minhtam Hội viên

Đă tham gia: 16 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 132
|
Msg 83 of 83: Đă gửi: 13 December 2005 lúc 7:56am | Đă lưu IP
|
|
|
vun_vo đă viết:
Thanh tịnh tăng là gỉ
Thanh tịnh tăng là thếnào ?
bao nhiêu giới cấm để duy tŕ thanh tịnh tăng?
Thanh tịnh .....nghiă rất rộng lớn .Nếu vv có duyên cũng muốn xin được học hỏi cùng Bác KimCangTri và Bác Minh Tam .Kinh!
Vàng thật không sợ lữa
Đạo hạnh là vô biên
Không gieo duyên làm sao đắt đạo
Không vào lữa luyện vàng làm ǵ có trang sức đẹp !
vun_vo
|
|
|
Kính chào bạn Vun vo ,
Câu hỏi THANH TỊNH TĂNG là ǵ này đă lâu của bạn Vun vo nay tôi mới hồi âm vài lời bỡi kết cục đă chuyển hóa tốt đẹp do điển của Chư Phật Bồ Tát . Chúc đạo hữu Vun Vo ngày một tinh tấn trên đường Phật đạo .
PHẬT THUYẾT THANH TỊNH TÂM KINH GIẢNG KƯ .
( Bài này Lăo Pháp Sư Tịnh Không chủ giảng ) là Thầy của Ngài Kim Cang Trí .
Chánh kinh:
Phật Thế Tôn, nhất thời tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, dữ tỳ-kheo chúng câu.
(Một thời, đức Phật Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, cùng các vị tỳ-kheo câu hội)
Trong nền giáo dục Phật giáo, nói thật ra, “tâm thanh tịnh” là một đề mục giáo dục tối trọng yếu. Chẳng cần biết tông nào, pháp môn nào, chỉ có phương pháp sai biệt, chứ mục tiêu tu học hoàn toàn nhất trí, tức là phải tu sao cho TÂM THANH TỊNH. Tịnh Độ Tông gọi tâm thanh tịnh là “nhất tâm bất loạn”, cũng như nhà Thiền gọi là “thiền định”, bên Giáo gọi là “chỉ quán”, c̣n như Mật giáo gọi là “tam mật tương ứng”. Toàn bộ những danh từ ấy chỉ là tên gọi khác nhau của tâm thanh tịnh mà thôi. Bởi thế, đối với việc giáo dục, dù chẳng ai khải thỉnh, Ngài cũng đặc biệt nêu ra để dạy dỗ.
Chánh kinh:
Phật cáo chư tỳ-kheo ngôn:
(Phật bảo các tỳ-kheo rằng)
Nhữ đẳng đế thính!
(Các ông lắng nghe)
“Đế thính” là nghe thật kỹ càng, nỗ lực lắng nghe.
Chánh kinh:
Nhược chư Thanh Văn tu tập chánh hạnh, dục đắc thanh tịnh tâm giả.
(Nếu các Thanh Văn tu tập chánh hạnh, muốn đạt được tâm thanh tịnh)
Muốn đạt được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh này, nghĩa là làm thế nào mới đạt được tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta vậy.
Chánh kinh:
Đương đoạn ngũ pháp, tu tập thất pháp, nhi linh viên măn.
(Nên dứt năm pháp, nên tu tập bảy pháp sao cho viên măn)
Ở đây phải đặc biệt chú ư câu “sao cho viên măn”. Nếu quả thật có thể tu tập đến mức viên măn - nếu dùng Tứ Giáo để luận - th́ cũng có thể đạt tới Viên Giáo, lại càng chẳng phải là pháp Thanh Văn thuần túy vậy. Phật dạy chúng ta phải đoạn năm pháp, năm pháp ấy là những pháp nào?
Chánh kinh:
Nhất tham dục; nhị sân khuể, tam hôn trầm thùy miên; tứ trạo hối, ngũ nghi. Thử ngũ cái chướng ưng đương trừ đoạn.
(Một là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ; bốn là lao chao, hối hận; năm là ngờ vực. Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt)
Chúng ta muốn viên măn sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi đầu từ chỗ này. Ngoài ra, c̣n có bảy điều chúng ta phải tu tập.
Chánh kinh:
Hà đẳng thất pháp? Nhất trạch pháp giác chi, nhị niệm giác chi, tam tinh tấn giác chi, tứ hỷ giác chi, ngũ khinh an giác chi, lục định giác chi, thất xả giác chi. Như thị thất pháp ưng đương tu tập.
(Những ǵ là bảy pháp? Một là trạch pháp giác chi, hai là niệm giác chi, ba là tinh tấn giác chi, bốn là hỷ giác chi, năm là khinh an giác chi, sáu là định giác chi, bảy là xả giác chi. Hăy nên tu tập bảy pháp như thế)
“Tu” là tu học. “Tập” là thực tập, tức là trong sanh hoạt thường ngày phải thường tu tập. [Bảy pháp nói trên] chính là Thất Bồ Đề Phần trong Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, c̣n gọi là Thất Giác Chi. Ở đây, [ư nghĩa của bảy pháp ấy] chẳng giống như ư nghĩa thường được giảng trong ba mươi bảy đạo phẩm, nên ư nghĩa của chúng viên măn, rộng lớn phi thường.
Đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp, kinh Lăng Nghiêm nói rất kỹ; trong thời đại này của chúng ta: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Người hiện tại học Phật, quá nửa nhằm mục đích phát tài, cầu b́nh an. Bởi thế, có rất nhiều pháp sư, đại đức thừa cơ dạy dỗ pháp môn phát tài, kết quả phát tài biến thành phá tài, chẳng hề phát tài. Đấy thật sự là điên đảo. Lời tục thường nói: “Phá tài tiêu tai”, thế nhưng nay tài đă phá sạch rồi mà tai nạn vẫn chẳng tiêu nổi! Bởi thế mới nói “chọn lựa pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ư”.
Người học Phật thông thường cầu công đức lợi ích cho chính ḿnh, nhưng mục tiêu khác xa nhau: Người mong được sanh lên trời, chẳng nguyện hưởng phước báo nhân gian, muốn hưởng thọ phước trời th́ phải chuyên tu pháp môn sanh thiên. Trời có hai mươi tám tầng, mỗi một tầng đều có phương pháp tu học riêng. Có người có tầm nh́n xa hơn, nghĩ rằng dù có sanh lên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng đi nữa, vẫn là chẳng thể thoát khỏi luân hồi. Phước trời hưởng hết, lại phải luân hồi, lại phải đọa lạc. Bởi thế, muốn t́m được pháp môn thoát khỏi tam giới.
Có rất nhiều người tŕ giới rất tốt, nhưng không đạt được Định. Truy tầm nguyên nhân, hóa ra trong Giới Học có lầm lỗi. Chẳng hạn như: Thấy người khác chẳng tŕ giới, bèn rất phiền năo, trong tâm chẳng vui sướng. Thấy có người khác phá giới cũng rất phiền năo, hoặc là tự cho ḿnh tu tŕ giỏi hơn người khác nhiều lắm, nhân thế sanh khởi những tâm thị phi, nhân ngă, ngạo nghễ ngă mạn, nên chẳng đắc Định.
Nói về công phu tu Định, Lục Tổ đại sư đă giảng rất hay, bởi lẽ trong sự tu học của nhà Thiền, Thiền Định là mục tiêu tu hành chủ yếu. Lục Tổ răn dạy hàng hậu học: “Nếu ai thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”. Tŕ giới như vậy mới ḥng đắc Định; bởi lẽ chẳng thấy lỗi của người đời, toàn thấy lỗi của chính ḿnh, th́ người tu hành như thế mới đạt được công năng tu Định. Nếu cho rằng ḿnh không có lầm lỗi ǵ, chuyện ǵ cũng như pháp, toàn là y giáo phụng hành, thấy hành vi cử chỉ nào của người khác cũng là lầm lỗi cả; con người như vậy làm sao đạt được công phu tu Định chân chánh cơ chứ? Tu giới luật kiểu đó chỉ là phước báo trời người, c̣n nếu như nhân duyên trời người cũng chẳng tu cho tốt th́ chỉ được phước báo trong ác đạo. Giống như những con vật nuôi ở nước Mỹ rất sung sướng, những con chó, mèo người ta nuôi thật là có phước báo, không điều nhỏ nhặt nào là chẳng được quan tâm đến, chết đi c̣n được xây mộ, thường đến cắm hoa trên mộ nữa đấy!
Ngoài ra, trong đường ngạ quỷ cũng có phước báo. Hăy coi những loài quỷ vương như sơn thần, thổ địa thần, tại Đài Loan có Ngũ Phủ Thiên Tuế, Vương Gia Công v.v… đều là những quỷ thần có phước báo. Được nhiều người đến tế lễ, cúng dường, van vái, đó chính là phước báo trong quỷ đạo. Bởi vậy, chúng ta phải biết tu Định như thế nào th́ mới có thể đạt được Chánh Định.
Trời Sắc Giới vẫn là trong tam giới, vẫn chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trời Sơ Thiền là Sắc Giới, chẳng phải là Dục Giới. Ở phần trên, đức Phật đă giảng về “ngũ cái chướng”, đó cũng chính là Ngũ Dục (tài, sắc, danh, thực, thùy). Đối với Ngũ Dục chẳng động niệm mới có thể sanh về trời Sắc Giới. Nếu như có công phu Thiền Định, có thể ngồi thiền mấy tuần lễ, mấy tháng, nhưng vẫn c̣n có ư niệm Ngũ Dục chưa đoạn trừ sạch th́ kết quả tương lai vẫn là trời Dục Giới, không lên được trời Sắc Giới. Bốn tầng trời phía trên Dục Giới đều đ̣i hỏi phải có công phu Thiền Định. Chỉ cậy vào Ngũ Giới, Thập Thiện th́ chỉ đến được trời Đao Lợi (tầng thứ hai của Dục Giới). Lên trên nữa là trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, bốn tầng trời này đều phải có công phu Thiền Định. Bởi thế mới nói, dù có Thiền Định, nhưng chưa đoạn trừ Ngũ Dục th́ vẫn thuộc trong cảnh giới Ngũ Dục. Do đây biết rằng: muốn đắc Thiền Định có nhiều khó khăn như thế.
Xả Giác Chi. Xả là buông bỏ, Pháp thế gian phải bỏ đă đành, mà pháp xuất thế gian cũng phải bỏ luôn. Bản thân chúng ta tu học đạt được cảnh giới nào cũng phải bỏ, đạt được những pháp hỷ, khinh an đều phải bỏ sạch hết. Nếu chẳng bỏ được, sẽ dễ dàng sanh khởi tham ái và chấp trước. Cũng giống như ta lên một ṭa lầu cao, lên đến tầng thứ hai phải bỏ tầng thứ nhất, th́ mới lên được tầng thứ ba. Lên mỗi một tầng lầu, phải bỏ tầng lầu trước đi th́ mới có thể tiếp tục lên cao hơn. Xả có nghĩa như vậy đó. Nếu Đẳng Giác Bồ Tát chẳng bỏ được những cảnh giới Ngài đă chứng nhập sẽ chẳng thể viên măn thành Phật. Bởi thế, đức Phật mới nói “xả đắc”, mỗi mỗi đều bỏ hết th́ mới có thể “đắc”.
Chánh kinh:
Chư tỳ-kheo! Sở ngôn thanh tịnh tâm giả đương tri tức thị tâm giải thoát tăng ngữ, huệ giải thoát tăng ngữ.
(Này các tỳ-kheo! Nên biết tâm thanh tịnh vừa nói đó chính là nói tâm giải thoát tăng trưởng, huệ giải thoát tăng trưởng).
Trong đoạn kinh này, đức Phật dạy chúng ta: Thế nào là “tâm thanh tịnh”? Hai câu này dùng những lời đơn giản nhất, thiển cận nhất để giải thích. “Thanh tịnh tâm’” tức là tâm được giải thoát. Tâm giải thoát th́ huệ cũng sẽ giải thoát. Vậy th́ cái tâm này giải thoát như thế nào? Giải thoát là cách nói h́nh dung, tỷ dụ. Chẳng hạn như một người bị dây rợ trói chặt, chẳng tự tại, chẳng tự do, giờ đây có ai tháo gỡ cho, ngay lập tức bèn tự tại. Hiện thời tâm chúng ta chẳng tự tại, rất giống như người bị dây thừng trói chặt. Những dây thừng đó chính là vọng tưởng, phiền năo, ưu lự, vướng mắc, trói buộc tâm ta chẳng được tự tại, mà Huệ chính là tác dụng của Tâm. Tâm chẳng tự tại, bèn chẳng có Huệ; tâm được tự tại, Huệ bèn hiện tiền.
Chánh kinh:
Do tham nhiễm ô, tâm bất thanh tịnh. Do vô minh nhiễm ô, huệ bất thanh tịnh.
(Do tham nhiễm ô, tâm chẳng thanh tịnh. Do vô minh nhiễm ô, huệ chẳng thanh tịnh)
Nhược chư tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tức đắc tâm giải thoát; đoạn trừ vô minh tức đắc huệ giải thoát.
(Nếu các tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tâm liền được giải thoát. Đoạn trừ vô minh, huệ liền được giải thoát).
Nhược chư tỳ-kheo ly tham nhiễm ô đắc tâm giải thoát giả, thị danh thân tác chứng.
(Nếu các tỳ-kheo ĺa tham nhiễm ô, tâm được giải thoát th́ gọi là “thân tác chứng”)
Đoạn trừ vô minh, đắc huệ giải thoát giả, thị danh vô học.
(Đoạn trừ vô minh, huệ được giải thoát th́ gọi là Vô Học).
Chánh kinh:
Vĩnh ly tham ái, liễu tri chân thật chánh tri.
(Vĩnh viễn ĺa tham ái, hiểu rơ chánh tri chân thật).
Câu kinh này rất trọng yếu. “Chánh tri” là Phật tri, Phật kiến; kinh Pháp Hoa nói “nhập Phật tri kiến” th́ tri kiến đó là chánh tri chánh kiến. Chúng ta phải biết rằng: Tham ái là căn nguyên chướng ngại chánh tri chánh kiến; ĺa khỏi tham ái th́ chánh tri chánh kiến bèn được hiện tiền.
Chánh kinh:
Hiện tiền thủ chứng tự quả, tận khổ biên tế.
(Hiện tiền chứng lấy tự quả, hết bờ mé khổ).
“Khổ biên tế” là lục đạo luân hồi. “Tận khổ biên tế” là vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chẳng c̣n lưu chuyển sanh tử nữa, siêu thoát tam giới, thành Pháp Thân đại sĩ. Cuối cùng, đức Phật lại khuyến khích chúng ta:
Chánh kinh:
Chư tỳ-kheo! Như thị sở thuyết, nhữ đẳng ưng học.
(Này chư tỳ-kheo! Những điều vừa nói như thế, các ông hăy nên học).
“Như thị sở thuyết” là những điều đă giảng ở trên. Như lư như pháp, câu nào cũng đều chân thật chẳng dối, toàn thể Phật pháp là giảng về chân tướng của vũ trụ nhân sanh. “Vũ trụ” là hoàn cảnh sanh sống của chúng ta. “Nhân sanh” là chính ḿnh. Hết thảy kinh điển đều nói về đạo lư chân tướng của hoàn cảnh và chính bản thân của chúng ta. “Các ông hăy nên học” là chúng ta phải học tập cho khéo vậy. []
Phật thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh Giảng Kư
Hết
Chú thích : Thanh Tịnh Tâm Kinh: Đây là kinh số 803, thuộc quyển 17 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, phần Kinh Tập Bộ.
TT Thích Minh Tâm
|