Tác giả |
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 1 of 20: Đă gửi: 03 July 2006 lúc 3:53am | Đă lưu IP
|
|
|
MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ LỄ NHẬP MÔN CAO ĐÀI
Bài nói chuyện tại Cơ quan Phổ thông Giáo lư Đại đạo
THANH MAI
Trong đạo Cao Đài hiện nay, ở một số nơi, các buổi lễ nhập môn đôi khi chưa được chuẩn bị chu đáo và có lẽ c̣n mang tính chất khá h́nh thức, thể hiện qua các điểm như sau:
- Tên hai người tiến dẫn nhập môn nhiều khi được ghi cho có lệ, có h́nh thức.
- Người nhập môn chưa được học hiểu qua những điều căn bản, đơn giản nhất về đạo Cao Đài, kinh cúng tứ thời và luật pháp của Đại đạo, những nghi thức lễ bái thường ngày, thậm chí là cách lạy cũng không biết!
- Người nhập môn chưa hiểu rơ ư nghĩa và chưa ư thức được tầm quan trọng của lời minh thệ nhập môn.
Vậy, việc tổ chức lễ nhập môn như thế đă đúng với luật Đạo chưa? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hăy t́m hiểu những điều mà luật Đạo quy định đối với người muốn nhập môn cầu Đạo.
Tân luật của Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, chương II: Về người giữ Đạo, đă quy định rơ:
Điều thứ Chín: Muốn xin nhập môn phải có hai người đạo đức tiến dẫn đến người làm đầu trong họ. Hai người tiến dẫn phải lo lắng chỉ biểu và d́u dắt người mới cho hiểu biết đạo lư.
Điều thứ Mười: (...) Buộc phải thuộc kinh và thông hiểu luật pháp của Đại đạo truyền ra.
Điều thứ Mười hai: Nhập môn rồi gọi là tín đồ. Trong hàng tín đồ có hai bực:
Một bực c̣n ở thế, có vợ chồng làm ăn như người thường song buộc phải giữ trai kỳ hoặc sáu hoặc mười ngày trong tháng, phải giữ ngũ giới cấm và phải tuân theo thế luật của Đại đạo truyền bá ...[1]
Nói thêm về Điều thứ Chín, đức Giáo tông Vô vi Lư Thái Bạch chú giải rằng: Mỗi khi có người muốn nhập môn cầu Đạo, biết làm lành lánh dữ, trước phải có hai người đạo đức, một người bảo cử, một người tiến dẫn bày biểu cách cúng lạy, lễ nghĩa của nhà Đạo, ăn ở nết na, học kinh luật.[2]
Như vậy rơ ràng là luật Đạo có quy định buộc hai người tiến dẫn phải có trách nhiệm hướng dẫn, d́u dắt người muốn xin nhập môn cho hiểu biết đạo lư và luật pháp của Đại đạo cũng như kinh kệ và các nghi thức cúng kính hằng ngày chứ không phải chỉ ghi tên hai người tiến dẫn cho có h́nh thức như một số nơi trong Đạo chúng ta lâu nay thường làm.
Luật Đạo buộc người nhập môn phải hiểu biết những điều vừa nêu trên nhưng câu văn không quy định rơ phải học những điều đó trước khi nhập môn hay nhập môn rồi mới học cũng được. Tuy nhiên, trong lời chú giải của đức Lư Giáo tông, ba chữ “trước phải có...” đă làm sáng tỏ điểm ấy. Nghĩa là phải học cho thông thuộc các điều căn bản trước khi nhập môn.
Đức Quan thánh Đế quân dạy:
Nh́n giáo bạn mà b́ Đại đạo,
Xem chúng nhân mà tạo tín đồ.[3]
Noi theo đó, chúng ta hăy thử t́m hiểu khái quát về lễ rửa tội của Ki Tô giáo.
Theo quy định của Giáo hội Ki Tô giáo, tất cả trẻ em thuộc các gia đ́nh có đạo ḍng đều phải được làm lễ rửa tội không quá một tháng sau khi sinh; ngoài ra, những ai đă khôn lớn, nếu muốn lănh bí tích rửa tội th́ phải đến xin với linh mục chánh xứ cho theo học một lớp giáo lư để biết những lẽ cần trong Đạo và buộc phải có đủ các điều kiện sau: Phải tin những điều dạy trong kinh Tin kính, phải ăn năn sám hối về những tội đă phạm và dốc quyết chừa cải. Sau khi kiểm tra tŕnh độ giáo lư của người đạo tâm, linh mục chánh xứ mới cho phép làm lễ rửa tội.[4]
Chúng ta thấy lễ nhập môn trong Ki Tô giáo được gọi là lễ rửa tội. Người Ki Tô giáo tin tưởng rằng khi được lănh bí tích rửa tội th́ những tội lỗi bao gồm tội tổ tông và những tội lỗi đă làm trước đây đều được rửa sạch.[5]
Hiểu theo luật nhân quả th́ tội lỗi chỉ có thể được bù trừ bằng ḷng ăn năn sám hối và sự tích cực làm điều thiện. Ở đây chúng ta có thể hiểu hai chữ rửa tội theo nghĩa là: trước đây v́ chưa được học đạo nên con người không phân biệt được phải trái, đúng sai, tội phước, v́ thế đă gây nhiều tội lỗi, nhưng sau khi được học giáo lư, được học những lời Chúa dạy th́ kể từ ngày được rửa tội, con người ấy quyết tâm từ bỏ ma quỷ và tội lỗi để trở thành một con người hoàn toàn khác, để sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta thấy rơ ràng, khi được lănh bí tích rửa tội, tâm hồn người tân tín đồ như được thăng hoa và có một sự khác biệt hoàn toàn về mặt tâm linh giữa trước và sau khi nhận phép bí tích rửa tội. Do đó đối với người Ki Tô giáo, lễ rửa tội được tổ chức hết sức trang trọng và được xem là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống tâm linh của một con người.
V́ sao Giáo hội Ki Tô buộc phải dọn ḿnh cho trong sạch và học qua phần giáo lư căn bản trước khi làm lễ rửa tội? Linh mục Trọng Thu giải thích:
Trong Thánh kinh Chúa phán: “Đừng ném của Thánh cho con chó, và đừng bỏ hạt trai trước mặt con lợn.” (Math. 7.6). [Câu này có nghĩa là đừng trao vật quư cho kẻ không biết giá trị của nó.]
Câu nói đó thật cứng rắn và gắt gao nhưng đă nói lên tất cả sự thận trọng của người làm cũng như kẻ chịu các bí tích.
Bí tích là của Thánh, nếu đem phân phát bừa băi cho người không hiểu biết ǵ, hay hiểu biết lờ mờ, th́ bí tích đâu c̣n được quư trọng xứng đáng và đâu có đem lại lợi ích mong muốn.
V́ thế mà trước khi chịu bất cứ các bí tích nào, Giáo hội buộc đương sự phải chuẩn bị bằng một thời gian học hỏi và dọn ḿnh.[6]
Phàm ở đời, cái mà người ta đạt được một cách dễ dàng thường không được trân trọng giữ ǵn, c̣n những ǵ phải đổ bao công sức khó nhọc để đạt được th́ mới được quư trọng ǵn giữ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 2 of 20: Đă gửi: 03 July 2006 lúc 3:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Xem truyện Tây du, chúng ta thấy ở đoạn cuối, khi thầy tṛ Tam Tạng đến được Lôi Âm tự vào ra mắt Phật tổ xin thỉnh kinh th́ hai vị đại đệ tử của đức Phật là A Nan và Ca Diếp đ̣i Đường tăng phải biếu lễ vật ǵ th́ hai ngài mới trao kinh cho. Vậy phải chăng ở cửa Phật cũng có chuyện đ̣i của hối lộ? Trong Giải mă truyện Tây du tác giả Lê Anh Dũng giải thích việc này như sau:
Truyện Tây du kể rằng:
A Nan, Ca Diếp dẫn Đường tăng xem khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn nói với Đường tăng: “Thánh tăng từ phương Đông tới đây, chắc có chút lễ vật ǵ biếu chúng tôi chăng? Mau đưa ra đây chúng tôi mới trao kinh cho.”
Tam Tạng nghe xong nói: “Đệ tử là Huyền Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng chuẩn bị được quà cáp ǵ cả.”
Hai vị tôn giả cười nói: “Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất.”
Đọc tơ lơ mơ, lắm người bảo rằng A Nan và Ca Diếp đ̣i ăn hối lộ! Thực ra làm ǵ có chuyện ṿi vĩnh của đút lót ở cửa Phật!
Trong mười đại đệ tử của Phật, ông Ca Diếp đứng hạng ba, A Nan đứng thứ mười, đều đắc quả a la hán, dứt bỏ hết các lỗi lầm, không lẽ lại vướng lụy v́ chút của cải vụn vặt của thế gian ư?
Theo lịch sử Thiền tông Ấn Độ, Phật Thích Ca là Sơ tổ, Ca Diếp là Nhị tổ, A Nan là Tam tổ. Bậc giác ngộ đă ĺa thế gian, thoát ṿng sanh tử, làm sao có thể mở miệng ṿi của lót tay?
Khi Tôn Hành giả khiếu nại sự việc bị đ̣i lễ vật, Phật tổ cười nói: “Nhà ngươi cứ b́nh tĩnh. Việc hai người (A Nan, Ca Diếp) ṿi lễ các ngươi, ta đă biết rồi. Có điều, kinh không phải trao cho một cách dễ dàng, không thể lấy không được.”
Cuối cùng th́ Đường tăng cũng phải dâng cho các ngài chiếc b́nh bát bằng vàng nguyên là của vua Đường tặng cho ông trước lúc ra đi thỉnh kinh.
Hành động của Đường tăng ở đây là ẩn dụ, có tính cách biểu tượng. Theo truyền thống đạo học th́ đạo pháp không thể truyền thụ dễ duôi, cho nên kẻ học đạo, muốn thọ pháp, phải đánh đổi. Đánh đổi có nhiều h́nh thức.
Khi Thái tử Cồ Đàm t́m đạo giải thoát, Ngài đă phải đánh đổi cả ngai vàng, vợ đẹp con thơ, cả cuộc sống nhung lụa đế vương.
Khi Thần Quang (tức Huệ Khả, Nhị tổ Thiền tông Trung Hoa) cầu Đạo với Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma, và bị từ chối, Ngài đă tự ḿnh chặt ĺa cánh tay trái dâng lên thầy. Đó là ngụ ư sẵn sàng đánh đổi sinh mạng phàm phu để thọ lănh đạo giải thoát tối thượng của thiền môn.[7]
Qua câu chuyện ẩn dụ vừa rồi, chúng ta thấy rằng Đạo là quư, người muốn nhập môn cầu Đạo phải chấp nhận đánh đổi. Dân tộc Việt Nam được hạnh ngộ Đại đạo Tam kỳ Phổ độ. Đó là một ân sủng to tát mà đức Chí tôn Thượng đế đă ban cho dân tộc chúng ta. V́ thế, người đạo tâm muốn nhập môn cầu Đạo, cần phải ư thức được ơn phước lớn lao không ǵ sánh bằng khi được trở thành môn đệ của đức Cao Đài và cần phải sửa ḿnh sao cho xứng đáng là tín đồ của nền chánh giáo mà Thượng đế đă gầy dựng cho con người.
Do đó, lễ nhập môn cầu Đạo cần phải được xem trọng và không thể mang tính chất h́nh thức. Xưa nay, trong đạo Cao Đài, mặc dù luật Đạo có quy định rơ trách nhiệm của hai người tiến dẫn nhưng có lẽ do tâm lư chung của người đạo chúng ta là hễ thấy có người xin nhập môn vào Đạo là mừng rồi, một số thánh thất, thánh tịnh cho nhập môn ngay mà không cần xét xem người đó có hiểu biết ǵ về đạo Cao Đài chưa. Có lẽ chúng ta sợ nếu khó khăn quá th́ người đời sẽ nản chí bỏ cuộc mà không chịu vào Đạo chăng?
Ngày 27.8.1926, đức Chí tôn dạy: “Đạo là quư, của quư chẳng bán nài.” [8]
V́ thế, chúng ta nên chuộng về chất chứ không chuộng về lượng. Nền Đại đạo cần phải phát triển tín đồ ngày một đông hơn, hết lớp này đến lớp khác theo luật tre tàn măng mọc, tuy nhiên chúng ta cần phải phát triển như thế nào để các thế hệ tiếp nối xứng đáng là những tín đồ Cao Đài thuần thành, có khả năng xiển dương nền Đại đạo theo đường lối chánh chơn đạo đức.
Vậy, để chúng ta cùng suy nghĩ, xin thử đề nghị một số quy định cụ thể về việc nhập môn như sau:
1. Trước khi nhập môn, người đạo tâm cần có một thời gian học hỏi những điều rất căn bản về đạo Cao Đài, luật lệ của Đạo cùng những nghi thức cúng kính thường ngày. Người xin nhập môn phải hoàn toàn tự nguyện và phải có ư thức về ơn phước lớn lao mà ḿnh được thọ nhận khi trở thành môn đệ của đức Cao Đài.
2. Hai người tiến dẫn phải thực sự có trách nhiệm lâu dài trong việc hướng dẫn và giúp đỡ cho người đạo hữu cả trước và sau khi nhập môn, không những trên phương diện tu học mà c̣n phải quan tâm giúp đỡ về mặt đời sống để người tân tín đồ có thể an tâm tu học mà không bỏ Đạo nửa chừng.
Nếu cá nhân người tiến dẫn không đủ sức giúp đỡ th́ có thể nhờ đếán hội thánh hoặc tập thể Đạo giúp đỡ. Nếu người tân tín đồ xao lăng việc tu hành, không chấp hành luật pháp Đại đạo hoặc bỏ Đạo nửa chừng th́ người tiến dẫn cũng chịu một phần trách nhiệm.
3. Người nhập môn cần phải đọc lời minh thệ trước Thiên bàn bằng tất cả tâm chí thành của ḿnh. Muốn được vậy th́ đương sự cần phải hiểu rơ ư nghĩa và học thuộc lời minh thệ trước khi nhập môn, chứ không nên cầm giấy đọc như một số thánh thất, thánh tịnh hiện nay vẫn làm.
Việc lập minh thệ hết sức quan trọng và chúng ta không thể xem thường. Ở ngoài đời, chúng ta vẫn thường nghe người ta thề thốt với nhau bằng những lời thề độc tức là đem tánh mạng của ḿnh ra mà thề. Lời minh thệ của chúng ta trong ngày lễ nhập môn cũng là một trọng thệ hay c̣n gọi là hồng thệ. Sống trên đời, một khi đă hứa với ai điều ǵ mà không giữ lời th́ đă phạm vào tội bất tín huống hồ chi đây là lời khấn hứa với ôâng Trời th́ không thể xem thường được. V́ thế, người xin nhập môn cầu Đạo phải là người trưởng thành tức là ở độ tuổi từ mười tám trở lên mới có thể ư thức đầy đủ về tầm quan trọng của lời minh thệ và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của ḿnh.
Không thể sửa đổi lời minh thệ mà cần phải đọc nguyên văn như thời mới khai Đạo mà đức Chí tôn đă dạy (ngày 23-24.4.1926): Tôi là (họ tên) ... tuổi ... “Thề rằng: Từ đây biết một đạo Cao Đài Ngọc đế, chẳng đổi dạ đổi ḷng, hiệp đồng chư môn đệ, ǵn luật lệ Cao Đài, như sau có ḷng hai th́ thiên tru địa lục.” [9]
Nhiều người thấy lời thề nặng quá th́ sợ không dám thề nhưng xin thưa rằng có sợ cũng phải thề. Lư do v́ sao cần phải lập minh thệ? Đức Chí tôn đă dạy (ngày 09.8.1926): “Quỷ vương đến trước Bạch Ngọc kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác, chúng nó hiệp tam thập lục động toan hại các con, nên Thầy sai Quan thánh và Quan Âm đến giữ ǵn các con, nhưng phần đông chưa lập minh thệ, nên chư thần thánh, tiên phật không muốn nh́n nhận.” [10]
Chúng ta vẫn thường nghe câu: Con phật, phật đưa; con ma, ma dắt. Khi chúng ta lập minh thệ tức là đă xác định quyết tâm của ḿnh đi theo chánh đạo, là tự đặt ḿnh dưới sự bảo hộ của đức Chí tôn và các đấng Thiêng liêng th́ mới được Ơn Trên dắt d́u và bảo vệ khỏi sự quấy hại của tà thần. Nếu v́ sợ mà không lập minh thệ, không nhập môn, cứ măi đứng ở ngoài ṿng bảo vệ của Thiêng liêng th́ cũng có ngày bị ma quỷ giựt giành, phải chịu đọa đày nơi cơi trần khổ ải hoặc địa ngục a tỳ th́ có khác ǵ với thiên tru địa lục đâu!
V́ vậy, cần phải lập minh thệ và cần phải luôn luôn hướng thượng, nắm giữ cho thật chắc mối dây liên lạc vô h́nh giữa ta và các đấng Thiêng liêng hầu có thể đi suốt trên con đường chánh đạo cho đến ngày trở về cùng đức Từ phụ.
Thanh Mai
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 3 of 20: Đă gửi: 03 July 2006 lúc 3:56am | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Vạn Hạnh Thiền sư dạy:
Đừng e sợ tu qua một kiếp,
Không vẹn tṛn lỡ nhịp cầu tiên.
Lo là e chẳng vẹn tuyền,
Thủy cần chung đăi liên miên đổi dời.
Đừng lo chẳng có Trời tế độ,
Phật thánh tiên chẳng hộ chẳng d́u.
Lo là e được buổi chiều,
Trong đêm lại phải đổi chiều thay phương.
Đừng e sợ lạc đường cựu vị,
Lo là không khắc kỷ vô minh.
Miệng th́ tụng đọc câu kinh,
Mà ḷng lại có ẩn t́nh đâu đâu.
. . .
Dù tu Phật, tu Trời, tu Thánh,
Hoặc tu Tiên, Khổng Mạnh, Gia Tô,
Chung quy một nẻo thù đồ,
Thủy chung vẹn giữ đạo cơ mà hành.[11]
Đức Chí tôn dạy: “Con có thánh tâm sẽ có Thầy”,[12] vậy, hễ có thánh tâm th́ lúc nào Thầy cũng sẽ ngự trong ḷng ta để giữ ǵn ta khỏi lạc lầm vào bàng môn tả đạo hay bán đồ nhi phế. Bao nhiêu đó cũng đủ để chúng ta mạnh dạn vững tin lập thệ trước đức Chí tôn.
Trên đây là ba điểm cần lưu ư khi tổ chức lễ nhập môn. Ước mong sao những điều này sẽ được các thánh thất, thánh tịnh áp dụng rộng răi và sẽ trở thành những quy định thống nhất trong toàn Đạo đối với việc nhập môn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 4 of 20: Đă gửi: 03 July 2006 lúc 3:57am | Đă lưu IP
|
|
|
Về phần người tín đồ, cũng rất cần nắm rơ ư nghĩa quan trọng của ba điểm nêu trên. Như thế, mỗi khi có vị thiện tâm thiện ư nào muốn nhập môn cầu Đạo, trước khi chính thức tiến dẫn người ấy tới thánh thất, thánh tịnh, th́ hăy thẳng thắn trao đổi, giúp đỡ vị bạn đạo mới phát tâm bồ đề ấy được thông suốt lư lẽ để lập chí, lập nguyện cho vững vàng. Đừng đơn giản nghĩ rằng đây vốn là trách nhiệm riêng của chức sắc chức việc, mà hăy ư thức rằng đây chính là trách nhiệm chung của mỗi người tín đồ đi trước đối với một đạo hữu mới đang muốn tiếp bước đi theo cùng một con đường với ḿnh.
Nói như thế, cũng có nghĩa là: Nếu thấy rơ ai đó chưa thực tâm hiểu Đạo và chưa thiết tha cầu Đạo, th́ đừng bao giờ tiến dẫn người đó nhập môn, kể cả khi người đó là thân thích của ḿnh.
Ngày trước, thuở ban sơ khai Đạo, đức Chí tôn dạy chư vị Tiền bối về việc độ rỗi người vào Đạo như sau (ngày 27.8.1926):
“Hễ bao nhiêu môn đệ độ rỗi của mỗi đứa th́ là họ hàng của mỗi đứa, hiểu à.
“Chừng ấy về Bạch Ngọc kinh th́ gia tộc mỗi đứa đều phân biệt, nếu chẳng độ rỗi th́ về với hai tay không.
“C̣n chư môn đệ đă lập minh thệ rồi ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng hay tùy tội lỗi mà giáng; song buộc mỗi đứa độ cho đặng ít nữa là mười hai người.” [13]
Đức Chí tôn “buộc mỗi đứa độ cho đặng ít nữa là mười hai người” nhưng không có nghĩa là chúng ta làm cho có h́nh thức, chạy theo số lượng mà phát triển tín đồ cho đủ chỉ tiêu Thầy giao. Chúng ta đừng sợ là đưa ra những quy định khó khăn làm người đời nản ḷng bỏ cuộc mà chỉ sợ ta không đủ đức để thu hút nhơn sanh.
Muốn cho nhơn sanh theo Đạo th́ trước nhứt chúng ta cần phải sửa ḿnh cho ngay chánh, đạo đức và làm những việc ích dân lợi chúng. Ngoài đời, chúng ta thấy bệnh nhân thường chọn danh y để xin chữa bệnh. Bác sĩ nào cho thuốc hay, uống vô hết bệnh liền th́ thiên hạ ùn ùn kéo tới xin chữa bệnh. C̣n ở trong Đạo, chúng ta vẫn thường nghe câu “Đạo là thuốc chữa bệnh trần”. Vậy nếu ta mặc áo dài Đạo, đi thánh thất, thánh tịnh mấy chục năm mà tánh t́nh vẫn không thay đổi, bệnh tham sân si dục vẫn c̣n hoài th́ người đời sẽ nghi ngờ rằng chất thuốc “Đạo” mà chúng ta đang uống không phải là linh đơn diệu dược và tất nhiên là sẽ không tin tưởng vào Đạo.
Đức Chí tôn dạy: “Thử nghĩ lập một nước c̣n dễ hơn dạy một người dữ đặng hiền; huống chi trong Tam kỳ Phổ độ này các con phải độ rỗi cả nhơn loại khắp năm châu, th́ trách nhậm ấy lớn lao là bậc nào? Cái hạnh và cái đức của các con phải phù hợp với cái trách nhậm mới đặng. Các con là đèn và gương soi của nhơn loại, phải tập ḿnh cho xứng đáng.” [14]
Đức Giáo tông Đại đạo cũng dạy:
Khi dấn thân cầm giềng mối Đạo,
Tức là đang gỡ tháo tiền khiên,
Tức là tạo bát nhă thuyền,
Rước đưa khách tục vượt miền vô minh.
Th́ trước phải dọn ḿnh chơn chánh,
Quyết một ḷng tâm hạnh nêu gương,
Ngôn từ ḥa ái dễ thương,
Đại nhân đại lượng dẫn đường tha nhân.
. . .
Thảo mộc tốt rầy sâu quy tụ,
Ruộng lúa lành quyến rũ chim trời,
Đất lành hoa quả tốt tươi,
Chùa linh Đạo sáng mọi người tin theo.[15]
Ước mong sao cơ Đạo của chúng ta sẽ ngày một phát triển mạnh mẽ với hàng ngũ tín đồ thuần thành có đầy đủ tâm, hạnh, đức, tài hầu có thể hoằng dương mối đạo Thầy ra khắp năm châu như lời đức Lư Giáo tông đă dạy:
Tài với đức đổi trao phụng sự,
Tâm với tài bực thứ không hai.
Có tâm mà lại có tài,
Đức, tâm, tài đủ, đạo Thầy hoằng dương.[16]
THANH MAI
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 5 of 20: Đă gửi: 04 July 2006 lúc 3:33am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐẠO LUẬT
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Thập Nhị Niên)
Ṭa Thánh Tây Ninh
TỜ KIẾT CHỨNG
CỦA CHƯ CHỨC SẮC THIÊN PHONG
TOÀN THỂ CHÁNH TRỊ ĐẠO
Nhóm tại Ṭa Thánh ngày mùng 8 tháng Giêng năm Mậu Dần (07-02-1938).
Khi Lễ Viện rước Đức Hộ Pháp đến nhà Hội, chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ đồng đứng dậy chào mừng.
Có mặt:
HIỆP THIÊN ĐÀI
Đức Hộ Pháp
Ông Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
Ông Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang Thế
Ông Tả Phan Quân Trang văn Giáo
Ông Truyền Trạng Nguyễn Tấn Chức
Ông Sĩ Tải Đổ Quang Hiển
Ông Sĩ Tải Huỳnh văn Đại
Ông Sĩ Tải Nguyễn văn Hợi
Ông Sĩ Tải Vơ Thành Quốc
Luật Sự Nguyễn văn Hoa
CỬU TRÙNG ĐÀI
Nam Phái:
Ông Qu. Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh
Ông Qu. Thượng Chánh Phối Sư Thượng Chữ Thanh
Ông Qu. Thái Chánh Phối Sư Thái Phấn Thanh
Giáo Sư 9 vị
Giáo Hữu 13 vị
Lễ Sanh 187 vị
Nữ Phái:
Bà Phối Sư Hương Hiếu
Bà Giáo Sư Hương Nhiều
Bà Giáo Sư Hương Quế
Bà Giáo Sư Hương Châu
Giáo Hữu 6 vị
Lễ Sanh ...
Đức Hộ Pháp mời Chư Thánh đứng dậy tụng kinh nhập hội, rồi để lời cám ơn chư Chức Sắc đương quyền tựu về dự hội đông đủ, và dẫn giải các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, tóm tắt đại ư như vầy:
Hiện nay trong nền Chánh Trị Đạo của Đức Chí Tôn có 4 cơ quan là:
# Hành Chánh
# Phước Thiện
# Ṭa Đạo
# Phổ Tế
HÀNH CHÁNH
là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đă có Quyền Chí Tôn phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường Đạo Đức cho đặng thong dong, ḥa b́nh, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.
PHƯỚC THIỆN
là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành Luật Pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn.
T̉A ĐẠO
là cơ quan bảo thủ Chơn Truyền, ǵn giữ Luật Pháp, chăm nom chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, bênh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công b́nh trên mặt Đạo; lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẻ, tôn nghiêm đặc sắc.
Tóm lại là lập phương bảo toàn sanh chúng khỏi điều thống thiết đau khổ với nét oai nghiêm của Chức Sắc đương quyền hành chánh.
PHỔ TẾ
là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đă bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Đạo.
Tổng hợp 4 cơ quan nầy lại gọi là toàn thể Chánh Trị Đạo.
Mỗi năm, ngày vía Đức Chí Tôn, cả Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ có trách nhậm trong nền Chánh Trị Đạo phải hội nhóm lại, đặng chia ra quan sát tờ Vi Bằng của Quyền Vạn Linh ước vọng, cùng tầm phương pháp thật hành cho nên mặt Đạo.
Sau khi 4 cơ quan hiện hữu của toàn thể Chánh Trị Đạo hiệp nhau lập Luật và quyết định phương pháp thật hành th́ buộc Hội Thánh phải thi hành y theo, tức nhiên nó sẽ thành Luật , v́ bởi theo Thiên ư của Đức Chí Tôn là để trọn quyền cho Chúng sanh tự lập Luật mà tu, nên các nguyện ước của Quyền Vạn Linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận nhập thành với Tân Luật, gọi là Luật Hội Thánh.
Ấy vậy, bên Hành Chánh Ông Ngọc Chánh Phối Sư hiệp cùng nhị vị Thái và Thượng Chánh Phối Sư lo sắp đặt đặng quan sát.
Bên Phước Thiện th́ có Ông Khai Pháp H.T.Đ. làm đầu.
Bên Ṭa Đạo th́ chư vị Sĩ Tải H.T.Đ. hiệp nhau lập Luật và định phương pháp thật hành.
Bên Phổ Tế th́ có Giáo Sư Thượng Đức Thanh và Bà Giáo Sư Hương Quế hiệp nhau lo lắng.
Đến ngày 14 nầy, phải hội hiệp lại đặng chung nhau bàn định.
Tới đây hết điều bàn tính, Đức Hộ Pháp truyền tụng kinh xuất hội.
Băi Hội 11 giờ rưởi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 6 of 20: Đă gửi: 04 July 2006 lúc 3:39am | Đă lưu IP
|
|
|
Sĩ Tải Nguyễn văn Kinh thuyết :
Bỡi ít học, tôi không dùng lời văn-chương đặng, nên buộc ḿnh phải lấy lời thô-kịch thật-thà, giảng luận ra đây cho hiểu lư Đạo. Tôi cũng do cổ-điển mà luận giải, như chỗ nào có sai lầm xin hoan tâm miễn chấp, giúp cho được thiện-mỹ.
Chớ Đạo cao sâu, tôi biết tới đâu xin luận tới đó cho rơ chung về chơn Đạo.
Nay là buổi tuần-hườn, Trời khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chấn hưng nền Chánh-Giáo, thức tỉnh chúng sanh, giữ đạo cang thường, tu tâm sửa tánh, hồi đầu hướng thiện, tự hối ăn năn, cải dữ về lành ra tân-dân minh-đức, th́ chúng ta rơ cuộc tuần-hườn Tạo-Hóa xoay vần, công-b́nh Thiên-Đạo, mỗi phương đều phải có một chơn đạo, đặng đời giữ luật-pháp mà noi gương Chánh-Giáo, d́u-dắt lẫn nhau, kềm chế sửa nhau, lấy nét công-b́nh mà đối đăi nhau, từ-ḥa nhịn nhục nhau, cho ra hạng người cao thượng, có phải là Đạo khai cho nhơn-loại trở nên tiến-hóa đó chăng?
Nên mỗi thời kỳ Trời khai Đại-Đạo, hay là các Đấng Tiên Phật xuống trần lập giáo, bất luận phương nào, th́ cũng do nơi Tạo-Hóa chủ-trương, lấy cân Thiêng-liêng mà phân định.
Nay chúng ta gặp thời-kỳ nầy, cũng bởi cơ tạo vận-chuyển đến kỳ Thiên-Đạo hoằng khai, chấn hưng chơn Đạo, cứu độ sanh-linh, vậy th́ đời phải nghịch hẳn công-lư của Đạo. Bởi Chánh-Giáo thất truyền, nên nhơn tâm đổi biến, sái phép công-b́nh, tranh danh đoạt lợi, giết hại lẫn nhau, thành ra trường náo nhiệt, hư phong bại tục, rối loạn cho đời. Nay đúng kỳ Trời khai mở Đại-Đạo cho nhơn-sanh thức tỉnh, tu tích hồi thiện, giữ phép công-b́nh, khử tà quy chánh, bỏ giả về chơn, cho được thuần-phong mỹ-tục, khỏi chịu những điều thiệt hại chung.
Thiết tưởng chúng ta vào Đạo, lo tu tâm sửa tánh, bỏ dữ làm lành, ăn chay giữ luật cấm răn của Đạo mà lo thờ Trời, kỉnh Phật, lấy nét công-b́nh, bỏ những gian tham bài bạc rượu thịt, cho ra người cao thượng, như vậy mới thuận thiên th́ có lẽ đặng hưởng phước Trời ban; c̣n nghịch thiên th́ thế nào tránh khỏi bị h́nh phạt của Trời đặng?
Lâu nay, nơi phương Nam Trời chưa mở Đạo, mà chúng ta đă có thờ kỉnh Tôn-Giáo: Nho, Thích, Đạo mà chưa trọn.
Như Phật-Giáo, từ buổi Đức Thích-Ca Mâu-Ni giáng sanh ƒn-Độ Tây Thiên-Trước mà dạy Đạo, th́ xứ ấy nhờ Phật-Giáo mà truyền bá Đạo thạnh hưng, con người giữ tam-qui ngũ-giới, minh-tâm kiến-tánh, luyện thành mâu-ni bữu-châu ( xá-lợi-tử ). Có phải xứ ấy hưởng nhờ ơn Đạo mà trở nên từ-thiện, đến ngày nay mới có Phật-Giáo mà sùng bái.
Như Đạo Tiên là Đức Thái-Thượng giáng-sanh Trung-nguyên ( xứ Tàu ) dạy Đạo Tiên, thủ cảm ứng công-b́nh, dạy giữ tam-ngươn ngũ-hành, tu tâm luyện tánh, thành ra thữ mễ huyền châu, kết tụ linh-đơn bữu-pháp, th́ xứ ấy cũng hưởng nhờ mối Đạo, trở nên người đạo-đức, nên ngày nay mới có Tiên-Đạo mà sùng bái.
Như Đạo-Nho, Khổng-Phu-Tử giáng sanh tại Trung-Huê ( xứ Tàu ), dạy Đạo tam-cang ngũ-thường, tồn tâm dưỡng tánh, tu luyện cửu khúc minh châu, tu thành chơn nhứt khí Thái-Cực, vậy nên xứ ấy hưởng nhờ Đạo mà người đặng rơ biết cang thường luân-lư, khắc-kỷ phục lễ, tu-tâm sửa tánh, nhu-ḥa nho nhă, ngày nay mới có Đạo Nho mà sùng bái.
Như Thánh-Giáo, Gia-Tô Giáo-Chủ ( Jésus ) giáng-sanh mà dạy Đạo Âu-Châu, lập Thánh-Giáo, xứ ấy giữ luật đạo người, đặng hiền lành nhơn đức mà hưởng nhờ Đạo đặng thuần-phong mỹ-tục, đến nay mới có sùng bái Thánh-Giáo.
Nay các Tôn-Giáo nay đă truyền-bá ra khắp chốn, mà chúng ta cũng thành kỉnh sùng bái đó vậy, th́ Đạo quư báu biết là dường nào. Nay xứ Nam, Trời khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng cứu vớt chúng sanh, cho chúng ta một nền chơn-đạo như các phương ấy, vậy th́ chúng ta nỡ nào lấp tai che mắt hay sao?
Chúng ta phải biết Đấng Tạo-Hóa rất công-minh, dữ răn lành thưởng. Dưới thế nầy, sắc da nào cũng con chung Đấng Tạo-Hóa sanh, th́ Tạo-Hóa đặng phần sửa trị sai khiến phân định cả thảy, không mảy nào sai sót. Tỉ như đời trước, nước nầy sửa trị nước kia, xứ kia lấn hiếp xứ nọ, nước th́ bị tai nạn khổ ách, nước th́ chịu man di mọi rợ, nước th́ đặng quốc-thới dân an, người th́ khổ hạnh nghèo nàn, kẻ th́ giàu sang thong-thả, người bị đui cùi tàn tật, kẻ th́ đặng da thịt trơn liền, cũng do mạng lịnh Trời phân định thưởng phạt sửa khiến cho nhơn-loại, chớ chẳng phải dưới thế nầy quyền-hành ai phân-định đó đặng. Nếu chúng ta biết luật Trời, cơ Tạo-Hóa, th́ dưới trái địa-cầu nầy nhơn-loại toàn phải yêu mến nhau, thương lẫn nhau như con một cha, vậy mới phải người đồng-loại. Bởi kể từ khai thiên lập địa cho đến nay cũng có một Đấng Cha sanh đó mà thôi. Như một hột giống chưởng gây ra sanh sanh hóa hóa, mỗi xứ có nhơn-loại th́ cũng một Cha sanh, nếu chúng ta chẳng biết luật Trời, cơ mầu-nhiệm Tạo-Hóa cứ lấy sức người tranh cạnh nghịch lẫn nhau, kẻ giàu hiếp người nghèo, người mạnh hiếp người yếu cho là chẳng có Trời phân định, th́ tôi xin trả lời: Vậy chớ ai cho người giàu sang, có của mà hưởng giàu sang đó? Vậy chớ ai cho nước kia có thế lực sửa trị nước nọ? Có phải là do Trời phân định mới ra như thế chăng?
Nếu chúng ta chẳng rơ, không chịu mấy điều của Trời Đất thưởng phạt đó, mà gượng làm trái lẽ Trời phân định, th́ là nghịch hẳn với Tạo-Hóa. Nếu trái lẽ Tạo-Hóa, th́ phạm tội nghịch Thiên, mà bị phạt thêm nữa! Hễ nghịch Thiên th́ phải tiêu-diệt, nên sách: " Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong ".
Nên chúng ta biết Trời sanh, th́ Trời phải có quyền sửa trị, một mảy không sai, vậy nên lo tu tâm sửa tánh ở cho thuận ḷng Trời, giữ phận làm con cho ra hiền, nên sách rằng: " Hoàng Thiên bất phụ thiện tâm nhơn ", nghĩa là: Trời đâu có bỏ ḷng người hiền lành hiếu Đạo. Chúng ta cứ gốc mà vun đắp bồi bổ, th́ nhánh lá tự nhiên thạnh mậu, chớ để gốc ung sùng, mà lo trên nhánh lá, làm sao nó tươi tắn sống đặng! Nếu chúng ta chẳng có chút nào hiền-lành nhơn đức khổ cực với đời, th́ Trời lấy công-quả ǵ mà ban thưởng cho chúng ta đặng an-hưởng? Ta muốn giàu sang mà làm việc gian ác, chẳng khác nào Trời đă phát cho thân-thể nghèo nàn cực khổ, mà chẳng biết ăn-năn, tu tâm sửa tánh, lại c̣n làm điều gian ác đặng Trời phạt thêm nữa th́ phải mất phẩm nhơn-loại c̣n đâu đứng làm người mà an hưởng ơn Trời ban. Vậy phải sớm thức tỉnh mà tầm Đạo.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 7 of 20: Đă gửi: 04 July 2006 lúc 6:47am | Đă lưu IP
|
|
|
Đoạn văn này được trích từ “Lịch sử Đạo Cao-Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926”, chương I “Đất Nam Kỳ”, của tác giả Lê Anh Dũng
Lời tiên tri trong kinh điển Minh sư
Minh sư là một tông phái thờ Tam giáo, nhưng trọng về Lăo, sử dụng cơ bút, tu đơn (tức thiền đạo Lăo). Khởi thuỷ, môn phái này quy tụ các di thần nhà Minh (Trung Quốc), xuất hiện đầu đời Thanh (cuối thế kỷ XVII). Tổ thứ mười hai của Minh sư là ông Trần Thọ Khánh có qua Việt Nam năm Giáp Ngọ (1894), năm sau tạ thế ở Trung Quốc.[6] Đạo Minh sư lúc đầu nuôi chí “phản Thanh phục Minh” nhưng với thời gian đă thay đổi nhiều. Khi được truyền bá ở Việt Nam, Minh sư trở thành một môn phái tu hành thuần túy, rất có uy tín ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Chùa Minh sư được gọi là Phật đường. Rất nhiều Phật đường là căn cứ mật của nghĩa quân chống Pháp.
Trước khi đạo Cao Đài xuất thế, trong tín đồ thông chữ Hán của Minh sư thường truyền tụng hai câu mà quán thủ là Cao Đài:
Cao như bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng,
Đài tại nam phương Đạo thống truyền.
Ở miền Tam Quan, tỉnh B́nh Định, Trung Kỳ, có phái tu Minh sư của một nhà ái quốc là đạo sĩ Trần Cao Vân (1866-1916). Kinh nhật tụng của phái này có hai câu:
Con cầu Phật tổ Như lai,
Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên ông .
Đợi đến khi Cao Đài truyền từ Nam ra Trung, tín đồ Minh sư mới nghiệm được lời tiên tri. Lối tu có cơ bút, thờ Tam giáo của Cao Đài lại phù hợp Minh sư nên các lăo sư và đông đảo tín đồ đă mau lẹ nhập môn, trong sự hân hoan là từ đây người nước Nam đă có đạo của dân tộc Việt Nam.
Sự xuất hiện của đạo Cao Đài ở Việt Nam, khởi nguyên từ đất Nam Kỳ, đă diễn ra trong một thời kỳ lâu dài. Riêng về thời kỳ tiềm ẩn, nhằm chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho đạo Cao Đài ra đời, có thể ấn định mốc thời gian khởi từ năm Canh Thân (1920) là năm lần đầu tiên vị môn đồ đầu tiên của đức Cao Đài là ông Ngô Văn Chiêu được biết đến hồng danh Cao Đài trong một đàn cơ ở tỉnh Tân An. Khởi từ năm ấy, thời kỳ tiềm ẩn có thể coi như kết thúc vào cuối tháng 8 Bính Dần (tháng 9-1926), v́ vào lúc đó, ông Lê Văn Trung đă cùng các đồng môn công bố tuyên ngôn chính thức về sự ra đời của đạo Cao Đài. Tuyên ngôn này thường được gọi đơn giản là Tờ khai Đạo.
....Thượng Đế, ứng hợp với những lời tiên tri, đă giáng trần, bằng huyền cơ diệu bút, sáng lập Đạo Cao-Đài tại Việt Nam vào năm Bính Dần 1926.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 8 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 2:51am | Đă lưu IP
|
|
|
RA ĐỜI, VÀO ĐẠO
Bác Sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Càng ngày tôi càng trông tỏ hai nẻo đường, mà nhân loại bắt buộc phải băng qua:
1.- Nẻo đường hướng ngoại: để thích ứng với hoàn cảnh.
2.- Nẻo đường hướng nội: để tiến hóa; để đắc Đạo, phối Thiên.
- Nẻo đường 1, tôi gọi là Âm Lộ, v́ càng ngày nó càng tiến vào hôn trầm, ám muội.
- Nẻo đường 2 là nẻo đường tiến vào tâm linh, sẽ đưa đến giải thoát con người. Tôi gọi con đường này là Dương Lộ, v́ càng ngày nó càng tiến tới ánh sáng, tới quang minh.
Hai nẻo đường trên người Trung Hoa xưa đă đề cập đến:
Nơi đầu quyển Kỳ Môn Độn Giáp, ta đọc thấy:
“ÂM DƯƠNG THUẬN NGHỊCH BẤT ĐỒNG ĐỒ.”
(ÂM DƯƠNG XUÔI NGƯỢC KHÁC ĐƯỜNG NHAU).
Chương 33 Trung Dung viết:
“Thơ rằng:
Gấm mặc trong, ngoài phủ áo sa,
Là v́ ngại gấm đầy hoa ḷe loẹt.
Nên đạo quân tử ám nhiên, ẩn ước,
Sau dần dần mới sáng rực măi lên.
Đạo tiểu nhân mới ngó ngỡ là đèn,
Nhưng càng ngày càng tối đen tối sẫm...”
Nẻo đường hướng ngoại suy cho cùng trớ trêu thay lại là nẻo đường của các đạo giáo công truyền trên thế giới. Phẩm chất của các đạo giáo công truyền, của các “NGOẠI ĐẠO” này là những phẩm chất ngoại tại: Thượng thần ngoại tại, chân lư ngoại tại, luật lệ ngoại tại, quyền uy ngoại tại, thưởng phạt ngoại tại, đền đài miếu mạo ngoại tại, kinh sách ngoại tại, định luật nhân sinh toàn là những qui ước ngoại tại. Những người đă bước chân vào con đường này dần dần bị cấm suy, cấm nghĩ, cấm so sánh, càng ngày càng bị “viễn cách chỉ huy” (remotely controlled), và dần dà trở thành những h́nh nộm trên sân khấu đời...mang danh đi đạo, mà suốt đời chẳng biết thế nào là đạo.
Con người được đổ vào những khuôn sáo mà xă hội đă tạo dựng nên. Những khuôn sáo này chính là chiếc giường cố định của Procruste. Ai lùn, ai ngắn th́ kéo cho xương khớp ĺa tan, miễn là phải vừa với khổ giường; ai dài, ai lớn, th́ chặt bớt đi cho ngắn lại. Đi vào con đường này, chỉ thấy toàn là kỷ luật, c̣n tự do, hạnh phúc chỉ là những danh từ hăo, hữu danh vô thực.
Những đạo giáo công truyền này hết sức khác biệt nhau, nhưng đều được giảng dạy cho con người từ lúc ấu thơ, từ khi c̣n ấu trĩ. Chính v́ đối tượng của chúng là CON NGƯỜI ẤU TRĨ nên dĩ nhiên chúng cũng phải ấu trĩ.
Suy kỳ cùng, chúng cũng có ích cho nhân loại, v́ chúng đóng góp nhiều vào công cuộc giữ ǵn an ninh trật tự xă hội, giúp con người đối xử hẳn hoi với con người, giúp con người ăn ngay ở lành, ít là trên h́nh thức bên ngoài, và theo tầm nh́n lối nghĩ của các giáo hội.
Theo đạo giáo công truyền cũng là một cách thích ứng với ngoại cảnh, và cũng thỏa măn phần nào niềm khao khát siêu nhiên của con người.
Con đường thứ hai, là con đường hướng nội, là con đường giải thoát thực sự, mà Ấn Độ xưa đă dùng những tiếng như là Yoga, Moksa, Kriya Yoga, mà ngày nay người ta dùng những tiếng như là SELF-REALIZATION, hay GOD-REALIZATION (THỰC HIỆN TỰ TÁNH, THỰC HIỆN THIÊN CHÚA) v,v...
Phẩm chất của đạo giáo mật truyền này - một NộI GIÁO duy nhất của nhân quần - là phẩm chất nội tại: Thượng thần nội tại, chân lư nội tại, luật lệ nội tại, quyền uy nội tại, thưởng phạt nội tại, kinh sách nội tại, đền đài miếu mạo nội tại: Thượng thần chính là Căn Nguyên con người, Nguồn sinh con người; kinh sách, lề luật chính lương tâm con người; tất cả đều là thiên nhiên, vĩnh cửu.
Đền đài chính là thân tâm con người. Con người được khuyến khích suy tư, khuyến khích t́m cầu, khuyến khích thoát khỏi những ǵ tù túng, trói buộc thân phận con người. Nó có mục đích giúp con người vươn vượt lên trên thân phận con người, trở thành thần minh, ngay từ khi c̣n ở gian trần này, hưởng hạnh phúc tâm linh ngay từ khi c̣n ở gian trần này: Thực vậy, muốn biết ḿnh chứng đạo hay không chỉ cần kiểm điểm xem ḿnh có được hạnh phúc thực sự hay không, quang minh chính đại hay không, tiêu sái hay không, hồn nhiên hay không.
V́ nó không đ̣i hỏi con người phải sống cố định theo những khuôn khổ gian trần nào, mà chỉ đ̣i hỏi phát huy những khả năng vô biên vô tận sẵn có nơi ḿnh, thực hiện tinh hoa c̣n tiềm ẩn nơi ḿnh, nên con người càng ngày càng cảm thấy ḿnh có thể triển dương, tiến hóa vô biên tận.
Loại đạo giáo này dành cho những tao nhân, mặc khách, những tâm hồn cao siêu, khoáng đạt. Con người thường chỉ t́m ra được NộI GIÁO này lúc đầu đă hoa râm, lúc tuổi đă khoảng 40, và thường là có may mắn gặp được chân sư chỉ dạy.
Những đạo giáo công truyền ngày nay có rất nhiều. Nguyên Thiên Chúa Giáo cũng có vô số giáo phái.
Ngoài ra chúng ta c̣n có Phật giáo, Ấn Giáo, Bà La Môn giáo, Hồi giáo.
Mới nh́n, ta thấy chúng hết sức khác nhau. Nhưng suy nghĩ thêm một chút, ta thấy chúng rất là giống nhau.
1.- Trước hết chúng là đạo giáo của đại đa số quần chúng. Đạo nào cũng hănh diện v́ có hàng triệu triệu tín đồ.
2.- Đạo nào cũng có đền đài miếu mạo.
3.- Đạo nào cũng có một vị Thượng thần, hay nhiều vị thần; nhiều vị Phật, hay nhiều vị thánh để ca tụng, tôn thờ, hương hoa cúng quải.
3.- Đạo nào cũng có những nghi lễ để hành, những kinh để đọc, những bài ca để hát, cũng x́ xụp van vái.
4.- Đạo nào cũng đ̣i hỏi sự đóng góp của giáo dân: xem lễ, dự lễ, cầu kinh chung, góp công, góp của.
5.- Đạo nào cũng thường có những lễ nghi đặc biệt để đánh dấu các thời điểm quan trọng của cuộc đời như: tử, sinh, quan, hôn, tang, tế v.v...
6.- Đạo nào cũng tạo ra những thiên đường riêng, những địa ngục riêng, và cũng có những vị thánh thần, hay những yêu ma, quỉ quái, đầy nhóc trong đó. ở thiên đừờng th́ ca hát, ở địa ngục th́ khóc than. Cả ở hai nơi, cuộc sống đều vô vị, vô ư nghĩa như nhau.
7.- Đạo nào chung qui cũng cốt là để Thờ TRỜI, Thờ ALLAH, Thờ PHẬT.
c̣n tiếp .....
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 9 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 2:53am | Đă lưu IP
|
|
|
Tất cả những đạo giáo trên đều có giáo tŕnh, giáo sử, và theo đà thời gian cũng có thăng trầm, và rồi ra cũng có thể có sinh, có diệt.
Có điều lạ là đạo nào cũng cho ḿnh là Chân đạo, c̣n đạo khác là tà đạo, là ngoại đạo, mặc đầu chính bản chất của ḿnh vốn là tà đạo, là ngoại đạo: tà đạo v́ không nh́n ra được chân bản thể của con người, chân bản thể của vũ trụ, chân giá trị của con người, mục đích chân chính của cuộc tiến hóa quần sinh; ngoại đạo, v́ chỉ biết những lễ nghi h́nh thức hời hợt bên ngoài, chạy theo những ǵ phù phiếm, phiến diện bên ngoài, mà ù cạc về những điều trọng yếu, những lư sự tiềm ẩn bên trong vũ trụ và con người.
Từ năm tôi 36 tuổi, tôi bắt đầu t́m ra được con đường nội giáo:
- Tôi cảm nghiệm một cách mănh liệt rằng con người có Thiên tính.
- Tôi xác tín rằng con người phải đi vào tâm mà t́m Đạo. t́m Trời.
- Con người có giá trị vô biên và có những khả năng vô biên, vô tận, cần được khai thác.
- Con người v́ có hai phương diện nội ngoại, hằng biến, nên có nhiều loại bổn phận:
a.- Thích ứng với ngoại cảnh, khai thác ngoại cảnh, để sống một cuộc đời vật chất sung sướng, khỏe mạnh, thoải mái.
b.- Ăn ở cho xứng đáng với danh nghĩa con người, có một đời sống cá nhân, gia đ́nh, xă hội, quốc gia, quốc tế hẳn hoi trật tự trong một bàu không khí, tương ái, tương kính, tương thân, tương trợ.
c.- Vươn vượt lên trên thân phận con người, thoát ṿng kiềm tỏa của không gian thời gian, của biến thiên, ảo hóa, để sống một cuộc đời thần linh, siêu tuyệt.
Đại Đạo Tâm Linh này chỉ có một mục đích duy nhất là THÀNH PHẬT, THÀNH TRỜI, THÀNH THẦN, chứ không chủ trương LẠY TRỜI, LẠY PHẬT, LÀM TÔI TỚ CHO TRỜI, CHO PHẬT.
Nó không có lễ nghi, h́nh thức, nó không chủ trương x́ xụp van vái, mà chỉ có chủ trương sống với mọi người, với quần sinh vũ trụ, thế nào cho hay, cho phải, chỉ chủ trương tương kính, tương ái, tương thân, và hợp sức cùng nhau cải thiện ngoại cảnh, tổ chức gia đ́nh xă hội, quốc gia cho ngày một thêm hoàn mỹ. Chưa thực hiện được một cuộc sống cá nhân và cộng đồng lư tưởng, chưa lơi công tŕnh...
Nó chỉ có một mục đích duy nhất là giúp con người t́m cho ra cái bản chất thần linh siêu tuyệt nơi ḿnh. Chúng ta muốn gọi cái Bản thể thần linh ấy là ǵ cũng được: Là Tuyệt đối, là Chúa, là Allah, là Oum, là Brahman, là Atman, là Chân Như, là Đạo, là Nhất, là Hư, là Vô, hay là Không. Danh hiệu không cần, nhưng đừng bao giờ quên nó, xa ĺa nó, chối bỏ nó...
Cũng nên nhận chân rằng con đường đi vào nội tâm mà t́m Đạo, t́m Trời là một con đường có thực, nhưng rất ít người t́m ra.
Không t́m ra được, v́ nhiều lư do:
1.- Con người đă bị thôi miên, bị nhồi sọ từ tấm bé bằng cái đạo công truyền sẵn có ở xă hội bên ngoài.
2.- Lười biếng không chịu t́m cầu. Sống phù phiếm, không biết trầm tư mặc tưởng.
3.- Không có căn cơ, hay chưa có cơ duyên.
4.- Cho rằng đi vào tâm để t́m Đạo, t́m Trời là điều không tưởng.
5.- Cái đạo cao siêu này thường chỉ truyền thụ cho những người thực tâm tha thiết t́m cầu, chứ không vơ bèo, gạt tép, truyền dạy ẩu tả.
Huyền thoại Ấn Độ có ghi: Xưa kia mọi người đều là thần minh. Nhưng v́ ăn ở bất xứng, lạm dụng danh tước đó, nên Tối Thượng Thần Brahman nhất định cất bản chất thần minh ra khỏi con người. Nhưng đem bản chất thần linh đó ra rồi, sẽ đem dấu cất nơi đâu. Chúng thần bàn tới, bàn lui, đề nghị dấu trên đỉnh non cao, hay chôn trong ḷng đất, hay thả ch́m đáy biển. Thượng Thần Brahma nói dẫu dấu chỗ nào bên ngoài con người cũng đều không ổn, v́ một ngày nào đó, con người sẽ t́m lại được, chi bằng đem dấu vào một chỗ kín đáo nhất mà không bao giờ con người có thể nghĩ tới mà đi t́m, đó là dấu ngay ở chính giữa ḷng sâu tâm hồn con người... (1)
Mặc dầu các vị giáo chủ đă cố giảng dạy rằng Chúa, rằng Trời, rằng Nước Trời ở ngay trong ta, nhưng chẳng có ai tin. Chẳng những thế lại cho rằng tin như vậy là lầm lẫn lớn. Thật đáng buồn thay! (2)
Từ đây sắp xuống tôi sẽ bàn về mục đích cuộc đời, về cái nh́n siêu tuyệt của những bậc thượng trí thượng nhân từ cổ chí kim, không phân biệt đông tây, về Nội Giáo mật truyền của thiên hạ.
Thực ra, từ trước đến nay, dù nói xa, nói gần, tôi vẫn thường đề cập đến cái Đại Đạo tâm truyền ấy, khi th́ tôi gọi đó là Đại Đạo, khi th́ tôi gọi đó là Tinh Hoa các tôn giáo, khi th́ tôi gọi là đạo Huyền Đồng. Cái Đạo này thực ra nó đă tiềm ẩn sẵn trong ḷng mọi người, tôi chỉ muốn khơi động nó lên, chứ thực ra nó đă có từ muôn thủa.
Cái Đại Đạo này bắt đầu có từ khi mà Bản Thể vô biên tế của vũ trụ này bắt đầu phóng phát, tán phân, bắt đầu h́nh hiện thành quần sinh vũ trụ.
Khi đă phóng phát, tán phân thành quần sinh vũ trụ này rồi, th́ Đại thể vô biên, linh minh huyền diệu ấy lại tiềm ẩn sẵn trong ḷng sâu của vũ trụ, quần sinh và của con người.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 10 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 2:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Như vậy vũ trụ, quần sinh, và con ngưười có hai b́nh diện:
- Một là b́nh diện Bản thể, duy nhất bất khả phân, thường hằng vĩnh cửu, siêu việt, tuyệt đối.
Tùy cung cách tŕnh bày, cảm nghĩ của các bậc thánh hiền, mà Bản Thể đấy mang nhiều danh hiệu: Hư, Vô, Vô Cực, Thái Cực, Chân Tâm, Chân Như, Thượng đế, Allah, Trời, Jehovah, Elohim, Adonai, Ahura Madza, Brhaman, Atman, Niết Bàn, Nước Trời v.v...Đó cũng là Cơi Thiêng, siêu sinh tử, siêu không gian, thời gian...
- Hai là b́nh diện Hiện Tượng, h́nh tướng biến thiên, đa tạp, lệ thuộc vào ṿng h́nh danh, sắc tướng, không gian, thời gian, ṿng duyên nghiệp, sinh tử, luân hồi, có danh mà không có thực, phù du, hư ảo, như những áng mây bồng bềnh trên khung trời thẳm, hay như những bọt bèo biến hiện trên mặt trùng dương vô biên, vô tận. Đây là thế giới của cá nhân, cá tính, của những ǵ vô minh, của những ǵ hư ảo. Đây là " Nước thế gian ", theo danh từ Tân ước; hay Cơi Tục, hay hồng trần tục lụy, bể khổ bến mê, nói theo kiểu Á Đông.
Khi đă nh́n tỏ được hai phương diện này, tự nhiên một câu hỏi được nêu lên: Giữa cái Khổ và cái Lạc, cái Biến và cái Hằng, cái Giả và cái Chân nói trên, ta sẽ chọn cái ǵ?
Dĩ nhiên là ta phải chọn cái ǵ là Thường Hằng, vĩnh cửu, cái ǵ là Chân thực, cái ǵ là Quang Minh Chính Đại, cái ǵ là Lư tưởng.
Tất cả những phương tiện dẫn từ Phù Sinh, đến Trường sinh, từ Hiện Tượng tới Bản Thể, đó gọi là Đại Đạo, v́ nó là con đường duy nhất, mà nhân loại bắt buộc phải băng qua để tiến tới trường sinh vĩnh cửu.:
Các đạo sư Ấn Độ là những người có công đi tiên phong trong công cuộc t́m Đạo, t́m Trời nói trên. Bộ Veda, bộ Upanishads, bộ Bhagavad Gita là những bộ kinh cổ xưa đă cho ta rất nhiều chi tiết về con đường thành chân, chứng thánh đó. Ấn Độ, ngay cả bây giờ vẫn c̣n có những đạo sư, những kỳ nhân đóng vai hướng đạo thế giới trên con đường tâm linh...Nói thế không có ư nói rằng chỉ có Ấn Độ giáo mới có nhiều vị thánh hiền. Nếu chúng ta chịu t́m cầu, th́ đâu đâu cũng gặp những bậc siêu nhân như trên. Đọc Đạo Tạng của Lăo Giáo, khảo các Mật Tông ÂSu Châu như Kabala, Free-Masonry, Rosicrucianism, Theosophy, Gnosticism, Neo-Platonism, Transcendentalism, ta thấy tràn đầy những tư tưởng đó...
Chúng ta sẽ chứng minh điều đó sau đây.
Khi một con người tiến từ Phù Sinh lên tới Trường Sinh, từ Hiện Tượng vào tới Bản Thể, th́ sự kiện ấy được mệnh danh là:
- Giải thoát.
- Nhập Niết Bàn.
- Phối Thiên.
- Đắc Đạo.
- Trở thành Atman-Brahman.
- Thực hiện Thượng đế (God-realization).
- Thực hiện Tự Tính; thực hiện Đại Ngă (Self-Realization).
Cuộc tiến hóa này, mỗi một người đều phải thực hiện lấy. Một kiếp chưa xong, th́ tiếp tục tiến hóa trong nhiều kiếp. Các vị Giáo Chủ xưa nay chỉ là những vị tiên phong, những bậc dẫn đạo, chứ chẳng ai cứu rỗi nổi ai....
Vũ trụ này đều được chi phối bằng những định luật vĩnh cửu.
c̣n tiếp......
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 11 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 10:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
Như vậy, mục đích công cuộc tu tŕ là:
- T́m cho ra những định luật vĩnh cửu của đất trời để mà theo mà giữ. Ta có thể gọi đó là GIỚI, GIỚI LUẬT, hay LỄ, hay Ư CHÚA.
- T́m ra con đường, t́m ra cách để thoát ṿng không gian, thời gian, thoát ṿng biến thiên. Con đường đó, Bà La Môn gọi là Kriya Yoga (Con đường thực hiện Thượng đế), là Yoga mà ta thường gọi là Thiền, là Thiền Định.
- Thiền là tham thiền là mài miệt suy tư về Bản thể siêu tuyệt, về Thiên Tính, Phật tính của ḿnh, để luôn cảm thấy ḿnh chẳng hề rời xa Đạo, xa Trời.
Định là thu thần định trí, là thu nhiếp tâm linh về một điểm. Đó là Chân Tâm, đó là Điểm Khởi Nguyên đă tung tỏa ra thành vũ trụ, và con người, và đó cũng là Điểm Hội Tụ của mọi biến hóa, và là Cùng Đích của ṿng Càn Khôn sinh hóa của muôn loài.
Thiền định để phát ra đại trí, đại huệ.
- Phát ra Đại Trí, Đại Huệ để nh́n tỏ Căn Nguyên và Cùng Đích của Vũ Trụ, Quần Sinh và của Con Người.
Mục đích tối hậu của Giới Định Huệ là thể nhập với Bản Thể của vũ trụ.
Như vậy, tôi đă giải nghĩa lại ba chữ GIỚI, ĐỊNH, TUỆ của Phật giáo, cũng như của Bà La Môn, và của Thánh Hiền Đông Tây, kim cổ.
Nhưng Yoga, hay Thiền, hay Đơn Đạo, thực ra có những mục tiêu hết sức đa tạp:
- Mục tiêu tối hậu của nó là giúp con người sống phối hợp với Đạo, với Trời. Nhưng nó cũng có những mục đích gần gũi hơn, nhăn tiền hơn, chẳng hạn như là:
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 12 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 10:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
a.- Giữ ǵn sức khỏe bằng cách:
- Ở nơi trong sạch.
- Ăn uống thanh đạm.
- Động công (physical exercises=tập thể dục) (nhất là phía Lăo giáo).
- Án Ma (Massage) (Lăo giáo)
- Yết tân (Nuốt nước bọt) (Lăo)
- Khí công: (Điều ḥa hơi thở).
- Hoặc điều ḥa " phàm tức " (thở điều ḥa bằng phổi).
- Hoặc vận " chân tức " (vận chân khí qua hai mạch Nhâm, Đốc).
- Hoặc " đ́nh tức " (ngưng thần tụ khí nơi năo thất 3, tức Nê Hoàn Cung).
b.- Luyện trí bằng cách:
- Điều chế tư lự.
- Mài miệt suy tư về một vấn đề ǵ nhất là để t́m cho ra Chân Bản Thể, thân thế và định mệnh con người.
c.- Luyện tâm, bằng cách:
- Chế ngự thất t́nh, lục dục.
d.- Luyện thần bằng cách:
- Tập trung thần trí.
- Đại định, nhập vào Đại Thể vũ trụ.
Tóm lại người thường sống trong loạn lạc, hỗn tạp.
- Hành động hỗn loạn, thân thể bất an.
- Loạn tư, loạn lự: Suy tư hỗn loạn.
- T́nh cảm hỗn loạn: hốt hỉ, hốt nộ, yêu cuồng sống vội, phóng túng vô độ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 13 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 10:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
Các Yogi, các đạo sư thời sống an b́nh, trật tự, tĩnh lăng.
- An tọa.
- Điều tức.
- Tâm b́nh, khí ḥa, điềm đạm, hư vô.
- Hư tâm, vô niệm.
- Đi sâu vào đời sống các đạo sĩ, ta c̣n thấy một hiện tượng lạ lùng sau:
1.- Mới đầu, họ thở bằng mũi, bằng phổi, thở điều ḥa. Phương pháp thở này gọi là : "PHÀM TỨC " (Lối thở của kẻ phàm phu).
2.- Vận Chân Khí qua hai mạch Nhâm, Đốc. Lúc này th́ hơi thở qua phổi giảm đi, và có thể đ́nh lại. Cả Yoga Ấn Độ, cả Lăo giáo đều đề cập đến các phương pháp này. Huỳnh Nguyên Kiết có câu:
“Phàm tức đ́nh, nhi chân tức hiện”: Phàm tức (Lối thở bằng mũi) có ngưng, th́ chân tức (Lối thở bằng xương sống) mới hiện.
3.- Cuối cùng là " đ́nh tức " (Ngừng thở bằng phổi, ngừng vận động chân khí), sau khi đă vận được THẦN, KHí tụ về Nê Hoàn cung. Người xưa gọi thế là ĐẠI ĐỊNH, là THAI TỨC (cách thở của thai nhi khi c̣n trong bào thai).
Nhập đại định đối với người xưa tức là:
- Nhập vào Đại Thể của vũ trụ.
- Trở về với Chân Nhất.
- Thoát ṿng hiện tượng biến thiên.
- Thoát ṿng không gian thời gian.
- Siêu nhân, hợp Thiên.
- Phối Thiên.
- Đắc Đạo.
- Nhập Niết Bàn.
- Giải Thoát.
- Trở thành Chân Nhân. (3)
V́ trọng tâm của Đại Đạo nói trên là trở thành con người toàn diện, là t́m cho ra những định luật đất trời mà theo, mà giữ; t́m cho ra những môi trường thuận tiện mà sinh sống, cho nên người theo đại đạo:
- T́m những nơi có không khí trong lành mà sinh sống.
- Những nước b́nh trị mà cư trú.
- ăn uống thanh cảnh, giữ ǵn sức khỏe.
- Sống điều độ, mực thước, không làm ǵ quá mức, quá lạm.
- Giữ cho óc chất quang minh.
- Giữ cho tâm hồn tĩnh lăng.
- Giữ cho tinh thần thanh sảng.
Họ thích những nơi tịch mịch, như những lùm cây, những núi non hưu quạnh, hay những pḥng ốc thang vắng, v́ ở những nơi đó, tâm thần họ đỡ bị tản lạc, và sự ḥa đồng với Trời, với Đạo dễ dàng hơn. Cũng có người chủ trương rằng có những linh địa, thánh địa như Thiên Thai, Nga Mi (Tàu), Tarakeswar (Aẽn Độ), hay Hi Mă Lạp Sơn có thể phả ra những làn sóng điện giúp con người trở nên thanh sảng, dễ xuất thần.
c̣n tiếp.... (BS Nhân tử Nguyễn văn Thọ)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 14 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 10:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Họ muốn sống lại bằng thân ánh sáng của Bản Thể, nên cố gắng rũ bỏ cái thân “ từ điện ” của hiện tượng. Thân " từ điện " là thân có yêu có ghét, có chấp, có cầu. Nên muốn rũ bỏ được thân “từ lực”, phải hoạt động trong vô chấp, vô cầu, phải sống vượt lên trên yêu ghét thường t́nh. Thân " Từ Lực " chính là vọng tâm, vọng ngă, luôn luôn sống trong ṿng nhân duyên, duyên nghiệp, luân hồi. Người xưa, khi viết các chữ DUYÊN, chữ TRIỀN, chữ PHƯỢC, đều có bộ TI là Tơ một bên. Tơ đây thực ra không phải là Tơ Tằm mà là Tơ DUYÊN từ điện, phát ra những từ trường, từ lực, từ tuyến. Những từ tuyến, từ lực, từ trường nói trên chính là những sợi dây kiên cố giam hăm tâm linh chúng ta. Rũ bỏ VỌNG TÂM, VỌNG ÛƠ chính thoát khỏi từ trường của nhân quần.
Đứng về một phương diện khác, họ cũng cố t́m cách thoát ṿng không gian, thời gian:
Muốn thoát ṿng không gian thời gian, phải thoát khỏi những ǵ biến thiên, sinh tử.
Muốn vậy:
1.- Phải sống vượt trên ngoại cảnh, bằng cách đóng khóa ngũ quan, để thoát ảnh hưởng của h́nh danh, sắc tướng, của ngoại cảnh, cũng như của ngũ quan.
2.- Phải dừng những suy tư về những công truyện gian trần, thường hay có tính cách làm cho loạn trí. Thế là sống Vô Niệm.
3.- Giữ cho tâm tư tĩnh lăng, hồn nhiên, không cho thất t́nh, lục dục tung hoành, thao túng.
4. Tập trung thần khí vào Nê Hoàn Cung. Người xưa gọi thế là Tam Hoa Qui Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên hay Nhập Đại Định.
Bốn phương cách này cũng na ná như bốn trạng thái Thiền mà Phật giáo đề cập tới (4).
Mục đích của Yoga là t́m cho ra Thượng đế nội tại, (5)
Mircea Eliade gọi các các thiền sư xưa nay là “cái điểm h́nh học” (the geometrical point), để Trời người gặp gỡ, ḥa hà́ với nhau. (6)
Chữ " điểm h́nh học " trên làm tôi liên tưởng đến công tŕnh suy khảo của tôi để t́m cho ra chỗ TRỜI NGƯỜI HỜA HÀI (THIÊN NHÂN HỢP NHẤT) nơi con người. Lạ lùng thay trong đầu có một cung mà đạo Lăo gọi là Động Pḥng, Âu Châu gọi là Thalamus, mà Thalamus cũng có nghĩa là Động Pḥng. Nhưng v́ Thalamus là cái ǵ có thể thấy được, nên tôi lại đi t́m sâu hơn, và tôi đă t́m thấy rằng nơi chính trung đầu năo con người có những động trống (ventricles), Đạo Lăo gọi động chính giữa là Thiên Cốc hay Nê Hoàn Cung. Lăo giáo cho rằng nơi ấy là nơi Thần trời đất ngự trị (7), Bà La Môn gọi đó là Liên Hoa Tâm (Sahasrara), hay Thiên Môn (Brahma-randhra Brahmagate) (8). Mircea Eliade c̣n cho rằng; nếu nh́n bảy luân xa của con người, từ trên xuống dưới, th́ thấy chúng họp lại thành một Mandala duy nhất, mà Tâm Điểm chính là Brahmarandhra (9). Thiết tưởng không c̣n cách nào xác định Tâm Điểm của đầu năo con người, tâm điểm tâm linh, tâm điểm vũ trụ chính xác hơn được nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 15 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 10:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cao Đài cũng gọi đó là Nê Hoàn Cung, Huyền Tẫn Môn, hay Thiên Môn (10)
Tuy nhiên cái " Tâm điểm " trong đầu năo con người ấy không phải là ai cũng t́m được ra. Ngày nay, vô số người tu tŕ vẫn c̣n đặt trọng tâm vào Hạ Đơn Điền nơi dưới rốn.
Thời Trung cổ, bên Âu Châu có " môn phái tu nh́n rốn " (Hesychasm). Họ chuyên tu nh́n rốn, trong khi kêu tên Chúa Jesus Christ, và họ cho rằng sau nhiều ngày đêm tu tŕ khổ hạnh như vậy, họ sẽ t́m ra " tâm sở " (the place of the heart), nơi chứa đựng mọi điều huyền diệu (11).
Trên đây tôi đă chứng minh:
- Đạo giáo nội tại có đường hướng hẳn hoi: Đó là hướng nội.
Chủ trương, đường lối, sự diễn biến của nó đều theo những định luật bất biến của trời đất, và luôn luôn được cảm nghiệm nơi ḿnh. Tu đúng đường th́ xác thân sẽ cường tráng, con người sẽ yên vui sung sướng, óc chất sẽ quang minh, tâm tư sẽ ḥa hoăn, sảng khoái, lạc quan, tràn đầy nhựa sống.
- Đạo giáo nội tại v́ là con đường của các vị hiền thánh đă băng qua, v́ đă được chi phối bởi những định luật vĩnh cửu, nên khi hiểu rành rẽ về đại giáo nội tại này ta hiểu được tâm tư các vị giáo chủ, cách tu tŕ của quí vị cũng như lối sống thường nhật của các ngài. Có thể nói được rằng chúng ta đă được “tha tâm thông”. Lát nữa chúng ta sẽ áp dụng những hiểu biết của chúng ta để soi rọi vào đời sống của ít nhiều vị giáo chủ.
- Đạo giáo nội tại có mục đích đưa con người đến chỗ phối thiên, thành Trời, thành Phật, thành Thần, nên bao giờ cũng chỉ có ít người theo nổi.
- Nó đ̣i hỏi con người phải thành khẩn t́m cầu, ao ước vươn vượt, không cố chấp, không câu nệ, trọng kính chính ḿnh, tin tưởng vào giá trị vô biên của ḿnh, vào định mệnh sang cả của ḿnh, tin thật rằng ḿnh chẳng hề bao giờ ĺa xa khỏi Hóa Công.
Đọc lịch sử Đức Phật ta thấy ngài đă thụ giáo với đại sư Arada Kalama về học thuyết tiền-Samkya (đại khái là phép nội quan quán chiếu, na ná như Phân Tâm Học ngày nay) tại Vaisali, và với đại sư Udraka Ramaputra về căn bản và mục đích của Yoga (12).
Chúng ta cũng đă thấy rằng chính nhờ thiền định trong 49 ngày dưới gốc Bồ Đề mà Ngài đă giác ngộ.
Trong quyển Đức Phật và Phật Pháp, của Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch, nơi Chương 13, khi thuật lại đời sống hằng ngày của Đức Phật, tác giả ghi: “Đời sống bên trong là tham thiền nhập định và chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn c̣n bên ngoài là phục vụ vị tha, và nâng đỡ phẩm hạnh của chúng sinh trong khắp thế gian” (Sách trích dẫn, tr, 233).
Nếu Ngài chủ trương Niết Bàn đă sẵn có trong tâm linh con người, th́ rơ ràng là ngài dẫn chúng ta vào Nội Giáo.
Chúa Giê Su với chủ trương: Nứơc trời ở trong anh em (Luke 17, 21), và khi đọc kinh chớ ra ngă ba đầu chợ, mà hăy vào buồng đóng cửa lại (Mat.6,6) hay không c̣n thờ Chúa ở núi này, hay ở Jerusalem, nhưng v́ Chúa là Thần, nên phải thờ Ngài bằng thần (John, 4:22-24; thánh Paul khi dạy rằng Thần Chúa ở trong ta, ta là đền thờ Chúa (1 Cor.6, 19-20) rơ ràng là dạy chúng ta nội giáo: T́m CHúa Đáy Ḷng..
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 16 of 20: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 10:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đạo Lăo với những chủ trương : Thiên tại nội, nhân tại ngoại (Nam Hoa Kinh, Chương 17, Thu Thủy, đoạn 1);
hoặc : " Ngoại du giả cầu bị ư vật, nội quan giả, thủ túc ư thân " (Đi ra bên ngoài, là cầu cạnh vào ngoại vật mới mong thành toàn; nội quan quán chiếu là thấy trong tâm có đầy đủ tất cả) (Liệt Tử, Xung Hư Chân Kinh, Ch.4, Trọng Ni đệ tứ, đoạn G. Xem Léon Wieger, Les Pères du Système Taoiste, pp. 122-123).
Trong Nam Hoa Kinh, ta thường thấy đề cập đến trạng thái " xuất thần, nhập định ", mà tác giả gọi là Táng Ngă (Sách trích dẫn, Chương 2, Tề vật luận, đoạn 1.)
Như vậy mục đích đạo Lăo cũng cốt là chỉ vẽ cho ta nội giáo chân truyền.
Nho giáo với chủ trương:
“Cả vạn vật ở trong ta đó,
Quay vào ta, ta cố tinh thành.
Kiện toàn, hoàn thiện tinh anh,
Vui nào hơn đươc vui ḿnh đang vui. ”(13)
của Mạnh Tử ; và:
“Quay vào ta mà t́m đạo ấy,
T́m đáy ḷng sẽ thấy chẳng sai,
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung (14) "
của Trung Dung, rơ ràng là chủ trương nội giáo.
Có điều lạ là theo đà thời gian tất cả các đạo giáo lớn đều biến từ nội giáo chân truyền thành ngoại giáo công truyền, v́ thấy rằng có làm như vậy mới có người theo!
Mới đầu tôi cứ tưởng rằng Nội Giáo Tâm Truyền là của Á Đông, nhưng càng ngày tôi càng thấy rằng từ cổ xưa không biết bao nhiêu là môn phái Âu Châu, và ngày nay cũng có rất nhiều giáo phái Âu Mỹ chủ trương nội giáo:
Dưới đây tôi xin đan cử một số giáo phái, triết phái, mật tông, mật giáo chủ trương NỘI GIÁO:
- Neo-Platonism (Tân Bá Lạp Đồ).
- Gnosticism (Giác Ngộ).
- Kabala (Mật tông, huyền học Do Thái).
- Free-Masonry (Tam Điểm).
- Theosophy (Thông Thiên Học
- Rosicrucianism (Hồng Hoa Hội).
- Sufism (Bạch Y Phái của Hồi Giáo).
- Alchemy (Luyện đan phái- Nội đan phái) - Trancendentalism (Siêu việt phái).
- Modern Gnosticism (Tân Giác Ngộ phái)
- The Ramakrishna Mission and Vedanta Societies.
- The Self-Realization Fellowship.
- The Maharishi Mahesh Yogi 's Transcendental Meditation.
- Internatioanl Sivananda Yoga Society
- The International Society for Krishna Consciousness v.v...
Tôi không thể đi vào chi tiết các giáo phái này, nhưng đại khái họ cũng có những nét chính yếu mà tôi đă phác họa về Nội Giáo.
Tôi chỉ xin giới thiệu hai cuốn sách trong nhiều cuốn sách nói về các giáo phái trên:
1.-Religious and Spiritual Groups in Modern America của Robert 's Ellwood, Jr., Prentice Hall Inc., Englewood Cliff, New Jersey, 1973.
2.- The Kingdom of The Cults của Walter R. Martin, Bethany House Publishers, Minneapolis. Minnesota 55438, 1982
Mục đích tôi viết bài này, cốt là để chứng minh rằng con đường nội tâm chính là con đường chắc nhất, gần nhất để về với Đạo với Trời.
Chỉ có Nội giáo này mới đem lại giá trị siêu việt lại cho con người, giải thoát thực sự con người, đem lại hạnh phúc thực sự cho con người, và đồng thời cũng cho thấy sự thông minh siêu tuyệt sự sắp đặt siêu tuyệt của Trời, là đă dựng nên con người với những khả năng vô biên vô tận, đă chia sẻ cho con người chính Bản Thể ḿnh, và đă cho con người thời gian vô tận, không gian vô tận, và những nguồn năng lực vô tận của vũ trụ để thực hiện sứ mạng sang cả của ḿnh là biến trần ai tụy lụy thành thiên đường, biến con người ngày nay thành những con Trời, những Phật Tiên mai hậu. Thật là cao siêu vô cùng, đẹp đẽ vô cùng.
HẾT
Nguồn: Cao Đài Đại Đạo
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 17 of 20: Đă gửi: 13 July 2006 lúc 11:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
CƠ BÚT TRONG CAO ĐÀI GIÁO
Đồng Tân
I) Dẫn nhập:
Vấn đề cơ bút, một phương tiện của người đồng tử thông công với thế giới vô h́nh, là một vấn đề xưa cũ như quả đất, nhưng nó lại không được dễ dàng thu nhận trong nhăn giới của con người dù tầm kiến thức của họ b́nh thường hay cao rộng. Nói như thế có nghĩa là vấn đề được đặt ra trong một chiều sâu của vũ trụ mà ngay cả những nhà đạo học nếu không đạt được mức khải thị đầy đủ cũng không thấu triệt được.
II) Chính đề:
Vấn đề cơ bút thuộc về thế giới tâm linh nhưng nhân loại ngày nay đâu đâu cũng chạy theo tấn tuồng vật chất trong đà đấu tranh, từ chính trị gia cho đến hàng dân giă, ai cũng đuổi theo quyền và lợi, đánh mất tinh thần đạo đức vốn là nền tảng nhân bản có tự ngàn xưa. Văn minh vật chất ngày nay là con ma bệnh của loài người đang kéo họ xuống vực sâu tội lỗi mà họ không hay biết. Chính những người thiên về tâm linh như một số người muốn được gọi là triết gia cũng chạy theo thời thượng để mong rằng ḿnh có giá trị thời thượng trước quần chúng nhân loại.
Tôi muốn nói, con người ngày nay không c̣n biết linh hồn vốn là phần vô h́nh đang điều động thể xác. Linh hồn có kẻ phủ nhận hoàn toàn như phe duy vật, nhưng cũng bị hiểu phiến diện như phe duy tâm, khi “có” như Thiên Chúa giáo, khi “không” như Phật giáo, tuy cả hai đều tự cho chỉ có ḿnh mới đem lại hạnh phúc an b́nh nơi Thiên đàng với Chúa và Nát bàn với Phật. Thế mà khi hỏi các cảnh ấy ở đâu th́ cách trả lời thường không được rốt ráo. Nhưng một khi linh hồn c̣n không xác định được th́ vấn đề Đấng Tạo Hóa – Á Châu gọi Thượng-Đế, Âu Châu gọi Dieu hay God – cũng khó ḷng nhận định được, chẳng khác ǵ người mù với màu sắc. Mà một khi bị mù rồi th́ không thể có được nhận thức của người thường. Lẽ cố nhiên, vấn đề tâm linh vốn là động cơ cho cuộc tấn hóa vũ trụ từ ngh́n xưa cho đến khi nào tiềm năng của nó không thể phủ nhận được.
c̣n tiếp...
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 18 of 20: Đă gửi: 16 July 2006 lúc 12:23am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi phải dài ḍng như vậy để khai thông lối hành tŕnh của con người với yếu tố nhân bản – bởi con người là chủ nhân ông vạn vật – như thế mới có thể đề cập đến vấn đề cơ bút mà qua ḍng lịch sử nhân loại đă nhờ vào đó để tấn hóa đến ngày nay. Hăy thử t́m lại quá khứ nhân loại đă trải qua các thời đại mà các nhà sử học gọi là homo religious rồi homo sapien hay căn cứ theo lịch sử Trung Hoa th́ vào thời Thượng Cổ, cuộc sống man rợ của loài người đă được những người, trai gọi là “nghiễn” và gái gọi là “vu”, vốn có cuộc sống thuần lương chất phác trong số dân gian đă được Thần linh nhập xác và chỉ vẽ cách làm ăn sinh sống để tự nuôi thân ḿnh – mà các nhà viết sử đă gọi họ không đúng là loại đồng bóng như của đạo Lăo sau này.
Giáo chủ các tôn giáo thành h́nh về sau không ít th́ nhiều cũng mang tính thông công – nghĩa là chính họ cũng là đồng tử thông công với thế giới vô h́nh nên mới có những lời giáo huấn về cuộc sống tâm linh c̣n bàng bạc trong các kinh điển tạo thành nhiều nền triết học cũng như tôn giáo. Thế nên, một hiện tượng Pythie ở đền Delphes của Hy Lạp giáo hay hiện tượng Thần thi (Rihis) với Kinh Vệ Đà của Ấn Độ giáo đă xác minh yếu tố thông công với vô h́nh.
Trong khi đó nếu t́m nơi cá nhân các Giáo chủ th́ cứ xem kinh điển cũng đủ biết cá nhân các Giáo chủ đă tự ḿnh thông công với thế giới vô h́nh như thế nào. Một Moise trên dải núi Sinai, một Thích Ca nơi rừng Khổ Hạnh, một Jésus Christ nơi động Qaranthal, một Mohamet nơi động Hara, cuộc đời của các vị đă bao trùm những bí mật mà mấy ai hiểu thấu. Đó chẳng là những thời điểm tịnh luyện của đồng tử để sau đó trở nên thánh thiện mà thành ngôi Giáo chủ th́ là ǵ?
Trở về với Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ th́ ở đây cũng có những câu hỏi được đặt ra: Cơ bút là ǵ? Đồng tử là ai? và vị trí người đồng tử trong Cao-Đài giáo như thế nào?
Sở dĩ dám đề cập vấn đề này v́ tôi đă là người đồng tử trong cơ quan Hiệp Thiên Đài của Hội Thánh Truyền Giáo Cao-Đài miền Trung lúc đang độ thiếu niên vào cuối thập niên 1940 trong chiến khu thời chiến tranh Pháp Việt, với thành quả nh́n thấy Thiên Nhăn đầy hào quang hiện ra trước mặt trong ba lần tiếp lệnh đặc biệt của Vô h́nh (do đó đă khó trốn tránh trách nhiệm của ḿnh trước vạn linh).
Vậy đồng tử là người pḥ cơ chấp bút theo Vô h́nh chỉ dạy. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy rơ: Phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tánh chí Thánh Tiên Phật mới pḥ cơ dạy Đạo cả chúng sanh. Kẻ pḥ cơ chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền Đạo cho thiên hạ. Con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường...
C̣n cơ bút là ǵ? Là một phương tiện thông công với thế giới vô h́nh. Khác với phương tiện do Thông Linh học Tây phương dùng con cơ di động theo bàn tay của người đồng tử trước một bảng có sẵn các mẫu tự La tinh, trong khi cơ bút trong Cao-Đài giáo phát nguyên từ nguồn cội Minh Sư bên Trung Hoa. Đó là một dụng cụ mô h́nh cḥm sao Bắc Đẩu gồm một cái giỏ đan bằng tre h́nh lăng trụ bọc vải vàng một đầu kín một đầu hở, đường kính khoảng 1,2 tấc tây, bề cao khoảng 2,1 tấc tây, đầu dưới trống luồn qua một thanh gỗ tṛn dài khoảng 7 tấc tây có gắn liền xiên về phía trước một đầu gỗ khoảng 1 tấc dùng làm ng̣i bút sẽ chạy dài trên mặt bàn khi đồng tử vâng lịnh viết ra. Thường th́ đầu này được chạm h́nh đầu con rồng...
c̣n tiếp...
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 19 of 20: Đă gửi: 16 July 2006 lúc 12:29am | Đă lưu IP
|
|
|
Căn cứ theo lịch sử Cao-Đài giáo th́ từ đầu năm 1925, nhóm các ông Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Nguyễn trung Hậu, Cao hoài Sang đă bắt chước các nhóm Thông Linh học (Le Spiritisme) gốc gác từ Hoa Kỳ đă dùng cách xây bàn (table frappente) để thông công với các vong hồn thân nhân quá cố.
Sau này đến kỳ Trung Thu Ất Hợi (tháng 9-1925) lại được vong linh cô Vương thị Lễ (một trong 9 vị Tiên cô nơi Diêu Tŕ Cung gọi là Thất Nương) cho biết việc xây bàn không ứng hợp với các vị Vô h́nh ở cấp bậc cao hơn nên đă chỉ cách sử dụng ngọc cơ (như đă có từ đức Ngô Minh Chiêu năm 1921 với đồng tử Lê Ngưng cùng cách cầu và bài cầu do ngài truyền lại).
Điều kiện để trở nên người đồng tử: Như đă dẫn chứng, đồng tử phải do cơ quan Hiệp Thiên Đài tuyển chọn qua một buổi đàn cơ. Cố nhiên người ấy phải gồm đủ phẩm hạnh trường trai tuyệt dục, phải tập luyện ngồi thiền qú nhang cấm khẩu theo hạn định ít nhất trong một tháng. Sau đó mới được một chức sắc Hiệp Thiên Đài hay một đồng tử kỳ cựu truyền bí pháp cho để bắt đầu theo thủ tục ấn định ngồi vào ghế pḥ cơ. Đồng tử tập dượt gồm một đồng dương, một đồng âm (cả hai đều toàn nam hoặc toàn nữ). Cả hai đều ngồi đối diện nhau để bốn tay cùng nắm vào thanh cơ trên hai ghế trước Thiên bàn, sau khi được vị Pháp sư họa phù tẩy uế đôi tay và cả thân người. Liền đó, Pháp sư chứng đàn qú giữa chánh điện, độc giả điển kư qú hai bên và đọc bài cầu.
Theo phân nhiệm do lịnh đă có, người đồng dương ngồi bên trái Thiên bàn và người đồng âm ngồi đối diện bên phải. Theo kinh nghiệm bản thân th́ người đồng dương tiếp hoàn toàn điển linh, c̣n người đồng âm th́ nhận ít điển hơn. Cho nên cũng đồng tử mà hai người không giống nhau là ở điểm này. Mỗi buổi cầu đàn thường phải có đủ cặp. Trường hợp bất khả kháng th́ phải có một đồng dương cũng được. Lẽ cố nhiên một đồng âm không thể pḥ cơ được.
Cầu cơ th́ như trên, c̣n chấp bút th́ giản tiện hơn. Chấp bút là trường hợp không có ngọc cơ và Thiên bàn. Người đồng tử – lẽ cố nhiên là đồng dương – có thể một ḿnh ngồi với bài cầu do Pháp sư đọc, rồi cũng được điển giáng khi cầm ng̣i bút – thường là viết ch́ – ghi lại trên giấy những lời giáng, sau đó độc giả viết lại, nghĩa là không khác ǵ những buổi cầu cơ thường.
Làm thế nào để nhận định tính chất một bài cơ? Đây là một vấn đề nan giải với người không phải là đồng tử dù chức sắc hay tín đồ. Sở dĩ như thế v́ không buổi đàn cơ nào không mang tính trang nghiêm thần bí nên khó phân biệt bài cơ đă có là do Thiên điển hay nhơn điển. Tà điển cũng có thể xảy ra nếu người đồng tử không thanh sạch hoặc nơi cầu đàn ô uế. Điều này rất dễ biết v́ tà điển rất hung hăng và người hầu đàn có thể bị đập phá. Nhưng Thiên điển hay nhơn điển th́ khó phân biệt. Muốn biết rơ điều này chỉ người có huệ nhăn mới thấy được. Nếu là người thường th́ phải có đủ đạo hạnh tinh tấn, thấu triệt chánh pháp mới phân biệt được lẽ chánh tà, nhất là phải có dạ vô tư không dựa theo một lănh tụ phe phái nào mới tránh được sự lợi dụng người đồng tử làm công cụ cho cá nhân ḿnh.
Sự kiện này, cá nhân tôi, khi xem một bài cơ thuộc chi phái nào là biết được giá trị của nó. Cho nên, sau khi viết xong ba cuốn Lịch sử Đại Đạo (1), tôi đă không thể viết thêm nữa v́ mỗi nơi đều lập vị riêng cho ḿnh, không c̣n được gọi là chánh pháp Cao-Đài theo lời Thánh ngôn đă có từ 1921 đến 1927. Tây Ninh th́ có Đạo luật Mậu Dần 1938 của ông Phạm công Tắc không c̣n theo thể chế dân chủ tam quyền phân lập buổi sơ khai. Các chi phái khác th́ mai một v́ thiếu đi những nhân tài uyên bác. Cơ quan Phổ Thông Giáo Lư chủ quan qua những bài Thánh ngôn năm 1965 đă cho rằng đức Ngô Minh Chiêu tự thú bất lực về lối tu “c̣n thiếu sót nay được PTGL chỉnh lại” trong khi lối tu tâm pháp của ngài đă thành đạo với ấn chứng mở Thiên Nhăn không cựu giáo nào sánh kịp...
c̣n tiếp....
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 20 of 20: Đă gửi: 16 July 2006 lúc 12:33am | Đă lưu IP
|
|
|
Một điều tôi cần nêu ra đây là bộ phận thông công nằm trong cơ quan Hiệp Thiên Đài nên trong Pháp Chánh Truyền HTĐ có câu: “Hễ trọng quyền ắt có trọng phạt”. Cho nên, trong Nam có những đồng tử – dù là chức sắc – đă phạm giới luật bị trọng h́nh tôi không nói ra đây làm ǵ. Riêng cá nhân Hộ pháp Phạm công Tắc v́ không c̣n vô tư hành đạo nên năm 1934, ông bị nhà độc tài đỏ Lénine nhập vào tại Ṭa Thánh Tây Ninh (2) để lại vết tích trong tập Messages Spirites do đó một sử gia là giáo sư Eden Vallet bên Pháp đă cho rằng đạo Cao-Đài thờ Lénine (mà một đạo huynh ở Pháp – cụ Lê trung Cang – đă giận dữ vừa fax cho tôi tờ mise au point để đính chính vào tháng trước đây).
Th́ ra tôi cứ tưởng ḿnh đơn độc khi đă đưa ra lời nhận định trong cuốn Lịch sử Cao-Đài, tập 2, phần Phổ Độ (lần tái bản cuối năm 2002) là qua Đạo nghị định thứ 8 năm 1934 ông Tắc đă khẳng định các chi phái không theo ông là bàn môn tả đạo, trong khi ông “theo mật chỉ Chí Tôn” lại đi làm việc mà các sứ giả sau này nhận định là bàn môn tả đạo. Nhưng không phải người đồng tử nào cũng đạt được Thiên vị. Bằng chứng là ông Lê Ngưng đă thi hành xong phận sự đồng tử từ khi mới 10 tuổi bên cạnh đức Ngô Minh Chiêu, đă sống bên cạnh ngài cho đến ngày ngài liễu đạo mà vẫn không thọ pháp tu của ngài được – trong khi pháp tu ấy do chính ông pḥ cơ để đức Cao-Đài chỉ dạy cho đức Ngô –
Khi có môn đệ thắc mắc về vấn đề này th́ đức Ngô bảo: “V́ đồng tử không đủ căn duyên nên mỗi người tu theo tâm pháp của ngài sau này sẽ giành cho đồng tử Ngưng một chút âm chất” (lúc đó ngài đang ăn miếng bánh đă bẻ cho ông Ngưng một nửa). Như vậy, người ĐỒNG TỬ VÀ CƠ BÚT VẪN LÀ ĐIỀU KIỆN THEN CHỐT trong công cụ khai truyền chánh pháp Cao-Đài kỳ ba theo nguyên lư Thiên Nhân Hiệp Nhứt mà không một cựu giáo nào có thể so sánh được vậy.
III) Kết đề:
Sứ mạng của người đồng tử thật quá quan trọng nên người đồng tử phải ư thức được vai tṛ thiêng liêng của ḿnh mới xứng đáng với Thiên vị sẵn giành. C̣n nếu không giữ được tinh thần thuần chơn vô ngả, chí công vô tư trong phận sự ḿnh th́ có ngày đền tội theo luật Thiên điều vậy. Thế hệ trước đă có người không tṛn trách nhiệm th́ đàn hậu tấn nên thấy đó làm gương. Vấn đề cơ bút là một phần đóng góp trong công tŕnh khai sáng nền Cao-Đài giáo quan trọng vào bậc nhất, nhưng cũng là phần phức tạp khó hiểu nhất đối với các nhà nghiên cứu tôn giáo quốc tế – Anh Mỹ Nga – nên họ đă không quan tâm nhiều tới vấn đề này khi t́m hiểu về Cao-Đài giáo (3).
ĐỒNG TÂN
(Đồng Tân là một học giả Cao-Đài nổi tiếng ở Việt Nam và cả với giới nghiên cứu Âu Mỹ. Ông là tác giả 3 cuốn Lịch sử Đạo Cao-Đài và cuốn T́m hiểu Đạo Cao-Đài ghi lại những câu ông trả lời cho những người ngoại quốc tầm học. Điều cần nhấn mạnh là Đồng Tân không những chỉ là một kho tàng về kiến thức Cao-Đài mà thời niên thiếu đă là một đồng tử. Do đó những điều ông viết ngoài tính cách khách quan c̣n mang theo những kinh nghiệm cá nhân vô cùng giá trị nếu xét rằng Đạo Cao-Đài dựa trên cơ sở tâm linh và cơ bút. TNAC)
Nguồn: Cao Đài Đại Đạo
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|