Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 195 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 41 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:19am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4 – TỰ TRANG NGHIÊM BẰNG CÔNG ĐỨC
(Trích phẩm Phổ Hiền, kinh Hoa Nghiêm)



“... Nếu ai muốn thành tựu công đức vô tận như thế cần phải tu theo mười hạnh nguyện rộng lớn sau đây:
Một là lễ kính Chư Phật
Hai là xưng tán Như Lai
Ba là quảng tu cúng dường
Bốn là sám hối nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ công đức
Sáu là thỉnh chuyển Pháp luân
Bảy là thỉnh Phật trụ thế
Tám là thường tùy Phật học
Chín là hằng thuận chúng sinh
Mười là phổ giai hồi hướng

NHẬN XÉT:
Bồ tát là những bậc thấu rơ đường đi của Nhân Quả Nghiệp báo hơn ai hết. Các Ngài biết gây tạo vô lượng thiện nghiệp để tập hội được công đức vĩ đại cho tự thân. Khác với chúng sinh phàm phu chỉ đi t́m hạnh phúc cho hạnh phúc của riêng ḿnh, Bồ tát tích lũy công đức để đủ uy lực giáo hóa chúng sinh. Không c̣n ngă chấp vị kỷ, mọi công hạnh của Bồ tát đều hướng về sự nghiệp lợi ích chúng sinh.
Phẩm Phổ Hiền đưa ra mười phương pháp tiêu chuẩn để một Bồ tát thực hành hầu tích lũy vô lượng công đức.
Thứ nhất, lễ kính Chư Phật. Trong Nhân Quả xuất thế gian chúng ta đă xem công đức lễ kính bậc Giác Ngộ là cái mầm đầu tiên giúp một người đi dần đến với sự giác ngộ của chính ḿnh. Nhưng trong Nhân Quả Bồ tát đạo, Bồ tát lễ kính Chư Phật để thành tựu quả báo KHẢ KÍNH cho ḿnh. Khi thành tựu sự khả kính này, Bồ tát xuất hiện giữa thế gian rực rỡ như ánh mặt trời sáng chói, khiến chúng sinh trông thấy đều sinh tâm kính ngưỡng thiết tha. Và khi tâm kính ngưỡng đă phát khởi rồi, họ sẽ dễ dàng tiếp nhận sự dạy bảo của Bồ tát. Thế nên muốn nhiếp hóa chúng sinh, Bồ tát phải thành tựu sự khả kính bằng công đức lễ kính chư Phật.
Thứ hai, xưng tán Như Lai
.... “Như biển cả âm vang dào dạt sóng
rất nhiệm mầu con khởi những ngôn từ
tự ngh́n xưa và măi đến ngh́n sau
ngợi ca Phật, biển muôn trùng công đức”....
Cũng như hạnh lễ kính đă đưa đến niềm quư kính của chúng sinh, hạnh xưng tán Như Lai khiến cho Bồ tát thị hiện ở đời không bị chúng sinh chê bai biếm nhẽ. Không ǵ nguy hiểm cho họ hơn sự chê bai nhằm một vị Bồ tát, và cũng không ǵ lợi lạc cho họ hơn sự khen ngợi đúng bậc siêu phàm. Để tránh cho chúng sinh tội lỗi hủy báng Thánh hiền và cũng để gợi cho chúng sinh công đức tán dương bậc thánh, Bồ tát phải thành tựu cho ḿnh quả báo “đáng được khen ngợi”. Bồ tát thành tựu công đức như thế sẽ dễ dàng giáo hóa chúng sinh mà ít bị công kích tỵ hiềm.
Thứ ba, Quảng tu cúng dường. Muốn gieo duyên lành với chúng sinh, Bồ tát thường dùng hạnh bố thí tài vật. Chúng sinh luôn luôn trở nên nhu thuận vâng phục với một người đă ban ân cho họ mà bố thí tài vật là h́nh thức ban ân cụ thể nhất. Thế nên Bồ tát phải thành tựu tài sản lớn lao mới có thể thực hiện công hạnh rộng răi này. Để thành tựu tài sản đó, Bồ tát đă phải cúng dường lên Chư Phật một cách trọn vẹn, chân thành và vĩ đại. Tuy nhiên, phẩm Phổ Hiền đă thăng hoa ư nghĩa cúng dường trở nên cao cả hơn như sau:
“Thiện nam tử! Trong các cách cúng dường th́ Pháp cúng dường là tuyệt vời hơn cả. Đó là: Tu hành theo lời Phật dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường, chấp nhận giữ ǵn chúng sinh để cúng dường, chịu khổ thay cho chúng sinh để cúng dường, siêng năng tu tập căn lành để cúng dường, không bỏ hạnh Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để cúng dường.”
Thứ tư, Sám hối nghiệp chướng.
Thật ra công đức của một vị Đại Bồ Tát như biển lớn mà nghiệp chướng từ lâu chỉ như nắm muối nhỏ. Nêu ra hạnh sám hối này, Phẩm Phổ Hiền muốn làm gương cho chúng sinh hơn là dành cho bậc giác ngộ. Có thể một vị Bồ tát có những ác duyên với vài chúng sinh khác khiến cho sau này gặp lại họ sẽ có thái độ chống đối. Nhưng sức nhẫn nhục và ḷng từ ái của Bồ tát sẽ dần dần cảm hóa tất cả.
Thứ năm, Tùy hỷ công đức. Một vị Bồ tát th́ vĩnh viễn không c̣n đố kỵ với bất cứ ai nữa. Tâm tùy hỷ sẽ hiện hữu tự nhiên không cần cố gắng. Quả báo của công đức tùy hỷ này khiến cho Bồ tát ít bị tỵ hiềm ganh ghét, nghĩa là bớt đi sự sa đọa cho chúng sinh.

Thứ sáu, Thỉnh chuyển pháp luân.
Khi đức Thế Tôn vừa thành Chánh Đẳng Giác, tâm Ngài hướng về thụ động (kinh Nikaya) th́ có trời Phạm Thiên hiện thân thỉnh Ngài tuyên giảng Chánh Pháp cho tất cả chúng sinh. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu này và bắt đầu sự nghiệp giáo hóa vĩ đại của một đức Như Lai.
Công đức của vị Phạm Thiên kia khó thể nói cho cùng tận.
Đôi khi Bồ tát thị hiện ở những cương vị không thể trực tiếp thuyết pháp cho chúng sinh, nhưng luôn luôn khéo thỉnh pháp từ những pháp sư xứng đáng khiến cho mọi người được nghe những giáo lư quư giá. Quả báo trở lại cho Bồ tát là trí tuệ thêm vi diệu và được nhiều cơ hội giáo hóa chúng sinh.
Thứ bảy, Thỉnh Phật trụ thế.
Bồ tát thỉnh Phật trụ thế lâu dài để cho chúng sinh được nhiều lợi lạc và cũng để kết thành thọ mạng lâu dài cho chính ḿnh ở Phật quả mai sau.
Thứ tám, Thường tùy Phật học.
Bản thể giải thoát của một vị Alahán – Bồ tát th́ không khác với Phật, nhưng trí tuệ thần lực th́ kém xa. Chính v́ trí tuệ chưa bằng Phật nên phương tiện giáo hóa chúng sinh của Bồ tát không hoàn bị như Đức Phật. Ví dụ cùng tốt nghiệp bằng bác sĩ y khoa, nhưng một số bác sĩ mới ra trường và một bác sĩ lăo thành vẫn có tŕnh độ chữa bệnh khác nhau mặc dù kiến thức cơ bản th́ không khác. Bồ tát cũng vậy, cần phải tham khảo nhiều nơi phương tiện giáo hóa của Đức Phật. Chúng ta cũng dễ thấy điều này xuyên qua lịch sử của Phật giáo.
Thứ chín, Hằng thuận chúng sinh.
Hằng thuận chúng sinh có nghĩa là phụng sự chúng sinh. Hạnh nguyện này khiến chúng ta nhớ đến lời kinh cầu của thánh Francisco.
“Lạy Chúa Từ Nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người....”
và phẩm Phổ Hiền giải thích:
... “Đối với tất cả chúng sinh như thế ta đều dâng đến mọi điều hầu hạ, mọi thứ cúng dường như ta đă kính trọng cha mẹ ta, như ta đă tôn thờ sư trưởng ta, như ta đă phụng sự các bậc Alahán, các Đấng Như Lai không hề khác biệt.
Với người bệnh khổ ta sẽ là lương y; với người lạc lối ta sẽ chỉ đường về; với người trong đêm ta sẽ làm ánh sáng; với người nghèo khó ta giúp được kho tàng...”
Hạnh nguyện thứ chín này là hạnh nguyện cần thiết nhất để Bồ tát có thể kết duyên giáo hóa tất cả chúng sinh và thành tựu công đức cho chính ḿnh.
Thứ mười, Phổ giai hồi hướng.
Ngă chấp đă tan biến, nơi Bản thể b́nh đẳng không c̣n phân biệt, một là tất cả, tất cả là một, Bồ tát không c̣n thấy những công đức như thế chỉ thuộc về riêng ḿnh mà thuộc về tất cả chúng sinh. Công hạnh Phổ giai hồi hướng này tự nhiên thành tựu viên măn.
Bồ tát luôn luôn tích lũy công đức để trang nghiêm tự thân, mà sự trang nghiêm tự thân này chỉ v́ sự nghiệp cứu giúp chúng sinh trong các cơi.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 42 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:20am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5 – NGHỊCH HẠNH


Trong suốt những bài kinh Bổn sinh, Devadatta luôn luôn xuất hiện như một chướng ngại quấy phá Bồ tát. Đến khi Bồ tát ra đời thành tựu đạo quả vô thượng, Devadatta vẫn c̣n đeo đuổi để gây trở ngại cho Ngài. Devadatta đă chia rẽ lôi kéo tăng chúng về phe với ḿnh, đă cấu kết với vua Ajatasattu thả voi say toan dẫm đạp Đức Phật, đă xô đá từ núi cao làm thân Phật chảy máu. Cuối cùng trong hiện đời, Devadatta bị đọa vào địa ngục Avici (A tỳ).
Nhưng kỳ lạ thay, về sau kinh Pháp Hoa đă ca ngợi Devadatta hết lời và c̣n thọ kư cho Devadatta sẽ thành Phật hiệu Thiên Vương Như Lai!
Cho đến hôm nay th́ ai ai cũng đă rơ rằng tất cả kinh Đại thừa không phải do chính Đức Phật thuyết khi c̣n tại thế. Có những vị Tổ vô danh nào đó đă âm thầm biên soạn và đưa vào kinh tạng dần dần. Kinh Đại Bát Nhă (600 quyển) xuất hiện sớm nhất vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt. Đa phần các kinh c̣n lại xuất hiện vào thời ngài Long Thọ. Các kinh Mật tông xuất hiện trễ nhất. Cũng có vài bản kinh xuất hiện ở Trung Hoa mà trong tạng Sancrit không có như Đại thừa Kim Cang kinh luận, Tam Thế Nhân Quả kinh...
Tuy nhiên, không phải v́ kinh Đại thừa không được chính Đức Phật tuyên thuyết mà chúng ta phủ nhận giá trị của nó. Kinh Đại thừa có một giá trị lớn trong nền văn học của Phật giáo. Chúng ta sẽ bàn kỹ với nhau về ư nghĩa và vai tṛ của kinh Đại thừa trong một chuyên đề khác sau này, ta sẽ thấy rằng kinh Nguyên thủy là cội nguồn vững chắc mà kinh Đại thừa là sự tŕnh bày một cách hiểu về kinh Nguyên thủy. Hoàn toàn không có hai Phật giáo riêng rẽ.
Ở đây kinh Pháp Hoa đă nêu ra mật hạnh của Bồ tát Devadatta! Đúng vậy, chỉ cần vài đời quấy phá Bồ Tát Thiện tuệ, một kẻ phàm phu sẽ đọa vào ác đạo khó có ngày ra khỏi. Nhưng Devadatta có những nguồn phước vô hạn nào đó khiến ông đủ sức đeo đuổi Đức Phật từ đời này sang đời khác và luôn luôn ở vào một vị trí tương đương với Phật. Bồ tát sinh làm người th́ ông cũng sinh làm người, Bồ tát sinh làm thú th́ ông cũng sinh làm thú, Bồ tát sinh vào địa vị vua chúa th́ ông cũng sinh vào địa vị vua chúa. Trong đời sống cuối cùng Bồ tát sinh vào cung thành Kapilavathu với 32 tướng tốt, Devadatta cũng sinh vào đấy làm anh em chú bác với Thái tử và cũng có một dung nghi đẹp đẽ vô cùng dù không bằng Phật.
Devadatta đă trợ duyên cho Đức Phật từ vô luợng kiếp, không phải bằng sự cung kính thừa sự, sự tán dương tôn vinh, nhưng bằng sự chống đối quấy rầy, sự mưu hại ác độc.
Một Đức Phật vượt hơn một vị Alahán về phương diện hùng lực và trí tuệ. Khi một vị Alahán đi vào sinh tử để hành Bồ tát đạo, th́ những sự chướng ngại chống đối là điều kiện cần thiết để các Ngài tăng trưởng đại hùng đại lực, và viên măn công đức nhẫn nhục Ba la mật. Devadatta đă can đảm chấp nhận tổn phước để gây chướng ngại cho Bồ tát, giúp Bồ tát vượt lên trên phương diện hùng lực này. Đến khi Đức Phật thành tựu Phật quả th́ nghịch hạnh của Devadatta có công năng làm tăng thêm giá trị cho nhân cách siêu phàm của Phật.
Đối với những vị Alahán c̣n phải tu tập, nếu thiếu những trở ngại trên đường tu, họ sẽ tắt mất ư chí. Đây là một qui luật khách quan. Chính v́ muốn giúp cho một hành giả tăng trưởng ư chí nên những bậc đại Bồ tát luôn luôn t́m cách gây ra những trở ngại cho họ. Đối diện với những trở ngại, hành giả được khơi dậy sức tinh tấn mạnh mẽ hơn. Và Bồ tát cũng biết khi nào phải tạm dừng nghịch hạnh để cho hành giả thuận tiện tiến nhanh trên đường tu tập.
Muốn thị hiện nghịch hạnh, Bồ tát phải đủ hai điều kiện:
Biết khả năng chịu đựng của hành giả đến mức độ nào.
Chính ḿnh có nguồn phước vô hạn để hóa giải quả báo do nghịch hạnh gây ra.
Dù nghịch hạnh đó xuất phát từ một tâm đại bi, nhưng trên hiện tướng nó vẫn có quả báo tương ứng. Bậc nghịch hạnh Bồ tát có phước rất lớn. Có khi đang thị hiện nghịch hạnh với người này, nhưng Bồ tát vẫn đang dùng thuận hạnh với những chúng sinh khác để phước không bị vơi.
Có những giai đoạn Phật giáo được xem là cực thịnh tại các quốc gia như Trung Hoa, Việt Nam, Triều tiên, Nhật bản, Miến điện, Campuchia... Khi Phật giáo được tôn trọng quá sức th́ bắt đầu xuất hiện tệ kiêu tăng! Sẽ có những kẻ xuất gia không cầu giải thoát mà chỉ cầu lợi dưỡng danh văn. Khi chí nguyện giải thoát vắng bóng th́ tâm tham dục không bị đoạn trừ. Khi tâm tham dục không bị đoạn trừ th́ những lỗi lầm về giới luật có mặt, dù lộ liễu hay kín đáo. Lúc đó sẽ có những đại Bồ tát thị hiện vào ngôi quốc vương, đại thần thẳng tay ra lệnh đàn áp tiêu diệt Phật giáo. Chùa bị đập phá, tăng bị cởi y, kinh sách bị đốt... Những kẻ ngụy tâm xuất gia sẽ lẹ làng giả biệt Phật pháp. Đến khi nghịch hạnh tạm đủ, vị vua liền hiện tướng bịnh hoạn rồi mất, để lại trách nhiệm khôi phục cho những vị chân tu về sau.Bù đắp cho một nghịch hạnh kinh khủng này, Bồ tát phải tích lũy vô vàn công đức nơi khác.
Tuy nhiên bạn đừng tưởng tương rằng mọi việc đập phá đều là tác phẩm của Bồ tát. Bồ tát đập phá để xây dựng, c̣n ma vương đập phá để hủy diệt. Nếu Bồ tát thị hiện thuận hạnh th́ mới dùng đến h́nh tướng Tỳ Kheo. Nếu dùng nghịch hạnh ác độc ngang tàng th́ Bồ tát không bao giờ dùng đến h́nh tướng Tỳ Kheo. Nếu vị Tỳ Kheo nào dùng nghịch hạnh phá hủy giới cấm th́ hăy tự biết ḿnh chưa phải Bồ tát, mà đă được cấp bằng khen danh dự bởi ma vương.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 43 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 5:57am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

6 – CÁC VỊ BỒ TÁT TRONG KINH ĐẠI THỪA.
Lẽ ra chúng tôi dành đề tài này cho luận bản Nguyên Thủy và Đại Thừa. Nhưng ở đây đang bàn về Nhân Quả Bồ tát đạo, nếu không nêu rơ vai tṛ của Đại Bồ tát quen thuộc như Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... th́ không giải quyết được các nghi vấn hiện nay. Chúng tôi theo lời dạy của thầy trụ tŕ, thượng Thông hạ Lạc, đặt vấn đề này để hóa giải những thiên kiến của những vị học giả Nguyên Thủy và học giả Đại Thừa. Chúng tôi muốn nhấn mạnh từ ngữ học giả để xác nhận rằng chỉ có những bậc hành giả chứng ngộ mới hiểu đúng giáo lư của Đức Phật thời Nguyên Thủy. Thiếu sự chứng ngộ viên măn, người Nguyên Thủy sẽ hiểu giáo lư theo ngoại đạo.
Những vị học giả Nguyên Thủy cực lực phủ nhận các Đại Bồ tát như Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi (Manjusri), Phổ Hiền, Đại Thế Chí... v́ các vị này không được đề cập tới trong kinh tạng Nguyên Thủy. C̣n những vị học giả Đại thừa th́ một bề công kích quả vị Alahán là tiêu nha bại chủng, trầm không trệ tịch, và thụ động tiêu cực, không thể đi đến Phật quả. Những thiên kiến của cả hai bên như thế đều hết sức sai lầm và tai hại, đưa Phật giáo thành hai mối riêng biệt khó thể hàn gắn lại được. Trước hết chúng ta nói đến thiên kiến sai lầm của Đại Thừa.
Quả vị Alahán được Đức Phật xác nhận là vô minh đă hết, lậu hoặc đă sạch. Nếu người nào nghe như vậy liền hiểu rằng hết vô minh chỉ là hết vô minh, không c̣n có ǵ nữa, phải biết người như vậy chưa chứng ngộ đă đành mà c̣n kém cỏi về lư luận triết học. Khi bóng đêm đă qua nghĩa là ánh sáng đă trùm chiếu, khi vô minh đă hết có nghĩa là trí tuệ đă viên măn. Thế nên ở một số chứng Alahán khác, Đức Phật gọi là “khởi lên thắng trí”, hoặc gọi là “minh đă sanh”. Như vậy dù nói là hết vô minh, hay nói là “đủ trí tuệ”, cũng chỉ là hai cách nói của một vấn đề duy nhất như lưng và ḷng của một bàn tay không thể tách rời.
“Tâm ta nay sáng chói
hơn ngàn ánh mặt trời”
(Tiểu Bộ Kinh)
Ai bảo rằng quả vị Alahán là trầm không trệ tịch kẻ đó đă hiểu lầm quá đáng.
Tôn giả Cullapanthaka vừa mới chứng Alahán xong liền lập tức có thể hóa hiện thành một ngàn thân khác nhau đầy cả vườn xoài. Diệu dụng vĩ đại như thế không thể xuất phát từ một nội tâm trầm trệ được, mà phải xuất phát từ một nội tâm chân không diệu hữu cùng cực phi thường. Các thiền sư tự nhận ngộ được Phật tánh diệu hữu tối thượng thừa, thật ra vẫn chưa đủ năng lực để thể hiện chỗ diệu hữu siêu việt như các vị Alahán.
Lại nữa, quả vị Alahán được Phật ấn chứng là vô ngă hoàn toàn, trong khi các vị Đại Thừa đả kích Alahán tuy không c̣n chấp ngă nhưng vẫn c̣n chấp pháp, chưa thành tựu Đại bi tâm. Lời đả kích như thế chỉ xuất phát từ một tâm hồn thiếu bao dung, chưa chứng ngộ và kém lư luận. Ngă và pháp là hai sự kiện đối lập với nhau, cái này lập nên các kia lập. Ngă đă hết th́ pháp cũng không. Chỉ cần nói hết chấp ngă tức là đă ngầm nói hết chấp pháp. Ai hiểu rằng vô ngă chỉ là vô ngă mà pháp vẫn c̣n, kẻ đó cần được chỉnh đốn lại kiến giải.
Vô ngă cũng có nghĩa là không c̣n vị kỷ, mà không c̣n vị kỷ tức là tâm vị tha đă tràn đầy. Chỉ cần nói không vị kỷ, chúng ta phải hiểu là vị tha trọn vẹn, chỉ cần nói vô ngă, chúng ta phải hiểu là đại bi vô biên. Như vậy nói vô ngă hay nói đại bi cũng chỉ là hai cách nói khác nhau của một vấn đề duy nhất như lưng và ḷng của một bàn tay không thể tách rời.
Trong kinh Nguyên Thủy Đức Phật nói rằng vị Alahán nhập Niết Bàn không c̣n trở lui lại trong trạng thái này nữa. Các vị học giả Đại Thừa (Có lẽ cả Nguyên Thủy) liền hiểu rằng Niết Bàn như là một cảnh giới tù túng mới, giam chặt vị Alahán ấy trong hư vô buồn tẻ không c̣n hay biết ǵ nữa. Hiểu như vậy thật là đáng thương!
Niết Bàn là giải thoát, không phải là ràng buộc.
Niết Bàn là có năng lực làm chủ, không phải không có năng lực làm chủ.
Niết Bàn là trí tuệ sáng suốt, không phải là hư vô mờ mịt.
Niết Bàn là Đại bi, không phải là vị kỷ.
“Một vị ở trong Niết Bàn vẫn biết rơ t́nh trạng của Phật pháp, của thế gian và khi cần phải độ th́ lập tức trở lại liền”
(Lời của thầy Chơn Như)
Phật không muốn tiết lộ công hạnh Bồ tát của một vị Alahán, ngại chúng sinh nghe rồi tô điểm tưởng tượng, chỉ để cho ai đến rồi sẽ tự biết. Công hạnh Bồ tát chỉ là giai đoạn phía sau của một vị Alahán, từ lâu vẫn được dấu kín. Măi đến mấy trăm năm sau Phật nhập diệt, kinh Đại Thừa lần lượt xuất bản, th́ công hạnh Bồ tát mới được tiết lộ đủ điều trên Bản thể giải thoát th́ Alahán và Phật hoàn toàn đồng nhau với tam minh lục thông. C̣n sự sai biệt sẽ được đề cập ở mục kế tiếp.
Chúng ta trách các học giả Đại Thừa hiểu không trọn vẹn lời dạy của Đức Phật thời Nguyên Thủy để rồi chê bai chỉ trích đủ cách, và vô t́nh chê bai luôn những vị Bồ tát của ḿnh đang tôn thờ v́ các vị Bồ tát ấy không ai khác hơn chính là những đại đệ tử Alahán thời Đức Phật. Chúng ta cũng trách các nhà học giả Nguyên Thủy không nh́n thấy công hạnh Bồ tát của một vị Alahán nên đă vội vàng phủ nhận sự có mặt của các Bồ tát trong kinh điển Đại Thừa! Họ đă bị danh từ che đậy để không thấy được thực chất giấu đằng sau những danh từ ấy. Họ chỉ biết Xá Lợi Phất mà không biết ǵ đến Văn Thù Sư Lợi. Hai tên gọi khác nhau khiến họ cho rằng một là thực và một là bịa đặt. Họ chỉ biết tỳ kheo ni Đại Ái Đạo (Kiều Đàm Di mẫu) là Đại Aùi Đạo mà không biết ǵ đến Quán Thế Âm. Họ cho rằng một là thực và một là bịa đặt. Nếu họ không nhận thức rơ công hạnh Bồ tát của Alahán, họ cũng giống như các học giả Đại thừa đă không hiểu sâu sắc lời dạy Nguyên thủy của Đức Phật.
Có một câu hỏi:
– Không tham lam nghĩa là ǵ?
Một người đáp lập tức:
– Là không xâm phạm đến tài vật của người khác.
Một người trầm ngâm giây lâu rồi đáp:
– Là rộng răi bố thí.
Cũng một câu nói ban đầu “không tham lam”, nhưng người hiểu cạn, người hiểu sâu.
Cũng vậy, không khéo các học giả của cả Nguyên thủy và Đại thừa hiểu lời dạy của Đức Phật mới được phân nửa rồi sinh nhiều thành kiến. Giáo lư Nguyên thủy là cội gốc. Tiểu thừa và Đại thừa là hai cách hiều về giáo lư Nguyên thủy. Chúng ta phải công nhận rằng Đại thừa hiểu giáo lư Nguyên thủy sâu sắc hơn Tiểu thừa. Tiểu thừa hiểu giáo lư Nguyên thủy mới được phân nửa. Thời đại hôm nay các Bộ phái Tiểu thừa đă vắng bóng chỉ c̣n lại phái Theravada đại diện cho những người trung thành với giáo lư Nguyên thủy và phái Đại thừa đại diện cho những người ủng hộ giáo lư phát triển. Nhưng chúng ta đang e ngại một điều là nếu không khéo, hoặc chúng ta sẽ hiểu giáo lư Nguyên thủy thành Tiểu thừa, hoặc hiểu giáo lư Đại thừa thành ngoại đạo.
Nếu không hiểu công hạnh Bồ tát của một vị Alahán, chúng ta đă hiểu Alahán theo Tiểu thừa.
Nếu trông đợi một sự cứu rỗi từ quyền năng của một Đức Phật, chúng ta đă hiểu đạo Phật thành ngoại đạo.
Chúng ta nêu mục này ra để nói rằng:
– Sự hiện diện của các vị Bồ tát trong kinh Đại thừa như Quán Thế Aâm, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc... không phải là vô lư. Đôi khi các Ngài bộc lộ thân phận như Bố Đại Ḥa Thượng, Hàn Sơn, Thập Đắc.. Hoặc dấu diếm thân phận như bà lăo bán bánh cho Đức Sơn, ông già Ngũ Đài Sơn (xem Thiền Sư Trung Hoa, HT Thích Thanh Từ).
– Và Bồ tát có nghĩa là HẠNH của một vị Alahán mà thôi. Đứng trên khía cạnh giải thoát th́ gọi là Alahán, đứng trên khía cạnh lợi ích chúng sinh th́ gọi là Bồ tát. Dù nói Alahán hay Bồ tát th́ đó cũng chỉ là hai khía cạnh của một vấn đề duy nhất như lưng và ḷng của một bàn tay không thể tách rời.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 44 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 5:58am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

SUY LUẬN NHÂN QUẢ

Chúng ta đă đi qua những trường hợp điển h́nh của Nhân Quả với ba giai đoạn, Nhân Quả thế gian, Nhân Quả xuất thế gian và Nhân Quả Bồ Tát đạo. Như vậy tạm đủ để chúng ta có kinh nghiệm phần nào về đường đi của Nhân Quả Nghiệp báo. Bây giờ chúng ta tự suy luận lấy những trường hợp Nhân Quả khác bởi lương tâm và trí tuệ của chính ḿnh. Chúng ta cần phải luôn luôn suy nghiệm lấy đường đi của Nhân Quả Nghiệp báo để lương tâm có cơ hội trổi dậy và ngự trị nơi cơi ḷng thánh thiện của chúng ta.

Hỏi: Một thiền sư đă giác ngộ th́ không c̣n lầm về Nhân Quả. Thế tại sao Nam Tuyền lại chém mèo?
Đáp: Lúc đại chúng của hai nhà Đông và Tây giành nhau con mèo, trên hiện tướng họ đang bị mất chánh niệm. Nam Tuyền muốn nghiệm xem trong những người này có ai đang đùa mà vẫn không bị thất niệm, và muốn cảnh tỉnh đại chúng ra khỏi sự tranh giành những cái bên ngoài, cần xoay lại bên trong để tỉnh giác tu hành. Nếu vật họ đang giành là một cái b́nh tích, một lọ hoa, một chiếc tách, th́ Nam Tuyền sẽ hỏi:
“Nói được th́ không đập”
Không ai đáp được, nghĩa là họ đều bị thất niệm, Ngài sẽ đập vỡ chiếc b́nh để cảnh tỉnh họ. Nhưng không may cho Ngài, vật đó là con mèo! chém mèo để cảnh tỉnh đại chúng, Ngài mang tiếng sát sanh đến tận hôm nay. Dĩ nhiên Ngài phải chấp nhận lấy quả báo của việc làm này, nhưng đức độ của Từ tâm th́ không mất v́ Ngài không có ác tâm đối với con mèo, chỉ v́ Từ tâm muốn răn dạy đệ tử mà thôi.
Hỏi: Tại sao Đơn Hà bịt tai không nghe Thạch Đầu thuyết giới, phải chăng bậc ngộ đạo không cần giữ giới?
Đáp: Đơn Hà là một con người xuất cách, âm thầm công quả ở nhà bếp ba năm và đă thấu triệt nguồn tâm. Khi Thạch Đầu nói chung chung giữa đại chúng:
“Ngày mai cắt cỏ trước điện Phật”
Chỉ có Đơn Hà đủ trực giác để hiểu Thạch Đầu muốn làm lễ thế phát cho ḿnh. Ngày hôm sau toàn chúng đem liền, cuốc loay hoay làm cỏ trước sân chánh điện th́ Đơn Hà mang chậu nước và dao cạo đến quỳ trước Thạch Đầu. Thạch Đầu cười cạo tóc cho và sau đó thuyết giới. Đơn Hà bịt tai đi ra.
Ngài bịt tai đi ra không phải v́ chê giới luật mà biểu thị rằng với sức giác ngộ của tự tâm, Ngài KHÔNG THỂ NÀO PHẠM GIỚI nữa! Sức thanh tịnh tiûnh giác của tâm đă ngăn chặn mọi sai lầm từ trong tâm thức sâu kín, c̣n đâu lọt ra ngoài thành lời nói và việc làm. Chúng ta hiểu điều này, bậc đại tu hành là người đủ sức giữ giới, không phải là người giới luật lôi thôi.
Có những người tự nhận tu theo Tổ sư thiền, ngộ được tâm tỉnh giác, thử phạm giới uống rượu hành dục, thấy vẫn không mất chỗ đă ngộ, liền lớn tiếng tuyên bố rằng người ngộ lư Tối Thượng Thừa không cần tŕ giới (!). Thật ra cái không mất đó chẳûng có ǵ cao siêu. Thời Đức Phật tại thế, tín nữ Visakha lúc c̣n thiếu nữ đến nghe Phật thuyết pháp liền chứng quả Dự lưu. Sau đó, cô cũng có chồng có con b́nh thường như mọi người mặc dù đang ở quả vị Dự lưu. Chẳng những quả vị Dự lưu, mà ngay cả ngoại đạo đắc Thiền Định rồi vẫn có thể không bị mất dù có phạm một số giới, bởi v́ phước tu tập đời trước c̣n thừa. Khi nào phước tu tập quá khứ đă hết việc phạm giới hiện tại đă nhiều, họ mới bị thối thất Thiền Định và đọa vào ác đạo. Như vậy các vị “ Tối– thượng– thừa– phá– giới” hăy cảnh giác lại ḿnh, đừng xem thường giới luật của Phật vừa hại ḿnh và hại luôn những người khác. Giá trị và sức mạnh của người giác ngộ là không c̣n bị phạm giới chứ không phải phá giới “một cách tự tại”!
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 45 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 5:59am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Hỏi: Người thông minh trí tuệ là do nhân ǵ?

Đáp: Có nhiều loại thông minh. Loại thứ nhất là do học nhiều rồi nói lại những điều ḿnh đă học mà không có sức sáng tạo. Loại thứ hai có sức nhận thức sắc bén hơn trong một số lănh vực giới hạn như chỉ trong ngành y khoa, điện tử... là do đă từng dùng nghề nghiệp phục vụ xă hội đắc lực. Hoặêc có người do công đức ấn tống kinh điển, cúng đèn dầu cho chúng tăng, cất trường học cho trẻ em... cũng được quả báo sáng suốt thông minh. Nhưng có một loại thông minh phi thường, trực giác nhạy bén, sức sáng tạo vô hạn là do công năng tập định ở những đời trước. Có khi đời này họ chưa t́m lại tŕnh độ định lực của đời trước, nhưng họ đă có trí tuệ phi thường. Khi nh́n đến bất cứ lănh vực nào họ đều có sự nhận thức sắc bén và độc đáo. Các vị Alahan và các thiền sư khi chưa chứng ngộ đều đă biểu lộ sức trí tuệ đặc biệt này. Thế nên, một quốc gia muốn có nhiều nhân tài cần phải áp dụng tu tập Thiền Định cho sinh viên và học sinh. Nhật Bản đang khai thác triệt để về điểm này nên họ đă vượt xa các nước về nghệ thuật và kỹ thuật.

Hỏi: Tại sao có những người cùng sống bằng nghề viết lách, giáo dục, hội họa... nhưng kẻ th́ giàu mà người th́ nghèo?

Đáp: Người được giàu có từ sự nghiệp văn hóa là bởi hai lư do. Hoặc họ biết bố thí ít nhiều bằng đồng tiền kiếm được. Hoặc họ dùng phương tiện văn hóa để kêu gọi mọi người sống Đạo Đức, thương yêu, hy sinh, phụng sự. Nếu thiếu hai nguyên nhân này, bố thí và giáo hóa, người cầm bút sẽ chôn đời ḿnh trong khó nghèo hiu quạnh. Thỉnh thoảng chúng ta đọc vài tác phẩm văn chương cũng nhận thấy rằng có những tác phẩm không chuyển hóa tâm hồn người đọc trở nên thánh thiện cao cả, chỉ vùi họ trong mơ mộng, bâng quơ, ích kỷ, hận thù. Tác giả của những tác phẩm này đi dần vào khốn đốn khổ sở. Ngược lại, những tác phẩm chuyển hóa tâm hồn con người trở nên thuần lương Đạo Đức sẽ đưa tác giả của nó đi về nơi hạnh phúc lâu dài. Nhưng muốn tạo được những tác phẩm có tác dụng giáo dục mạnh mẽ như vậy th́ chính tác giả phải tự gột rửa tâm hồn ḿnh trong sạch trước đă.
Hỏi: Có những người quá nghèo không thể bố thí, làm cách nào đễ họ có thể chuyển nghiệp nghèo khổ đó được?
Đáp: Không c̣n con đường nào khác hơn nữa! Họ phải chấp nhận khó khăn hơn nữa, thiếu thốn hơn nữa để san sẻ từng nắm gạo, từng muỗng đường, từng đồng ít ỏi cho ngươiø có giới và người làm thiện. Sự cố gắng quá dộ đó sẽ trở thành công đức lớn lao cho họ và đập vỡ thói quen bỏn xẻn từ nhiều kiếp trong tâm họ. Nếu không biết bố thí từng chút như vậy, họ sẽ măi măi ch́m sâu trong nghèo nàn túng thiếu. Người hiểu đạo sẽ khát khao bố thí như người mù khát khao được mắt sáng. Ngoài việc bố thí tài vật ra, họ c̣n phải dùng công sức đắp đường cho người đi, đào giếng nơi công cộng cho người dùng. Nếu họ là công nhân, họ phải lao động tích cực với ư nghĩ v́ xây dựng đất nước. Thật vậy cùng làm tám tiếng đồng hồ trong một xí nghiệp, nhưng một người chỉ hướng đến mục đích kiếm tiền lương về cho bản thân và gia đ́nh, c̣n một người biết hướng đến mục đích xây dựng đất nước. Phước của hai người này khác nhau rất xa. Do mục đích khác nhau nên thái độ làm việc cũng khác nhau. Người vị kỷ sẽ làm việc một cách uể oải thiếu trách nhiệm (đôi khi tăng thu nhập bằng sự không thành thật). Người vị tha, yêu đất nước sẽ làm việc một cách nhiệt t́nh và kỹ lưỡng. Mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày họ cách xa nhau trên phương diện phước đức.
Hơn nữa, người nghèo tức là phước rất ít. Họ cần phải giữ giới luật thật kỹ lưỡng, không sát sinh hại vật, không tà dâm, không trộm cắp... v́ sự vi phạm một giới nhỏ cũng đủ đưa họ về địa ngục.

Hỏi: Người này làm phước rồi chú nguyện cho người kia được chăng?

Đáp: Được! Ví dụ trong gia đ́nh có người bệnh nằm một chỗ không thể tự làm phước để chuyển nghiệp. Thân quyến của người ấy có thể làm các công đức như phóng sinh, bố thí, đắp đường, in kinh... để hồi hướng chú nguyện cho người ấy khỏi bệnh. Nhưng dù sao th́ người tự tay làm vẫn hưởng được phước nhiều hơn người được chú nguyện.
Một người đạo hữu đă phóng sinh để chú nguyện cho người cha ḿnh qua khỏi bệnh huyết áp cao và tai biến mạch máu năo. Trong cơn bệnh ông la hét, đập tay chân, chưởi mắng mọi người. Người đạo hữu ngừng thức ăn huyết nhục, cho ông ăn chay đồng thời mua chim cá phóng sinh chú nguyện cho ông. Ông giảm bệnh một cách rơ rệt và bắt đầu b́nh tĩnh, trở dậy đi đứng b́nh thường.
Hỏi: Aên chay và ăn mặn ảnh hưởng khác nhau ra sao?
Đáp: Theo y học th́ thức ăn động vật có nhiều chất bổ dưỡng cần thiết cho cơ thể hơn thức ăn thực vật. Nhưng thú tánh ẩn tàng trong xác thịt của động vật, nỗi đau khổ hận thù khi bị giết hại của con vật dần dần ḥa tan vào máu huyết tim óc của người dùng khiến cho người này tăng trưởng nhiều phiền năo si mê. Nếu họ phát tâm tu tập Thiền Định th́ sẽ bị trở ngại cả hai phương diện thân và tâm. Thân th́ đau nhức khó tọa thiền; tâm th́ loạn động hôn trầm khó làm chủ.
Thời Nguyên thủy Đức Phật cho phép đệ tử khất thực được thứ ǵ th́ dùng thứ nấy, v́ nếu hạn chế với thức ăn chay họ sẽ gặp khó khăn rất nhiều. Các cư sĩ tại gia đâu phải luôn luôn có sẵn thức ăn chay để cúng dường khi các Tỳ kheo bất ngờ đi ngang qua ngưỡng cửa.
Tuy nhiên tận trong thâm tâm ai cũng biết dùng thức ăn động vật có liên hệ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với sự giết hại. Nhiều vị sư danh tiếng Theravada như Ḥa Thượng Narada, Ḥa Thượng Minh Châu... đều suốt đời dùng chay. Nhiều vị sư Bắc tông ăn chay cũng vẫn khỏe mạnh hồng hào.
Chúng ta tu tập Từ tâm vô lượng th́ nên ăn chay để bồi đắp ḷng Từ ngày càng thêm lớn và cũng chiêu tập rất nhiều phước cho mai sau. Có một vài người may mắn kỳ lạ, xông pha giữa lằn tên mũi đạn vẫn không bị thương tích. Đó là do phước ăn chay từ đời trước c̣n ảnh hưởng đến hôm nay.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 46 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 6:03am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Hỏi: Những người sinh sống bằng nghề câu cá, săn bắn, bẫy rập sẽ cảm quả báo ǵ?

Đáp: H́nh ảnh con cá vùng vẫy trong tuyệt vọng đau đớn sau khi đớp phải miếng mồi dụ dỗ sẽ trở thành h́nh ảnh của người cầm cần câu. Nếu người này c̣n phước không bị đọa thân súc sinh, họ cũng phải cảm báo bị lừa gạt đến tuyệt vọng đau khổ.
Người giăng bẫy giết thú rừng lớn th́ tội càng nặng hơn nữa. H́nh ảnh con thú đang đi bị sụp hầm, bị treo chân... cũng sẽ trở lại là h́nh ảnh của người giăng bẫy. Sau khi đền trả tội lỗi ở đọa xứ, họ sẽ được làm người với hầm chông, tḥng lọng đang chờ đón. Nếu những con thú được trở lại thân người, chúng sẽ là những kẻ thù của những ai đă giăng bẫy bắt chúng. Một nhân xấu luôn luôn để lại phía sau đó những ảnh hưởng tai hại lâu dài.
Người săn bắn th́ sẽ bị chết bởi vũ khí và chó săn cắn xé.
Khi Judàs dẫn lính đến bắt Chúa Jésus. Simon Pierre rút gươm chém rớt vành tai của người lính để bảo vệ Chúa. Chúa phán:
“Simon, hăy buông gươm xuống, v́ ai dùng gươm sẽ phải chết bằng gươm”

Hỏi: Có phải những người giúp nhau hay hại nhau là do đă từng giúp nhau hay hại nhau từ quá khứ?

Đáp: Không hẵn như thế! Bản thể bao hàm trùm khắp không riêng ai. Ông A giúp ông B nhưng sẽ được giúp lại bởi ông C. Bà E hại bà D, nhưng sẽ bị hại lại bởi bà F.
C̣n đă từng giúp hay hại nhau th́ khi gặp lại sẽ khởi sinh thương hay ghét mà thôi.
Người gieo duyên với vị Phật này, nhưng sẽ được tiếp độ bởi vị Phật khác; gieo duyên với vị Alahán này, nhưng vẫn được tiếp độ bởi vị Alahán khác.

Hỏi: Những khuyết tật về mắt là do nhân ǵ?

Đáp: Một quả báo không phải sinh ra từ một nhân duy nhất. Trước hết, mắt là cơ quan để nh́n thấy mọi vật. Nếu cản trở sự nh́n thấy của mọi người, chúng ta sẽ cảm báo bị khuyết tật về mắt. Sự cản trở đó có thể là lấy mất đèn đuốc nơi công cộng; hoặc chỉ dẫn đường lối sai lầm; hoặc gieo rắc tà kiến lệch lạc; hoặc giam hăm cúng sinh trong tối tăm, hoặc biết là sai mà vẫn nhắm mắt làm bừa, hoặc thấy người khác khổ mà làm ngơ...
Muốn chuyển nghiệp này chúng ta phải làm ngược lại, nghĩa là cúng đèn đuốc thắp sáng nơi công cộng; chỉ đường dẫn lối cho chính xác; ấn tống kinh sách Đạo Đức Nhân Quả; phóng sinh thú vật khỏi chỗ tối tăm tù túng; giữ giới cấm một cách kỹ lưỡng... Thực hiện được như vậy mắt sẽ khá hơn, nếu nhẹ sẽ hết hẳn.

Hỏi: Những khuyết tật về chân là do nhân ǵ?

Đáp: Chân là cơ quan để di chuyển. Làm trở ngại sự di chuyển của chúng sinh, người này sẽ bị khuyết tật về chân. Những trở ngại đó được xem là phá đường, lấp ngơ, dỡ cầu..., hoặc giam cầm thú vật chim chóc, hoặc bẻ găy đùi ếch, cắt nhượng ḅ. Nếu chặt chân người th́ đọa địa ngục.
Muốn chuyển nghiệp này, chúng ta cần phải làm ngược lại nghĩa là đắp đường, bắt cầu nơi công cộng. Nếu gần nhà bạn có đội thi công làm đường, bạn hăy đóng góp bằng cách bồi dưỡng thức ăn uống cho anh em công nhân. Công đắp đường bắt cầu rất lớn v́ giao thông là điều kiện quan trọng trong đời sống xă hội. Ngoài việc giải những ác nghiệp về thân thể, người tạo công đức này sẽ được khỏe mạnh, giàu có, xe cộ xênh xang.
Tôi có nghe một người bị bại chân, sau khi bỏ tiền đắp lại đoạn đường trong làng đă đi đứng b́nh thường.

Hỏi: Tại sao có những người giàu có mà không để ư ǵ đến Đạo Đức?

Đáp: Dù hiện tại họ dường như không biết đến Đạo Đức, nhưng trong quá khứ họ đă từng làm được những công đức lớn lao. Ví dụ người thanh niên xung phong v́ bổn phận đă tham gia đào thành con kênh dài dẫn nước tưới mấy ngàn hecta ruộng lúa. Quả báo khách quan phải đến với những người này là sự sung măn vật chất, ở đâu cũng để có nước xài không bị khô hạn. Hoặc họ là công nhân đắp đường bắt cầu; hoặc họ là chuyên viên nghiên cứu phát triển nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế cho quốc gia; hoặc họ đă từng vô t́nh cúng dường phải bậc Alahán... Họ không để ư nghiên cứu về Đạo Đức, nhưng thật sự họ đă làm được những công đức lớn lao.

Hỏi: Những nhân viên công lực cảnh sát giam cầm bắt bớ tội nhân là tội hay phước?

Đáp: Trước hết chúng ta đ̣i hỏi nhân viên an ninh phải có ḷng thương yêu tất cả mọi người rồi sẽ đánh giá tội phước của họ v́ vấn đề này rất rắc rối. Trên h́nh thức cạn cợt, chúng ta dễ cho rằng nhân viên an ninh đă đối xử tàn nhẫn với tội nhân như c̣ng trói, giam giữ, đôi khi phải quật ngă họ. Nhưng nh́n trên b́nh diện xă hội th́ việc làm bắt giữ tội nhân có hai cái lợi. Thứ nhất là giữ ǵn an ninh cho xă hội. Thứ hai là buộc tội nhân trong t́nh trạng không thể gây thêm tội lỗi trong đời họ nữa. Trên hai ư ngĩa này th́ việc làm của nhân viên an ninh được xem là công đức. Tuy nhiên chúng ta mong mỏi họ vẫn có ḷng thương yêu tội nhân mặc dù bất đắc dĩ phải đối xử cứng rắn.

Hỏi: Việc xịt thuốc rầy để bảo vệ cây trồng là tội hay phước?

Đáp: Ngày nay chúng ta phát minh ra quá nhiều loại thuốc độc để diệt trừ sâu rầy với quan niệm bảo vệ cây trồng bảo đảm nguồn thực phẩm cho xă hội. Thuốc giết những sâu bọ có hại và cũng giết luôn cả những sâu bọ có lợi. Những ốc, trùng, cá, vi sinh vật trong môi trường đất và nước đó đều bị tiêu diệt. Những vi khuẩn cho đất cũng bị tổn hại. Thuốc c̣n đọng lại trong cây (như Furadan) sẽ cung cấp độc tố cho cơ thể con người. Đó là lư do tại sao ngày nay nhiều bệnh lạ xuất hiện hơn ngày xưa.
Chúng ta không vững niềm tin với luật Nhân Quả Nghiệp báo, không tin rằng do phước lực của ḿnh mà mùa màng đi đến thạnh mậu hay thất thu. Trái lại chúng ta đă tạo thêm ác nghiệp trong việc xịt thuốc giết côn trùng. Nếu có thu được nông phẩm th́ nông phẩm đó là một loại thuốc độc tai hại lâu dài cho cơ thể. Chúng ta hăy gan dạ làm phước như giữ giới, bố thí,... và sẽ thấy được hiệu quả của phước lực mạnh gấp bội lần thuốc giết côn trùng.
Hỏi: Tại sao có những ḍng tộc nối truyền nhiều đời và luôn luôn đạt được sung túc, nguyên nhân đó là ǵ?
Đáp: Bởi hai nguyên nhân. Một, vị tổ tiên ban đầu là người có phước lớn. Hai, ḍng tộc này có một truyền thống Đạo Đức để dạy bảo cho con cháu.
Ḍng tộc nhiều đời phú quư thịnh đạt có nghĩa là những vị tổ tiên ban đầu luôn luôn được nhắc nhở tưởng niệm, cúng thờ chu đáo. Để được quả báo này, những vị đó phải là người có phước lớn. Những triều đại vua chúa là một bằng chứng cụ thể. Có những triều đại nối tiếp mấy trăm năm và vị vua khai sáng ban đầu được kính thờ như thần thánh.
Hơn nữa nếu ḍng tộc này có một nền Đạo Đức tốt đẹp để dạy bảo cho con cháu th́ sự thịnh đạt của họ không thể định được giới hạn cuối cùng. Thế nên từ nay mỗi gia đ́nh đều phải lập cho ḿnh một truyền thống Đạo Đức nhất là đánh thức sự hiểu biết về đường đi của Nghiệp báo cho mọi người. Trong những buổi họp mặt gia đ́nh, bậc cha mẹ hăy đặt những câu hỏi về Nghiệp báo để cho các con cháu tự suy gẫm trả lời, hoặc kể những mẫu chuyện liên quan đến Nhân Quả và bảo mọi người rút ra một nhận xét. Những buổi sinh hoạt Đạo Đức như vậy dần dần tạo cho con cháu một lương tâm sáng tỏ. Chúng sẽ tự biết tránh ác làm lành và ḍng họ sẽ trở nên phú quư thịnh đạt.

Hỏi: Tại sao có những người vừa gặp nhau đă đem ḷng quư mến hoặc ác cảm?

Đáp: Khi luận về đường đi phức tạp của Nhân Quả Nghiệp báo, chúng ta không thể bỏ qua sự liên quan – DUYÊN – của các chúng sinh từ quá khứ với nhau. Không phải ngẫu nhiên khi gặp nhau, hai người đă có thiện cảm từ buổi đầu, cũng không phải ngẫu nhiên khi gặp nhau, vài kẻ đă sinh ác cảm từ sơ ngộ. Sự đối đăi ân oán với nhau từ quá khứ sẽ biến thành thái độ trong hiện tại.
Nếu đời này gặp lại, một kẻ trở nên kính phục, thương mến, vâng lời, hầu hạ cho người khác, phải biết do nợ nần ân nghĩa quá khứ thúc đẩy chi phối. Sự thọ ân khiến một người trở thành kẻ thuộc hạ, và sự ban ân khiến một người trở thành thủ lĩnh. Trong gia đ́nh, người làm anh làm chị là người ban ân và người làm em làm út là người thọ ân. Dù một đảng cướp th́ tên đại ca vẫn là kẻ đă ban ân và lâu la là kẻ đă thọ ân. Người được làm lănh tụ quốc gia cũng chỉ v́ đă ban phát ân nghĩa cho quá nhiều người trong quá khứ. Sự ban ân luôn luôn đưa một người đến địa vị quan trọng. Biết được nguyên lư này, chúng ta sẽ dè dặt khi thọ ân người khác. Nếu ân nhân là người chân chính quảng đại, chúng ta có thể thọ chút ân cũng không đến nỗi nguy hiểm v́ trở thành người dưới tay của một chính nhân quân tử cũng tốt thôi. Nếu thọ ân của người ác, sau này chúng ta phải chịu họ sai sử tạo nhiều ác nghiệp rồi theo họ vào đọa xứ. Đối với kẻ xấu, Bồ tát thường rộng răi ban ân để tạo thành thiện duyên về sau có thể nhiếp hóa họ, khác với chúng ta thường ruồng rẫy kẻ xấu. Tuy nhiên việc giáo hóa kẻ ác tâm không đơn giản một chiều v́ phải vừa cứng rắn vừa mềm dẻo.
Luyến ái là một duyên mạnh mẽ dễ được lập đi lập lại nhiều lần. Đă từng thương yêu nhau trong quá khứ, đời này gặp lại, t́nh yêu dễ phát sinh. Các văn sĩ đă thi vị hóa sự kiện này và gọi là tiếng sét ái t́nh. Vừa gặp nhau lần đầu trái tim hai bên đă nghe bồi hồi xao xuyến như đă từng thương yêu nhau từ lâu lắm. Tuy nhiên một đời người thường hay trải qua nhiều mối yêu đương chỉ v́ trong nhiều kiếp luân hồi họ đă gặp gỡ rất nhiều người yêu, nhiều tơ duyên vợ chồng khác nhau. Những người đă từng làm vua quan trong xă hội phong kiến với lê thê tỳ thiếp, các dời về sau họ phải nhận lấy cung mạng đào hoa lăng nhăng t́nh ái. Tuy nhiên, nếu buông thả phóng túng họ sẽ đọa vào ác đạo.
Dĩ nhiên sự tương duyên Nghiệp báo không có tính cách cố định như khái niệm số mệnh. Nó có thể được chuyển đổi bởi ư chí của con người. Ví dụ khi gặp lại người nghịch duyên, nghĩa là sẽ đi tới chỗ ác cảm ganh ghét, nhưng nếu chúng ta khéo léo nhẫn nhục, rộng răi bố thí ban ân, dùng lời ái ngữ dịu dàng, th́ nghịch duyên ngày xưa sẽ chuyển thành thiện duyên ngày mai. Ví dụ một người phát tâm tu giải thoát, bất chợt gặp lại người vợ trong tiền kiếp. Điều chắc chắn là người này sẽ nghe ḷng bận tâm, ưu tư, xao xuyến. Nếu buông thả theo t́nh cảm, họ sẽ lui lại sự ràng buộc trong luyến ái. Nếu họ phát tâm mạnh mẽ, dùng ư chí sắt đá gan dạ vượt qua th́ duyên xưa cũng được hóa giải.
Nếu cố gắng, chúng ta đều có thể chuyển đổi tương duyên ngày xưa đi theo một chiều hướng khác.

Hỏi: V́ sao một người có tâm hồn ít bị xao động hoặc nhiều xao động?

Đáp: Nếu họ hay làm bận tâm người khác v́ sự hiện diện của họ, họ sẽ cảm quả báo tâm hồn thường xuyên xao động khó yên.Việc làm người bận tâm được hiểu như nói năng ồn náo giữa chốn đông người; hoặc gieo t́nh cảm nơi người nào khiến họ thương nhớ khôn nguôi; hoặc nói nặng lời khiến người đau khổ nhục nhă; hoặc dùng văn thơ nhạc kịch kích động t́nh cảm hận thù nơi mọi người; hoặc kêu gọi đấu tranh chém giết lẫn nhau; hoặc tuyên giảng tà kiến phi chân lư; hoặc làm mai mối hợp tác cưới gả; hoặc tổ chức chọi gà; đấu vơ đài... Làm bận tâm người th́ tâm ta không thể nào an ổn được.
Muốn tránh quả báo bất an nơi tâm, chúng ta nên dè dặt đừng làm loạn tâm người dù với bất cứ cách nào. Chỉ nên sống đời thầm lặng ít nói bớt duyên. Nếu phải tŕnh bày với mọi người, chỉ nên đem luật Nhân Quả và Thiền Định để khuyến hóa họ tu tập. Làm sao cho sự hiện diện của chúng ta khiến mọi người cảm nghe an ổn thanh lương thoải mái và phát khởi tinh tấn tu hành.

Hỏi: Do đâu một người tu thiền không bị ch́m trong định không ngơ?
Đáp: Phật bảo người đă từng khởi quán Từ tâm trùm phủ chúng sinh sẽ không bị ch́m trong định không ngơ (Nikaya). Hơn nữa, phương pháp dụng công nào cũng cần phải có sự tỉnh giác – BIẾT– rơ ràng.

Hỏi: Những đức hạnh ảnh hưởng tới việc tu tập Thiền Định ra sao?

Đáp: Phật bảo:
“Khi ta thấy một người c̣n một phần Hắc pháp, ta biết kẻ ấy trong đời này chưa thể được Niết Bàn viên măn. Khi ta thấy một người đă hết Hắc pháp, ta biết kẻ ấy ngay đời hiện tại được viên măn Niết Bàn.”
Hắc pháp mà Phật nói lên ở đây nghĩa là những thói hư tật xấu như tham lam, sân hận, đố kỵ, cố chấp, hơn thua, khoe khoang, tự cao, nhu nhược, ích kỷ, hẹp ḥi,... Nếu những Hắc pháp này c̣n tồn tại, người này chưa thể chứng Niết Bàn viên măn trong hiện đời. Thế nên người muốn tiến tu giải thoát phải tư duy rất kỹ về đức hạnh, phải kiểm soát loại trừ những tánh xấu c̣n tiềm ẩn trong người. Không cần phải đợi đối duyên tiếp cảnh để những phiền năo đó trổi dậy, mà b́nh thường chúng ta phải tư duy về sự loại trừ tham lam, đố kỵ, dựng lập tâm quảng đại, tùy hỷ từ trước. Khi đức hạnh thuần thục th́ công phu Thiền Định bớt bị chướng ngại, có thể tiến rất xa.

Hỏi: Có một số nơi nói rằng Bồ tát cách ấm – vào thai– bị vô minh một thời gian, đúng chăng?

Đáp: Nếu đúng là Bồ tát đă viên măn đạo quả Alahán th́ suốt từ lúc đoạn tận vô minh đến lúc thành Phật quả, trong khoảng đó không một sát na gián đoạn chánh niệm, đù đang lúc vào thai hay xuất thai, hiện thuận hạnh hay nghịch hạnh, ở thân người hay thân thú. Vị này là những bậc thần đồng phi thường, chưa học đă biết hết mọi chuyện trừ phi các Ngài dấu diếm.
Trường hợp Tài Ṭng đạo giả là một điển h́nh. Tổ Đạo Tín muốn truyền Y bát cho Tài Ṭng đạo giả v́ thấy ông đă viên măn Niết Bàn, nhưng ngại ông quá già sẽ không giáo hóa được lâu, nên khuyên ông đổi thân trở lại, Tổ sẽ chờ. Ông đến bờ sông gặp cô gái giặt quần áo, hỏi:
– Tôi muốn nghỉ nhờ nhà cô một đêm được chăng?
– Dạ, con không tự quyết định được, sư hăy đến hỏi cha mẹ con.
– Nhưng riêng cô th́ cô đồng ư không?
– Dạ, phần con th́ được.
Đạo giả liền đi đến gốc cây ngồi kiết già bỏ thân, gá vào thai cô gái.
Cô gái lấy làm lạ v́ nào giờ không gần gũi ai, tại sao có mang! Cha mẹ cô giận lắm đuổi cô ra khỏi nhà. Cô phải sống vất vưởng xin ăn để chờ ngày sinh nở. Đến khi sinh Ngài, cô cho là quái dị nên thả xuống sông. Sáng hôm sau thấy đứa bé ngồi kiết già nổi trên mặt nước, vẻ mặt điềm nhiên b́nh thường, cô bèn đem về nuôi. Khi Ngài được bảy tuổi th́ Tổ Đạo Tín t́m đến. Tổ hỏi:
– Ngươi tánh ǵ?
(Nhữ hà tánh? Có hai chữ tánh đồng âm. Một chữ tánh là họ, một chữ tánh là tâm tánh. Ở đây Tổ dùng thuật chơi chữ để nghiệm đứa bé.)
Đứa bé đáp:
– Tánh th́ có mà không phải tánh thường!(Tánh tắc hữu nhi phi thường tánh)
– Là tánh ǵ? (Vi hà tánh?)
– Là Phật tánh. (Vi Phật tánh)
– Ngươi không tánh à? (Nhữ vô tánh đa?)
– V́ tánh ấy là không (Dĩ kỳ tánh thị vô cố)
Tổ Đạo Tín nh́n những thị tùng bảo:
– Đứa bé này không phải hạng tầm thường, sau này sẽ làm Phật pháp hưng thịnh.
Đứa bé đó trở thành đệ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Tổ Hoằng Nhẫn đúng nghĩa là Bồ tát tái lai không bị cách ấm vô minh.
C̣n những đạo quả thấp hơn từ Anahàm trở xuống, khi vào thai liền bị mờ mịt vô minh. Nhưng vị này ở thân sau rất là thông minh trí tuệ, có trực giác nhạy bén, sức sáng tạo dồi dào và kiến giải linh lợi.

Hỏi: Trong một gia đ́nh, tại sao có những đức con dễ dạy, hiếu hạnh, làm đẹp ḷng cha mẹ, nhưng lại cũng có những người con khó dạy, ngỗ nghịch, làm buồn ḷng cha mẹ?

Đáp: Cũng do nhiều nguyên nhân. Nếu những đời trước cha mẹ thường dạy con cái Đạo Đức th́ đời này trở lại gặp nhau, cha mẹ được hưởng quả báo vui sướng đẹp ḷng khi có những người con ngoan ngoăn. Nếu đời trước cha mẹ không biết dạy con Đạo Đức, lại hay xúi giục, đồng ư cho con cái gây gỗ phá phách người khác, th́ đời này trở lại gặp nhau, cha mẹ sẽ bị quả báo đau khổ buồn ḷng v́ những đứa con ngỗ nghịch.
Cũng có khi bậc cha mẹ đó thuở trước là những người con bất hiếu ngỗ nghịch, đối xử tê bạc với cha mẹ ḿnh, sau này chính ḿnh phải gặp những đứa con tệ bạc trở lại.
Hoặc bậc cha đó đời trước quỵt nợ của ai một số tiền lớn. Sau này chủ nợ trở lại làm con để nhận sự chăm sóc đền bù. Mặc dù làm con nhưng niềm hận thù chưa nguôi nên đứa con này thường hay nói nặng lời và hất hủi cha mẹ nó.
Muốn hóa giải nỗi khổ tâm này, bậc cha mẹ phải ấn tống truyền bá những kinh sách về Nhân Quả Nghiệp báo để tích lũy cho ḿnh một nguồn phước lớn. Từ nguồn phước lớn này họ mới đủ sức cảm hóa những người con ngỗ nghịch kia hồi tâm thuận thảo. Họ phải tŕ giới, phải thương người, bố thí rộng răi để làm gương cho con cái, phải nhẫn nhục để trả nghiệp với nó và khi nào thuận tiện, uy đức ḿnh đă đủ sẽ khuyên bảo chuyển hóa nó dần dần .
Những bậc cha mẹ kém Đạo Đức nói năng thô lỗ, làm nhiều việc ác th́ không thể có những người con hiếu hạnh được. Con cái sẽ khinh bỉ bậc cha mẹ thiếu nhân cách. Bậc cha mẹ phải hoàn chỉnh nhân cách Đạo Đức của ḿnh trước đă rồi mọi chuyện tốt đẹp sẽ dần dần xuất hiện sau.

Hỏi: Người được danh tiếng vang lừng là do nhân ǵ?

Đáp: Hoặc họ là những người đă từng rộng răi bố thí, Đạo Đức thánh thiện, Từ tâm vô biên. Hoặc họ đă từng biết tùy hỷ khen ngợi những bậc đáng ca ngợi, biết tôn trọng tài năng và đạo quả của những người khác. họ sẽ được danh tiếng vang lừng.
Những văn nghệ sĩ nổi danh được nhiều người ái mộ cũng v́ đă từng dùng tài nghệ ca ngợi những bậc Thánh đáng kính và biết sống đời rộng răi.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 47 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 6:05am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Hỏi: Có những người phát tâm tu hành tŕ giới, tọa thiền, bố thí liền gặp hoàn cảnh khó khăn khốn đốn. C̣n những kẻ làm ác, giết hại súc sinh, lừa lọc lại sống nhỡn nhơ thoải mái. v́ sao như vậy?

Đáp: Người này tích chứa ác nghiệp nặng nề đáng lẽ sẽ phải đền trả ở ba ác đạo. Nhưng nhờ phát tâm hành thiện nên ác nghiệp vơi bớt, chỉ dồn trả trong hiện đời nơi thân người mà thôi.
Người làm ác một cách thuần thục th́ sinh thú kế đó là địa ngục. V́ thế bao nhiêu phước quá khứ sẽ hiện ra để họ hưởng cho hết.
Chính v́ chỗ lắt léo này mà người phàm phu không đánh giá được hiệu quả của Nghiệp báo rồi cho rằng không có Nhân Quả.

Hỏi: V́ sao một người đi đến tự sát?

Đáp: Họ đă từng bức ngặt oan ức ai quá đáng. Phương tiện họ dùng để tự sát cũng là phương tiện họ đă dùng để sát sinh.

Hỏi: Một số người tu theo Mật tông chuyên tŕ chú và đạt được sự linh ứng như trừ tà, chữa bệnh, cầu nguyện được như ư, có thần thông biết điều này điều nọ. Nhân Quả dự phần chỗ nào?

Đáp: Đó là do phước quá khứ cộng với năng lực của Hành ấm tạo thành (xin xem Năm Ấm Là Ǵ, Chơn Quang)

Hỏi: Thiên Chúa giáo và Hồi giáo quan niệm sự vui khổ của con người là do Thượng đế thưởng phạt. Việc này trái với luật Nhân Quả Nghiệp báo chăng?

Đáp: Thượng đế không thưởng cho người ác cũng như không phạt cho người thiện. Như vậy sự thưởng phạt của Thượng đế chính là cụ thể hóa luật Nhân Quả. Nói luật Nhân Quả trừu tượng th́ người ta không thể hiểu nổi nên các tiên tri đưa ra một Thượng đế có toàn quyền sinh hóa và thưởng phạt để răn dạy tín đồ.
Hơn nữa, chính con người phải làm thiện th́ mới được Thượng đế thưởng, cũng như có tạo ác th́ mới bị Thượng đế phạt. Như vậy trách nhiệm ban đầu đă đặt nơi con người chứ đâu phải đặt nơi Thượng đế. Họ có quyền đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, nhưng phải đặt trách nhiệm nơi chính họ. Chính hành vi thiện ác của họ đă gợi nên sự thưởng phạt của Thiên Chúa. Nhiều tín đồ không rơ điều này, cứ giam ḿnh cầu xin măi mà không biết rằng họ cần phải”mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. (lời của thánh FranVoise d’Assie)
Đầu sách chúng tôi có trích một đoạn Phúc âm dẫn lời Chúa Jésus:
“Thiên Chúa chính là tinh thần, là sự thật” (Jean)
Nếu Thiên Chúa chính là tinh thần, là sự thật th́ sự thưởng phạt của Chúa cũng chính là sự thưởng phạt của tinh thần (Thể tánh) và của sự thật (luật Nhân Quả khách quan). Chính Chúa Jésus cũng nói:
“Người chen lên đứng trước sẽ phải lùi lại phía sau và người nhường nhịn đứng sau sẽ được đưa lên đứng trước.”
“Hăy tha thứ người để được tha thứ trở lại”
“Đừng phê phán ai để không bị phê phán”
Khi một người đàn bà bị bệnh hoại huyết đă mười năm chen đến chạm vào tà áo Chúa th́ lập tức bệnh chấm dứt. Chúa bảo:
“Hỡi con gái ta, đức tin của con đă chữa lành cho con.”
Chúa Jésus đă dùng phép lạ chữa bệnh cho rất nhiều người, những người kính tin Chúa. Công đức kính tin Chúa đă xứng đáng để được Chúa san sẻ phước lực của Chúa cho họ. Người phàm phu không có thần lực th́ không thể san sẻ phước cho ai, bậc Thánh có thể làm việc này với những chúng sinh có chút duyên nào đó với các Ngài.
Chúng ta có thể nói rằng sự thưởng phạt của Thiên Chúa cũng chỉ là công cụ của luật Nhân Quả, hay ngược lại, luật Nhân Quả chính là công cụ thực hiện sự thưởng phạt của Thiên Chúa. Mỗi người sẽ chọn lấy một kết luận thích hợp.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
tamthuyen
Học Viên Lớp Dịch Lư
Học Viên Lớp Dịch Lư


Đă tham gia: 01 June 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 880
Msg 48 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 7:25am | Đă lưu IP Trích dẫn tamthuyen

Mấy bài này hay quá.

__________________
tt
Quay trở về đầu Xem tamthuyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tamthuyen
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 49 of 49: Đă gửi: 28 June 2005 lúc 11:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

KẾT LUẬN


Khi mà khoa học đă vươn lên đến đỉnh cao tột độ như hiện nay th́ nhân loại bắt đầu hoảng sợ. Hành tinh ḍn bở của con người bỗng trở nên mong manh dễ vở v́ mấy trái bom hạt nhân đang nằm sẵn trên dàn chờ một kẻ bấm nút. Một số nước Âu Mỹ cho phép mua bán súng đạn tự do và mạng sống con người trở nên hồi hộp âu lo. Phim ảnh khiêu dâm, bạo lực lan tràn trong mọi ngơ ngách của cuộc sống và tâm hồn con người đă trở nên băng hoại.
Những người có lương tâm đang khắc khoải suy tư về nền Đạo Đức của thế giới, muốn t́m một giá trị Đạo Đức chân chính và vững chắc để chuyển hóa tâm hồn con người khỏi những khát vọng điên cuồng hiện nay. Những giá trị Đạo Đức dựa vào thần quyền đă sụp đổ v́ sự công phá tàn bạo của khoa học. Những giá trị Đạo Đức dựa vào sự phê phán của dư luận cũng èo uột v́ sự dấu diếm tinh vi của tội phạm. Cần phải có một nền Đạo Đức dựa vào chính con người, bởi con người và không nô lệ nơi một ai khác. Phải kêu gọi lương tâm của con người thức dậy sau thời gian dài yên ngủ để tự nó phán xét lấy mọi hành vi thiện ác của nó. Chỉ khi nào lương tâm con người lên tiếng nói và bước lên ngự trị trên đỉnh cao của tâm hồn th́ con người sẽ trở nên thánh thiện, thế giới sẽ t́m thấy ḥa b́nh và cuộc đời sẽ tràn đầy hạnh phúc.
Lương tâm đó chính là trí tuệ hiểu biết đường đi của Nhân Quả Nghiệp báo.
Thật vậy, không một nền Đạo Đức nào gần gũi với con người hơn là sự hiểu biết Nhân Quả. Con người không phải sợ hăi một thần linh nào khác, không phải dấu diếm mọi dư luận nào khác, mà chỉ tự biết rơ thiện ác nơi ḿnh để bỏ ác làm thiện. Họ chỉ tự phán xét lấy nội tâm của họ và tránh xa những ư nghĩ ích kỷ thấp hèn để trải t́nh thương đến muôn loài yêu mến. Họ không cần phải mơ ước về một thiên đường xa vắng mà chỉ cần sống nơi mảnh đất này với trọn vẹn t́nh người. Cuộc đời đang cần đôi tay, khối óc và trái tim của họ để đóng góp xây dựng. Họ sẽ t́m thấy hạnh phúc và ư nghĩa của cuộc sống ngay nơi cơi trần gian bụi bặm này khi mà họ biết dâng trọn cuộc đời ḿnh để thương yêu và phụng sự. Hạnh phúc sẽ vắng bóng nơi những người có đôi bàn tay nắm lại và chỉ hiện hữu nơi những tâm hồn rực sáng thương yêu.
Luật Nhân Quả đă cho con người quyền làm chủ tối cao nơi cuộc đời họ. Họ sẽ đưa cuộc đời ḿnh đi theo ư muốn khi họ đă có trong tay chiếc ch́a khóa vạn năng của luật Nhân Quả. Nếu có Thượng đế th́ Thượng đế đó chính là họ chứ không phải một ông già râu dài ngự trên ngôi cao của tầng trời xa thẳm. Chính họ sẽ đem đến khổ đau hay hạnh phúc cho họ bởi hành vi thiện ác.
Vinh quang hay tủi nhục, sung túc hay khó khăn, tự do hay ngục tù đều là sản phẩm của họ mà không một thần linh nào làm giúp.
Đă đến lúc chúng ta phải t́m lại quyền làm chủ của ḿnh hơn là nô lệ vào thần linh, thả trôi theo ngẫu nhiên và an phận theo số mệnh. Chúng ta có lương tâm và có quyền làm chủ. Đạo Đức sẽ được dựng lập bởi lương tâm và quyền làm chủ để từ nay chúng ta biết đem cả cuộc sống ḿnh v́ mọi người nơi thế gian thực tại này.
Dĩ nhiên quyền làm chủ đó phải được hiểu theo nghĩa rất rộng răi là làm chủ trong phạm vi thế gian, xuất thế gian hay Bồ tát đạo.

Viết xong tại Chơn Như, 10/10/1988
Chơn Quang

HẾT.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

<< Trước Trang of 3
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.0625 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO