Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 203 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: CHỈ PHÁP THÂN BA ĐỜI NHƯ LAI QUÁ CHỖ NGHĨ NGỢI CỦA THẾ GIAN, CHẲNG PHẢ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 1 of 1: Đă gửi: 28 January 2007 lúc 9:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn anhkhoi09

CHỈ PHÁP THÂN BA ĐỜI NHƯ LAI QUÁ CHỖ NGHĨ NGỢI CỦA THẾ GIAN, CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT-NA, TRƯỚC SAU KHÔNG LỖI THANH TỊNH VÔ LẬU.


1- CHỈ PHÁP THÂN TỰ THÔNG QUÁ CHỖ NGHĨ NGỢI CỦA THẾ GIAN.

- THƯA THỈNH VỀ CHƯ PHẬT CÓ HẰNG SA DIỆU NGHĨA.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn đă nói “Quá khứ chư Phật như hằng hà sa, vị lai hiện tại cũng lại như thế”. Thế nào Thế Tôn là như nói mà tín thọ hay lại có nghĩa khác? cúi xin Như Lai thương xót giải nói.

Cảnh giới chư Phật bất khả tư ngh́, cảnh giới Phật trí bất khả tư ngh́, cảnh giới chúng sanh bất khả tư ngh́, cảnh giới vọng tưởng bất khả tư ngh́, bất khả tư ngh́ này đồng pháp giới tánh, không thiếu không dư, chẳng ra chẳng vào, không thể chỉ bày, cũng chẳng phải không nói. Đây nhân dụ hằng hà sa Phật riêng hiển nghĩa này. Trừ v́ chúng sanh phương tiện dẫn thí dụ, nơi câu vô nghĩa để thông chân thật th́ chẳng phải nhất thiết trí đâu hay dự vào đây.

- CHỈ CHƯ PHẬT TỰ THÔNG QUÁ CHỖ NGHĨ THẾ GIAN, KHÔNG THỂ NÓI THÍ DỤ.

Phật bảo Đại Huệ: Chớ như nói mà tín thọ, số lượng chư Phật ba đời chẳng phải như hằng hà sa. V́ cớ sao? V́ quá chỗ nghĩ của thế gian, chẳng phải thí dụ và sở thí dụ, do phàm ngu chấp thường, ngoại đạo vọng tưởng nuôi lớn ác kiến sanh tử không cùng, muốn khiến nhàm ĺa ṿng sanh tử, chuyên cần thắng tiến, nên v́ họ nói chư Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa Ưu-đàm-bát khó được thấy. Dứt phương tiện cầu, có khi lại xem các người thọ hóa khởi nói thế này, Phật khó được gặp như hoa Ưu-đàm-bát. Hoa Ưu-đàm-bát không ai đă thấy, hiện thấy, sẽ thấy. Như Lai thế gian thảy thấy, v́ chẳng do kiến lập tự thông nói rằng Như Lai ra đời như hoa Ưu-đàm-bát. Đại Huệ! Tự kiến lập tự thông quá chỗ nghĩ của thế gian, các phàm ngu kia không thể tin. Cảnh giới tự giác thánh trí, không cùng cái ǵ thí dụ được. Chân thật Như Lai quá tướng tâm ư ư thức được thấy, không thể làm thí dụ. Đại Huệ! Song ta nói thí dụ Phật như hằng hà sa không có lỗi lầm.
Số lượng ba đời chư Phật chẳng phải như hằng hà sa, quá chỗ nghĩ của thế gian, chẳng phải thí và sở thí, đây là Như Lai chân ngữ như ngữ vô thượng, diệu đế, chỉ chứng tự biết. Song do chúng sanh hy vọng, v́ đoạt cái hư ngụy kia quyền chỉ chân thật, bảo có chư Phật chẳng phải như Ưu-đàm, hoặc nói như hoa Ưu-đàm để chỉ khó gặp, mà chẳng phải để kiến lập tự thông. Cảnh giới tự thông chẳng phải tướng có thể thấy, chẳng phải tướng chẳng thấy. Hành xứ chân thật của Như Lai quá tất cả kiến tướng của tâm ư ư thức, không thể ví dụ. Lại nói “song ta nói thí dụ Phật như hằng sa cũng không có lỗi lầm”, là thánh trí bên cạnh tự thông tùy nói mà chỉ bày, chẳng phải chỗ hay thấy của Nhị thừa và Bồ-tát thủy giáo. Văn sau rộng chỉ nghĩa này, duy phải tỏ ngộ.

- DỤ NHƯ LAI PHÁP THÂN BẢN TỊCH.

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng tất cả cá, trạnh, thân thu, ma-ha, sư tử, voi, ngựa, người, thú dẫm đạp, cát chẳng nghĩ rằng kia năo loạn ta mà sanh vọng tưởng, tự tánh thanh tịnh không các nhơ nhớp. Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác tự giác thánh trí là sông Hằng, đại lực thần thông tự tại v.v… là cát. Tất cả ngoại đạo các người thú v.v… tất cả năo loạn, Như Lai chẳng nghĩ mà sanh vọng tưởng. Như Lai lặng lẽ không có niệm tưởng. Như Lai bản nguyện lấy cái vui tam-muội v́ an chúng sanh, không có năo loạn, ví như cát sông Hằng đồng không có khác, lại v́ đoạn tham sân.

Về sau đều tức nơi hằng sa nói rộng nghĩa Phật, mà đây lại dụ Như Lai pháp thân bản tịch. Như Lai tự giác thánh trí có hằng sa đại lực, thần thông tự tại, bị tất cả ngoại đạo, người, thú năo loạn mà tánh giác cát thể vẫn tịch, không có niệm tưởng. Chỉ dùng bản nguyện an lạc quần sanh, khiến họ tự giác không có tham sân. Thế mới biết, tất cả chúng sanh tự ở trong cũng có giác cát, mà từ vô thủy đến nay bị các tà kiến người thú dẫm đạp trọn không chán ĺa, lặng lẽ đến nay không thêm không bớt. Chỉ dùng chân như bản nguyện an lạc tất cả chúng sanh niệm niệm khởi diệt, khiến trụ pháp vị không có năo loạn. Ví như cát sông Hằng là v́ đoạn tham sân, mà tất cả chúng sanh không tự giác biết, thấy là Như Lai chư Phật như cát sông Hằng kia.

- DỤ PHÁP THÂN CHẲNG DIỆT.

Thí như cát sông Hằng là tự tánh của đất này, khi kiếp tận lửa cháy, cháy tất cả đất, mà địa đại kia chẳng bỏ tự tánh, v́ cùng hỏa đại đồng sanh. C̣n ngoài ra kẻ ngu khởi tưởng đất bị cháy, mà đất chẳng bị cháy, v́ là nhân của lửa. Như thế, Đại Huệ! Như Lai pháp thân như cát sông Hằøng chẳng hoại.

Đây dụ Như Lai pháp thân thường trụ chẳng diệt, thí như cát sông Hằng, đồng với cái kiên cố này là tự tánh đất, cùng hỏa đại đồng sanh. Lửa nhân đất mà được tánh cháy, đất nhân lửa mà được lư sanh, đều không có nghĩa cháy hết.

- DỤ PHÁP THÂN KHẮP TẤT CẢ CHỖ KHÔNG CÓ CHỌN LỰA.

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng không có hạn lượng, Như Lai quang minh cũng lại như thế, không có hạn lượng, v́ thành thục chúng sanh khắp soi tất cả chư Phật đại chúng. Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng riêng cầu cát khác hằng không thể được. Như thế, Đại Huệ! Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác không sanh tử sanh diệt, v́ có nhân duyên đoạn vậy.

Đây dụ Như Lai pháp thân khắp tất cả chỗ không có lựa chọn. Tự tâm hiện lượng khắp giáp sa giới, tất cả tiếng là tiếng Phật, tất cả sắc là sắc Phật, nên nói “không có cát khác”. Có nhân duyên đoạn là, lại pḥng lỗi tự nhiên. Như Lai đă chỉ cho người lấy sự nhật dụng hồn nhiên, không phải chẳng quấy mà lại hiển chỉ thú vô cấu thanh tịnh, có nói lẫn nhau phát minh.

- DỤ PHÁP THÂN ĐỐI HIỆN KHÔNG CÓ TĂNG GIẢM.

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng thêm bớt không thể biết. Như thế, Đại Huệ! Như Lai trí tuệ thành thục cho chúng sanh chẳng thêm chẳng bớt, v́ chẳng phải thân pháp. Thân pháp là có hoại. Như Lai pháp thân chẳng phải thân pháp.

Đây dụ pháp thân ứng hiện không có thêm bớt. Chúng sanh duyên thành thục tức thấy Như Lai thành đẳng chánh giác, nói pháp độ sanh, vào Niết-bàn, mà Như Lai pháp thân vốn không đi, lại, cũng không có tâm hiện. Có đi có lại ấy là thân pháp, mà Như Lai chẳng phải là thân pháp, không thể phá hoại. Nên nói “tùy duyên phó cảm đâu chẳng khắp, mà thường ngồi ṭa bồ-đề này”.

- DỤ NHƯ LAI BI NGUYỆN ĐỒNG VỚI PHÁP GIỚI.

Như ép cát sông Hằng không thể được dầu. Như thế, tất cả chúng sanh tột khổ ép ngặt Như Lai. Cho đến chúng sanh chưa được Niết-bàn, chẳng bỏ pháp giới, tự tam-muội nguyện lạc v́ do đại bi.

Đây dụ Như Lai bi nguyện đồng với pháp giới. Dầu sánh Như Lai tâm niệm mỏi chán. Như Lai dùng mười câu vô tận, thành tựu chúng sanh khổ tột ép ngặt, không có chán bỏ, do đại bi làm thành.

- DỤ NHƯ LAI PHÁP THÂN TÙY THUẬN NIẾT BÀN.

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng theo nước mà trôi, chẳng phải không nước. Như thế, Đại Huệ! Như Lai nói ra tất cả các pháp theo ḍng Niết-bàn. Thế nên nói như cát sông Hằng. Như Lai chẳng theo các ḍng (khứ) di chuyển, v́ đi là nghĩa hoại. Đại Huệ! Sanh tử bản tế không thể biết, v́ không biết làm sao nói đi? Đại Huệ! Đi đó là nghĩa đoạn mà kẻ ngu chẳng biết.

Đây dụ Như Lai pháp thân tùy thuận Niết-bàn. Nếu chẳng tùy thuận là bị ḍng sanh tử chuyển, thành nghĩa đoạn diệt. Sanh tử bản tế tức là Niết-bàn bản tế, do chẳng biết th́ chẳng tùy thuận, khởi tưởng đi là hoại. Đi là nghĩa đoạn, mà Như Lai pháp thân chẳng đoạn.

- CHỈ SANH TỬ GIẢI THOÁT BẢN TẾ VÔ BIÊN.

Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu chúng sanh sanh tử bản tế không thể biết, làm sao giải thoát có thể biết? Phật bảo Đại Huệ: Nhân tập khí vọng tưởng lỗi ác hư ngụy từ vô thủy diệt, tự tâm hiện biết nghĩa bên ngoài, vọng tưởng thân chuyển mà giải thoát chẳng diệt. Thế nên vô biên chẳng phải hoàn toàn không có. V́ vọng tưởng kia khởi vô biên v.v… tên khác. Quán sát trong ngoài ĺa nơi vọng tưởng, không có chúng sanh khác, trí và sở tri tất cả các pháp thảy đều tịch tĩnh. Chẳng biết tự tâm hiện vọng tưởng nên vọng tưởng sanh, nếu biết th́ diệt.

Sanh tử bản tế tức Niết-bàn bản tế, do chẳng biết tùy thuận khởi ra vọng kiến th́ sanh tử tướng khác, Niết-bàn tướng khác, thành lỗi tập khí. Nếu biết tự tâm hiện ra, sanh tử Niết-bàn vốn không hai mé. Tức nhân vọng tập diệt th́ thấy các pháp bên ngoài không có tự tánh, bèn hay chuyển vọng tưởng thân tùy thuận sanh tử, gọi là giải thoát mà chẳng phải đoạn diệt. Cho nên nói “vô biên, chẳng phải trọn không bản tế”. Chỉ do chẳng biết bản tế vọng thấy sanh tử Niết-bàn, khởi tưởng hữu biên. V́ vọng tưởng kia nói là vô biên, bởi khiến quán sát trong ngoài, chỉ trừ vọng tưởng lại không có danh tự chúng sanh, trí và sở tri tất cả các pháp thảy đều tịch tĩnh. Cho nên biết, chúng sanh sanh tử đều do vọng tưởng, chẳng biết tự tâm hiện th́ vọng tưởng sanh, biết tự tâm hiện th́ vọng tưởng diệt. Diệt th́ bản tế tùy thuận, sanh tử Niết-bàn đều như mộng huyễn.

- TỔNG TỤNG.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Quán sát các đạo sư   Ví như cát sông Hằng
Chẳng hoại cũng chẳng đi Cũng lại chẳng cứu kính.
Ấy tức là b́nh đẳng   Quán sát chư Như Lai
Ví như cát sông Hằng v.v… Thảy ĺa tất cả lỗi.
Theo ḍng mà tánh thường Ấy là Phật chánh giác.       
Như Lai pháp thân chẳng phải hoại chẳng phải đi. Nếu lại có cứu kính th́ Niết-bàn sanh tử là hai chẳng phải b́nh đẳng. Nếu chẳng phải b́nh đẳng th́ thuộc tác nhân. Tác th́ vô thường có nhiều lỗi lầm. Cho nên biết chỉ trừ vọng tưởng tác nhân th́ theo ḍng được tánh, liền thấy cảnh giới Như Lai tự giác, đồng với mé sanh tử tịch tĩnh thường trụ. Đây là Như Lai nhân dụ cát sông Hằng mà kiến lập tự thông, ĺa lỗi ngôn thuyết. Tuy có nói thí dụ mà cứu kính bất khả tư ngh́.

2- CHỈ PHÁP THÂN VÔ LẬU, CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT-NA.

- CHỈ CÁC PHÁP SÁT-NA

+ SẮP CHỈ SÁT-NA PHI NGHĨA SÁT-NA, TRƯỚC BÀY CÁC PHÁP.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin v́ nói tướng hoại của tất cả các pháp sát-na? Thế Tôn! Thế nào tất cả pháp sát-na? Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ v́ ông nói. Phật bảo Đại Huệ: Tất cả pháp ấy, nghĩa là lành, chẳng lành, vô kư, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, không tội, hữu lậu, vô lậu, thọ, chẳng thọ.

Hỏi nghĩa sát-na để bày nghĩa phi sát-na. Niệm niệm không dừng gọi là sát-na, cũng gọi là tướng hoại, cũng gọi là tướng không. Tất cả pháp sát-na là, tất cả pháp trong ngoài do tự tâm hiện ra niệm niệm không dừng. Bởi không biết tự tâm là nghĩa phi sát-na, chỉ thấy cảnh hiện ra niệm niệm sanh diệt sát-na chẳng dừng, mà lầm cho là pháp vô vi đều đồng với diệt hết, rồi khởi ra đoạn kiến. Chẳng biết tất cả pháp sát-na có cái phi sát-na, chỗ này không phải Nhị thừa thấu được. Hỏi đáp nêu ra thảy đều để rơ ư chỉ này. Trước bày tất cả pháp, đợi sau mới hiển minh.

Đại Huệ! lược nói tâm ư ư thức và tập khí, ấy là nhân năm thọ ấm, tâm ư ư thức tập khí ấy nuôi lớn, phàm ngu lành chẳng lành vọng tưởng.

Lược nói pháp năm ấm, bởi tất cả pháp đều từ năm ấm sanh khởi. Pháp năm ấm lại lấy tâm ư ư thức, tập khí làm nhân mà được nuôi lớn. Phàm ngu lành chẳng lành vọng tưởng là, tam giới, lục phàm, hữu lậu vọng tưởng là nghĩa sát-na.

Đại Huệ! Tu tam-muội lạc, tam-muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ gọi là Hiền Thánh thiện vô lậu.
Nhân tướng vô lậu của thánh hiền trong tam thừa là phi sát-na. Do tu tam-muội được pháp lạc trụ hiện bày ra, sau mới phát minh.

+ CHỈ NGHĨA SÁT-NA.

Đại Huệ! Lành chẳng lành là, tám thức. Những ǵ là tám? Nghĩa là Như Lai tàng tên tàng thức, tâm ư ư thức và năm thức thân, chẳng phải chỗ ngoại đạo nói. Đại Huệ! Năm thức thân cùng tâm ư ư thức chung. Tướng lành chẳng lành lần lượt biến hoại. Về tương tục lưu chú chẳng hoại thân sanh, cũng sanh cũng diệt. Chẳng giác tự tâm hiện, thứ lớp diệt, các thức khác sanh. H́nh tướng sai biệt nhiếp thọ ư thức cùng năm thức chung tương ưng sanh. Thời gian sát-na chẳng dừng gọi là sát-na.
Đây chỉ cho tâm thức hữu lậu lành và chẳng lành vốn có thân chẳng hoại, mà lầm theo sanh diệt. Cho nên tức nơi sát-na để hiển bày nghĩa phi sát-na. Như Lai tàng tên tàng thức chẳng phải chỗ ngoại đạo nói, nghĩa là ngoại đạo chẳng biết tàng thức tức Như Lai tàng. Cho nên chính năm thức nương tâm ư ư thức khi khởi ra tướng lành chẳng lành lần lượt biến hoại. Cái tương tục lưu chú kia chẳng hoại, mà cũng theo các thức cùng thân chung sanh cùng thân chung diệt. Do gốc bất giác tự tâm hiện lượng, đối với cái trong thứ lớp diệt hiện ra không thể an trụ, liền có các thức khác theo chỗ tập nặng của đời trước khởi các h́nh tướng. Lại dẫn ư thức và năm thức căn cùng tâm sở tương ưng thành nghĩa sát-na. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Một là căn bổn sanh tử từ vô thủy, tức là hiện nay ông cùng các chúng sanh dùng tâm phan duyên làm tự tánh. Hai là thể thanh tịnh bồ-đề Niết-bàn từ vô thủy, tức là hiện nay thức tinh nguyên minh của ông hay sanh các duyên, duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái bổn minh này, tuy trọn ngày làm mà chẳng tự giác, uổng vào các thú”. Đây là tương tục chẳng hoại do gốc bất giác lầm theo sanh diệt. Đâu chẳng phải hay sanh các duyên, rồi duyên bỏ sót uổng vào các thú, thật đáng buồn thay!

- CHỈ TẬP KHÍ VÔ LẬU CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT-NA.

+ CHỈ SÁT-NA CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT-NA.

Đại Huệ! sát-na ấy gọi thức tàng Như Lai tàng thức cùng ư chung sanh là tập khí sát-na, c̣n tập khí vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu. V́ chấp trước sát-na luận nên chẳng giác tất cả pháp sát-na phi sát-na, rồi khởi đoạn kiến hoại pháp vô vi.
Đây chính hiển bày nghĩa sát-na phi sát-na. Mê Như Lai tàng mà làm tàng thức liền có thức cùng ư chung sanh, thành ra tập khí, đây là nghĩa sát-na. Nếu đạt được thức cùng ư chung sanh nhân mê mà có, vốn không tự tánh, tức là chuyển thức tàng làm Như Lai tàng. Đây là tập khí vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu. Bởi v́ phàm ngu chỉ giác tất cả pháp sát-na, mà không biết tất cả pháp sát-na có phi sát-na, luống khởi đoạn kiến phá hoại pháp vô vi. Cho nên biết, tất cả chúng sanh chẳng giác chẳng biết, lầm theo sanh diệt. Đây là lư do Như Lai dùng vô gián tất-đàn (bố thí không ngừng) vậy.

+ CHỈ NHƯ LAI TÀNG CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT-NA.

Đại Huệ! Thất thức chẳng lưu chuyển, chẳng chịu khổ vui, chẳng phải nhân Niết-bàn. Đại Huệ! Như Lai tàng chịu khổ vui cùng nhân chung hoặc sanh hoặc diệt. Bị tứ trụ địa và vô minh trụ địa làm say, phàm ngu bất giác chấp sát-na nên vọng tưởng huân tâm.
Thất thức do bất giác vọng khởi kiến phần gồm làm tự thể. Vọng thể vốn là dối nên chẳng phải nhân Niết-bàn. Như Lai tàng ở trong vị mê, vọng chịu khổ vui mà cùng nhân tướng Niết-bàn ḥa hợp, tuy chung với các thọ sanh diệt mà nhân tướng chẳng diệt, bởi có ngũ trụ địa làm say mê, mà phàm ngu bất giác khởi chấp sát-na. Chẳng lưu chuyển là, thất thức y bát thức niệm niệm huân tập dường như có thật ngă, mà sát-na chẳng dừng. Đến lúc chết giấc chỉ c̣n bát thức, nên nói chẳng lưu chuyển. Chưa đến lúc chết giấc thường có sức chuốc khổ vui, mà biết khổ biết vui chẳng phải nó thọ nhận, nên nói chẳng chịu khổ vui. Vọng thấy sanh diệt sát-na chẳng dừng là trước sau bất giác vậy. Tứ trụ thuộc về phàm phu, vô minh trụ thuộc Nhị thừa, giải thích ở quyển trước.
Lại nữa, Đại Huệ! Như kim cương, xá-lợi Phật được tánh kỳ đặc trọn không thể làm tổn hoại. Đại Huệ! Nếu được vô gián mà có sát-na th́ thánh nên không phải thánh. Song thánh chưa từng chẳng phải thánh, như kim cương tuy trải nhiều kiếp số mà cân lượng chẳng giảm. Tại sao phàm ngu chẳng rơ lời nói ẩn khuất của ta, đối tất cả pháp trong ngoài khởi tưởng sát-na?
Nói lại Như Lai tàng chứng pháp vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na. Kim cương cùng xá-lợi Phật đây là hai tánh kỳ đặc chẳng hoại, để dụ Như Lai tàng chân tánh vô gián chẳng theo các pháp sát-na. Phàm ngu không trí chẳng hiểu kho Như Lai bí mật, cho là đồng với các pháp rồi khởi tưởng sát-na, đây là lư do hoại pháp vô vi.

+ CHỈ THẾ GIAN XUẤT THẾ GIAN BA-LA-MẬT CHẲNG L̀A SÁT-NA.

Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn nói sáu ba-la-mật đầy đủ được thành chánh giác, những ǵ là sáu? Phật bảo Đại Huệ: ba-la-mật có ba thứ phân biệt: thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Đại Huệ! thế gian ba-la-mật là, ngă và ngă sở nhiếp thọ chấp trước, nhiếp thọ hai bên, là chỗ các thứ thọ sanh, ưa sắc thanh hương vị xúc, nên đầy đủ bố thí ba-la-mật, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng như thế, phàm phu thần thông và sanh phạm thiên.
Nhân ở trước phát minh nghĩa phi sát-na, ở đây lại hỏi sáu ba-la-mật. Ư bảo, nếu chẳng phải sát-na không nên có sáu thứ, nếu thuộc sát-na th́ không nên cho là phi sát-na làm nhân đầy đủ. Ba-la-mật có ba thứ, trước là thế gian. Ngă là người hay thí, ngă sở là vật đem ra thí, nhiếp thọ năng sở tức chẳng ĺa hai bên có không. V́ cầu được thọ sanh thù thắng, đây là nhân quả hữu lậu, vốn là việc làm của phàm phu. Thần thông là ngũ thông của nhân thiên vậy.
Đại Huệ! xuất thế gian ba-la-mật là, Thanh văn, Duyên giác rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn, hành sáu ba-la-mật thích tự ḿnh được vui Niết-bàn.
Xuất thế gian ba-la-mật tuy không nhiếp thọ nhân quả thế gian mà nhiếp thọ Niết-bàn làm cái vui tự độ, cũng chẳng phải cứu kính.

+CHỈ XUẤT THẾ GIAN THƯỢNG THƯỢNG BA-LA-MẬT CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT-NA.

Xuất thế gian thượng thượng ba-la-mật là, v́ giác tự tâm hiện vọng tưởng lượng nhiếp thọ và tự tâm là hai, nên chẳng sanh vọng tưởng. Đối các thú không có phần nhiếp thọ, tự tâm sắc tướng không chấp trước, v́ an lạc tất cả chúng sanh khởi bố thí ba-la-mật. Khởi phương tiện thượng thượng nơi duyên vọng tưởng kia chẳng sanh là giới, ấy là tŕ giới ba-la-mật. Tức nơi vọng tưởng kia chẳng sanh là nhẫn, biết năng nhiếp sở nhiếp ấy là nhẫn nhục ba-la-mật. Đầu hôm giữa đêm và khuya siêng năng phương tiện tùy thuận tu hành phương tiện vọng tưởng chẳng sanh, ấy là tinh tấn ba-la-mật. Vọng tưởng diệt hết chẳng rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn của Thanh văn, ấy là thiền định ba-la-mật. Tự tâm vọng tưởng chẳng phải tánh, trí tuệ quán sát chẳng kẹt hai bên, thân trước càng thù thắng không thể hoại, được tự giác thánh thú, ấy là Bát-nhă (trí tuệ) ba-la-mật.
Thượng thượng ba-la-mật là, giác tự tâm hiện lượng, thấu suốt năng sở vọng tưởng, nơi tự tâm lượng hai không đến nhau. Chỉ do bất giác, giác th́ chẳng sanh. Cho nên đối với các thú không có phần nhiếp thọ, sắc tướng ngoài tự tâm không sanh chấp trước. V́ an lạc cho tất cả chúng sanh mà khởi ra bố thí, nói rằng “đối trị xan tham, cũng hay trị xan tham cho người, tùy thuận tự tánh mà làm bố thí, ấy là phương tiện thượng thượng. Đến chỗ duyên vọng tưởng chẳng sanh, tùy thuận tánh không ô nhiễm, thành tựu giới độ. Tùy thuận tánh không sân hận, biết năng nhiếp sở nhiếp đều không thể được, thành tựu nhẫn độ. Đầu hôm giữa đêm và khuya tùy thuận tự tánh như thật bản tế, chẳng khởi phân biệt là tinh tấn độ. Đối với tự tánh xưa chẳng sanh tướng khác, chẳng theo Nhị thừa chấp tam-muội c̣n năng sở, ấy là thiền định độ. Liễu đạt tất cả vọng tưởng không tánh, đối chỗ sở khởi chẳng sanh chướng ngại, đối chỗ không khởi chẳng trụ bản vị, ĺa các thứ có không, riêng một không bạn mà trí thân chẳng diệt, lấy đây thành tựu tự giác thánh thú, ấy là Bát-nhă độ. Xét sáu độ này, tại thế gian thuộc về nhân sát-na, cho nên được quả tướng đều thành sát-na, nhân xuất thế tuy chẳng phải sát-na, song xét các tự tánh Niết-bàn không năng thủ sở thủ, nên cũng thuộc về sát-na; duy xuất thế thượng thượng, chỉ một tự tâm, ngoài tự tâm không có sáu độ, thuận tánh khởi dụng, dụng trở về thể, chẳng phải nghĩa sát-na. Đáp ư hỏi, đă đủ ngoài lời nói, có thể do lư đạt được.

+ TỔNG KẾT SÁT-NA PHI SÁT-NA B̀NH ĐẲNG.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Không vô thường sát-na Kẻ ngu vọng tưởng tạo
Như sông, đèn, hạt giống Mà khởi tưởng sát-na.
Sát-na dứt phiền loạn Lặng lẽ ĺa sở tác
Tất cả pháp chẳng sanh Ta nói nghĩa sát-na.
Hai bài kệ này nói về lư do Như Lai nói sát-na, v́ chỉ kẻ ngu vọng tưởng hữu vi, bảo như ḍng sông, ngọn đèn, hạt giống chóng hoại, bởi muốn kia khởi tưởng sát-na. Nếu đạt sát-na th́ phiền năo tự dứt, được chỗ lặng lẽ, xa ĺa vọng tưởng. Mới biết tất cả pháp thảy duy tâm hiện không có tự tánh, hiện thân là vô sanh. Đây là lư do Như Lai nói nghĩa sát-na.
             Vật sanh th́ có diệt        &n bsp;         &n bsp;         
             Vô gián tương tục tánh         &n bsp;         &n bsp; 
             Vô minh làm nhân kia         &nb sp;         &nb sp;         &nb sp;    
             Tâm ắt từ kia sanh
             Cho đến sắc chưa sanh         &n bsp;         &n bsp;        
             Chẳng v́ kẻ ngu nói
             Chỗ huân của vọng tưởng.
             Trung gian có phần ǵ?       
Vật sanh th́ có diệt là, vật mới sanh liền diệt. Chẳng rơ Như Lai tàng đệ nhất nghĩa đế nên gọi là vô minh. Vô minh bất giác vọng động thành nghiệp, nên gọi là mới sanh. Bởi bất giác vọng động nên sanh không có tánh sanh, không sanh liền đó diệt vậy. Kẻ ngu chẳng rơ chỗ này mà làm vô gián tương tục, đây là chỗ huân của vô minh vọng tưởng. Vô minh làm nhân nên vọng tâm y khởi, ngược ḍng vô minh vọng động khi chưa gá với sắc, rơ ràng không có chỗ tựa, liền tỉnh ngộ mà biết sẽ không trôi đến niệm thứ hai.
Tương tục thứ lớp diệt Các tâm theo kia sanh
Khi chẳng trụ nơi sắc Duyên chỗ nào mà sanh?
V́ từ kia nên sanh   Không như thật nhân sanh
Tại sao không chỗ thành Mà biết sát-na hoại?
Đây lại nói vô gián tương tục thật không có sanh, bởi không như thật sanh, tức diệt cũng không thể được. Bởi v́ tâm tương tục liền sanh liền diệt, nhân duyên nhóm họp tâm khác lại sanh, nhân duyên chưa hội th́ sanh gá ở chỗ nào? Nếu bảo tức từ tâm kia, song tâm kia hư vọng do bất giác khởi ra, thể sanh đă chẳng thành th́ diệt lại hoại cái ǵ? Nên nói chẳng được chỗ diệt kia. Cho nên biết, sanh vốn không nhân, diệt cũng không đợi, chính nơi chỗ này được gốc vô sanh, tự tánh lặng lẽ vậy.
             Người tu được chánh định       &nb sp;         &nb sp;        
             Kim cang, xá-lợi Phật   
             Cung điện Quang Âm thiên         & nbsp;         & nbsp;    
             Thế gian việc chẳng hoại
             Trụ nơi chánh pháp được    
             Như lai trí đầy đủ
             Tỳ-kheo được b́nh đẳng
             Làm sao thấy sát-na?
             Càn-thát-bà huyễn thảy
             Sắc không có sát-na
             Nơi sắc thảy chẳng thật        &n bsp;         &n bsp;         
             Xem đó dường chân thật.
Đoạn tụng này nói về tập khí vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na. Dẫn người tu hành chánh định, kim cang, xá-lợi, cung điện Quang Âm, đây là bốn việc chẳng hoại ở thế gian và xuất thế, để dụ người trụ chánh pháp đă được Như Lai thánh trí, tỳ-kheo b́nh đẳng là chẳng phải sát-na. Càn-thát-bà huyễn thảy, sắc không có sát-na là, người trụ chánh pháp cho đến chỗ thấy tất cả pháp đều như huyễn v.v… tức nơi sắc cũng không có nghĩa sát-na. Cớ sao chính nơi sắc pháp chẳng thật mà xem dường như chân thật? Đây là lặp lại bác ngoại đạo chấp tứ đại v.v.. là sanh nhân năng tạo.        &n bsp;         &n bsp;  

3- CHỈ PHÁP THÂN CHÂN PHẬT B̀NH ĐẲNG BẢN TẾ PHÁ NGHI L̀A LỖI.

- ĐẠI HUỆ THƯA THỈNH VỀ SÁU CHỖ NGHI.

Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Thế Tôn thọ kư cho A-la-hán được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cùng chư Bồ-tát đồng không sai biệt? Tất cả pháp chúng sanh không đến Niết-bàn, ai đến Phật đạo? Từ khi mới được thành Phật cho đến vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói một chữ, cũng không có đối đáp? V́ Như Lai thường định, cũng không suy nghĩ, không xét nét, do hóa Phật hóa làm Phật sự? Cớ sao nói tướng thức sát-na lần lượt hoại? Kim cang lực sĩ thường theo hộ vệ, tại sao chẳng chỉ thẳng bản tế, mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo ác nghiệp, Chiên-giá-ma-nạp, cô gái Tôn Đà Lợi, không bát mà về, ác nghiệp chướng hiện? Tại sao Như Lai được nhất thiết chủng trí, mà chẳng ĺa các lỗi ấy?
Ư hỏi có sáu nghi vấn. Quyển kinh này cùng các kinh khác nói pháp thân Phật nói cùng Hóa thân nói dường như có khác nhau, nên muốn phát minh. Nghi thứ nhất là, Nhị thừa tự ḿnh Niết-bàn không thể thành Phật, cớ sao Như Lai v́ Nhị thừa thọ kư cùng Bồ-tát không khác? Nghi thứ hai, chúng sanh bởi do vọng tưởng nên chẳng giác tự tâm hiện ra, tại sao Như Lai lại nói tất cả chúng sanh đă Niết-bàn rồi không lại Niết-bàn, đă thành Phật rồi th́ ai đến Phật đạo? Nghi thứ ba, Như Lai phân bộ tam thừa, cớ sao lại nói đêm ấy thành Phật, đêm ấy vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói không dạy? Nghi thứ tư, Như Lai nếu thường ở trong định không suy nghĩ không xét nét, th́ các hóa Phật làm những việc ǵ? Nghi thứ năm, tất cả chúng sanh đă thành Phật rồi, cớ sao lại nói thất thức chẳng lưu chuyển, chẳng phải nhân Niết-bàn sát-na lần lượt hoại? Nghi thứ sáu, Như Lai dựng lập tự thông an trụ bản tế không có chướng ngại, ĺa các lỗi lầm, cớ sao lại nói kim cang hộ vệ sao chẳng chỉ thẳng bản tế mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo, các thứ lỗi lầm? Ma là Phật ngồi đạo tràng ma quân đến quấy nhiễu. Ma nghiệp là Phật thị hiện trong vương cung mười năm thọ dục. Chiên-giá-ma- nạp là con gái Bà-la-môn dùng chậu gỗ úp trên bụng cột lại để vu báng Phật tư thông với y. Tôn Đà Lợi giết con gái đem chôn trong đất già-lam để vu báng Phật phạm dâm sát. Ở trong thôn Bà-lợi-na, Phật khất thực ôm bát về không và ăn lúa ngựa, đầu lưng đều đau, cây đâm ở chân, hầm lửa, cơm độc, các thứ báo hiện.

- TRỪ NGHI THỌ KƯ A-LA-HÁN.

Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ v́ ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Lành thay, Thế Tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: V́ vô dư Niết-bàn nói dẫn dụ tiến lên hành hạnh Bồ-tát. Thế giới này và các thế giới khác những người tu Bồ-tát hạnh ưa Niết-bàn của Thanh văn thừa, v́ khiến ĺa Thanh văn thừa tiến đến Đại thừa, nên Hóa Phật thọ kư cho Thanh văn, chẳng phải Pháp Phật. Đại Huệ! Nhân đó nên thọ kư các Thanh văn cùng Bồ-tát không khác. Đại Huệ! Chẳng khác ấy, Thanh văn, Duyên giác chư Phật Như Lai phiền năo chướng dứt, một vị giải thoát, chẳng phải trí chướng dứt. Đại Huệ! Trí chướng là thấy pháp vô ngă, thù thắng thanh tịnh. Phiền năo chướng là trước tập thấy nhân vô ngă dứt, thất thức diệt, pháp chướng giải thoát, thức tàng tập khí cứu kính thanh tịnh.
Đây là đáp nghi vấn thứ nhất về thọ kư cho A-la-hán. Thọ kư cho A-la-hán có ba nghĩa: một, sách tiến Nhị thừa được vô dư Niết-bàn, hai dẫn dụ Nhị thừa phát tâm Bồ-tát, ba chỉ Bồ-tát cơi này và các cơi khác chẳng rơi vào thiền lạc của Nhị thừa. Đây là Hóa Phật quyền dẫn chẳng phải Pháp Phật nói. Lại phân biệt Nhị thừa, Bồ-tát khác cùng chẳng khác, để rơ thật giáo Nhị thừa đoạn phiền năo chướng đạt được giải thoát cùng Bồ-tát không khác; v́ trí chướng chưa đoạn nên cùng Bồ-tát khác. Nhị thừa không thấy pháp vô ngă, nên trí chướng chẳng đoạn; mà tập khí đă khởi kiến phần của thức thứ bảy chấp ngă, ở trong tam giới tánh nhiếp thủ đă ĺa, nên phiền năo chướng đoạn; mà chỗ nương của thất thức là tập khí nội ngă vẫn chưa trừ diệt. Ngă này một phen diệt thức tàng tập khí thân chuyển liền được cứu kính thanh tịnh. Cho nên biết, tam-muội lạc trụ của Thanh văn sẽ được thân tối thắng Như Lai.

- TRỪ NGHI CHẲNG NÓI MỘT CHỮ.

V́ bởi pháp bản trụ trước sau phi tánh
Đây là đáp cái nghi thứ ba không nói một chữ. Bản trụ là bản tánh thường trụ, có Phật hay không Phật pháp nhĩ như thế, không có xưa nay, không có nói dạy, nên nói “trước sau phi tánh”. Chữ tánh tức là pháp. Nghĩa là trước sau chỉ một bản trụ, không có một pháp có thể được.

- TRỪ NGHI KHÔNG SUY XÉT KHÔNG XÉT NÉT.
V́ bổn nguyện vô tận Như Lai không nghĩ không xét, mà diễn nói pháp, v́ chánh trí sở hóa, v́ niệm chẳng vọng, nên không nghĩ không xét. V́ tứ trụ địa và vô minh trụ địa tập khí đă đoạn, hai thứ phiền năo đoạn, ĺa hai thứ tử, giác nhân pháp vô ngă và đoạn hai chướng.
Đây đáp nghi thứ tư không nghĩ không xét. Như Lai không nghĩ không xét mà diễn nói pháp, do chánh trí hóa, chẳng phải vọng niệm hóa. Cho nên tuy Hóa Phật làm ra mà đều ĺa nghĩ xét, nên nói “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loại mỗi loài được hiểu. Song Như Lai thật không có tâm tùy loài, ấy do các loài có duyên mà mỗi loài thấy khác”. Ngũ trụ, hai tử, hai phiền năo, hai ngă, hai chướng, năm thứ tập này, Như Lai đoạn đă lâu, nên được thường định không nghĩ. Chỉ do bổn nguyện thị hiện có hóa tác tùy chỗ cảm hiện như trăng trong nước.

- TRỪ NGHI CHÚNG SANH THÀNH PHẬT, THỨC SÁT-NA HOẠI.

Đại Huệ! Tâm ư ư thức nhăn thức v.v… có bảy là nhân tập khí sát-na, ĺa phẩm thiện vô lậu, chẳng lại luân chuyển. Đại Huệ! Như Lai tàng là luân chuyển, là nhân khổ vui Niết-bàn, kẻ tuệ không, loạn ư và phàm phu ngu si không thể giác được.
Đây là tổng đáp nghi thứ hai chúng sanh thành Phật và nghi thứ năm thức sát-na hoại. Tâm ư, ư thức, nhăn thức v.v… sở dĩ nói sát-na, v́ lấy vô minh tập khí làm nhân, trái với vô lậu giác, vọng chấp là ngă thể. Thể này chẳng thật sát-na biến diệt, chẳng theo lưu chuyển. Thế nên tất cả chúng sanh tuy ở trong sanh tử mà không có sanh tử khá được. Nếu đứng về Như Lai tàng mà nói, tuy hiện lưu chuyển mà có nhân khổ vui Niết-bàn. Phàm phu vọng tưởng chấp trước bị khổ vui che đậy, chẳng biết hay thọ khổ vui cùng hay chứng Niết-bàn tánh nó không hai. Nhị thừa là đối trị phàm phu diệt cái thọ khổ vui, lại bị cái không làm loạn, bỏ nhân khổ vui riêng thủ Niết-bàn, mà chẳng biết tự tánh Niết-bàn, đồng gọi là bất giác. Giác th́ liền đó chứng biết, lại không riêng có, thất thức sát-na, chúng sanh thành Phật vốn chẳng ngại nhau. Bản dịch này nói tâm ư ư thức nhăn thức v.v… bảy, c̣n bản dịch đời Đường th́ nói ư và ư thức nhăn thức v.v…bảy, đều nói bảy thức không lưu chuyển. Song bản dịch này kèm nói tâm là riêng để hiển bày Như Lai tàng chẳng hoại chân tướng, nên nói: “chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt, v́ chỉ si diệt tâm tướng theo đó mà diệt”, cũng chẳng phải không có ư chỉ. Tóm lại, thức thứ bảy vốn góp kiến phần của thức thứ tám làm thể, nên nói bảy thức sát-na th́ tâm tướng của tám thức sát-na không nói có thể biết. Nói Như Lai tàng phi sát-na mà bảo nhân khổ vui. Phàm thọ khổ vui hẳn do phân biệt. Thế th́ sáu thức sát-na cũng tức có nghĩa phi sát-na. Mới biết mê th́ chỉ vọng giác làm sát-na, nên nói “Thất thức chẳng luân chuyển”. Ngộ th́ chỉ chân tướng phi sát-na, nên nói “Như Lai tàng là nhân khổ vui Niết-bàn”. Mà thật, thất thức tức là bát thức, bát thức tức là ngũ thức, lục thức. Đây hoại và chẳng hoại chung nhau làm nhân, thảy do mê ngộ chẳng phải thật có nhiều thể.

- TRỪ NGHI KIM CANG HỘ VỆ VÀ TẤT CẢ NGHIỆP BÁO.

Đại Huệ! Kim cang lực sĩ theo hộ vệ ấy, là Hóa Phật, chẳng phải chân Như Lai. Đại Huệ! Chân Như Lai ĺa tất cả căn lượng, tất cả căn lượng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo thảy đều diệt, được hiện pháp lạc, v́ trụ vô gián pháp trí nhẫn, nên chẳng phải Kim cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả Hóa Phật chẳng từ nghiệp sanh. Hóa Phật là, chẳng phải Phật chẳng ĺa Phật. Nhân thợ gốm, bánh xe v.v… Chúng sanh tạo ra h́nh tướng mà nói pháp, chẳng phải chỗ tự thông, nói cảnh giới tự giác.
Đoạn này và đoạn sau đều đáp nghi thứ sáu Kim cang hộ vệ và tất cả nghiệp báo bệnh chung. Chân Phật dựng lập tự thông, chỉ thẳng cảnh giới tự giác cho chúng sanh, ĺa tất cả căn lượng phàm phu Nhị thừa, được hiện pháp lạc trụ, trí nhẫn vô gián, chẳng phải chỗ Kim cang hộ vệ. Kim cang theo hộ vệ là chỉ Hóa Phật. Hóa Phật duy nương bi nguyện đối hiện sắc thân, như trăng trong nước chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải từ nghiệp sanh nên không lỗi của nghiệp, tất cả thị hiện thảy v́ chúng sanh. Thợ gốm dùng bánh xe, đất nước tạo các món đồ, mỗi món thích hợp với chỗ dùng, để dụ tùy cơ ứng hiện, chẳng phải có tâm tạo.
Lại nữa, Đại Huệ! Kẻ ngu y thất thức thân diệt rồi khởi đoạn kiến, v́ chẳng giác thức tàng khởi thường kiến, v́ tự vọng tưởng nên chẳng biết bản tế, Tự vọng tưởng tuệ diệt nên được giải thoát. V́ tứ trụ địa, vô minh trụ địa tập khí đoạn hết nên tất cả lỗi đoạn.
Đây cũng đáp về cái nghi thứ sáu, đặc biệt rơ bản tế không có lỗi lầm, v́ phàm ngu chẳng giác vọng thấy sai biệt mà thôi. Thất thức thân nếu diệt liền hay liễu đạt bản tế, chẳng khởi đoạn kiến. Đây nói thất thức diệt chính là quán sát lưu chú niệm niệm chẳng dừng, chẳng giác tự tâm nên khởi đoạn kiến. Bản dịch đời Ngụy đời Đường đều nói “lục thức” cũng đồng ư này. Nhân mê Như Lai tàng mà có tàng thức, nếu ĺa thức t́m tâm liền thuộc Nhị thừa thiên chân, nếu tức nơi thức cho là tâm lại rơi vào ngoại đạo chấp tác giả. Đây là do chẳng rơ thức tàng lầm là chân thật, tự vọng tưởng thấy, chẳng biết bản tế. Vọng tưởng nếu diệt th́ ngũ trụ tập khí một lúc liền đoạn, tức là tất cả lỗi dứt, đâu c̣n có các thứ nghiệp báo. Cho nên biết mê Như Lai tàng mà làm thức tàng liền tùy thuận vọng tưởng là bản tế sanh tử, chẳng giác chẳng biết. Nếu rơ thức tàng tức Như Lai tàng th́ tùy thuận chánh trí là bản tế Niết-bàn, không nhiễm không nhơ. Đă có thị hiện đều v́ chúng sanh chẳng phải dựng lập tự thông, cảnh giới tự giác.

- KỆ TỔNG ĐÁP.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tam thừa cũng phi thừa Như Lai chẳng diệt mất
Tất cả Phật đă ghi   Nói ĺa các lỗi ác.
V́ các trí vô gián   Và vô dư Niết-bàn
Dẫn dụ các hạ liệt   Thế nên nói ẩn khuất.
Trí chư Phật đă khởi   Tức phân biệt nói đạo
Các thừa chẳng phải thừa
Kia ắt phi Niết-bàn.
Dục sắc hữu và kiến   Nói là tứ trụ địa
Chỗ khởi của ư thức   Nhà thức chỗ ư trụ.
Ư và nhăn thức thảy   Đoạn diệt nói vô thường
Hoặc khởi chấp Niết-bàn Mà v́ nói thường trụ.
Tam thừa cũng phi thừa, Như Lai chẳng diệt mất, chính hai câu này đă đáp hết sáu cái nghi. Nghĩa là Như Lai tự giác không có tướng thừa, chẳng vào Niết-bàn. vốn tự thanh tịnh không có các cấu ác. Nếu hay liễu đạt lại không có nói ǵ khác. Chúng sanh hạ liệt không tin được chỗ này, nên Như Lai nói có chánh trí, nói có Niết-bàn, trước v́ dẫn dụ họ tiến lên, về sau mới chỉ mật ư này. Nghĩa là Như Lai đă được nhất thiết chủng trí phân bộ diễn nói, lại không có ư chỉ riêng. Chỉ nói chẳng phải thừa và chẳng phải Niết-bàn khiến họ tự tin tự chứng mà thôi. Nếu chỉ đoạn diệt tứ trụ nói là Niết-bàn th́ đây không phải thường trụ. Như Lai nói chẳng phải thừa chẳng phải Niết-bàn, bản tánh thanh tịnh thường tự tịch diệt, nên nói thường trụ. Ư thứ bảy y thức thứ tám mà khởi, tức do thức thứ tám mà trụ, chẳng lấy thức thể chuyển biến làm cứu kính, mà lấy ư, ư thức và năm căn thức tạm thấy dừng diệt, khởi tưởng Niết-bàn, đồng với đoạn diệt, chỉ tăng trưởng tà kiến.

4 - CHỈ NHƯ LAI CHÁNH NHÂN CHÁNH QUẢ CỨU KÍNH THANH TỊNH.

- ĐẠI HUỆ THỈNH HỎI TỘI PHƯỚC ĂN THỊT VÀ CHẲNG ĂN THỊT.

Bồ-tát Đại Huệ dùng kệ hỏi Phật:
Chư Bồ-tát kia thảy   Chí cầu Phật đạo ấy
Rượu thịt cùng với hành Ăn uống là thế nào?
Cúi mong Vô thượng tôn Thương xót v́ diễn nói.
Kẻ ngu chỗ tham đắm Nhơ hôi không tốt đẹp
Chỗ ưa thịt cọp sói   Làm sao mà nên ăn?
Kẻ ăn sanh các lỗi   Chẳng ăn là phước lành
Cúi xin v́ con nói   Tội phước ăn chẳng ăn.

Bồ-tát Đại Huệ nói kệ hỏi rồi, lại bạch Phật: Cúi mong Thế Tôn v́ chúng con nói lỗi ác ăn thịt và công đức chẳng ăn thịt. Con và chư Bồ-tát ở hiện tại vị lai sẽ v́ chúng sanh có các thứ hy vọng ăn thịt phân biệt nói pháp, khiến chúng sanh kia từ tâm đến nhau, được từ tâm rồi mỗi người nơi trụ địa thanh tịnh sáng tỏ, chóng được cứu kính Vô thượng Bồ-đề. Hàng Thanh văn Duyên giác nơi địa vị của ḿnh dừng nghỉ rồi, cũng được chóng thành Vô thượng Bồ-đề. Các chúng ngoại đạo pháp ác tà luận, tà kiến đoạn thường điên đảo chấp trước, c̣n có pháp ngăn không cho ăn thịt, huống là Như Lai cứu hộ thế gian, chánh pháp thành tựu mà ăn thịt sao?

Theo cổ chú nói: “Như Lai ở trong cung quỷ vương nói pháp, các chúng dạ-xoa v.v… nhớ giờ ăn đă đến, chẳng phải thịt th́ không ăn được. Đại Huệ v́ muốn các quỷ vương sanh từ tâm, nhân đó thỉnh Như Lai nói lỗi ăn thịt, đây vẫn tùy căn cơ chúng sanh”. Song dùng con đường tu hành chân chánh của Như Lai, ở trong kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, nghĩa ba thứ lớp rất nên lẫn nhau chứng minh: “Năm mươi ấm ma cho đến thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm minh bạch, ở trong minh ngộ được tánh hư minh, trong ấy bỗng nhiên hướng về chỗ hằng diệt, bác không nhân quả, một bề vào không, không tâm hiện tiền th́ có không ma vào trong tạng phủ, bèn chê người tŕ giới là Tiểu thừa, Bồ-tát ngộ không có ǵ là tŕ là phạm. Người ấy thường đến nhà tín tâm đàn-việt uống rượu ăn thịt, rộng làm việc dâm uế. Bởi sức của ma nhiếp phục người ở trước nó chẳng sanh nghi ngờ chê bai. Quỷ nhập tâm đă lâu, hoặc ăn phẩn uế cùng rượu thịt như nhau một loại đồng là không, phá luật nghi của Phật, lầm vào tội lỗi, mất hết chánh định, sẽ theo trầm luân”. Lời răn dạy của Phật rất thâm nghiêm, người biết pháp phải kinh sợ, Ngày nay đă suy muộn xem thường lời dạy ấy. Vả lại có người cho thừa gấp giới hoăn để mặc t́nh miệng dùng, các thứ phá hoại chẳng dừng ăn thịt, là đáng thương vậy. Lại trong Bồ-tát giới nói: “Khởi một niệm sân làm chướng chúng sanh, hay đoạn chủng tánh, cũng như giết ăn”. Người có chí với đạo phải hộ chánh kiến, chớ bị tà mê.

- CHỈ ĂN THỊT NHIỀU LỖI.

Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ v́ ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt. Song nay ta sẽ v́ ông lược nói. Nghĩa là tất cả chúng sanh từ trước đến nay nhân duyên lần lượt thường làm lục thân, v́ tưởng người thân không nên ăn thịt.
Thường làm lục thân là, đức Phật của chúng ta khuyên người phát tâm từ hiếu nên răn nhắc thiết tha. Song là phật tử v́ rơ sâu muôn vật một thể, tuy ở trong loài khác c̣n nghĩ độ thoát, đâu thể v́ thân mạng ḿnh vẫn buông lung miệng bụng, phóng ư giết hại, đă nghe đời trước mà không thể động ḷng thương xót ư? Chính hiện tại đồng loại rất thiết tha ḥa kính, sao chưa nghĩ về sau mà xem hiện nay? Pháp thời gần cuối, nhóm người học Phật phần nhiều thấy theo quyến thuộc của ma. Rất mong cùng thiên hạ đủ chánh tri kiến kính giữ lời dạy của Phật để làm mẫu mực cho đời sau. Dùng một niệm này ngưỡng đối ba đời Như Lai ở trong đại quang minh.
Thịt lừa, loa, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v… v́ người hàng thịt bán lẫn lộn chẳng nên ăn thịt. V́ phần hơi chẳng sạch sanh trưởng, chẳng nên ăn thịt,v́ chúng sanh ngửi mùi thảy sanh kinh sợ như Chiên-đà-la và Đàm-bà v.v… chó thấy oán ghét sợ hăi sủa vang, chẳng nên ăn thịt.
Bán lẫn lộn là, v́ không biện biệt thịt người hay thịt thú máu thịt giống nhau. Chẳng sạch là máu mủ chẳng sạch. Những người sạch sẽ c̣n chẳng gần gũi hôi tanh, huống là ăn nuốt. Đến như tâm sợ chết th́ người vật nào khác. Người quân tử c̣n có tâm không nỡ làm chúng sanh sợ sệt. Nếu có ḷng sát hại c̣n không thể b́ kịp người ngoài đời, huống là có thể xưng pháp khí gánh vác đạo lư sao?
Lại, v́ khiến người tu hành từ tâm chẳng sanh, chẳng nên ăn thịt. V́ kẻ phàm ngu tham đắm ăn đồ hôi hám bất tịnh, không được tiếng tốt, chẳng nên ăn thịt. V́ khiến chú thuật không thành tựu, chẳng nên ăn thịt. V́ người sát sanh thấy h́nh khởi thức đắm trước mùi vị, chẳng nên ăn thịt. V́ người ăn thịt kia chư thiên bỏ đi, không nên ăn thịt, v́ khiến miệng hôi hám, không nên ăn thịt. V́ nhiều mộng dữ, không nên ăn thịt. V́ ở trong rừng vắng, cọp sói ngửi mùi, chẳng nên ăn thịt. V́ khiến ăn uống không tiết độ, không nên ăn thịt. V́ khiến người tu hành chẳng sanh nhàm ĺa, không nên ăn thịt. Ta thường nói rằng: Phàm có ăn uống nên khởi tưởng như ăn thịt con, khởi tưởng như uống thuốc, không nên ăn thịt. Cho ăn thịt hẳn là vô lư vậy.
Thấy h́nh khởi thức đó, h́nh là h́nh thịt, thức là thức tâm. Nghĩa là tập lâu hay khiến thức tâm biến đổi, ch́m sâu trong ô nhiễm. Chư thiên bỏ đi là, chư thiên không c̣n sân và trộm, nên bị chư thiên bỏ đi. Khiến người tu hành chẳng sanh nhàm ĺa là, đệ tử trong pháp của ta, nếu chẳng dứt ăn thịt mà hay khiến tất cả phát tâm tu hành th́ họ không sanh tưởng nhàm ĺa. Phàm có ăn uống là, đối với sự ăn uống khác xa ĺa tham đắm, c̣n phải khởi tưởng ăn thịt con, khởi tưởng uống thuốc, đâu lại ăn thịt, hẳn là vô lư.
Lại nữa, Đại Huệ! Thuở xưa có ông vua tên Sư Tử Tô-đà-ta ăn các thứ thịt cho đến thịt người, thần dân chịu không nổi liền sắp mưu phản, dứt hết bổng lộc. Bởi ăn thịt có những lỗi như thế, chẳng nên ăn thịt.
Phàm người sát sanh chịu quả báo ở địa ngục. Ở đây nói hiện đời vẫn thuộc về hiện báo.
Lại nữa, Đại Huệ! Các người sát sanh là v́ tài lợi, kẻ hàng thịt sát sanh buôn bán, những chúng sanh ngu si ăn thịt kia lấy tiền làm lưới mà bắt các thứ thịt. Người sát sanh hoặc do tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt những chúng sanh thủy lục không hành, các thứ giết hại đem bán cầu lợi. Đại Huệ! Cũng không có chẳng dạy chẳng cầu chẳng tưởng mà có thịt cá. Bởi những nghĩa ấy chẳng nên ăn thịt.
Không có chẳng dạy chẳng cầu chẳng tưởng là, ở đời có người ăn thịt mới có người bán thịt, tức là dạy người khác giết. Dùng tiền của để lưới các thứ thịt là cầu, thấy h́nh khởi thức là tưởng. Chưa bao giờ có trừ ba thứ ấy mà được thịt cá, nên chẳng ưng ăn thịt.

- CHỈ THẬT NGHĨA KINH NÀY TẤT CẢ THẢY DỨT.

Đại Huệ! Ta có khi nói ngăn năm thứ thịt, hoặc cấm mười thứ. Nay ở kinh này tất cả thứ, tất cả thời loại bỏ phương tiện, tất cả thảy đều dứt. Đại Huệ! Như Lai ứng cúng đẳng chánh giác c̣n không có ăn, huống là ăn thịt, cũng không dạy người. Bởi ḷng đại bi đi trước nên xem tất cả chúng sanh ví như con một, thế nên chẳng cho được ăn thịt con.

Năm thứ thịt là, chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng nghi, chim ăn c̣n dư, tự chết. Cấm mười thứ là, thịt người, rắn, voi, ngựa, lừa, chồn, heo, chó, sư tử, khỉ. Hai thứ này khai hay ngăn, khi đức Thế Tôn mới thành Phật v́ cơ duyên chưa thuần thục, v́ ḷng thương xót quyền cho được ăn, song đều do thần lực hóa ra không có sanh mạng, đến trong kinh này mới bày nghĩa thật, tất cả thảy dứt vậy. Xem tất cả chúng sanh như con một nên chẳng cho ăn thịt con. Thế Tôn dạy người lấy đồng thể làm thiết yếu, đáng gọi là đến cùng tột. Song dùng lư luận th́ đồng một bản trụ h́nh mạo tuy khác mà tri giác là đồng, người chẳng đến nỗi mê say vẫn nên xét kỹ.

- TỔNG KẾT CHỈ RƠ TU HÀNH LỖI LẦM.

Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Thảy từng làm thân thuộc Thô nhơ lẫn bất tịnh
Do bất tịnh sanh trưởng Nghe mùi thảy kinh sợ.
Tất cả thịt cùng hành Và các thứ tỏi nén
Các thứ rượu buông lung Tu hành thường xa ĺa.
Cũng thường ĺa dầu mè Cùng các giường thủng lỗ
Bởi các trùng nhỏ kia   Ở trong rất sợ hăi.
Hành hẹ tỏi nén ăn sống th́ sanh sân, ăn chín th́ tham dâm, nên phải đồng dứt. Cổ chú nói: “Phong tục ngoại quốc đâm mè chờ đến có trùng, hoặc cùng Trung Hoa khác vậy”. Giường có lỗ hở có nhiều trùng ẩn, nằm ngồi nó kinh sợ, Phật từ bi đến thế, ta đâu không sanh hổ thẹn.
Ăn uống sanh buông lung Buông lung sanh vọng giác.
Từ giác sanh tham dục        &nb sp;         &nb sp;         &nb sp;    
Thế nên chẳng ưng ăn
Do ăn sanh tham dục Tham khiến tâm say mê.
Say mê lớn ái dục   Sanh tử không giải thoát.
Đây xét các thứ ăn uống khác, nếu tham đắm mùi vị đều hay khiến người thân tâm buông lung, nhiều thứ giác tưởng, tột đến tham dục say mê triền miên sanh tử. Chỉ do miệng bụng một niệm theo t́nh, nhân nhỏ mà quả to, đâu không dè dặt ư?
V́ lợi giết chúng sanh Dùng của lưới các thịt
Cả hai đều ác nghiệp Chết đọa ngục khiếu hô.
Nếu không dạy tưởng cầu Ắt không ba tịnh nhục
Kia đâu không nhân có Thế nên chẳng ưng ăn.
Các người tu hành kia Do đó thảy xa ĺa
Mười phương Phật Thế Tôn Tất cả đều quở trách.
Lần lượt lại ăn nhau   Chết sanh loài hổ lang
Hôi nhơ đáng chán ghét         &n bsp;         &n bsp;        
Chỗ sanh thường ngu si.         &nb sp;         &nb sp;        
Nhiều đời làm Chiên-đà
Giống thợ săn Đàm-bà
Hoặc sanh Đà-di-ni
Và các ḍng ăn thịt.
La-sát, mèo, chồn thảy Khắp trong ấy sanh ra
Phược Tượng cùng Đại Vân Ương-quật-lợi-ma-la
Và kinh Lăng-già này Ta đều cấm ăn thịt.
Đà-di-ni là La-sát nữ.
Phược Tượng, Đại Vân,
Ương-quật-lợi-ma-la đều là tên kinh.
Chư Phật và Bồ-tát   Thanh văn chỗ quở trách
Ăn rồi không hổ thẹn Đời đời thường si tối.
Trước nói thấy, nghe, nghi Đă dứt tất cả thịt
Vọng tưởng chẳng giác biết Nên sanh chỗ ăn thịt.
Như lỗi tham dục kia Chướng ngại giải thoát thánh
Rượu thịt hành tỏi nén Thảy là chướng thánh đạo.
Chúng sanh đời vị lai Nơi thịt ngu si nói
Rằng đây tịnh không tội Phật cho chúng ta ăn.
Ăn tưởng như uống thuốc Cũng như ăn thịt con
Biết đủ sanh nhàm ĺa Tu hành hạnh khất thực.
Người an trụ từ tâm   Ta nói thường chán ĺa
Cọp sói các thú ác   Hằng nên cùng đi ở.
Nếu ăn các máu thịt   Chúng sanh ắt kinh sợ.
Thế nên người tu hành Từ tâm chẳng ăn thịt        &n bsp;   
Ăn thịt không từ tuệ   Hằng trái chánh giải thoát
Và trái biểu tướng thánh Thế nên chẳng ăn thịt.
Được sanh ḍng Phạm chí Và các chỗ tu hành
Nhà giàu sang trí tuệ Đây do chẳng ăn thịt.

Chướng ngại giải thoát thánh đều là chướng thánh đạo. Ăn thịt không từ tâm hằng trái chánh giải thoát. Như Lai lại đôi ba phen thiết tha răn nhắc đều v́ người tu hành, nghiêm huấn dạy bảo. Bởi v́ Ngài thương đời sau “nói là Đại thừa vô ngại” vọng buông những tà luận và vu khống Như Lai là cho ăn tịnh nhục, làm hoặc loạn kẻ sơ tâm. Một bọn như thế phần nhiều ưa buông lung, không có tâm hổ thẹn, thật là cặn bă ở địa ngục. Được sanh ḍng Phạm chí và các người tu hành, nhà giàu sang trí tuệ, c̣n do không ăn thịt thay, phương chi đệ nhất nghĩa giải thoát của Như Lai? Phật ở trong kinh này chỉ thẳng thức tàng tức Như Lai tàng, chỉ một phen liễu đạt th́ toàn vọng tức là chân. Chẳng phải cảnh giới của tất cả Nhị thừa và quyền vị Bồ-tát, mà đối với giới đức rất thiết tha răn dạy. Cho nên biết, vô lậu chân tịnh không dung vật khác, trước sau gốc ngọn cứu kính rơ ràng không c̣n dư sót. Mười phương ba đời tất cả Như Lai đồng một bí mật, đại đạo sáng tỏ như mặt trời, không nên nghi ngờ.





__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.7344 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO