
Sergei cho rằng ḿnh không phải là một thuật sĩ. Theo ông, đôi khi người ta phát lộ một kỹ năng đặc biệt sau khi bị một chấn thương nghiêm trọng nào đó. Hiện nay, Sergei tận dụng mọi cơ hội để đi du lịch và hoạt động thể thao như bơi lội, chạy bộ. Chơi cờ là sở thích mới của ông. Ông có thể dùng những quân cờ b́nh thường để chơi v́ phân biệt được màu sắc của chúng bằng những ngón tay.
Trưởng pḥng kiểm tra sự hồi phục thuộc Hội người khiếm thị, Andrey Bannikov cho rằng những ngón tay của người mù có độ nhạy cảm rất cao. Họ có thể đọc sách bằng chữ nổi rất nhanh, một số người c̣n có thể đọc được những bản chữ đă ṃn, nhưng dùng những ngón tay phân biệt được màu sắc là chuyện ông chưa hề nghe thấy trước đây. Không ai trong số 202.000 người mù của hội có thể chứng tỏ được tài năng đặc biệt này, trừ Sergei Fetisov. Và năng lực này của ông có thể liên quan đến lĩnh vực thần bí mà con người chưa giải mă được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 7 of 28: Đă gửi: 15 June 2006 lúc 7:19am | Đă lưu IP
|
|
|
Bí ẩn người ngoài hành tinh trong sử thi Gilgamesh
Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ đă từng có một phát hiện gây xôn xao ở núi Kujujik, đó là một bộ sử thi anh hùng đầy hấp dẫn. Bộ sử thi này được khắc trên 12 bản bằng đất, nó vốn được bảo quản trong Thư viện Azonibo của Quốc vương Azo, được viết bằng chữ Akko.
Sau này, người ta c̣n phát hiện ra quyển thứ 2 thuộc về nhà vua Hammourabi (1848-1806 trước Công nguyên) Vương quốc Cubabilon.
Đây là bộ Sử thi Gilgamesh có giá trị lịch sử và văn học rất lớn. Tất cả giới khoa học đều công nhận rằng, Sử thi Gilgamesh nguyên bản của nó xuất phát từ người Sumer. Người Sumer là một dân tộc thiện chiến, cho tới nay chúng ta cũng chưa rơ được nguồn gốc của dân tộc này, chỉ biết rằng họ đă để lại 15 số tự làm con người ngày nay kinh ngạc, những kiến thức về thiên văn toán học vô cùng tiên tiến.
Ở bản thứ nhất của Bộ sử thi Gilgamesh miêu tả một con quái vật Anjitu được Nữ thần Aru tạo ra. Toàn thân Anjitu mọc đầy lông dài. Nó ăn cỏ, và uống nước ở chỗ trũng như ḅ, nó c̣n thích nô đùa ở chỗ có nước sôi nóng bỏng. Vua của Thành Uruk nghe nói đó là một sinh vật xấu xí, bèn đề
Vua của Thành Uruk
(Ảnh: mediarebellion)
nghị cho nó một người con gái xinh đẹp, làm như vậy để nó có thể rời xa đàn ḅ. Anjitu bị Vua dùng kế bắt được, và cho cùng sống với người phụ nữ đẹp mê hồn nửa thần nửa người, được 6 ngày 6 đêm.
Trên bản thứ 2 kể rằng, người anh hùng Gilgamesh luôn luôn chiến thắng đă cho sửa chữa lại tường Thành Uruk. Vị thần này sống trong một cung điện rộng lớn, bên trong có cả kho lương thực, trên tường thành đều có vệ sỹ đứng gác, tuần tra canh pḥng. Gilgamesh là ḍng máu pha trộn giữa người với thần, 1/3 là người c̣n 2/3 là thần. Tín đồ hành hương đến Thành Uruk đều run rẩy khi ngửa mặt lên nh́n ông ta, bởi v́ người ta chưa bao giờ nh́n thấy một người to khỏe và đẹp trai đến như vậy. Tập thơ tự sự này lại một lần nữa đề cập đến vấn đề giao phối giữa người với thần.
Bản kể thứ 3 kể rằng, từ nơi xa một cơn lốc bụi cuốn tới làm kinh thiên động địa, bụi cát mù trời. Thần Mặt trời xuất hiện, ông ta dùng một móng vuốt rất lớn quặp lấy Anjitu. Ở đây mô tả Thần Mặt trời như một mũi khoan nặng nề cắm vào người Anjitu, nặng nề đè lên như một cái thớt cối. Con người ngày nay ngạc nhiên và khó lư giải. Phải chăng, người nguyên thủy đă tự biết rằng, dưới một gia tốc nhất định, cơ thể con người có thể lao mạnh như một mũi khoan? Ngày nay, chúng ta đă biết được gia tốc của lực hấp dẫn, phi công vũ trụ khi cất cánh bị một gia tốc trọng lực ép chặt xuống ghế, điều này đă được tính toán kỹ từ trước. Nhưng người nguyên thủy tại sao lại có thể hiểu được những kiến thức ấy?
Bản thứ 6 kể rằng, Gilgamesh và Anjitu đă cùng nhau đi đến nơi ở của thần. Đứng từ rất xa họ đă nh́n thấy ngọn tháp rực rỡ, vô cùng huy hoàng tráng lệ. Đấy là nơi ở của nữ thần Oninis. Hai hiệp sỹ thận trọng lấy tên và đạn bắn các vệ sỹ, nhưng đều bị bắn trả lại, các vệ sỹ không hề bị xây xước. Hai hiệp sỹ vội vàng áp sát cung điện, lúc đó đột nhiên nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp: "Hăy quay về đi!! Phàm là người nào đă đến núi thánh nơi ở của thần, nếu người nào chỉ cần nh́n thấy mặt thần th́ người đó sẽ nhận lấy cái chết". Trong Kinh thánh cũng có đoạn ghi như vậy "Người không thể nh́n được mặt ta, người nh́n mặt ta sẽ không thể sống được".
Bản thứ 7 thuật lại cảnh loài ngoài lần đầu tiên nh́n thấy Trái đất từ Vũ trụ. Anjitu bị móng đồng của con chim ưng lớn quắp lấy bay trong không trung. Trong sách ghi lại như sau:
Ngài nói với ta rằng: "Mi hăy nh́n xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái ǵ? Mi hăy nh́n lại biển xem biến giống cái ǵ? Mặt đất giống ngọn núi cao, mặt biến giống như một cái hồ. Bay thêm một giờ đồng hồ nữa, lại hỏi ta "Mi hăy nh́n xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái ǵ? Mi hăy nh́n lại biển xem biển giống cái ǵ?" Mặt đất lúc này giống như một khu vườn, mặt biển giống như một bồn nước trong vườn hoa. Lại bay thêm 4 tiếng nữa hỏi: "Mi hăy nh́n xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái ǵ? Mi hăy nh́n lại biển xem biển giống cái ǵ?" Mặt đất như cháo loăng, mặt biển như chậu nước".
Nhất định phải có một sinh vật nào đó đă nh́n Trái đất từ trên trời cao. Ở bản này c̣n kể rằng, một cánh cửa đă nói giọng như một con người, điều này khiến người ta nghĩ ngay tới phát thanh.
Đến bản thứ 8, Anjitu đă từng nh́n thấy Trái đất từ trên cao ấy đă bị chết v́ một bệnh rất lạ. Gilgamesh hỏi có phải Anjitu đă bị trúng khí độc do một loài dă thú trên trời có thể gây nên một chứng bệnh không thể điều trị liệu được ở người.
Bản thứ 9, kể lại câu chuyện Gilgamesh vô cùng thương tiếc người bạn Anjitu bèn quyết định lặn lội dặm trường đi t́m thần, bởi v́ ông ta lúc nào cũng nghĩ rằng sẽ chết b́ căn bệnh giống như bệnh của Anjitu. Gilgamesh đi đến chân 2 ngọn núi chống trời, vắt ngang qua 2 ngọn núi là Cổng Mặt trời. Trước Cổng Mặt trời, ông ta đă gặp 2 người khổng lồ. Phải thương lượng cả một ngày, Gilgamesh mới có thể vào được. May mắn v́ ông ta 2/3 là thần, nên một lát sau Gilgamesh đă t́m thấy vườn hoa của thần ở bên một bờ biển rộng lớn. Khi Gilgamesh đang trên đường đi, thần đă cảnh cáo ông ta 2 lần: "Hỡi Gilgamesh, mi đi đâu? Mi không t́m được tính mạng mà mi muốn đâu. Khi thần tạo ra người, th́ đă xếp đặt trước vận chết rồi, c̣n tính mạng là do thần tự thân nắm quản". Gilgamesh không nghe khuyến cáo, quyết tâm tiến bước, cho dù có bao nhiêu nguy hiểm, ông ta
Người anh hùng Gilgamesh
(Ảnh: planetxvideo)
nhất định phải đến được nơi ở của Utenapise. Nhưng Utenapise lại ở một bờ biển rất xa xôi, ở đó không có đường đi, ngoài con tàu của Thần Mặt trời ra th́ không có một con tàu nào khác có thể bay được qua biển rộng. Gilgamesh đă vượt qua bao nguy hiểm, biết dựa vào trí thông minh của ḿnh để vượt qua biển rộng.
Về sau, bản thứ 10 đă tả lại cảnh ông ta tới gặp Utenapise, cha của loài người có eo lưng không thô hơn eo lưng ông, vai cũng không rộng lớn, mà là người có vóc dáng như ông ta. Utenapise nói rằng, 2 người trông rất giống cha họ. Tiếp đó, Utenapisa kể lại cho Gilgamesh nghe những việc mà Gilgamesh đă trải qua, kỳ lạ là ông ta lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để kể. Thật ngạc nhiên là Utenapise đă miêu tả hết sức tỷ mỷ nạn Hồng Thủy. Ông ta kể rằng, thần đă cảnh cáo ông ta có nạn Đại Hồng Thủy, để ông ta đóng một con thuyền, dùng để cứu trẻ em, phụ nữ, những người thân của ông ta cùng với các nghệ nhân của các ngành nghề. Ông ta đă miêu tả nhiều cảnh phong ba băo táp, nước thủy triều ầm ầm dâng cao màn đêm đen đặc cùng với những con người mà ông ta không thể cứu vớt hết được, cho đến ngày nay cảnh tượng ấy vẫn c̣n sinh động và có sức cuốn hút kỳ lạ. Câu chuyện này thật giống với câu chuyện của Noê trong Kinh Thánh, chúng ta lại được nghe câu chuyện thả quạ và chim bồ câu, câu chuyện sau khi nước rút thuyền bị mắc cạn trên một ngọn núi.
Căn cứ vào những miêu tả ở trên, chúng ta có thể đặt một giả thiết về lịch sử mơ hồ của loài người như sau: Từ thuở rất xa xưa, có một phi thuyền Vũ trụ không rơ từ đâu phát hiện ra sự tồn tại của hành tinh chúng ta. Họ nhanh chóng hiểu ra rằng, Trái đất có đầy đủ điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trí tuệ con người. Đương nhiên thời ấy loài người trên Trái đất không phải là loài người chúng ta bây giờ.
Người ngoài hành tinh đă thụ tinh cho một số phụ nữ ở Trái đất, giống như lời kể trong truyện thần thoại, họ đợi cho những phụ nữ này ngủ say rồi bỏ đi. Mấy ngh́n năm sau, những người khác ngoài hành tinh lại tới Trái đất, họ t́m thấy sản phẩm là hậu duệ của họ để lại. Họ lại tiếp tục tiến hành giao phối nhiều lần cho đến khi tạo ra được một loại sinh vật có trí tuệ để họ có thể truyền thụ cho loài sinh vật này kỹ năng sinh tồn và những quy luật sống của xă hội.
Loài người thời đó là loài dă man chưa được khai hóa, họ rất có thể bị thoái hóa nên một lần nữa giao phối với dă thú. Người ngoài hành tinh đă nh́n thấy mối nguy hiểm này, nên đă tiêu diệt cái sản phẩm không thành công của họ, hoặc đem chúng đến một vùng đất khác. V́ vậy, xă hội nguyên thủy, kỹ năng nguyên thủy nhất đă bắt đầu xuất hiện, những bức tranh vẽ trên vách đá và trong hang động, làm ra đồ gốm, rồi tới những kiến thức ban đầu về việc dựng nhà ở, từng thứ một cứ dần dần xuất hiện. Những người nguyên thủy này vô cùng sùng kính những người khách tới từ trời cao. Bởi v́ những vị khách này tới từ một nơi mà loài người không hề biết, hơn nữa sau này họ lại bỏ đi mất.
Trong tâm thức của loài người, họ là thần thánh, họ là Thượng đế.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 8 of 28: Đă gửi: 26 June 2006 lúc 6:40am | Đă lưu IP
|
|
|
Hành tŕnh đi t́m ánh sáng của cô gái mù
Sinh ra tại một làng nhỏ chuyên trồng rau gia vị của Hà Nội, tuổi thơ của Tú trôi qua êm đềm như bất cứ đứa trẻ nào lớn lên ở thôn quê. Song quăng thời gian mà cô cho là “tuyệt vời đẹp” ấy không ở với cô lâu. Ngày mang thai Tú, mẹ không may bị cúm nên 10 năm sau khi cất tiếng khóc chào đời, cô dần phải làm quen với cuộc sống không có ánh sáng. Trước đó, Tú vẫn đến trường, yêu văn học nên 7 tuổi đă đọc tiểu thuyết, nhưng đôi mắt cứ mờ dần do bệnh tăng nhăn áp. 10 tuổi, bệnh nặng quá, cô không tiếp tục đi học được nữa. Chạy chữa khắp nơi không được, cô phải từ giă ánh sáng. 16 tuổi, Tú đứng trước nguy cơ bị vỡ nhăn cầu. Các bác sĩ khuyên nên bỏ đi đôi mắt, nếu không sẽ bị đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. “Lúc ấy tôi c̣n bé, bất hạnh lại đến một cách từ từ nên tôi không bị sốc”.
Có lẽ cú sốc lớn nhất trong đời Tú, một nỗi đau tưởng chừng lớn hơn việc mất đi đôi mắt, là sự ra đi vĩnh viễn của người cha thân yêu sau một tai nạn giao thông lúc cô 13 tuổi. Càng thương mẹ chịu đựng quá nhiều nỗi đau, lại một ḿnh tần tảo nuôi ba chị em ăn học, cô càng rơi vào sự cô đơn. “Tôi ương bướng lắm, đến nỗi mẹ phát cáu. Tôi không thích sống giả dối và đôi khi cũng biết là ḿnh quá quắt”.
Câu chuyện kỳ lạ
Năm 1994, Thanh Tú t́nh cờ gặp nhà văn Nguyên B́nh, lúc này đang luyện khí công với hy vọng chữa bệnh thiểu năng tuần hoàn năo cho vợ. Một chuyện kỳ lạ xảy ra. Hôm đó khoảng 4 giờ sáng, ông ngồi dậy tập và bỗng nhiên thấy căn pḥng sáng lên như ban ngày. Rất hoang mang, ông đem kể cho mọi người nghe, “vậy là chú đă khai mở con mắt thứ ba rồi đấy”. Ngay lập tức, Nguyên B́nh nghĩ đến những người mù và t́m đến họ để dạy. Nhưng lúc đó ông đă lầm.
Thanh Tú là học tṛ đầu tiên của thầy B́nh, song cô đến với ông không phải với hy vọng đôi mắt nhựa của ḿnh sẽ biến thành mắt thật mà bởi v́ cô đang bị bệnh eczema rất nặng, bàn chân cứ lở loét hết tưởng như không thể đi được nữa. “Gặp thầy B́nh, tôi tin ngay vào con người ông. Tôi quyết định tập xem thử chân ḿnh có khỏi không”. Tập được mấy tháng, Tú thấy có ánh sáng trước mắt ḿnh. Người đầu tiên cô nh́n thấy chính là thầy giáo ḿnh, nhưng tia sáng chỉ lóe lên rồi tắt hẳn. Điều này khiến cả thầy và tṛ đều nhầm lẫn phương pháp này có thể giúp ích cho người mù. Và họ rơi vào ảo giác, nhất là với những người nhạy cảm như Tú, cô đă bị sốc. “Tôi cứ nh́n thấy ma quỷ, thánh thần xung quanh ḿnh. Phải mất hơn hai năm mới xóa hết được ảo giác này” - Tú nói.
Tú lấy lại b́nh tĩnh là nhờ phương pháp dưỡng sinh phục hồi chức năng do nhà văn Nguyên B́nh nghĩ ra sau khi từ bỏ phương pháp khí công. Nó giúp mở ra những khả năng mà tự nhiên đă ban cho con người. Đây là phương pháp chính của chương tŕnh “Ánh sáng của người mù” mà nhà văn dạy cho những người mù từ năm 1999 đến nay, rất đơn giản mà hiệu quả lại cao. Đă có 2/3 người mù sau khi tập luyện đạt kết quả ở những mức độ khác nhau và chính họ lúc đầu cũng không tin là ḿnh nh́n được dù đó chỉ là trong chốc lát với những vệt ánh sáng đứt đoạn.
Tôi mù?
Tin chắc rằng hướng ḿnh đang đi là đúng, thầy B́nh nói với Tú “một ngày nào đấy, thầy sẽ không c̣n trên cuộc đời, con là người trong cuộc, con hăy viết đi để cho mọi người được biết”. Và Tú đặt bút viết Tôi mù? trong suốt bảy năm, lúc th́ bằng chữ nổi, lúc th́ bằng loại chữ mà Tú đă được học khi mắt c̣n sáng. “Khi họa sĩ Trần Đại Thắng mang cuốn sách tới, tôi không nh́n được, anh về rồi tôi mới thấy, tôi rất thích b́a sách” - Tú nói.
Hầu như ngày nào Tú cũng nh́n được thế giới xung quanh, lúc này hoặc lúc khác, ít hoặc nhiều. Có khi cô ngồi đọc sách cả mấy tiếng đồng hồ. Cô biết, Hà Nội đă thay đổi rất nhiều, từng ngày, từng giờ. Chỉ có mẹ và Tú là vẫn như xưa. Mẹ đă lục tuần rồi mà vẫn làm được hướng dẫn viên du lịch. Tú đă trưởng thành, hiểu biết nhiều mà khuôn mặt vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, thơ ngây.
“Mẹ đôi khi vẫn nghi ngờ tôi đă biết hôm nay bà mặc đồ ǵ. Mẹ bảo, bắt được kiến rồi mà sao đi vẫn bị vấp?”. Tất nhiên, t́m lại nguồn sáng đă mất đâu phải là điều dễ dàng. Và Tú vẫn đang tiếp tục t́m. Ai gặp cũng nhận xét Tú là người can đảm, rất bản lĩnh nhưng cô tự thấy ḿnh thật yếu đuối. Đôi lúc cũng thấy nản ḷng, nghĩ thôi an phận cho xong một đời nhưng dường như Tú chỉ có một con đường là tiến về phía ánh sáng. Hai mươi năm, rất nhiều sóng gió đă qua đi, trả về cho cô cuộc sống b́nh yên trong ngôi nhà thân thuộc song cô vẫn không quen được với bóng tối, không chấp nhận được khi quanh ḿnh luôn là bóng đêm Cô muốn làm chủ thứ ánh sáng thần kỳ đă đến với ḿnh và bạn bè.
Vậy khi đă tới nơi rồi, Tú sẽ làm ǵ? Sẽ giúp người mù khác t́m ra ánh sáng - Tú nói. 3/4 người mù ở Việt Nam không có hy vọng chữa khỏi bằng y học. Phương pháp này không chỉ giúp người mù nh́n thấy mà c̣n cho họ một tinh thần thoải mái, chiến thắng bệnh tật (bệnh eczema của Tú đă khỏi mà không cần đến thuốc) và nghị lực trong cuộc sống.
Nguon: http://www.nld.com.vn/tintuc/van-hoa/155353.asp
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 9 of 28: Đă gửi: 26 June 2006 lúc 7:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tự truyện khó tin của cô gái mù “có phép lạ”(
Chuyện hoang đường chăng? Cô gái ấy đă kể lại tuổi thơ dữ dội và hành tŕnh từ bóng tối đến với thế giới ánh sáng trong cuốn tự truyện của ḿnh.
“Tôi mù?”- tự truyện của cô gái mù “có phép lạ” vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Đông A ấn hành, cuốn sách dẫn dụ độc giả tới một thế giới chưa từng có…
Côn Sơn – một ngày thu cách đây đă 2 năm, tôi gặp Nguyễn Thanh Tú khi cô đang cùng những người mù tập dưỡng sinh.
Gương mặt cũng thanh tú như tên gọi, làn da trắng hơi xanh xao, Tú giống như một tiểu thư quen sống cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”. Nhưng đằng sau vẻ ngoài khuê các ấy là một quăng đời bất hạnh với những kư ức buồn.
Mắc chứng Glo-côm bẩm sinh, mới cất tiếng khóc chào đời, Tú được đưa từ nhà hộ sinh đến thẳng Viện Mắt. Bốn lăm ngày tuổi, Tú lên bàn mổ lần đầu, mười sáu tuổi phải bỏ cả hai mắt sau mười lần phẫu thuật. Tú sống trong thứ bóng tối đậm đặc và tưởng chừng như vĩnh viễn.
Bóng tối ấy dường như sẽ làm Tú tàn phế về mặt tâm hồn, sẽ tuyệt vọng... nếu “ánh sáng cuối đường hầm” không xuất hiện khi tháng 10/1994 Tú được giới thiệu lên Hội Người mù Việt Nam để tiếp cận một phương pháp dưỡng sinh. Người hướng dẫn phương pháp này - nhà văn Nguyên B́nh - đă giúp Tú kiên tŕ tập.
Tập luyện được một thời gian, ngày nọ Tú bỗng thấy không gian bừng lên, một thứ ánh sáng rực rỡ bao phủ đôi mắt cô. Từ chỗ “nh́n” c̣n mờ mờ, ảo ảo dần dần Tú “nh́n” rơ hơn.
Cô thấy những chùm hoa khế đang rụng trước sân, chiếc lá vàng bay là là dưới mái hiên… Những khoảnh khắc đời thường ấy đối với cô gái phải đeo mắt nhựa này là một cái ǵ đó c̣n kỳ diệu hơn cả chuyện cổ tích…
“Thế giới ánh sáng” của cô gái mù này đă được kể lại trong cuốn tự truyện mà Tú bắt đầu viết từ năm 1999. Viết bằng chữ b́nh thường, viết bằng chữ nổi, rồi “phiên dịch” lại. Cần mẫn với những con chữ gần bảy năm, giờ đây “Tôi mù?” đă xuất hiện trên các hiệu sách. Với Tú, cuốn tự truyện “Tôi mù?” là một cột mốc đánh dấu bước ngoặt trong hành tŕnh đi t́m ánh sáng của người mù.
Tú cầm cuốn tự truyện trên tay, đôi mắt nhựa của cô dường như đang ánh lên những tia sáng hạnh phúc.
Cô nói: “Cuốn sách này phải ra đời như một lẽ đương nhiên bởi v́ nó rất có ích cho hành tŕnh t́m lại ánh sáng của người mù. Em muốn chuyển một thông điệp: Trên đời đang có một phương pháp t́m ánh sáng cho người phải chịu sự khắc nghiệt của số phận.
Em không có ư định viết một tác phẩm văn chương. Bằng việc kể lại quăng đời từ bóng tối tới ánh sáng của ḿnh, em muốn gửi gắm tới những người khiếm thị một niềm hy vọng, một nghị lực vươn tới, vượt lên số phận, khẳng định giá trị của chính ḿnh”.
“Dường như Tú đang gắn cuộc đời ḿnh với việc đi t́m ánh sáng cho người mù? Một công việc duy nhất mà Tú yêu?”.
Thanh Tú trả lời bằng tiếng cười trong veo: “Công việc em đang làm nhọc nhằn đến mức không yêu nó được. Biến cái hoang tưởng thành hiện thực- một cái ǵ đó “điên” như húc đầu vào đá.
Nhưng điều quan trọng là cái tưởng chừng như hoang tưởng đó đă có kết quả, nhiều người mù tập luyện phương pháp này đă “nh́n thấy” và bản thân em cũng được nó “cứu rỗi”.
Đă mấy năm nay, ngôi nhà rợp bóng cây của Tú trở thành nơi lui tới của nhiều người mù. Họ đến đây để được cô gái “có phép lạ” này hướng dẫn tập dưỡng sinh. Không ít người trong số đó đă thấy bừng lên trong mắt thứ ánh sáng mà họ đinh ninh rằng đă bị số phận tước đoạt vĩnh viễn. ánh sáng của đức tin, của khát vọng sống như những người hoàn toàn lành lặn?
Đă mấy năm nay, Tú âm thầm hướng dẫn tập dưỡng sinh cho những người cùng cảnh ngộ, cô làm việc này tự nhiên như nó phải thế, không hề đ̣i hỏi bất cứ sự thù lao nào. Với Tú, thù lao lớn nhất là khi những đôi mắt đă “ngủ quên” kia tự nhiên thức dậy.
Người ta gọi Tú là cô gái mù có “phép lạ”. Tôi đă được tận thấy “phép lạ” của Tú trong chuyến lên Côn Sơn đi thực tế với nhóm người mù của nhà văn Nguyên B́nh.
Tôi c̣n nhớ đó là một buổi tối mùa thu êm như nhung, Thanh Tú đứng bên hồ nh́n vầng trăng lay động dưới đáy nước. Rồi cô gái mù này ngước lên nh́n không gian ngập tràn ánh bạc.
Những ǵ Tú kể lại sau đó hoàn toàn đúng như cảm nhận của tôi. Cũng hôm đấy, ở chùa Côn Sơn, Tú “nh́n” rơ đến mức cô có thể dùng que để chăn một đàn kiến đang chạy trên băi cỏ.
Và mặc dù chiếc cặp của tôi để trong tủ ở khách sạn cách Tú hàng trăm mét, nhưng Tú đă đọc vanh vách trong đó chứa cái ǵ. Tin được không? Điều đó cần có thời gian và cần cả những tấm ḷng khoan dung sẵn sàng tiếp nhận và chấp nhận những điều chưa- từng- có c̣n chưa được khám phá trong thế giới này.
Điều mà tôi bắt gặp trong cuốn tự truyện của cô gái vốn “nghèo hai con mắt” này là một tâm hồn giàu có đầy những cung bậc rung cảm trước cuộc sống.
Tuổi thơ của Tú không những bất hạnh v́ mất đôi mắt mà c̣n phải chịu nỗi đau mất bố quá sớm. Mẹ Tú bươn chải nuôi hai chị em trong khi phải chống chọi với một số thế lực đ̣i cướp ngôi nhà mà họ đang ở.
Có lẽ v́ thế mà trong cuốn tự truyện luôn xuất hiện h́nh ảnh của những con người gặp nhiều thiệt tḥi, mất mát trong cuộc sống. Một cô gái mù bị cướp mất con, một ông lăo mắc bệnh hiểm nghèo, phải bán hết gia sản c̣m để chữa bệnh…
Nhưng xuyên suốt tất cả, vẫn là niềm yêu sống và nghị lực phi thường của cô gái vừa ra đời đă có lư do để t́m đến cái chết.
Nhà văn Nguyên B́nh nói về người học tṛ của ḿnh: “Những người, những việc kể trong “Tôi mù?” có thể xếp vào loại Chuyện lạ có thật, thứ chuyện làm thỏa măn trí ṭ ṃ của số đông.
Nhưng đọc kỹ và không định kiến, ta sẽ thấy đấy là công việc rất nghiêm túc. Lạ, v́ nó vượt ra ngoài những hiểu biết của chúng ta... Dám mơ ước và dũng cảm biến ước mơ tưởng là hoang đường thành hiện thực, qua những trang viết chân thật, Nguyễn Thanh Tú gửi thông điệp cho mỗi chúng ta: đừng tuyệt vọng, dù trong đời gặp tai ương bất hạnh đến đâu.
Trên con đường gian nan t́m lại ánh sáng, tuy chưa có kết quả hoàn toàn như mong muốn, Nguyễn Thanh Tú đă trở thành người có nhiều để cho. Phẩm chất người ở tầm mức ấy không phải ai cũng có được”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 10 of 28: Đă gửi: 27 June 2006 lúc 8:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phép chữa bệnh của các Đạo sư
Đây vẫn là một vấn đề gây tranh căi và chưa được lư giải bằng khoa học nhưng những điều tai nghe mắt thấy dưới đây của một học giả uyên thâm người Bolivia Lama Anagarika Govinda đáng cho ta suy nghĩ. Lạt ma Ngawang Kalzang nhập thất đă hơn 12 năm nay trong một hang đá hẻo lánh. Không ai biết ngài là ai, không ai nghe đến tên ngài. Ngài chỉ là một tu sĩ trong hàng ngàn tu sĩ sau một thời gian tu trong tu viện đă phát nguyên tu nhật thất. Trong lúc tu thiền, chỉ một vài thú rừng đến quấn quít chung quanh c̣n ng̣ai ra tất cả ḥan toàn vắng lặng, gần như không một ai đặt chân đến khe núi đă bị đá đổ xuống lắp kín lối vào. Đêm hôm đó, một luồng sét ở đâu bỗng xẹt trúng tảng đá, đánh bật nó qua một bên.
Hôm sau, một người chăn dê đi ngang qua khe núi. Đang mải miết đi bỗng anh nghe tiếng mơ nhịp đều đặn, thỉnh thoảng lại điểm một tiếng chuông. Lúc đầu, người chăn dê hỏang sợ v́ tại sao giữa chốn hoang vu này lại có tiếng mơ, mà âm thanh nghe sao lâng lâng thóat tục không giống những tiếng mơ thông thường. Trí ṭ ṃ giục anh lần bước theo tiếng mơ vào khe núi…. Người chăn dê nh́n thấy một tu sĩ đang yên lặng ngồi thiền trong động đá, tu sĩ thân thể gầy ốm chỉ c̣n da bộc xương nhưng khuôn mặt ngài lại tỏa ra một vẻ hiền từ vô tả.
Người chăn dê thu hết can đảm bước lại cúi đầu đảnh lễ. Khi tu sỉ đưa tay sờ lên trán người chăn dê th́ anh thấy một luồng hơi ấm chạy suốt từ đỉnh đầu xuống gót chân khiến anh cảm thấy lâng lâng một sự b́nh an.
Người chăn dê chạy về làng báo tin. Dân làng không ngờ trong khe núi hiểm trở, hoang vu lại có một vị Lạt ma ẩn tu từ bao năm nay. Truyền thống Tây Tạng rất kính ngưỡng những bậc tu hành như vậy nên cả làng vội vă kéo đến qùi cả dưới chân ngài. Bất cứ ai đến gần ngài cũng đều có được một sự b́nh an vô tả. Ngay cả những người nổi tiếng nóng nảy cũng thấy ḷng ḿnh dịu lại và họ chỉ biết chắp tay cung kính chờ đến khi ngày giơ tay ban phép lành cho họ. Tiếng đồn về vị Lạt Ma có khả năng mang lại sự b́nh an truyền đi rất nhanh. Chỉ một thời gian ngắn, không những dân chúng trong làng mà cả những làng mạc kế cận đều đổ xô đến khe núi hiểm trở.
Lạt ma Kalzang hiểu rằng đă đến lúc ngài phải xuống núi để phổ độ chúng sinh. Ngài trở thành ḥa thượng làng Tomo. Sau thời gian trụ tŕ ở đây, ngài lên đường đi khắp các nước xung quanh dăy Tuyết sơn. Cùng với danh tiếng về việc truyền bá những tư tưởng cao thượng, ḥa thượng Tomo c̣n thể hiện một quyền năng chữa bệnh kỳ lạ. Việc chữa bệnh của những người đạo sư không có ǵ xa lạ đối với ngừơi Tây phương. Chính đức Chúa Jesu cũng đă từng làm các phép lạ này để đem lại niềm tin cho các tín đồ. Đức tin và quyền năng chữa bệnh liên hệ với nhau vô cùng chặt chẽ. Đức tin là khả năng nhận lănh. “Quyền năng chữa bệnh là khả năng chuyển vận những luồng thần lực vào người khác để giúp họ đều ḥa cơ thể”.
Một điểm quan trọng cần nêu lên: ở đây người chữa bệnh chỉ là một con đường vận hành, một chất xúc tác, một động cơ để các luồng thần lực thiên nhiên tác động. Họ không phải là người sở hữu quyền năng đó, một tu sĩ diệt ngă không bao giờ vỗ ngực xưng là đấng này, đấng nọ hay khoe khoang bất kỳ quyền năng nào.
Đa số mọi người đều cho rằng quyền năng là một cái ǵ đó có thể sở hữu, một phép lạ, một cái đũa thần chỉ đá hóa vàng, hô phong hóan vũ hay bay nhảy lên không trung. Tóm lại, khi sở hữu quyền năng họ có thể làm bất cứ thứ ǵ theo ư muốn. Đó là một quan điểm ấu trĩ xuất phát từ trí tưởng tượng và ḷng tham ít kỷ. Đối với họ, thế giới này là một cái ǵ phiền phức, một chướng ngại cho bản ngả của họ nên họ phải t́m cách thay đổi nó để hợp ư ḿnh. Đi xa hơn nữa, quan niệm này bắt nguồn từ cái bản ngă kiêu căng, nó nghĩ rằng nó có thể đạt được tất cả những ǵ nó muốn, mà nó th́ muốn rất nhiều. V́ không thể thơa măn cái tham vọng đó nên nó nghĩ rằng nó cần phải có thêm quyền lực, một thứ quyền lực siêu nhiên do chính nó tưởng tượng ra và gọi đó là “quyền năng”. Một người nhập thất bắt đầu bằng việc diệt ngă. Do công phu tu hành mà họ ư thức rằng quyền năng lớn lao nhất mà họ có thể sở hữu được là việc kiểm soát, chinh phục bản ngă. Khi cái bản ngă không c̣n, họ không c̣n thấy thế gian này là một cái ǵ phiền phức, một thực thể cách biệt với họ nữa mà tất cả chỉ là một. Khi ḿnh và thế gian không c̣n sai khác, không c̣n phân biệt th́ đời sống trở nên thực tiễn hơn và tất cả mọi sự tầm thường nhất, nhỏ bé nhất đều trở nên màu nhiệm lạ lùng.
Việc chữa bệnh thường được gọi như một phép lạ v́ nó không được giải thích một cách hợp lư. Thực ra quyền năng chỉ là sự phối hợp những động lực thiên nhiên một cách trực tiếp. Khi bị bệnh, thân thể con người thừơng bị xáo trộn bởi những nguyên nhân khác nhau. Nếu bệnh nhẹ th́ chỉ tĩnh dưỡng ít lâu, cơ thể họ có thể hồi phục v́ người nào cũng có cái khả năng tự chữa bệnh, tự điều ḥa các trật tự sẳn có nơi ḿnh.
Bệnh nặng là khi thân thể họ không đủ tái lập cái trật tự ban đầu nữa nên lâm vào t́nh trạng mất quân b́nh. Điều này có thể ví như một b́nh điện bị yếu, không đủ sức làm sáng một ngọn đèn. Quyền năng chữa bệnh là sử dụng những năng lực thiên nhiên rất mạnh để tái lặp trật tự giống như việc tiếp điện (charge) cho một b́nh điện đă yếu.
Trong việc chữa bệnh này, đức tin đóng vai tṛ như một chất dẫn điện, v́ luồng điện chỉ có thể được truyền đi nếu có chất dẫn điện mà thôi. Tóm lại quyền năng chữa bệnh chỉ hiệu lực khi có đức tin, dù đó là đức tin vào một quyền năng nào, vào một cá nhân nào hay một lư tưởng trừu tượng nào.
Ḥa thượng Tomo sau một thời gian dài nhập thất đă trở lại thế gian truyền bá giáo pháp và chữa bệnh, nhiều người đă kể rằng ngài chỉ cần đặt tay lên trán một người bệnh cũng có thể làm cho họ khỏi bệnh tức th́. Đôi khi ngài cũng phát cho người bệnh một lọai thuốc viên cho chính tay ngài bào chế. Những viên thuốc ấy có giá trị rất lớn lao. Khi từ giă, ḥa thượng Tomo có trao cho tôi ba viên thuốc nhỏ để pḥng khi hữu sự nhưng ít lâu sau tôi đă tặng hai viên cho Sherab Thubden v́ thấy ông già này hay bệnh hoạn. Tôi nghĩ rằng dù tốt đến đâu viên thuốc này cũng chỉ là viên thuốc như trăm ngàn viên thuốc khác, nghĩa là có thể mua được. Măi về sau tôi mới biết giá trị của những viên thuốc này.
Vào khỏang năm 1959, tôi có ghé Rampur, thủ đô của tiểu vương quốc Bashar. Đây là một thành phố mà tất cả dân chúng đều theo Ấn độ giáo, nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy giữa thủ đô tráng lệ lại có một ngôi chùa Tây Tạng. Khi vào hành lễ tôi thấy cả một pho kinh Kanjur và Tanjur bày cẩn thận bên cạnh những quả chuông quay. Tôi được vị Lạt Ma trụ tŕ kể rằng chính tiểu vương Rampur Maharaja đă cho xây dựng ngôi chùa này để hoàn thành một tâm nguyện đối với một Lạt Ma tây tạng. Tiểu vương Rampur Maharaja, mặc dù có nhiều vợ nhưng không có con. Ông đă đi khắp nơi cầu xin các tu sĩ Balamôn nhưng không kết quả. Năm đó có một vị Lạt Ma Tây Tạng đi qua tiểu vương quốc Rampur v́ tiếng tăm của vị này vang lừng nên dân chúng khắp nơi kéo đến đón tiếp ngày rất trọng thể. Nhà vua bèn cho mời ngài đến cung điện vị Lạt Ma này đưa ra ba điều kiện: xin băi bỏ thuế khóa cho dân ba năm, xây dựng một ngôi chùa nhỏ để ông tịnh dưỡng khi có dịp qua đây và cho thỉnh những bộ kinh quư của Tây Tạng lưu giữ về. Dĩ nhiên nhà vua chấp thuận và ngôi chùa Tây Tạng được xây cất ngay bên cạnh cung điện của vua. Vị Lạt Ma Tây Tạng đó nhập thất trong một thời gian dài và sau đó đưa cho nhà vua một lọ thuốc nhỏ. Một năm sau nhà vua có con trai nối dỗi tông đường. Tôi không thể nén ḷng được nên hỏi ngay vị Lạt Ma trụ tŕ:
-   ;Thế tên vị Lạt Ma đó là ǵ?
-   ;Người ta thường gọi ngày là “ḥa thượng làng Tomo”.
Thỉnh thỏang ngày vẫn ghé qua đây mỗi khi có dịp đi lên rặng núi Kailas. Trong suốt thời gian du hành qua Tây Tạng, tôi đă được nghe kể rất nhiều về công lao của ḥa thượng Tomo. Gần như nơi nào ghé đến ngài cũng thuyết pháp độ sinh, chữa bệnh cho những người không thể chữa được và đem lại niềm tin cho hàng trăm ngàn sống dọc theo dăi Tuyết sơn.
Tại thành phố Poo, tôi nghe nói một thiếu nữ bị liệt từ nhỏ không thể đứng dậy được đă được ngài chữa khỏi. Khi người ta mang cô này đến trước mặt ngài th́ tự nhiên cô ta ngồi bật dậy chấp tay niệm Phật như chưa từng đau ốm bao giờ. Lúc chúng tôi ghé qua Poo th́ cô gái đó vẫn c̣n sống và dân chúng trong làng xác nhận rằng họ đă chứng kiến rơ ràng quyền năng chữa bệnh của Tomo. Tôi không nghi ngờ chút nào về khả năng chữa bệnh của ngài v́ tất cả mọi người chung quanh dăi Tuyết sơn người ta đă nói đến ngài với một sự sùng kính sâu xa. Ngay cả sau khi ngài nhập diệt, người ta vẫn c̣n nhắc nhở đến ngài như một vị đạo sư đă hướng dẫn và mang lại niềm tin cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên thói thường người ta hay thêu dệt huyền thoại cuộc đời của một người nổi tiếng nào nào đó, nhưng ḥa thượng Tomo đă là một huyền thoại ngay khi ngài c̣n sống. V́ tất cả những ai gặp ngài nghe ngài thuyết pháp đều công nhận ngài là một trong số rất ít vĩ nhân đă xuất hiện trên trái đất này.
Cuộc đời của ḥa thượng Tomo là một bằng chứng hùng hồn rằng kinh nghiệm tâm linh là kết quả hiển nhiên của một công phu tu hành chứ không phải là điều trừu tượng dựa trên lư thuyết hay một cái ǵ cao xa không thể đạt đến được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 11 of 28: Đă gửi: 27 June 2006 lúc 9:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
Các nhà ngọai cảm ở Nga
Làm cho người điếc nghe lại, người câm nói được, đánh thức tinh trùng đă chết, hoặc chữa bệnh ung thư: “chiến trường” siêu tâm lư học ở nga không có giới hạn. phóng viên tạp chí le figago magazine( pháp) đă trực tiếp đến gặp 3 bác sĩ điều trị bằng ngọai cảm và kể lại trên các số báo ra ngày 20-06-1992.
Ở vùng nông thôn cách Moskva 100km về phía tây có một ngôi làng với khỏang 30 căn nhà gỗ dành cho cán bộ về hưu Alexander Petrovich đại tá cục t́nh báo trung ương Liên xô cũ (KGB) nổi tiếng là một nhà ngoại cảm, một chuyên gia chữa bệnh bằng thôi miên. Mỗi tháng hơn 800 người đến khám bệnh trong căn pḥng nhỏ của ông ở thị trấn gần đó. Một con số đáng ngạc nhiên! Mặc dù ông chỉ làm việc vào ngày cuối tuần mà thôi, nhưng vào mùa hè bệnh nhân sẵn sàng cấm lều trại trên các cánh đồng lân cận; xe hơi xe buưt nối đuôi nhau dài hàng trăm mét. Ng̣ai cấp bậc trong quân đội Petrovich c̣n là “tiến sỹ khoa học” về tâm lư. Thực ra tài năng ngoại cảm của ông không biểu hiện qua bằng cấp. Từ lúc c̣n bé ông đă trị được bệnh bằng tay không và thôi miên. Cha và ông nội ông cũng biết trị bệnh như thế. Trong quân đội ông tham gia vào kế họach chuẩn bị tâm lư cho binh sỹ, phục hồi tâm lư cho những người thoát chết sau cuộc chiến ở Afghanistan cũng như nạn nhân vụ nổ ḷ nguyên tử Chernobyl.
Bạn hăy tiếp tục đọc và có thể tưởng rằng hai trường hợp sau đây khác biệt nhau. Nhưng cả hai đều tương đồng ở chỗ: mọi vấn đề liên quan đến cột sống, dù đó là ca chấn thương đơn thuần hay ca nhiễm bức xạ. Aliocha là một bệnh nhân râu tóc xồm xoàm, mặc áo quần vá víu. Đầu tiên Alexander t́m cách làm cho ông ta ngủ, nhưng không phải thôi miên bằng mắt, hay bằng mệnh lệnh mà bằng tay. Alexander đứng sau lưng Aliocha, không hề chạm vào thân mà chỉ đưa tay gần sau đỉnh đầu. Vài giây sau, Aliocha rơi vào giấc ngủ. Alexander di chuyển tay từ từ về phía sau, thân h́nh Aliocha cũng dần nằm ngữa ra, chân không chút động đậy. Thân người nghiên dần 20 độ. Sau vài phút tay vẫn không chạm vào thân h́nh bệnh nhân, Alexander từ từ dựng đứng thân h́nh Aliocha lại, khi Alexander búng tay, Aliocha sẽ cḥang tỉnh dậy. Không một lời trao đổi nhau trong suốt ca chữa bệnh! Alexander cho biết: “Aliocha c̣n phải trở lại lần nữa. Từ khi được tôi chữa bệnh, ông ta đă phục hồi được 40% thị lực”. Bệnh nhân Nicolai cũng được điều trị theo phương pháp ấy. Đầu năm 1992 Nicolai bị xe lửa cán phải và anh ta không thể đi lại được nữa. Khi Nicolai đến cho đại tá Alexander khám bệnh, Alexander lướt tay phía trên đường cột sống của anh ta, rồi th́nh ĺnh bấm một phát. Tay kia nắm một mớ con lăng bằng đồng (nhỏ cỡ 50g lớn đến 15kg) cán mạnh dọc xương sống Nicolai. Cuối cùng ông ta chập hai tay vào nhau và với tất cả sức lực hơn (100kg) chà lên cột sống lần chót. Alexander nói: “Tôi là bác sỹ y học dân tộc. Không bao giờ lấy tiền tôi phục vụ cho những ai cần đến thiên tư ngoại cảm của tôi”. Vài giờ sau đó Nicolai một lần nữa lại ch́m trong giấc ngủ. Alexander đặt Nicolai nằm ngang, đầu và chân tựa lên hai chiếc ghế dựa, c̣n thân h́nh lơ lửng trong khỏang không. Sau đó với thân h́nh nặng hàng tạ của ḿnh, ông leo lên ngồi mà lại ngồi theo kiểu cưỡi ngựa nữa chứ! Không có vẻ ǵ để chữa bệnh cả. Vâng ông ta làm vậy chỉ để chúng tôi xem, để chứng tỏ là ông không gian lận, không có mánh khóe ǵ cả. Nhưng tại sao cả Aliocha và Nicolai đều im lặng như thế? Họ thông đồng với nhau chăng? Tôi yêu cầu hăy thôi miên cho tôi ngủ. Ông ta cười và bước ra sau lưng tôi. Tôi không thấy các bàn tay của ông ta nhưng tôi cảm thấy sức nóng rần rần chạy lên người tôi. Tôi chỉ biết tất cả những ǵ xảy ra sau giấc ngủ theo lời kể của người chụp ảnh đi theo tôi. Không có vấn đề ǵ cả: Tôi ở tư thế nghiên 20 độ! Tôi không c̣n nhớ ǵ cả ngọai trừ tiếng búng tay quen thuộc của Alexander. Hơn 20 năm nay các bác sỹ ở Pháp chẩn đoán một chân tôi ngắn hơn chân kia 3 cm. “ nào vậy là b́nh phục trong một hay hai ngày tới anh sẽ thấy rêm khắp người” ông nói. Lần này tôi có thể kiểm chứng lại được: trong hai tháng nữa nếu các gót giày mới của tôi cùng độ ṃn như nhau, điều này mới là là!
Trước khi chia tay Alexander đưa chúng tôi đến một công trường gần đó, nơi mà ông đang lập kế họach xây dựng một trung tâm nghiên cứu các hiện tượng bí ẩn. Các hạng mục chính đă ḥan tất. Công tŕnh xây dựng trung tâm này có thể ḥan thành trong 6 tháng nữa với chi phí 200.000 đôla. Bệnh nhân khắp thế giới sẽ đến tại đây chữa bệnh, có thể thuê pḥng ăn uống tại nhà hàng. Chúng tôi chia tay với nhà ngọai cảm Alexander Pertrovích. Cuối tuần ông c̣n chữa bệnh cho 200 bệnh nhân không lấy tiền công.
Thành phố Joukovsky nằm cách Moskva 40km về hướng bắc. Đây là thành phố khoa học của Nga, lá phổi của thủ đô cách đó vài km là trung tâm thử nghiệm máy bay duy nhất trên thế giới với hầm quạt gió đặc biệt của nó. Ngay cả đến hăng Airbus phải đưa máy bay đến thử nghiệm ở đây. Tiến sỹ triết học và tâm lư học Alexander Spirkin, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia được xem là bậc thầy trong lĩnh vực siêu tâm lư học của Nga . các bài viết của ông đă được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ông bước vào nghiên cứu môn siêu tâm lư học sau chiến tranh thế giới lần hai, khi làm việc chung với giáo sư Messing. An sau khuôn mặt già nua hôm nay là hai con người – một Spirkin – một nhà hiền triết – hấp thu học thuyết vũ trụ Hy lạp cổ đại và một Spirkin – nhà khoa học với những kinh nghiệm hiểu biết đáng kinh ngạc. Alexander Spirkin quan niệm môn siêu tâm lư học của ông như sau: “để biết được những vùng đất tốt, đă có các con muỗi, c̣n hiệu nghiệm hơn cả siêu âm. Nơi nào có chúng nơi đó đất tốt. Vả lại ḅ cái không nằm bất cứ đâu trên cánh đồng. Những truyền thống tập tục dân gian thường có nền tảng thật sự”. Vào năm 1976 Alexander Spirkin trực tiếp lănh đạo một pḥng thí nghiệm. Chính ông kiểm tra tuyển chọn nhân viên người nào sẽ là người có khả năng ngọai cảm. Ưng cử viên phải hội đủ 3 tiêu chuẩn: hồ sơ, sức hút của đôi tay (vấn đề quan trọng đối với thí nghiệm sinh là từ trường và năng lượng sinh học tỏa ra) và cuối cùng là ṿng cung viền quanh đồng tử mắt. Năm loại ṿng xếp theo độ dày của nó. Chỉ có loại thứ năm dầy nhất mới có đủ quyền lực về ngọai cảm. Cho đến nay không một phi công lái máy bay chiến đấu nào của Liên xô (cũ), ngay cả những nhà du hành vũ trụ vượt qua đựơc tiêu chuẩn tuyển chọn này “trên một chiếc thuyền đánh cá, chỉ với hai que kim loại nhà khoa học ngoại cảm có thể phát hiện được tàu ngầm trong phạm vi đến tận chân trời”
Ơ Moskva gần thành phố Arbat (được ví như đại lộ champs –Elysées của Paris) mọc lên một khu nhà rất tráng lệ. Lối ra vào của khu nhà này trang bị hệ thống mă số, cửa bộc thép dày. Bên trong có khỏang sáu, bảy người làm việc tất bật, căn pḥng được trang bị đầy đủ camera, truyền h́nh, đầu máy video… đây là nơi làm việc của nữ chuyên gia ngọai cảm Djouna.
Djouna không chỉ là nhà ngọai cảm không thôi, cô c̣n biết vẽ, làm thơ, ca hát phát minh ra những dụng cụ y khoa được cấp bằng sáng chế của nhiều nước trên thế giới. Những bằng phát minh này không c̣n là cái ǵ đó đối với cô, các bằng tốt nghiệp của cô nhiều đến độ chồng chất lên nhau. Đủ lọai bằng cắp của Uc, Hoa kỳ, châu á, châu phi, Israel….. chưa kể đến chức giám đốc viện hàn lâm quốc gia Djouna về các ngành khoa học năng lượng sinh học. Djouna tên thật là Eugenia Davitachvili là người Georgie (Tbilissi) do số mệnh đưa đẩy cô đến Moskva và may mắn gặp Alexander Spirkin. Alexander từ chối nói về cô, thực ra chính ông ta ngầm công nhận tŕnh độ ngoại cảm cho cô. Cô luôn luôn là khách mời của điện Kremlin.
Không đủ thời gian tiếp chúng tôi ở pḥng thí nghiệm để chứng minh tài năng của ḿnh (v́ ngày hôm sau cô khởi hành đi khắp thế giới trong ṿng vài tháng) cô chuyển cho chúng tôi một cuốn băng ghi lại buổi phát h́nh dài gần 2 tiếng đồng hồ của đài truyền h́nh về rất nhiều thí nghiệm của cô dưới sự giám sát của các chuyên gia y học. Thật đáng kinh sợ!
Chúng tôi xem một cuốn băng cảnh cô Djouna chữa bệnh cho một người điếc nghe lại được, một cậu con trai câm nói được tiếng “mẹ” đầu tiên. Ca chữa bệnh lư thú được hơn 5.000 người chứng kiến không biết là dưới từ trường hay năng lượng sinh học tỏa ra từ ḷng bàn tay mà một trái tim không có động mạch, đă được cắt ra trước đó một thời gian lâu, bắt đầu đập trở lại.
Trong pḥng thí nghiệm, Djouna bận áo cḥang trắng đứng bên kiếng hiển vi xung quanh cô ta là 3 chuyên gia giám sát công việc. Trên tắm kiếng của kính hiển vi là các tinh trùng đă chết. Djouna lướt bàn tay gần kính hiển vi… đồng hồ bấm giây bắt đầu hoạt động. Ba phút trôi qua, không có ǵ cả, bốn phút.. cũng không. Bốn phút rưỡi một giáo sư thấy khỏang 10% số tinh trùng động đậy. Năm phút được 60%....Ura! được tất cả…..
Ng̣ai thời gian hoạt động khoa học nhà ngoại cảm Djouna c̣n vẽ được gần 200 bức tranh và đă từng tặng bức đẹp nhất cho Đức giáo ḥang Jean – Paul II….
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 12 of 28: Đă gửi: 29 June 2006 lúc 10:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
Nghệ thuật chữa bệnh kỳ diệu của EVGÉNI ZOUEV
Bạn bị đau đớn, ngừơi xoắn vặn về mọi phía như thể thân thể bạn làm bằng chất cao su ư ? Zouev sẽ chà sát vùng cột sống và bạn có cảm tưởng như lửa đang đốt cháy da bạn. Và kỳ diệu thay, đôi tay của Zouev. Ngừơi ta có cảm tưởng là những tay chân mới mọc ra. Sau một hồi, ta thấy sức mạnh quay trở lại, cảm thấy được thư giản, đủ sức chống lại các sang chấn gây căng thẳng.
Phương pháp của Zouev được biên soạn trong nhiều năm trên căn bản tất cả các loại massage hiện có, trên sự nghiên cứu các tác phẫm chuyên biệt. Zouev học nghề lần đầu tiên tại Trường sản khoa thành phố Nevel vùng Pskov. Rồi ông t́m học các bật thầy trong nghể đấm bóp, những chuyên viên về vận động liệu pháp.
Đầu những năm 50, Evgéni Zouev vào quân đội và qua Viễn đông. Vào những giờ rảnh, ông tập cử tạ, đấu vơ Hy Lạp – La Mă. Ông thi đấu thành công và khổ luyện trở thành bậc đàn anh trong các môn này. Kiến thức về massage của ông cũng giúp ích nhiều cho binh sỉ.
Chú lính Zouev đạt thành tích cao trong khoá tập trên đất Trung quốc. Cấp trên bảo ông: Anh đáng được tuyên dương. Anh có yêu cầu ǵ không ? Tôi xin phép được sống vài ngày trong một ngôi chùa. Ở đây các tu sĩ trị bệnh bằng cách đấm bóp. Tôi muốn học phương pháp này.
Người lính Xô Viết trở thành học tṛ của các tu sĩ. Ngày đầu tiên, ông chứng kiến các tu sĩ trị bệnh. Họ đặt bệnh nhân trần truồng nằm trong một thân cây khoét lơm, tay chân người bệnh bị trói. Dưới đầu người bệnh co một chiếc gối gỗ. Hai tu sỉ đội mủ ni che kín tai, không để tiếng động lọt qua. Họ làm bệnh nhân rú lên v́ đau đớn, nhưng các tu sỉ vẫn làm ngơ. Họ ấn thân thể người bệnh, vặn tay kéo chân. Khi người bệnh gần kiệt sức, các tu sỉ đổ nước lạnh lên đầu người này. Kết quả làm cho Zouev kinh ngạc: người bệnh mà thân nhân phải khiêng tới, tự ḿnh bước ra khỏi chổ nằm và chạy trốn khỏi tu viện bằng bước chân nhẹ nhơm.
Viên sĩ quan cho phép Zouev ở chùa 9 ngày. Không để mất th́ giờ, ông quan sát kỹ mỗi cử động của các tu sĩ, nghiên cứu tỉ mỉ các phương pháp khác nhau. Sau này ông thường nói: Tôi bẩm sinh là nhà đấm bóp Viển đông. Nhưng Zouev không chỉ sao chép một cách máy móc phương pháp của các nhà đấm bóp Trung Quốc. Ông chỉ học những ǵ ông cho là hữu ích.
Mấy năm sau, Zouev đă nổi tiếng về vận động liệu pháp. Như người khác hẳn đă hài ḷng, nhưng Zouev la loại người học hỏi suốt đời. Họ vẫn học, dù họ đă thành nghề. Có lần tại Léningrad, ông là học viên hàm thụ, được cấp bằng của Viện thể dục Lesgaft và theo học vận động liệu pháp gần Hàn Lâm viện quân y Kirov. Buổi chiều, ở nhà ông nghiên cứu đến khuya các bản đặc biệt của Liên xô và nước ngoài, từ đó sinh ra phương pháp độc nhất mà Zouev gọi la BEST, có “hiệu quả đau đớn”.
Thật vậy, nổi đau đớn hiện diện trong lổi massage của Zouev, mặc dù c̣n kém cả chục lần so với phương pháp ông học ở chùa. Zouev cho biết:” cũng như các nhà phẫu thuật, để chữa khỏi bệnh, đôi khi phải gây đau. Đó là điều không tránh được. Tuy nhiên, khi gây một cơn đau ngắn, tôi đă loại căn bệnh của một bộ phận cơ thể. Người ta biết rằng trên thân thể con người có nhiều điễm sinh học hoạt động. Ấn tay trên vùng da tương ứng với cơ quan bệnh, bạn sẽ cảm thấy đau tức khắc. Sự đau đớn là kẻ bảo vệ sức khoẻ của chúng ta. Nếu khoẻ mạnh, khi massage, người ta không cảm thấy đau. Ngược lại, cảm giác đau do người đấm bóp gây ra buộc cơ thể phải hoạt động chống lại bệnh. Trong công việc của tôi, trước khi tôi đặt tin tưởng vào những khả năng vô hạn của cơ thể con người. Công việc của tôi là khám phá ra nó.”
Phương pháp của Zouev đă giúp nhiều người t́m lại nguồn vui sống, và đem lại sự sống cho một vài người .
Nadejda Ganikovskaia, biên tập viên của một nhà xuất bản ở Moskva đă kể lại chuyện sau :” Mẹ của tôi ngă bệnh nặng, thầy thuốc đă thất vọng. Một khối u lớn, di căn. T́nh cờ bà cụ gặp Zouev trước khi mổ. Ông củng cố giúp bà. Và vài hồi massage, sức khoẻ mẹ tôi cải thiện rơ rệt. Sau lần thứ tám, chín ǵ đó chúng tôi nghe Zouev nói:” Tốt, đủ rồi, những tiếng này vang lên bên tai chúng tôi như một điệu nhạc thần tiên. Chúng tôi hiểu rằng bệnh đă lui. Mẹ tôi khoẻ và lên cân. Nhưng các bác sĩ vẫn nói cần phải mổ và mẹ tôi nghe theo. Tôi hỏi Zouev :” Phải làm ǵ ? Mẹ tôi muốn được mổ. Ông trả lời:”Nếu ba cụ muốn th́ cứ theo ư cụ. Nhưng điều đó hoàn toàn không cần thiết.” Mẹ tôi được mỗ. Khối u c̣n đó, nhưng chỉ là một thứ bao nang dày đặc, c̣n các di căn biến mất. Thầy thuốc kinh ngạc. Nhưng mọi việc đă xảy ra như vậy.
Một thí dụ khác : Olga K.ở vùng Donetsk, đă 10 tuổi, không bao giờ đi được v́ mặc chứng liệt năo ở trẻ em. Mùa hè năm ngoái, bà của em và hai người làm đưa em đến Zouev trên một chiếc xe lăn.
Zouev hỏi em :”Cháu đang học lớp mấy?
-Lớp 2. thấy giáo đến nhà dạy cháu.
-   ;Năm nay, cháu sẽ đi đến trường bằng chính chân của ḿnh.
-   ;Bà đứa cháu không tin nổi tai ḿnh: Có thể như thế được sao ?
Sau 4 lần trị liệu , đứa bé đứng được, lần đầu tiên trong đời cháu. Và cháu bước vài bước với sự giúp đở của Zouev. Sau hai tuần trị liệu, Olga đă đi được trong pḥng. Bà của cháu qú xuống trước mặt Zouev. Ông cũng xúc động không biết làm sao để làm bà cụ dịu đ. cụ khóc v́ hạnh phúc. Ba tuần sau lần điều trị đầu tiên, đứa bé chào từ biệt ân nhân của ḿnh. Bà cụ hỏi ông :
-   ;Thưa bác sỉ, chúng tôi phải trả ơn ông bao nhiêu ? Zouev trả lới :
-   ;Cụ nói công ǵ ? chính tôi phải cảm ơn Olga mới phải.
Chữa khỏi cho một đứa trẻ bị tàn tật suốt đời đem lại cho ông niềm hạnh phúc lớn lao. Đó chính là phần thưởng đẹp nhất trong công việc của ông.
NGỌC NGÀ (Theo Alla Zinovíeva-Panorama Olympique 1-1990
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 13 of 28: Đă gửi: 13 July 2006 lúc 9:13am | Đă lưu IP
|
|
|
Nấm thần bí mang lại cảm giác tâm linh
Một hoạt chất trong một loài nấm gây ảo giác có thể tạo ra những cảm giác linh thiêng mà mang lại hiệu quả tích cực lâu dài.
Hoạt chất mang tên psilocybin gia tăng cảm giác khoẻ khoắn và hài ḷng trong cuộc sống trong ṿng 2 tháng sau khi ăn vào, các nhà khoa học tại Viện y khoa Johns Hopkins, Mỹ, cho biết.
Psilocybin là một loại chất tác động tới hệ serotonin trong năo, đặc biệt là ở cảm thụ thể 5-HT2A.
"Dưới những t́nh trạng nhất định, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, bạn sẽ có một cơ hội an toàn và đáng tin cậy để trải nghiệm một cảm giác bí ẩn có thể dẫn đến những thay đổi tích cực trong một con người", nhà nghiên cứu đứng đầu Roland Griffiths nói.
Giáo sư Ian McGregor tại Đại học Sydney, Australia, nhận định ông không hề ngạc nhiên khi nghiên cứu khẳng định khả năng của psilocybin tạo ra một trạng thái tâm linh.
"Psilocybin và những chất gây ảo giác liên quan đă được sử dụng từ thời cổ đại trong các nghi lễ tôn giáo và nghiên cứu này chỉ khẳng định lại những ǵ mọi người đă biết".
Nhưng ông cũng thừa nhận "hiệu quả kéo dài trong ṿng 2 tháng th́ thật là ấn tượng".
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho biết khoảng 1/3 t́nh nguyện viên trải qua cảm giác lo lắng và sợ hăi sau khi dùng psilocybin và McGregor cho rằng những người bị loạn thần kinh hoặc tâm thần phân liệt nên tránh loại chất này.
Trong nghiên cứu được miêu tả là độc nhất vô nhị trong giới khoa học, 36 t́nh nguyện viên được cho dùng psilocybin hoặc một loại thuốc tổng hợp. Sau đó những người tham gia được yêu cầu miêu tả trải nghiệm của ḿnh sau khi dùng thuốc và được theo dơi tiếp trong 2 tháng.
Kết quả là 22 người tham gia miêu tả hiệu ứng của psilocybin phù hợp với tiêu chuẩn của một cảm giác tâm linh bí ẩn, so với chỉ 4 người như vậy sau khi dùng thuốc tổng hợp.
1/3 đánh giá trải nghiệm này là quan trọng về tâm linh hàng đầu trong cuộc sống và 2/3 xếp nó vào top 5. Hai tháng sau đó, 79% số người gia tăng thể trạng một cách đáng kể.
Giáo sư David Nichols tại Đại học Purdue, Mỹ, cho rằng có thể psilocybin thúc đẩy hoạt động thần kinh tạo ra các trải nghiệm tâm linh giống như trong thiền, ăn chay hay khoảnh khắc gần cái chết.
M.T. (theo ABC Online)
|
Quay trở về đầu |
|
|
khangaabc Hội viên

Đă tham gia: 09 January 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1133
|
Msg 14 of 28: Đă gửi: 13 July 2006 lúc 9:50am | Đă lưu IP
|
|
|
Theo tôi th́ là cảm giác của "tâm cảnh" do ảnh hưởng của thuốc, lẩn lộn ảo giác với tâm linh là điều rất nguy hiểm đối với người tu tập dù cho đó là một ảo giác êm đềm yên tịnh lâng lâng như các "tiên nâu" đang phê. Theo bài viết này th́ họ mới ở giai đoạn một (phase I) của công cuộc nghiên cứu dược vật thôi, ở Mỹ phải trải qua ba giai đoạn nghiên cứu thu thập dữ kiện mới được xem là tương đối an toàn , thời gian thử nghiệm tối thiểu cũng kéo dài 3 năm, có nhiều khi kéo dài hàng chục năm lận, sau khi được phép củA FDA tung ra thị trường lại phát hiện ra thêm nhiều phản ứng phụ nguy hiểm của thuốc và hăng bào chế phải thu hồi thuốc và đền bù thiệt hại cho người dùng , đó là một trong những lư do thuốc ở Mỹ bán mắc kinh khủng v́ tiêu chuẩn an toàn cho người dùng được đặc lên hàng đầu và kiểm soát rất nghiêm ngặc nên chi phí của họ rất cao.
Sửa lại bởi khangaabc : 13 July 2006 lúc 9:56am
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 15 of 28: Đă gửi: 21 July 2006 lúc 10:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu
Học giả Saint Augustin (354-430) đă mô tả về một ngọn đèn vĩnh cửu trong ngôi đền Isis (Ai Cập). Điều khó hiểu nhất là nó nằm ở phần không có mái che, bất chấp gió mưa. Tương tự như thế, ngọn đèn ở Edessa (Syrie) đă cháy suốt 500 năm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Năm 1300, lư thuyết “dầu đặc biệt” được soi rơ phần nào, khi nhà nghiên cứu Marcus Grecus viết trong tác phẩm Liber Ignum (Sách lửa) rằng một số ngọn đèn vĩnh cửu có dùng nhiên liệu đặc biệt.
Đó không phải là dầu mà chỉ là một loại bột mịn được tạo ra từ những “con sâu phát sáng”, nhưng là loại sâu ǵ th́ Marcus không biết và bí ẩn măi măi bị chôn vùi. Marcus chỉ nói rằng “ta đă quan sát sợi bấc, nó dài bằng cánh tay ta. Rất lâu sau đó, ta quay lại và thấy chiều dài của nó vẫn thế, chẳng có ai thay bấc mới hay trút thêm bột”.
Năm 1401, trong mộ phần Pallas (con trai vua Evandra - La Mă), người ta t́m được một ngọn đèn vĩnh cửu và cho rằng nó đă cháy được 2.600 năm. Để dập tắt nó, theo các bậc cao niên, chỉ có cách đập vỡ tất cả hoặc trút ngược “dầu” của nó.
Năm 1450, một nông dân ở Padoue (Italy), trong lúc cày xới cánh đồng của ḿnh đă t́m được một cái b́nh bằng đất nung, kế đó là hai b́nh nhỏ bằng kim loại, một bằng vàng và một bằng bạc. Trong hai hũ này là một loại chất nhờn kỳ lạ, nửa như dầu nửa như mật ong. Bên trong cái b́nh bằng đất nung là một cái b́nh đất nung khác đựng một ngọn đèn vĩnh cửu vẫn đang cháy. Bị chôn dưới đất (không biết từ bao giờ) và cháy trong điều kiện ít ôxy như vậy, đó quả là một bí ẩn.
Năm 1610, nhà nghiên cứu Ludovicius Vives khẳng định ông đă từng nh́n thấy một ngọn đèn vĩnh cửu (cháy qua 1.500 năm) và bị đám thợ gốm đập vỡ.
Nhà sử học Cambden (Anh) vào năm 1586 cũng nhắc về một ngọn đèn vĩnh cửu tại phần mộ của Constantius Chlorus, cha của Costantin Đại Đế. Chlorus qua đời năm 306 ở Anh và từ đó, có một ngọn đèn vĩnh cửu được đặt trong phần mộ của ông.
Ở Tây Ban Nha, cũng có một ngọn đèn vĩnh cửu được t́m thấy tại Cordone vào năm 1846.
Linh mục Evariste - Regis Huc (1813-1860) là người rất thích du ngoạn ở châu Á và đă t́m được một ngọn đèn bất tử như vậy ở Tây Tạng vào năm 1853.
Các phát hiện nói trên chứng tỏ những ngọn đèn kỳ bí này không phải là sản phẩm của riêng Hy Lạp, Ai Cập hay La Mă.
Nhà hóa học Brand (Hambourg - Đức) vào năm 1669 nhận định những ngọn đèn vĩnh cửu này cháy lâu như thế là do phốt pho. Người khác lại cho rằng chúng cháy lâu là do không cần không khí, ngược lại, nếu tiếp xúc với không khí chúng sẽ tắt. Nếu quả ư kiến này là đúng, th́ lẽ nào người xưa đă biết kỹ thuật hút chân không? Vả chăng, lửa cháy không cần ôxy là chuyện hết sức khó hiểu.
Những cuộc tranh luận này buộc người ta quay về một bí ẩn khác: kỹ thuật chiếu sáng của người Ai Cập.
Trên các đường phố Ai Cập cổ, người ta dùng đèn dầu và đuốc. Nhiên liệu là những cặn bă có nhiều chất béo và chất nhờn. Nhưng ở những hầm mộ được đào sâu vào núi đến 100 mét th́ các nô lệ và nhà điêu khắc đă làm việc với ánh sáng ǵ?
Trong các hầm mộ này, không hề có dấu vết của ngọn đèn hay ngọn đuốc nào. Vậy phải chăng người Ai Cập đă dùng các loại gương để phản chiếu ánh sáng mặt trời? Nhưng các loại “gương” thời ấy chỉ bằng bạc, và chỉ có thể phản chiếu 40% ánh sáng, nghĩa là ở độ sâu vài chục mét, bóng tối sẽ lại bao phủ hoàn toàn.
Một phát hiện chấn động đă làm thế giới khảo cổ bàng hoàng: tại đền Hator ở Denderah được xây dựng cách đây hơn 4.200 năm, có những bức vẽ cho thấy người Ai Cập “đă sử dụng những dụng cụ kỳ lạ trông như bóng đèn điện ngày nay!”. Phải chăng đây chính là kỹ thuật ánh sáng bí ẩn.
Nhà khoa học Erich Von Daniken (Đức) đang cố công tái tạo những bóng đèn to tướng này trong pḥng thí nghiệm, nhưng vẫn chưa t́m được cốt lơi của vấn đề. Các nhà Ai Cập học cũng chào thua, v́ rơ ràng thời ấy chưa có điện.
Vậy, những ngọn đèn ấy được thắp sáng bằng ǵ? Giải được bài toán này, chúng ta cũng sẽ có câu trả lời cho bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 16 of 28: Đă gửi: 21 July 2006 lúc 10:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Có hay không “kiếp luân hồi”?
Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến “kiếp trước” hoặc sự “đầu thai vào kiếp sau”. Rồi họ nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ, logic và nghiêm túc. Nếu phát hiện ra điều ǵ đó “không b́nh thường”, họ liền phân tích một cách chuyên sâu hơn nhằm khám phá xem có liên quan ǵ tới “kiếp luân hồi” – theo quan điểm tín ngưỡng cố hữu không?
“Mảnh đất màu mỡ” cho các cuộc nghiên cứu nói trên đa số là các trẻ em. Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ), bắt đầu kể về “kiếp trước” của ḿnh trong thời c̣n là một bé gái. Người mẹ th́ cho rằng con bé nói rặt những chuyện ngốc nghếch và luôn t́m cách ngắt lời đứa bé. Nhưng Roberta vẫn không ngừng kể về “cha mẹ trước đây” của ḿnh. Em c̣n kể về chiếc ôtô mà “người cha kiếp trước” từng có và khẳng định rằng em đă cùng sống với “cha mẹ cũ” tại một khu trang trại.
Khi bé gái lên 4 tuổi, em được dẫn tới một trại chuyên thuần ngựa ṇi. Roberta rất tự nhiên và phấn chấn nói: “Con từng cưỡi ngựa thuần thục nhiều lần rồi”. Thật ra, em đă trèo lên ḿnh ngựa bao giờ đâu. Roberta c̣n đ̣i mẹ làm những món thức ăn “khoái khẩu” mà “mẹ trước” đă từng nấu. Em tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quăng đời “kiếp trước” của ḿnh và không bao giờ nhớ lại được nữa (?!).
C̣n Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo (Sri Lanka). Trước khi bé biết nói, cha mẹ nhận thấy rằng em rất sợ... nước. Mỗi khi người mẹ định tắm cho bé, đều gặp phải các phản ứng dữ dội cùng tiếng kêu khóc. Em c̣n rất sợ ôtô. Khi Samlini nói được, em đă mô tả “quăng đời trước đây” của ḿnh một cách tỉ mỉ. Em kể: “Một hôm cha mẹ “kiếp trước” sai em đi mua bánh ḿ. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buưt đi sát bên cạnh, hất em xuống đồng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: “Mẹ ơi!”. Sau đó, em bị ch́m hẳn vào giấc ngủ vô biên”.
Cha mẹ của Samlini suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Sau đó một thời gian, họ biết được câu chuyện của một bé gái 11 tuổi từng bị chết đuối trong hoàn cảnh tương tự, y hệt câu chuyện mà cô con gái họ đă kể lại. C̣n bản thân Samlini Permac không thể biết được sự kiện này vào bất cứ trường hợp nào, bởi đơn giản lúc ấy bé chưa ra đời (?!).
Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lư học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson - người đă nghiên cứu các hiện tượng về “kiếp trước” suốt nửa thế kỷ nay - kể lại. Ông cùng các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Tổng hợp Virginia đă thử t́m các bằng chứng, được tồn tại như một “thực trạng X”, mặc dù không t́m được những yếu tố vô lư trong “các X” và họ cũng không thể lư giải chúng dưới ánh sáng khoa học được.
Giáo sư Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như “ảo giác” - nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. C̣n một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đă từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự “đầu thai” hoặc “kiếp luân hồi” hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thuyết, chứ chưa “dám” nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.
Trước đây nhiều năm, đa số các nhà khoa học phủ nhận sự “đầu thai”, cho đó là một tṛ “hoàn toàn lừa bịp”. Nhưng ngày nay đa phần trong số họ đă thừa nhận hiện tượng này như là một phương cách chữa các chứng khủng hoảng tâm lư. C̣n Giáo sư Tiến sĩ Abraham Kelsy, Trưởng khoa Y học lâm sàng của Viện Đại học New York, trong các thực nghiệm riêng của ḿnh đă dùng những phương pháp giúp các bệnh nhân nhớ lại “quăng đời kiếp trước” của họ, và bằng cách này giúp họ giải phóng khỏi những vướng mắc hiện tại.
Ông giải thích: “Tôi đă rút ra được kết luận là, rất nhiều biểu hiện hiện tại của người bệnh là hệ lụy của kiếp trước và chính chúng là những trở ngại phong tỏa nghị lực của cuộc sống thực tại. Theo tôi, cơ thể con người luôn mang sẵn những thứ phi vật chất, những thứ vẫn tồn tại sau khi thân xác đă chết. Nôm na như người phương Đông gọi là “hồn”. Chính thứ “hồn” này được tái sinh - đầu thai lại. Niềm tin này của tôi càng được củng cố qua các phân tích tỉ mỉ về “chất lượng riêng” của mỗi cá nhân.
Tại sao trong một gia đ́nh, trẻ em thường khác biệt nhau, dù rằng chúng được sinh ra cùng cha cùng mẹ, có cùng một tổng thể gien và lớn lên trong cùng một môi trường? Rất nhiều trẻ em, khi đang chơi, luôn có xung quanh chúng “những người bạn vô h́nh” nào đó mà chúng luôn cho là đang hiện hữu thật sự. Tới độ 4-5 tuổi, thứ cảm giác ấy đột nhiên biến mất. Điều này theo các nhà khoa học chính là kỷ niệm về những người bạn "kiếp trước" của chúng.
Vẫn chưa có một nhà tâm lư học nào có thể giải thích một cách logic về những cá tính khác nhau, cũng như các “chất lượng cá nhân” khác nhau của đám con trẻ được sinh ra từ một gia đ́nh chung. Trong từng trường hợp, thể hiện những dấu hiệu ảnh hưởng từ “kiếp trước”, được giới tâm lư học nêu ra các giả thuyết về những “biến dạng của tâm lư”: như mê ngủ, nghe hoặc đọc được ở đâu đó...
Giới vương quyền Ai Cập thời cổ cũng từng hay nói về các “kiếp luân hồi”, cả Hoàng đế Pháp Napoléon, cũng như nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng khác cũng vậy – những người thường nhớ về "kiếp trước", để chỉ muốn tạo ra cái ấn tượng về “xuất xứ thần thánh” của họ. Đa phần trong chúng ta không hề gợi nhớ lại “kiếp trước” ngay cả qua những cách tân tiến hoàn thiện nhất. Trong trường hợp đó, không tồn tại quan niệm “đầu thai” trong thực tế. Ngoài ra cũng c̣n nhiều điểm bất đồng ngay cả giữa những người vốn luôn tin vào “kiếp trước”.
Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến tŕnh này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng “đầu thai” trong “ṿng xoay luân hồi” của mỗi người.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 17 of 28: Đă gửi: 19 August 2006 lúc 7:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
Những tiếng gọi bí ẩn
Một phụ nữ bước vào cửa hiệu, khi cô đang đi quanh góc nhà th́ chợt nghe một giọng nói gọi tên cô 2 lần. Cô chạy lên phía trước nhưng không thấy ai, và lúc đó vang lên những tiếng ầm ầm. Cô quay trở lại góc nhà, nơi vừa đi qua th́ thấy chiếc cột nhà đổ nằm đó và chao đèn trên bàn vỡ tan từng mảnh.
Th́ ra đă có một chiếc thùng phuy lăn từ trên xe tải xuống và làm đổ chiếc cột nhà. Cô đă thoát hiểm nhờ tiếng gọi bí ẩn.
"Con người ta không hiếm khi nghe thấy một giọng nói nào đó như được cất lên từ bên ngoài. Và dù cố gắng t́m kiếm nơi phát ra giọng nói, họ cũng không thấy ai", ông Igor Vinokurov, chủ tịch Ban nghiên cứu những hiện tượng khó lư giải của Nga nói.
Một câu chuyện khác ông ghi nhận được ở Nga như sau. Sau khi người mẹ qua đời được 2 tuần, cậu bé 13 tuổi tên là Alecxey đă sống ở nhà người bà con. Một thời gian sau, cậu trở về nhà ḿnh, trong nhà không có ai cả. Cậu định bụng chuẩn bị bữa ăn. Tủ lạnh đặt ở gần cầu thang ngoài. Thế nhưng khi cậu đưa tay nắm cửa th́ từ đâu có tiếng gọi vang lên, đúng là giọng nói nhẹ nhàng của mẹ đang gọi cậu. "Vâng, mẹ ơi", cậu bé đáp rồi chạy bổ vào pḥng bà và chỉ thấy chiếc giường trống trơn nên đứng sững lại. Sau đó, cậu trở lại nhà bếp mà trống ngực đập th́nh thịch, rồi cậu quay lại cửa ở cầu thang th́ tiếng kêu thảng thốt của người mẹ lại vang lên. Cậu bé không nhớ là đă trở lại pḥng mẹ thế nào nữa. Ngay lúc đó bà hàng xóm sang và nói rằng, người ta đă phá bỏ hoàn toàn chiếc cầu thang này rồi v́ nó bị lung lay. Cậu bé đă thoát khỏi nguy hiểm chết người.
Trong số những hiện tượng về giọng nói bí ẩn, đôi khi đó là thông báo cụ thể về sự kiện sắp tới mà nguồn tin lại là giọng nói phát ra từ TV hoặc radio.
Vào lúc gần trưa, một phụ nữ trẻ người Anh đang xem TV, trên màn h́nh vang lên lời thông báo về vụ nổ ở Fliksboro đă làm cho vài người bị chết. Không lâu sau đó, bạn bè của cô đến chơi và cô kể về tin này. Đến tối, họ xem phóng sự truyền từ nơi xảy ra tai nạn và kinh ngạc khi nghe thông báo tai nạn xảy ra vào buổi chiều. Quả thật, vụ nổ ở nhà máy hoá chất đă xảy ra vào lúc 16h35'. Các công tŕnh của nhà máy hoàn toàn bị phá huỷ, khu dân cư, cửa hiệu và các xí nghiệp lân cận đều bị thiệt hại. Đă có 28 người bị chết, hàng trăm người bị thương và không hề có một tin tức nào được báo cáo vào lúc người phụ nữ nghe được thông báo cả.
Một người dân ở Xamara là V.Grigoriev đă ở trong gara của ḿnh suốt cả ngày. Vào lúc gần 1 giờ trưa th́ radio thông báo về một tai nạn ôtô mà nạn nhân là một linh mục. Một chiếc xe của bưu điện đă đâm vào ông ta. Đến tối th́ thông báo này được nhắc lại 2 lần. Ngày hôm sau Grigoriev đi đến nhà nghỉ và măi đến chiều tối mới về, cả ngày anh không đọc báo, nghe đài hay xem TV. Khi đi xe taxi, người tài xế kể lại hôm qua anh ta chứng kiến vụ đụng độ đó. Theo lời anh th́ sự việc xảy ra vào lúc 11 giờ đêm hôm trước. Grigoriev đă gọi điện đến đài phát thanh để hỏi về trường hợp này. Hoá ra, tin tức chỉ được phát vào lúc nửa đêm và phát lại vào buổi sáng.
Theo các chuyên gia về thần giao cách cảm, những ảo ảnh về thính giác không phải lúc nào cũng là chứng hoang tưởng. Những giọng nói đoán định trước nguy cơ của hiểm họa sắp xảy ra có thể không phải là giọng nói của người quen, nhưng cũng có thể là của những người bà con hoặc người quen đă chết. Nếu như giọng nói là của người c̣n sống th́ điều đó thường đến vào lúc mà người nghe đang ở trạng thái không tốt về thể chất hoặc cảm xúc - có thể là do bệnh tật, sự sợ hăi hay ước muốn được gặp ai đó. Đôi khi nó là tiềm thức và bên tai ta vang lên một cái tên như thể là lời kêu gọi sự giúp đỡ hoặc là sự cảm thông.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 18 of 28: Đă gửi: 21 August 2006 lúc 11:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bóng ma xuất hiện khi có sóng hạ âm
Chuyên gia công nghệ thông tin người Anh Vic Tandy không bao giờ quên đêm đó. Ông đang làm thêm trong pḥng thí nghiệm tại ĐH Coventry, Anh. Đồng hồ chỉ 7 giờ tối. Tất cả các cộng sự đă về song Tandy dường như mất cảm giác về thời gian v́ hoàn toàn bị cuốn vào công việc.
Đột nhiên, ông cảm thấy lạnh buốt dọc sống lưng - có ai đó đang theo dơi ông. Tandy nh́n quanh và trông thấy một cái ǵ đó không rơ h́nh dạng, mờ ảo như sương mù, màu xám đang tiến về phía ḿnh. Nó dường như đang di chuyển và nh́n thẳng vào Tandy. Bóng ma ấy biến mất trong luồng không khí mỏng khi chỉ c̣n cách nhà nghiên cứu chưa đầy một mét.
Trên đây chỉ là phần đầu câu chuyện mà Tandy kể lại với một trong các tờ báo Anh. Phần c̣n lại mở ra như một cuốn phim trinh thám xen kẽ với các chi tiết khoa học.
Là một nhà nghiên cứu thực thụ, Tandy quyết định t́m hiểu hiện tượng này, trên nền tảng khoa học vững chắc. Ông đă bỏ ra 5 năm để t́m hiểu tất cả các câu chuyện liên quan đến ma quan sát được trong các lâu đài ở Anh, đồng thời "mai phục" vào đêm. Ông cũng nghiên cứu các thiết bị khoa học. Cuối cùng, Tandy tin rằng ḿnh đă biết các bóng ma từ đâu đến, thậm chí giải thích được lư do v́ sao cư dân xứ sở sương mù chạm trán ma với tần suất cao hơn cư dân các nước khác.
"Những bóng ma ở đất nước này có nhiều lư do để đi dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ v́ gió biển mạnh thổi nhanh trên khắp các ḥn đảo nước Anh", Tandy nói. "Những cơn gió đă tạo ra sóng âm ở một dải tần số đặc biệt, mà cho đến gần đây các nhà nghiên cứu vẫn không ghi nhận được. Người ta thường nh́n ra hiện tượng được tạo bởi những sóng âm này là những con ma".
Tandy đi đến kết luận này một cách t́nh cờ. Ông mang một thanh kiếm mỏng tới chỗ làm việc một ngày sau khi nh́n thấy bóng ma trong pḥng thí nghiệm. Thanh kiếm này cần được sửa chữa để tham gia một cuộc thi đấu mà Tandy dự định vào cuối tuần đó. Ông giữ nó trong một cái mỏ cặp và không lâu sau quan sát thấy nó đu đưa như thể một bàn tay vô h́nh nào đang nhấn từ trước ra sau. Nhà nghiên cứu tin rằng ông đang chứng kiến hiện tượng cộng hưởng.
Vào thời điểm đó, pḥng thí nghiệm rất yên tĩnh. Tandy hạ thanh kiếm xuống để đo đạc quá tŕnh này bằng một vài thiết bị. Ông thực sự kinh ngạc khi phát hiện thấy một tiếng động kinh hoàng đang tràn đầy căn pḥng ngay lúc đó. Nhưng tất cả những âm thanh này là sóng hạ âm, với tần số nằm dưới ngưỡng nghe của con người.
Không mất nhiều thời gian để định vị ra nguồn phát âm thanh: Nó xuất phát từ một bộ thông gió mới được lắp đặt trong một máy điều hoà. Khi nhà nghiên cứu tắt bộ thông gió, thanh kiếm ngừng dao động. Giây sau, một ư nghĩ thú vị đến với ông: "Hiện tượng này có liên quan ǵ với những bóng ma?"
Sóng âm đo được trong pḥng thí nghiệm có tần số 18,98 Hz. Nó tương đương với tần số chuyển động của nhăn cầu người.
Theo Tandy, gió thổi giật qua những bức tường của một toà tháp cổ cũng tạo ra sóng âm trong vùng hạ âm này. Âm thanh có thể đi xuyên qua những bức tường dày nhất. Khi ở trong một cái tháp, người ta có thể nghe gió hú và rên rỉ giống như người điên trong các hành lang.
"Không phải là ngẫu nhiên mà các bóng ma thường được nh́n thấy đi dọc theo hành lang khi gió thổi mạnh trên các bức tường", nhà nghiên cứu dẫn chứng cho giả thuyết của ḿnh.
Song đến nay, Tandy vẫn chưa giải thích được tại sao "những âm thanh cộng hưởng" lại tạo ra một h́nh dáng cụ thể như vậy. Ngoài ra, vẫn chưa rơ phản ứng của các sóng hạ âm khi chúng được tạo ra từ các cơn gió mạnh hoặc các loại phương tiện và máy bay rít qua.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 19 of 28: Đă gửi: 07 September 2006 lúc 9:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
Dưỡng sinh phục hồi chức năng: Góc nh́n của người trong cuộc
Tôi không hề h́nh dung cái người đă sáng lập ra phương pháp Dưỡng sinh phục hồi chức năng đang gây "ṭ ṃ" trong dư luận này lại là một ông già gầy yếu, hom hem như sắp từ giă cơi đời. Ông ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ trong một ngôi nhà cũ kỹ và đạm bạc như cuộc sống đơn sơ ông đang sống.
Một cuộc sống cũng kỳ lạ như chính bản thân ông, nghĩa là khái niệm vật chất dường như không tồn tại ở trong ngôi nhà này, trong chính đời sống này. Nếu ai từng biết cách đây 3 năm ông phát căn bệnh ung thư bàng quang, và suốt trong 3 năm không hề dùng bất cứ một viên thuốc nào, ông đă chiến đấu với bệnh tật theo cách của ḿnh rồi đến ngày gần đây nhất, trong một cơn đột quỵ do chảy máu, bệnh viện đă lắc đầu bó tay trả ông về mà ông vẫn hồi sinh trở lại.
Ông đă dành cho tôi hẳn 3 giờ để tṛ chuyện và giải đáp về phương pháp dưỡng sinh đem lại những khả năng kỳ diệu cho con người.
Việc người mù đă bỏ hai mắt vẫn có thể nh́n lại được nếu xét dưới góc độ khoa học quả là chuyện hoang đường. Thế nhưng, điều hoang đường ấy đă biến thành sự thật với một số người mù theo học phương pháp Dưỡng sinh phục hồi chức năng. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin được giới thiệu cuộc tṛ chuyện với nhà văn Nguyên B́nh giúp bạn đọc tham khảo:
- Thưa ông, ông chính là người sáng lập ra phương pháp Dưỡng sinh phục hồi chức năng?
Nhà văn Nguyên B́nh (NB): Phương pháp này khởi nguồn từ Trung Quốc. Đầu năm 1995, tôi theo học phương pháp Tĩnh công ư thức của ông Hoàng Vũ Thăng. Tôi rất mê bởi phần thực pháp của nó rất hiệu quả, mang lại sức khỏe thật sự. Ví như các bệnh nan y măn tính huyết áp, tiểu đường, rối loạn tuần hoàn năo, suy thận... đều được đẩy lui. Khi tiếp cận với phương pháp, tôi bất ngờ có được kết quả nh́n không cần mắt. Tôi đă nghĩ ngay đến người mù và t́m đến Hội Người mù Việt Nam.
Chính ông Nhuận lúc đó là Chủ tịch Hội Người mù Việt Nam đă giúp tôi thành lập nhóm người mù t́nh nguyện theo tập phương pháp này. Chúng tôi đă khai mạc lớp vào ngày 28/10/1995 ở Côn Sơn trong đó có cô Nguyễn Thanh Tú. Nhưng sau 2 năm, tôi nhận thấy đây không phải là phương pháp đúng, nên tôi đă nghiên cứu và sáng lập ra phương pháp Dưỡng sinh phục hồi chức năng.
- Và ông đă giúp cho họ khai mở được Nhăn thần hay c̣n gọi là Huệ nhăn - con mắt thứ ba của nhà Phật?
NB: Cần phải nói lại cho rơ là khi theo tập thực pháp của Tĩnh công ư thức, bản thân tôi nh́n mà không cần mắt, và những người mù đa phần ít nhiều đều thấy lại được ánh sáng. Tất nhiên, tùy theo từng cá nhân có các mức độ nh́n khác nhau. Có người tập vài tháng đă nh́n thấy ngay, có người 5-6 tháng, thậm chí có người kẽo kẹt đến 2-3 năm vẫn chưa nh́n thấy. Riêng cô Tú không phải là trường hợp người mù nh́n thấy sớm nhất mà phải kể đến cô Trang, ông Bạo. Tú 4 tháng mới nh́n thấy. Tú không nh́n thấy thường xuyên, không nh́n rơ như Trang hay một số người khác nhưng cô ấy có những khả năng đặc biệt hơn người. Vấn đề đặt ra ở đây là v́ sao người mù đă bỏ hẳn cả hai mắt vẫn có thể nh́n thấy được ánh sáng.
Thực tế các Lạt Ma ở Tây Tạng, hay các trường phái Yoga, luyện công ở Ấn Độ, con người có thể nh́n được một lúc ở cả 3 th́: Hiện tại - Quá khứ - Tương lai. Thế nhưng, hiện tượng nh́n bằng Huệ nhăn với hiện tượng người mù trong chương tŕnh của thầy tṛ tôi nh́n thấy ánh sáng là hoàn toàn khác nhau. Khả năng tự nhiên dự trữ trong mỗi con người là vô cùng vô tận. Khi người mù đến với phương pháp, tập đúng phương pháp th́ họ sẽ có chiếc ch́a khóa mở cánh cửa khả năng đặc biệt của con người.
Tuy nhiên, hiện tượng người mù nh́n thấy ánh sáng không thể nói chính xác 100% được. Chúng ta bị ngôn ngữ trói buộc, các khái niệm trói buộc, việc người mù nh́n thấy ánh sáng vượt qua sự trói buộc của ngôn ngữ và các khái niệm, tiêu chí. Mà những ǵ vượt qua các khái niệm, tiêu chí th́ chúng ta không thể giải thích được.
- Tại sao ông không theo phương pháp Tĩnh công ư thức nữa mà tách ra nghiên cứu và t́m ṭi sáng lập phương pháp Dưỡng sinh phục hồi chức năng?
NB: Tôi đă say mê và dẫn tập người mù trong ṿng 2 năm và kết quả rất khả quan. Khi theo học các bước cao hơn là linh pháp và hư pháp th́ phát hiện ra phương pháp này gây cho người mù và người bệnh rơi vào ảo giác kinh khủng. Càng đi, tôi càng cảm thấy lạc lối. Bản thân tôi cũng đă dùng đến hư pháp và linh pháp để chữa bệnh. Hiệu quả th́ rơ rệt ngay nhưng không bền, bệnh lui được một thời gian, khi trở lại bệnh càng nặng. Vấn đề đặt ra đối với tôi, người chịu trách nhiệm dẫn đầu về phương pháp, là phải xem lại phương pháp đó có đúng hay không. Bản thân người mù đă chịu đựng quá nhiều bi kịch, nếu vô t́nh dẫn họ vào thế giới hỗn mang, thần kinh hỗn loạn th́ đó là một tội ác. Tôi làm chậm lại quá tŕnh, vừa làm vừa gỡ cho mọi người thoát khỏi ảo giác và t́m ṭi phương pháp tập mới.
- Ông có thể cho độc giả biết nội dung của phương pháp Dưỡng sinh này?
NB: Phương pháp có 3 bước. Bước thứ nhất là thở cơ thể. Bước thứ hai điều chỉnh cơ thể tự thở. Bước thứ 3 điều chỉnh cho các tế bào tự thở. Đây chính là nhịp sinh hóa của mỗi cá thể, và nó ḥa đồng với vạn vật. Đây là chiếc ch́a khóa để mở ra cánh cửa tự nhiên dự trữ trong cơ thể con người. Thức dậy nhịp sinh học trong cơ thể. Đưa con người trở về với khởi nguyên ban đầu. Tất cả những dự trữ mà tự nhiên ban cho con người đều có thể lấy lại được. Trong đó có các khả năng như tự chữa bệnh, và việc người mù nh́n lại được mà không cần mắt là một trong rất nhiều những khả năng đó.
Sau khi cùng các học tṛ theo chương tŕnh được 11 năm, tôi rút ra kết luận: Không có một trường hợp nào con người gặp tai ương hoặc bệnh hoạn mà rơi vào tuyệt vọng. Đây là một phương pháp hoàn toàn mới, mỗi người mù, hay người bệnh đều có thể tự lo cho ḿnh. Không có chuyện dựa vào một lực lượng siêu nhiên ǵ cả, không có bóng dáng của thần Phật, thần linh ở đây.
- Ông đă dẫn các học tṛ của ḿnh theo đuổi phương pháp này 11 năm mà cho đến giờ các nhà khoa học vẫn "bó tay" trước phương pháp của ông. Ông nghĩ sao về điều này?
NB: Những người phản bác mạnh nhất rơi vào tầng lớp trí thức. Điều này tất yếu thôi v́ tư duy của con người lặp đi lặp lại, trải qua hàng ngàn vạn năm đă trở nên khô cứng, người ta không thể tư duy theo một cách khác. Theo tôi được biết th́ hiện nay không có một nhóm người thứ 2 nào làm phương pháp dưỡng sinh dành cho người mù. Ngay cả những Lạt Ma ở Tây Tạng, các trường phái Yoga ở Ấn Độ, việc nh́n không cần mắt, cũng chỉ cá thể họ có được mà không truyền lại cho một ai khác, không mang tính chất lợi ích cộng đồng.
Phương pháp của chúng tôi bất kỳ người mù nào, dân tộc nào, tŕnh độ, lứa tuổi nào cũng học được. Phương pháp này có điểm đặc biệt là không phụ thuộc vào tri thức hiện nay nhân loại có, kể cả y học. Bởi v́ khi đă bỏ 2 con mắt rồi, các nhà y học, hay nhăn khoa cũng bó tay. Có rất nhiều người, trong đó các nhà khoa học đă t́m đến thầy tṛ tôi. Ví như Giáo sư y khoa Vi Huyền Trác, nhà nghiên cứu tiềm năng con người Nguyễn Phúc Giác Hải, họ đă kiểm chứng và khẳng định việc nh́n không bằng mắt và người mù nh́n thấy ánh sáng là chuyện có thực nhưng chưa ai lư giải được v́ sao.
- Tóm lại, phương pháp Dưỡng sinh phục hồi chức năng nghe có vẻ quá đơn giản, chỉ là 3 bước thở. Nó chẳng có ǵ ghê gớm, cao siêu cả, nhưng khả năng mang lại nghe ra vô tận thật đấy nhưng cái đích cuối cùng vẫn chưa thấy đâu, ngay cả với người sáng lập ra nó?
NB: Có nhiều người không tin v́ thấy phương pháp này quá đơn giản. Họ nghĩ cứ phải thật rối rắm, phức tạp mới được. Chân lư thực ra vô cùng đơn giản, con người măi vẫn không ngộ ra điều đó. Phương pháp này rất rơ ràng không có rút kinh nghiệm mà càng tập người ta càng nhận biết ḿnh, thấu hiểu ḿnh, thấu hiểu xung quanh. Tuy nhiên, thầy tṛ tôi vẫn chưa đi tới kết quả cuối cùng. Kết quả chúng tôi muốn nói tới, sẽ đạt tới đấy là việc đưa người mù nh́n lại được ánh sáng thực vật và giúp họ sinh hoạt được b́nh thường như một người sáng mắt. Đây không phải là khoa học viễn tưởng mà là của tương lai. Bởi kết quả đă xảy ra, đă có rồi, việc người mù nh́n thấy ánh sáng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều năm nay, và ở rất nhiều người.
- Thế nhưng đến với một phương pháp mà chưa được khoa học kiểm chứng th́ độc giả khó mà tin tưởng lắm.
NB: Không tin th́ đừng t́m hiểu làm ǵ cả, tôi không bắt ai phải tin phương pháp của tôi. Nếu muốn kiểm chứng hăy lập một nhóm người mù t́nh nguyện, chúng tôi sẵn sàng hướng dẫn từ thiện trong 1 tháng, 2 tháng chắc chắn sẽ có kết quả cụ thể. Cuốn sách “Tôi mù?” của cô Thanh Tú đă ra mắt rồi, nếu ai muốn t́m hiểu kỹ hơn về phương pháp này có thể t́m mua sách đọc. Trong sách là những câu chuyện, trường hợp có thật. Và sách cũng hướng dẫn các bài tập để cho những ai không có điều kiện đến với chúng tôi có thể tự tập ở nhà. Chương tŕnh mà chúng tôi theo đuổi là mang ánh sáng đến cho người mù, giúp người bệnh chữa bệnh nan y.
- Xin cảm ơn ông về buổi tṛ chuyện này!
Một thực tế hơn 10 năm nay, để theo đuổi phương pháp này, nhà văn Nguyên B́nh đă bán gần hết đất đai nhà cửa, bỏ tiền tài trợ cho các lớp học của người mù ở Côn Sơn. Đến lúc này, nhà văn đă khánh kiệt, và không c̣n khả năng để mở các lớp học từ thiện như vậy. Số phận có lúc tưởng quá bi đát trong cuộc đời đầy những bất trắc và thiệt tḥi của ông Nguyên B́nh nếu có điều kiện chúng tôi sẽ đề cập đến ở một bài báo khác. Hy vọng hai bài báo này sẽ mang lại cho thầy tṛ ông một sự đồng cảm và chia sẻ của bạn đọc gần xa, để thầy tṛ ông có thể đi tiếp, và t́m đến cái đích cuối cùng con đường đă chọn.
Số điện thoại liên hệ: Nhà văn Nguyên B́nh: 04.8531222. Nguyễn Thanh Tú: 04.8311252
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 20 of 28: Đă gửi: 07 September 2006 lúc 9:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bàn tay kỳ diệu của Nina Kirianôva
Nhà ngoại cảm Liên Xô Nina Kirianova là một người có "đôi bàn tay kỳ diệu". Với đôi bàn tay này bà có thể "nghe" thấy không chỉ những ǵ bạn mới nghĩ đến. Bà có thể nói cho bạn một cách chi tiết không chỉ về quá khứ mà cả tương lai của bạn và chuẩn đoán rất chính xác về tất cả những bệnh tật mà bạn đă mắc phải cũng như sẽ chịu đựng trong tương lai. Bà có thể biết được tất cả trong khi đứng cách bạn mấy bước chân mà không phải nhọc công sờ vào người bạn.
Nina có một người bà. Dân làng vẫn gọi bà của Nina là "bà già thầm th́", bởi lẽ là bà chữa bệnh bằng cách lẩm bẩm điều ǵ đó rồi đắp lá cây lên vết thương và thế là vết thương kín miệng. Có người gọi bà là "kẻ bịp bợm", nhưng hễ ốm đau lại đến cầu cứu bà.
Nina phát hiện ra khả năng ngoại cảm khác thường của ḿnh từ lúc mười lăm tuổi. Nói đúng hơn là lúc đó Nina đă bắt chước người bà của cô và thử chữa bệnh cho bệnh nhân đầu tiên là bố cô. Ông bị bệnh muối đọng ở khớp khuỷu.
Nina h́nh dùng sự đọng muối là một cái cưa với hàng răng lớn cùn, trơ, đang gặm nhấm dần từng đốt xương của bố. Cô dùng tay xoa xoa vào khớp xương của bố, gắng sức "bẻ" những chiếc răng cưa tưởng tượng. Không ngờ, kết quả thật mỹ măn. Đến nay th́ bố cô đă quên mất là đă có thời ông mất ăn mất ngủ v́ cân bệnh quái ác này. Chỉ có nhà ngoại cảm là không quên cách chữa đầu tiên của ḿnh. Từ đó, Nina đă sử dụng "biệt tài" của ḿnh cả vào những chuyện nghịch ngợm. Chẳng hạn, trong giờ học cô đă tác động đến thầy, cô giáo để không bị gọi lên bảng hoặc "thuyết phục" cô giáo "quên" khi ghi điểm kém vào sổ. Dần dần Nina cảm thấy rằng, cô khác hẳn với những người bạn cùng tuổi và về một mặt nào đó, cô c̣n mạnh hơn cả người lớn. Thoạt đầu, Nina cảm thấy sợ hăi, đặc biệt là lúc cô mười chín tuổi. Dường như có sự chấn động nào đó trong cơ thể cô. Không thể trông cậy vào bác sĩ, cô t́m đến người bà của cô. Bà cho cô biết là trong cô đang có sự giằng co giữa cái thiện và cái ác. Cái nào thắng th́ cô sẽ phục vụ cho cái đó. Trong cái điều tưởng như khôi hài này lại có những mầm mống của sự thật. Sau một thời gian, nhưng cơn ngất lịm qua đi v́ trong cô chỉ c̣n ham muốn làm điều thiện. Chẳng hiểu từ đâu xuất hiện ở Nina Kiranôva những kiến thức về triệu chứng các căn bệnh, những phương pháp điều trị, cách thức tiến hành các buổi chữa bệnh, làm thế nào để diệt trừ ổ bệnh và hiệu quả của nó. Dù cố cô t́m hiểu, cô không thể nào giải thích được nguồn gốc của những lời mách bảo, chỉ dẫn ấy. Cô biết chính xác có thể chữa bệnh khỏi cho ngưi này, c̣n người kia th́ cô đành chịu bó tay. Nếu vi phạm "điều cấm" th́ bản thân cô cũng bị trừng phạt bởi những cơn đau đầu như búa bổ. Cô đă học được cách t́m hiểu căn nguyên của sự tổn thương trường sinh học và chẩn đoán rất chính xác. Những từ "trường sinh học", "dự trữ năng lượng", "tiêu hao năng lượng", "cầu lửa" cũng "tự" đến với cô và rất có ích với một nhà ngoại cảm.
Nina Kirianôva là một người khiêm tốn, không hề quảng cáo cho "sự gần gũi với sức mạnh siêu nhiên" của ḿnh, cũng không hứa hẹn với bệnh nhân điều ǵ cả. Chỉ sau vài buổi chữa bệnh bằng bàn tay "phát sóng" của ḿnh, Nina có thể chữa cho bệnh nhân khỏi những căn bệnh hiểm nghèo.
Các nhà khoa học đă dùng nhiều phương pháp để kiểm nghiệm lại kết quả chữa bệnh của Nina và đều nhất trí khẳng định rằng: bàn tay của Nina có khả năng chữa bệnh thật kỳ diệu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|