Tác giả |
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 21 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:21am | Đă lưu IP
|
|
|
10 – SỬ DỤNG KHÔNG ĐÚNG
(Trích Kho báu nhà thiền)
Nhân Thiên Bảo Giám chép.
Thiền sư Trí ở núi Vân Cái, Hồ Nam, ban đêm ngồi trong phương trượng, bỗng nghe mùi cháy khét và tiếng gông xiềng, liền thấy một người mang gông có lửa. Lửa c̣n cháy bập bùng không dứt. Cái đuôi gông tựa vào then cửa.
Trí kinh sợ hỏi:
– Ông là ai mà phải khổ sở thế này?
Người mang gông đáp:
– Tôi tên Thủ Ngung, trước kia ngụ ở núi này.V́ không biết nên tôi đem vật đàn việt cúng chúng tăng ra tạo tăng đường mà nay tôi phải chịu cái khổ này.
Trí hỏi:
– Làm thế nào để được khỏi?
Ngung đáp:
– Xin ông v́ tôi thiết trai cúng dường chúng Tăng bằng giá tăng đường th́ chúng tôi có thể khỏi.
Trí đem của cải ḿnh bồi thường đúng như lời Ngung nói. Một đêm Trí nằm mộng thấy Ngung đến nói:
– Nhờ sức của thầy tôi được khỏi khổ địa ngục và sanh vào trời người. Ba đời sau tôi sẽ được làm Tăng!
Ngày nay cái then cửa hăy c̣n vết cháy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 22 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:21am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Câu chuyện này cảnh giác chúng ta về tài vật của Tam Bảo thường trụ. Thủ Ngung, có lẽ làm chức trụ tŕ, tri sự trong tu viện. Không biết trước khi sử dụng sai lầm như câu chuyện, Ngung có sử dụng sai nhiều lần nho nhỏ khác hay không. Và số tiền đủ để xây dựng một tăng đường th́ không phải nhỏ cho nên lầm sai phạm này rất nặng nề khiến Ngung phải đọa địa ngục. Những công đức khác mà Ngung đă làm lợi ích cho chúng Tăng th́ c̣n đó chưa mất.
Trong luật Tứ Phần đă răn nhắc rất kỹ về điều này. Người đàn việt cúng dường theo mục đích nào th́ phải sử dụng đúng mục đích đó. Nếu họ cúng tổng quát cho Tam Bảo th́ người trụ tŕ tùy nghi chia ra xử dụng rộng răi mọi việc. Nếu tăng chúng thiếu thốn th́ thiên về lo cho đời sống của Tăng hơn là tu sửa pḥng xá, kinh sách. Nếu Tăng chúng đầy đủ rồi mà Điện các xiêu lệch th́ thiên về tu sửa cơ sở kiến trúc hơn. Nếu họ cúng để làm tượng Phật th́ khi trụ tŕ đă nhận lời phải thực hiện cho đúng. Không được nhận lời rồi sau lại đem tiền làm việc khác. C̣n như thấy không cần tạo tượng Phật th́ cho họ biết để khỏi làm, hoặc đề nghị họ đổi qua mục đích khác.
Trường hợp khó xử nhất cho quí thầy là có người đem vật thực ngon quư đến cúng dường chúng tăng trong dịp lễ. Đồng thời cũng có nhiều khách đến viếng chùa ở lại độ cơm. Nếu theo sự yêu cầu của thí chủ th́ thức ăn ngon quí của họ chỉ dành cho quí Thầy mà khách cư sĩ chỉ có những phần ăn b́nh thường. Nh́n vào người ta sẽ đánh giá có sự phân biệt giai cấp và... bất lịch sự. Mâm quư Thầy th́ ê hề món ngon vật lạ, c̣n mâm khách th́ lỏng chỏng tương dưa. Ch́u ư thí chủ th́ quư thầy bị phê b́nh, không ch́u ư thí chủ th́ làm sai mục đích của họ. Mong sao các thí chủ cúng dường quư thầy, ư thức điều này. Tuy mang vật thực đến cúng dường chúng Tăng, nhưng hăy hoan hỷ đồng ư chia xẻ với khách thập phương vô t́nh có mặt để cho quư thầy không bị phê b́nh và thêm t́nh thân ái giữa Tăng và tục, V́ đức độ của chúng Tăng mà đàn việt dâng cúng quư kính, nhưng đức độ là cái ǵ nếu không phải là biết nhường nhịn san sẻ? Thế nên quư thầy hưởng trọn vẹn vật thực mà không san sẻ với khách th́ cũng có phần sơ sót. Chúng ta tránh được cái tội làm sai mục đích thí chủ nhưng mắc cái tội để quư thầy bị phê b́nh.
Ở những tự viện làm nông th́ chúng tăng phải vác cuốc lao động. Sử dụng sức lao động của chúng tăng c̣n nguy hiểm hơn sử dụng tài vật Tam bảo. Nếu người tri sự sắp xếp vụng về, để cho chúng Tăng cực nhọc quá đáng mà hoa lợi ít ỏi th́ sẽ bị tổn phước nặng nề. Chúng tăng rất cần sức khỏe để tu và học. Công việc đồng áng chiếm nhiều th́ giờ sẽ đánh mất hiệu quả tu học của chúng tăng. Mệt quá th́ không thể tọa thiền nghiêm chỉnh điều thân, điều tâm chu đáo, và cũng không thể xem kinh dịch sách ǵ được. Làm mất hiệu quả tu học của họ, người dẫn chúng sẽ đọa lạc rất nhiều đời kiếp ở vị lai! Mặc dù họ phải lao động nhưng tri sự phải áp dụng thêm khoa học kỹ thuật hiện đại, phải nghiên cứu kỹ phương pháp để họ tốn rất ít công mà đạt kết quả rất cao. Đừng bày chuyện rườm rà để chúng Tăng phải bận rộn nhiều quá, thà họ bớt ăn bớt mặc mà có th́ giờ tu học vẫn quí hơn. Nên chú ư vấn đề thu vén công việc gọn gàng lại, đơn giản lại để bớt đi sự nhọc nhằn của chúng.
Thủ Ngung nhờ Trí lấy tiền riêng để thiết trai cúng dường chúng Tăng bằng với số tiền đă sử dụng sai nên được thoát khổ địa ngục, sinh về cơi trời cơi người và sẽ trở lại làm Tăng ba đời sau. Như vậy Ngung đă hết tội đối với chúng tăng, được hưởng những công đức đă bồi tạo từ trước, nhưng chỉ nợ riêng với Thiền Sư Trí mà thôi. Điều này dễ giải quyết. Công đức thiết trai cúng dường chúng tăng, nhất là chúng Tăng thanh tịnh tu hành, không phải là điều vô ích.
Ngung dù đang đọa địa ngục mà vẫn được đi đến gặp Thiền Sư Trí. Nếu người hoàn toàn không c̣n phước, sự ràng buộc của địa ngục không để cho họ tự do như vậy. Những công đức đă tạo đă góp phần giải quyết cho một người, không để họ phải chịu khổ hoàn toàn theo ác nghiệp. Chúng ta không biết ḿnh đă tạo ác nghiệp ǵ, chỉ làm sao từng phút giây hiện tại gắng ḅn mót từng chút công đức để làm hành trang cho mai sau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 23 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:22am | Đă lưu IP
|
|
|
11– ĐỦ CÔNG ĐỨC CHỨNG NGỘ
(Trích Trường Bộ kinh 3, 144)
... “Thế Tôn nói với đại đức Ananda đang ngồi một bên:
“Thôi vừa rồi, Ananda, chớ có buồn rầu, chớ có khóc than. Này Ananda, Ta đă tuyên bố trước với người rằng mọi vật ái luyến tốt đẹp đều phải sinh diệt, tử biệt và dị biệt. Này Ananda, làm sao có được sự kiện này.
Có pháp sanh trụ, hữu vi, biến hoại đừng có bi tiêu diệt! Không thể có sự kiện như vậy được này Ananda đă lâu ngày ngươi đối với Như Lai, với thân nghiệp đầy ḷng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng, với khẩu nghiệp đầy ḷng từ ái, lợi ích an lạc, có một không hai, vô lượng. Với ư nghiệp đầy ḷng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng. Này Ananda ngươi là người tác thành công đức. Hăy cố gắng tinh tấn lên, người sẽ chứng bậc vô lậu không bao lâu đâu”...
NHẬN XÉT:
Sau khi được Phật cho biết. Ngài sẽ nhập Niết Bàn, Tôn Giả Ananda đi vào trong Tinh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc than. Đức Phật cho gọi Tôn Giả vào an ủi những lời như trên. Công đức hầu hạ Phật trên ba mươi năm sắp đủ để Tôn giả chứng quả vị Alahán.
Chúng ta được biết sau khi Phật nhập diệt, các vị Alahán tập hội dưới sự chủ tŕ của tôn giả Maha Kassapa tại hang Tất Bát La. Tôn giả Maha Kassapa không đồng ư cho tôn giả Ananda đứng ra trùng tuyên lại lời Phật dạy chỉ v́ tôn giả chưa chứng Alahán. Tôn giả ra đi, tinh tấn tọa thiền và kinh hành suốt đêm ấy. Đến lúc toan ngă người nằm nghỉ th́ tôn giả hốt nhiên đốn chứng Alahán! Tôn giả dùng thần thông đi xuyên qua cửa hang đă bị đóng kín, đường bệ đến trước chư vị Alahán để trùng tuyên kinh điển trước sự tán thán của mọi người!
Tại sao tôn giả phải đi qua sự tác thành công đức hầu Phật hơn ba mươi năm rồi mới có thể chứng ngộ trong khi các Tỳ Kheo khác chỉ tự lo tu tập lấy phần ḿnh cũng đủ chứng ngộ rất sớm từ bao giờ?
Nhân duyên nhiều đời của vị Alahán không dễ dàng đánh giá một chiều. Ở đây chúng ta chỉ xét đơn thuần trong hiện đời để nh́n thấy một số tính chất chung chung như sau. Các vị Tỳ Kheo kia chuyên nhất Thiền Định tu tập nên sớm thành tựu quả vị giải thoát. Tôn giả Ananda phải lo hầu Phật và học hỏi (đa văn) nên công phu của tự thân không thể chuyên chú được. Công đức hầu Phật quá lớn lao khiến cho Tôn giả chỉ cần tinh tấn một đêm liền chứng ngộ. Sau khi chứng ngộ rồi, sự nghiệp hoằng dương chánh pháp của Tôn giả là độc nhất vô nhị trong lịch sử Phật giáo. Người đa văn thường chậm chứng ngộ, nhưng một khi người này chứng ngộ rồi th́ việc giáo hóa rất rộng răi.
Đức Phật khen ngợi Tôn Giả đă chu đáo, ân cần trong việc hầu hạ Ngài với trọn ḷng ưu ái, quí kính. Sự ưu ái đó tràn đầy trong hành vi lời nói và ư nghĩ. Dường như không một ai đă cúng dường Đức Phật nhiều hơn Tôn giả Ananda với ba mươi năm gần gũi hầu hạ như thế. Công đức mà Tôn giả tác thành không c̣n ai có thể làm theo được nữa. Theo tương truyền của Thiền tông Trung Hoa th́ Tôn giả là vị tổ thứ nh́ được truyền thừa y và bát của Đức Phật sau tổ Ca Diếp. Ngay cả khi Đức Phật c̣n tại thế, khi chưa chứng ngộ, Tôn giả đă được mọi người quư mến. Tôn giả đă từng thuyết pháp khiến cho các Tỳ Kheo khác được chứng quả vị Alahán, đă mở đầu cho người nữ được xuất gia, đă khéo thưa hỏi để Phật nói lên những bài pháp giá trị muôn đời. Không có sự hiện diện của Tôn giả, chúng ta không tưởng tượng được bộ mặt của Phật giáo ngày nay ra sao! Công đức của Tôn giả Ananda thật ra chẳng phải chỉ đủ để chứng ngộ mà c̣n đủ để tác thành nhiều điều khác nữa!
Tôn giả vừa hầu Phật, vừa làm lợi ích chúng sinh, vừa nghe nhiều học rộng. Những cái tích lũy đó đă đưa đến đỉnh cao chứng ngộ khi cơ duyên đầy đủ. Khi một người muốn tu tập để được giải thoát giác ngộ. Nếu họ không đủ những công đức cần thiết, họ sẽ gặp nhiều trắc trở nơi nội tâm và ngoại cảnh. Có một giai đoạn công quả tác thành công đức, sự tu tập sẽ dễ dàng hơn về sau. Công quả ấy là sự hầu hạ những bậc trưởng thượng, quên ḿnh phụng sự cho đại chúng, ủng hộ những Phật sự của vị khác, nghiên cứu học hỏi kinh luận. Văn hào Léon Tolstoi dường như thấy được điều này khi ông dựng một kiệt tác truyện ngắn “Cha Sergei”. Qua nhiều trạng huống éo le ngang trái, chàng sĩ quan đội cận vệ Vua Nicholas I tên Kasatsky bỏ vào ḍng tu. Chàng tu một cách nghiêm cẩn và siêng năng. Rồi một sự bất măn đối với h́nh thức bên ngoài của nhà thờ, chàng, Cha Sergei bây giờ, xin phép đến Tambov ẩn tu trong thất nhỏ ngót mười lăm năm trời. Cha dành trọn th́ giờ vào công việc cầu nguyện với chúa. Cha đă vượt khỏi sự cám dỗ của một người thiếu phụ và chứng tỏ sự cương quyết của ḿnh bằng cách chặt đứt một ngón tay ngay lúc ấy. Người thiếu phụ hối hận và trở thành một nữ tu sau đó, Cha trở nên nổi danh hơn nữa với những phép lạ chữa bệnh xuất hiện bất ngờ. Mọi người ồ ạt t́m tới chiêm ngưỡng Cha và gọi Cha là vị Thánh. Nhưng ngay lúc vinh quang tột đỉnh đó th́ Cha phạm tội với một cô bé vừa lớn. Cha trốn đi định tự tử và mất hết niềm tin đối với Chúa, v́ Chúa đă không bảo vệ Cha khỏi cám dỗ của trần gian. Trong một giấc mơ bên bờ sông, Thiên thần hiện ra bảo cha hăy đến học hỏi với Pasenkka, một người em gái họ. Người em gái bây giờ đă trở thành một bà ngoại nghèo khổ của mấy đứa cháu nhỏ. Đứa con rể bệnh hoạn, đứa con gái yếu ớt bà phải đi dạy nhạc kiếm từng đồng về nuôi cả nhà. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng bà vẫn luôn luôn vui vẻ chu toàn bổn phận với con cháu, luôn san sẻ với những người cần đến sự giúp đỡ của bà. Và dường như quên bẵng Chúa với giáo đường.
Cuối cùng cha Sergei đă hiểu. Ông khổ tu bao nhiêu năm hướng về Chúa v́ những mục đích của chính ḿnh, trong khi Pasenka quên ḿnh để sống v́ mọi người mặc dù không để ư ǵ tới Chúa. Từ đó ông đi lang thang khắp nơi thản nhiên trước sự đánh giá của kẻ khác và dành trọn khả năng phụng sự cho mọi người.
“...Dần dần Chúa hiện hữu trong ông”
Công đức vị tha chân thật đă khiến một người t́m thấy chân lư. Khi nào cần phải gây tạo công đức, chúng ta hăy làm hết sức ḿnh. Rồi đến khi nào cần phải tu tập, hăy tu tập quyết liệt. Nhưng sự tu hành phải luôn luôn có mặt trong bất cứ phút giây nào của cuộc sống dù đó là giai đoạn đầu cần phải gây tạo công đức.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 24 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:22am | Đă lưu IP
|
|
|
12 – BẢY NĂM TRONG BỤNG MẸ
(Trích Bổn Sanh 1, tr 319)
Công chúa Suppavàsà, con gái Vua Koliya, một nữ cư sĩ, đă mang thai bảy năm, đau đẻ đến bảy ngày. Trong thời gian ấy nàng chịu đựng với tâm niệm hướng về Phật, Pháp, Tăng. Nàng gọi chồng đến nhờ ông yết kiến Đức Phật để đảnh lễ và tŕnh bày t́nh trạng của nàng. Nghe như vậy Đức Phật chú nguyện cho Suppavàsà. Ngay lúc ấy Suppavàsà liền sinh được một đứa con trai khỏe mạnh đặt tên là Śvali. Người chồng trở về thấy như vậy hết sức khâm phục đại thần lực của Đức Như Lai. Sau đó Suppavàsà tổ chức cúng dường Đức Phật và chúng Tăng liên tục trong bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, Suppavàsà mặc áo đẹp cho đứa con, đưa nó đến đảnh lễ bậc đạo sư và chúng Tỳ Kheo Tăng. Tuần tự thứ lớp, đứa con được đưa đến trưởng lăo Sariputta. Trưởng Lăo thân mật đón tiếp đứa trẻ và hỏi:
– Này Sivali, mọi việc đều tốt đẹp với con chăng?
Đứa trẻ thưa:
– Thưa Tôn giả, làm sao con có thể an lạc được, trong bảy năm con đă sống trong b́nh máu!
Suppavasa nghe vậy hết sức hoan hỷ nói rằng:
– Con tôi, mới có bảy ngày, đă thảo luận với bậc Tướng Quân Chánh Pháp về vấn đề giác ngộ...
Thiếu niên Sivali, vào năm thứ bảy hiến tâm ḿnh cho đạo, xuất gia, khi tuổi được đầy đủ, thọ đại giới, làm các công đức, đạt được lợi đắc cao nhất trên quả đất tức là quả Alahán, và khiến quả đất vang lên tiếng động. Khi được các Tỳ Kheo hỏi về nhân duyên của Sivali, Đức Thế Tôn kể lại câu chuyện quá khứ.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatla trị v́ tại Ba La Nại, Bồ tát đầu thai trong bụng bà Hoàng Hậu của vua, đến tuổi trưởng thành, học tất cả học nghệ, sau khi phụ vương mất, trị v́ vương quốc đúng pháp. Lúc bấy giờ, vua Kosala đi đến với một sức mạnh lớn, chiếm lấy Ba La Nại, giết vua Ba La Nại, lấy Hoàng Hậu của vua làm Hoàng Hậu của ḿnh. Hoàng tử con vua ba La Nại, khi cha bị chết, chạy trốn ngang qua các ống cống, tập hợp lực lượng, đi đến Ba La Nại, cắm trại không xa, gửi tin nói:
“Hăy trao thành hay đánh?”
Vua gởi tin trả lời sẵn sàng đánh. Mẹ Hoàng tử nghe việc như vậy, nhắn tin cho con:
“Chớ có đánh. Hăy cắt đứt giao thông từ mọi phía, bao vây thành Ba La Nại, chờ cho khi nào củi, nước,gạo khánh kiệt mọi người mệt mỏi, không cần đánh sẽ lấy được thành!”
Hoàng tử nghe lời khuyên của bà mẹ, trong bảy ngày cắt đứt giao thông, vây chặt thành phố. Dân thành phố không nhận được tiếp viện đến bảy ngày. Ngày thứ bảy họ lấy đầu vua đem nộp cho Hoàng tử. Hoàng tử đi vào thành lấy lại Vương Quốc, cuối cùng đi theo nghiệp của ḿnh.
Hoàng tử v́ cắt đứt đường giao thông, vây hăm thành bảy ngày. Do kết quả hành động ấy. Phải sống bảy năm trong b́nh máu, bảy ngày chịu cơn đau đẻ. Nhưng v́ rằng Hoàng Tử cúi đầu đảnh lễ chân Đức Phật Padumuttara cầu nguyện với bố thí lớn v́ hướng về quả vị tối thượng. Lại nữa, trong thời Đức Phật Vipassi (Tỳ Bà Thi) Hoàng Tử với thị dân bố thí đường, sữa, kem.v.v... trị giá ngàn đồng vàng, cũng nói lên lời cầu nguyện như vậy. Do vậy, với uy lực của ḿnh, Hoàng tử chứng được quả tối thượng! V́ rằng Suppavasa gửi tin bảo người con vây và chiếm thành, do vậy, nàng phải mang thai bảy năm và chịu cơn đau đẻ bảy ngày.
Bậc đạo sư, sau khi kể lại pháp thoại này, nhận diện bổn sanh như sau:
“Lúc bấy giờ, Hoàng tử Sivali, người mẹ là Suppavasa, người cha, vua Ba La Nại là ta vậy!”
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 25 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:22am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Một vị ra đời xuất gia, chứng quả, nhưng cũng mang theo Nghiệp báo thế gian từ quá khứ. Tôn giả Sivali do những công đức cúng dường các vị Phật và lời phát nguyện đạt được quả vị tối thượng nên đời này thành tựu kết quả đó. Nhưng Tôn giả cũng phải trả quả báo vây thành bảy ngày bằng nỗi khổ ở trong bụng mẹ bảy năm và chịu cơn đau đẻ bảy ngày. Việc này thuộc về Nghiệp báo thế gian, c̣n quả vị đạt được thuộc về Nghiệp báo xuất thế gian. Nhưng v́ sao Tôn giả phải trải qua một thời gian quá dài, từ thuở Phật Pudumuttara đến Phật Vipassi và đến tận đời Phật Thích Ca mới viên thành kết quả xuất thế gian này?
Thật ra Nhân Quả xuất thế gian tuy có tính cách Nghiệp báo, nhưng phần lớn có tính cách triết lư – hiểu theo nghĩa rộng. Sự tiến đạo của một người tùy thuộc vào công năng tu tập giới định huệ của người đó. Dù người này có phát nguyện đạt quả vị, có cúng dường chư Phật, bố thí chúng sinh, nhưng thiếu công năng tu tập giới định huệ th́ quả vị xuất thế gian vẫn chưa hiện hữu. Phải đợi đến khi người này tinh tấn tu tập giới định huệ th́ những công đức cúng dường trước đó sẽ trổi dậy trợ duyên cho họ được thuận tiện dễ dàng.
Hơn nữa dù họ có bắt đầu tu tập viễn ly theo hạnh xuất thế gian, nhưng những nghiệp thế gian chằng chịt trước đó, những thói quen sống ch́m theo ngũ dục từ lâu vẫn cản trở họ rất nhiều. Nếu người không có ư chí phi thường, nếu họ đă không ngừng tác thành công đức th́ nghiệp thế gian sẽ thắng thế. Qua rất nhiều đời kiếp họ bị thăng trầm măi trong sự tu tập. Khi th́ công hạnh xuất thế gian vượt lên, khi th́ nghiệp thế gian chiếm ưu thế. Sự dằng co dai dẵng giữa hai thế lực làm cho một người từ sơ phát tâm, tiến đến quả vị phải trải qua thời gian rất lâu. Nếu họ dơng mănh phi thường th́ thời gian đó mới có thể rút ngắn hơn được.
Như một người chứng Tu Đà Hoàn, phải trải qua nhiều lần trở lại cơi người mới chứng Alahán. Thời gian này có khi chiếm ngót mười mấy ngh́n năm.
Câu chuyện Bổn Sanh trên cũng cho chúng ta thấy khía cạnh khác. Đôi khi vào những thời điểm không có Phật Pháp, những vị đă có duyên tu hành trong đạo Phật cũng có thể sinh ra đời lăn lộn đấu tranh theo quyền uy danh vọng. Những sự tích về các cuộc đấu tranh đẫm máu của Hán Vương, Lưu Bị, Đường Thái Tông, Minh Thái Tổ, Lê Lợi, Quang Trung... đâu phải không có những vị đă từng kết duyên trong Phật pháp! Nhưng ḍng nghiệp của thế gian vẫn cuốn họ quay cuồng trong binh đao chiến trận không thôi. Nếu chúng ta không phát nguyện mạnh mẽ thoát ra khỏi ḍng nghiệp này th́ ngày đạt đến quả vị tối thượng c̣n xa lắm.
Người mẹ âm mưu với Hoàng Tử trong việc vây hăm thành nên chịu mang nặng bảy năm, đau đẻ bảy ngày. Khi quả báo xảy ra liên hệ đến nhiều người trong đó, chúng ta phải biết rằng họ có hợp tác với nhau trong lúc tạo nghiệp.
Vua Asoka có người bạn thân làm đại thần chỉ v́ thuở quá khứ họ cùng nhau tạo nhiều công đức.
Một chiếc xe lật ngang đường làm nhiều người thiệt hại. Họ có chung tạo nghiệp trong quá khứ xa xưa nào đó rồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 26 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:33am | Đă lưu IP
|
|
|
13 – KHOE KHOANG
(Trích Tọa thiền chỉ quán tr 8)
.....Ngài Trí Khải từ biệt tổ Nam Nhạc cùng với huynh đệ 27 người đến Kim Lăng. Lúc đầu chưa ai biết Ngài nên không có người thỉnh pháp, khi ấy có vị Tăng hiệu Pháp Tế, tự khoe thiền học, gặp Ngài đến, nằm dựa ghế hỏi:
“Có người ở trong định nghe đất núi rúng động, biết có vị Tăng quán lư vô thường, ấy là định ǵ?”
Ngài đáp:
“Là biên định chưa sâu, là tà chứng ám nhập. Nếu chấp, nếu nói, th́ định ấy chắc chắn phải mất”.
Pháp tế nghe nói kinh hăi đứng dậy thưa:
“Tôi thường được cái định này, v́ nói cho người nghe nên đă mất.”
Từ đây, tiếng tăm Ngài đồn khắp. Vua quan cho đến dân dă đều rầm rộ t́m đến cầu pháp quy y...
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 27 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:33am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Ngài Trí Khải là một nhân vật lừng lẫy của Phật giáo Đông phương. Cuộc đời Ngài đầy những huyền thoại huy hoàng và chói ngời ánh sáng chứng ngộ. Vừa nghe Pháp Tế tŕnh bày sở đắc, Ngài liền biết chỗ sâu cạn của vị này và cũng biết luôn cái nguy hiểm của sự khoe khoang đó.
Pháp Tế nói ra cảnh giới đến được này cho người biết nên bị thối thất lập tức. Sự nói ra ấy mang theo hai ư nghĩa:
Một, chấp cảnh giới đó là thật.
Hai, có ư khoe khoang.
Hai ư nghĩa này bẻ găy công đức đă có.
Đôi khi phước quá khứ c̣n nhiều th́ dù người này có khoe khoang vẫn không bị thối thất ngay sau đó. Nhưng khoe thêm vài lần nữa th́ chắc chắn mất liền. Ai có kinh nghiệm tu hành để ư điều này th́ biết rơ. Có người khoe rằng ḿnh ít bịnh, ít năo, vài hôm sau bịnh ập tới. Có người khoe ḿnh giữ giới trong sạch, ít lâu liền bị khuyết trong giới bổn.
Có người khoe ḿnh ngồi thiền không bị hôn trầm, chẳng bao lâu cơn buồn ngủ phá quấy thời tọa thiền của họ.
Có người khoe ḿnh dược giác ngộ thanh tịnh, kể từ đó tâm khởi sinh loạn tưởng phiền muộn đủ thứ.
Có khi khoe ḿnh ngồi thiền được lâu giờ, lần sau khiến có duyên sự nơi thân phải giảm giờ ngồi thiền lại.
Muốn đánh giá một người tu hành c̣n bị trắc trở hay không, ta cứ việc xem người này c̣n có những lời nói khoe khoang hay không. Nếu họ chấm dứt mọi h́nh thức khoe khoang th́ đời tu của họ bắt đầu ổn định. Nếu họ vẫn c̣n chút khoe khoang dù thô hay tế, th́ công phu của họ vẫn c̣n bị tăng giảm bất thường.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 28 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:34am | Đă lưu IP
|
|
|
Những bậc có công phu Thiền Định sâu xa thường rất kín đáo, không bao giờ tiết lộ về ḿnh. Những bậc đạt đạo viên măn như Đức Phật và chư vị Alahán th́ đôi khi có nói lên sở đắc của ḿnh để gây niềm tin cho chúng sinh nổ lực tu tập, nhưng vĩnh viễn không c̣n bị thối thất nữa dù có nói ra. Nhưng sự tŕnh bày sở đắc của họ rất là hiền lành, khiêm hạ, đúng đối tượng và đúng lúc, không phải luôn luôn tiết lộ. Có nghe các Ngài tŕnh bày những mầu nhiệm tu chứng, chúng ta vẫn nhận thấy vẽ điềm đạm, hiền hậu và khiêm cung. Nhưng đời nay ít người đạt đạo viên măn lắm, chúng ta nên cẩn thận.
Gần đây có ngưuời dạy môn đồ rằng hăy tin chính ḿnh là Phật, đừng cầu nguyện bên ngoài nữa. Mới nghe người môn đồ thấy ngờ ngợ khó chấp nhận, ḿnh là Phật đâu sao ḿnh không biết. Lâu ngày nghe ông thấy ám thị măi nên họ bắt đầu chấp nhận “Ḿnh là Phật”. Kể từ khi chấp nhận ḿnh là Phật, họ phát ngôn cao vót tận mây xanh, như:
“Phiền năo vọng tưởng chỉ là cái bóng hư dối, không dính dáng ǵ đến tự tánh.”
“Tự tánh vốn thanh tịnh và đầy đủ diệu dụng, không cần tu chứng thêm chút nào nữa.”
“Mọi hành vi nói năng cử động đều từ tự tánh lưu xuất, nhận được chỗ này th́ Phật đă hiện hữu từ lâu.”
Vân vân và vân vân.
Mặc dù họ nói nghe rất cao nhưng người bên ngoài khách quan t́m thấy họ càng lúc càng mất dần tư cách, ngông nghênh, ngạo mạn, bừa băi và tranh hơn thua trong từng câu nói với mọi người. Thậm chí họ đi dần đến phá hoại giới bổn nữa. Họ cho rằng giới là để dạy những kẻ tiểu căn tiểu trí, c̣n người đốn ngộ tối thượng thừa th́ không cần giữ giới, v́ dù có hành các dục lạc vẫn không mất ông chủ. Người có duyên lành chánh kiến th́ tránh xa họ. Người có chủng tử tà kiến th́ đi theo họ để rơi vào hố sâu tội lỗi.
Tại sao lại có hiện tượng lạ như vậy? Nếu chỗ hiều biết của họ là đúng th́ cớ sao họ mất dần đức hạnh như thế? C̣n nếu kiến giải của họ là sai th́ sai ở chỗ nào?
Cái sai thứ nhất của họ là có ư khoe khoang và lạm nhận TỰ TÁNH, mặc dù họ chưa từng sống trọn vẹn như tự tánh, cái sai thứ hai là, những kiến giải của họ rơi hẳn vào tà kiến đoạn thường mà thời tại thế Đức Phật không bao giờ nói tới. Chính v́ tà kiến đoạn thường này nên họ đi vào tối tăm tội lỗi.
Tâm ví như nước mênh mông biển cả, chưa quyết định là động hay tịnh. Nếu ai chấp tâm vốn tịnh là sai v́ từ vô thủy đă có sóng vô minh nhấp nhô măi. Nhưng nếu ai chấp tâm động vĩnh viễn cũng sai v́ nếu đủ nhân duyên tu tập th́ tâm sẽ an định, sóng thức sẽ dừng. Nói tâm không động không tịnh, chẳng có nghĩa là tâm có một cảnh giới nào khác siêu việt ngoài động tịnh, mà chỉ có nghĩa tâm không cố định, chưa nhất định là động hay tịnh. Nếu tâm kẻ phàm phu khởi sóng chập chùng và người này khéo dùng phương tiện tu tập để nhập định th́ sóng tâm dừng lại. Nhưng do nhân duyên tái sinh (Nhập được định nhưng chưa rốt ráo) sóng tâm sẽ khởi dậy trở lại ở đoạn đầu của thân kế tiếp. Chủng tử tu tập đời trước sẽ giúp họ an tâm mau chóng hơn người thường.
Cũng cái tâm đó chứ không cái tâm nào khác, sẽ đưa đến tai họa, đau khổ luân hồi nếu nó sẽ làm cho phiền động lăng xăng. Cũng cái tâm đó chứ không cái tâm nào khác, sẽ đưa đến b́nh an, hạnh phúc, giải thoát, trí tuệ nếu nó được làm cho an tĩnh tịch nhiên.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 29 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:36am | Đă lưu IP
|
|
|
Ai cho rằng tâm vốn tịnh là rơi vào thường kiến mà Trung Quán Luận đă định nghĩa rơ ràng. Thường là cái ǵ có sẵn và kéo dài đến hôn nay mai sau.
Ai cho rằng vọng tưởng không dính dáng ǵ với tự tánh th́ rơi vào đoạn kiến giống như tách đôi sóng và nước. Nếu tự tánh không liên quan với phiền năo th́ tự tánh không thể khởi dụng phá trừ phiền năo để giải thoát.
Có người lại cho rằng cái tánh ướt của nước vốn không có tướng động hay tịnh. Dĩ nhiên cái tánh đó không nói động tịnh, nhưng có ǵ là mầu nhiệm ích lợi nếu tâm vẫn chập chùng loạn tưởng. Cái tánh đó chỉ phát huy được tác dụng ích lợi nếu cái tướng của nó là tịnh.
Hỏi: Nhưng chúng ta chỉ cần nhận ra tánh để sống th́ thoát ngoài tướng động tịnh.
Đáp: Nhận ra tánh đó rồi c̣n vọng tưởng chăng?
Hỏi: Tuy c̣n vọng tưởng mà không dính dáng ǵ đến tự tánh.
Đáp: Nếu c̣n một chút vọng tưởng th́ cả quyết ông chưa biết tự tánh là ǵ. Có khi ông chỉ biết được một chút tâm rỗng rang sáng tỏ mà lạm nhận là ngộ được tự tánh. Đây là lỗi Tăng thượng mạn làm tổn nhiều công đức.
Hỏi: Vọng tưởng giống như h́nh ảnh trên màn Ciné, chỉ tại người sợ hăi chớ nó đâu có tác dụng ǵ!
Đáp: Nếu ông cho rằng vọng tưởng không có tác dụng, biết ông rơi vào chấp KHÔNG. Có thể ông được sức tỉnh giác để kiểm soát vọng tưởng dễ dàng, nhưng nếu v́ thế mà ông cho rằng vọng tưởng không có tác dụng th́ rơi vào tà kiến chấp không. Khi sóng lăn tăn th́ ta cho sóng không có tác dụng, nhưng nếu nó vùng dậy th́ có thể lật úp thuyền bè, cuốn trôi nhà cửa. Khi tâm nhỏ nhiệm th́ dường như không có tác dụng, nhưng nếu nó vùng dậy th́ chẳng chuyện ǵ mà không làm, giết người, đốt nhà, cướp của... là chuyện dễ dàng. Nếu chấp không như ông th́ đánh mất sự tinh tấn của mọi người. Thời tại thế Nguyên thủy, Đức Phật đề cao sự tinh tấn v́ Ngài thấy được tính cách trung đạo không cố định của TÂM. Nếu khéo tu th́ tâm đó được an tịnh. Nếu vụng tu th́ tâm đó lăng xăng, và nếu tâm đó lăng xăng th́ sinh ra si mê mờ mịt, nếu tâm đó an tịnh th́ hiện thành trí tuệ từ bi.
Hỏi: Tại sao Lục Tổ Huệ Năng khi ngộ thốt lên câu nào ngờ tự tánh ḿnh vốn thanh tịnh?
Đáp: Thể tánh th́ vốn thanh tịnh, trùm khắp và vô ngă, không của riêng ai. Chữ tự trong tự tánh của Lục Tổ vẫn c̣n hàm ư riêng rẻ, dễ làm người sau hiểu lầm. Bản ngă phiền động là riêng, nhưng thể tánh thanh tịnh th́ không riêng. Chỉ có những người nhập chánh định, ḥa chung với Chư Phật một Bản thể duy nhất, cảm ứng khế hợp với tất cả chư Thánh, mới gọi là người biết rơ thể tánh đó. Phi trường hợp này, dù có được tâm rỗng rang thanh tịnh vẫn chưa phải là thể tánh.
Tâm thức của phàm phu th́ phiền động lăng xăng, không sẵn thanh tịnh. Phải nhờ nhân duyên tu tập rất nhiều mới dừng lắng được tâm thức, phá hết vô minh, đoạn trừ bản ngă. Gán ép tâm thức đó là sẵn thanh tịnh liền rơi vào thường kiến của ngoại đạo. Đức Phật không nói tâm sẵn thanh tịnh v́ nó c̣n tùy duyên tu tập, không cố định.
Những kẻ có kiến giải dường như cao vót, không ngờ rơi vào hố đoạn thường nên kết quả của tà kiến đó là mất dần dần đức hạnh và tiếp theo là ác đạo đợi chờ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 30 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:37am | Đă lưu IP
|
|
|
Các thiền sư hay dùng các thiền ngữ là những câu nói ngắn gọn nhưng rất cô đọng ư nghĩa, rất bí hiểm và độc đáo. Ví dụ:
* Tăng hỏi:
– Thế nào là ư Tổ sư?
Cửu Phong đáp:
– Một tấc lông rùa nặng chín cân.
* Tăng hỏi:
– Thế nào là ư Tổ sư?
Triệu Châu đáp:
– Chân răng mọc lông (Không cốc tập)
* Tăng hỏi:
– Thế nào là trần trần tam muội?
Vân Môn đáp:
– Cơm trong bát, nước trong thùng.
Đời nay các thiền giả cũng bắt chước các thiền sư dùng thiền ngữ để đối đáp, nhưng không ngờ bị sai sử bởi tâm khoe khoang và hơn thua vi tế ở trong. Người khôn ngoan có khi bị gạn hỏi bằng thiền ngữ, vẫn làm bộ không biết ǵ để tránh được cái lỗi khoe khoang và hơn thua. Chúng ta tu tập giải thoát theo con đường Phật dạy hăy cố gắng kiểm soát trong từng cử chỉ lời nói đừng để lộ sự khoe khoang ra ngoài. Được như vậy th́ công phu ít bị lui sụt.
Hơn nữa, trong tiến tŕnh tu tập Thiền Định, người sắp nhập định đều phải trải qua một qua ải nguy hiểm do tưởng ấm biến hiện. Đủ h́nh thức quái dị sẽ xuất hiện trong giai đoạn này. Có người thấy ḿnh xuất hồn đi vân du các cơi; có người xuất hiện thần nhăn thấy xa ngàn dặm; có người thấy hào quang, hoa sen...; có người biết được tâm niệm kẻ khác; có người biết chuyện quá khứ vị lai; hoặc nghe bên tai có tiếng nói văng vẳng giảng giải đạo lư; hoặc thấy Phật đến xoa đầu thọ kư khen ngợi; hoặc thấy chư Phật tu tập ngồi đầy cả bầu trời; hoặc tay chân cứng đờ như sắp chết; hoặc duỗi tay ra lửa cháy phừng phừng; hoặc chỉ tay lên trời liền đổ mưa xuống vân vân..., rất nhiều những tướng lạ lừa gạt người tu thiền ở ải ma cửa quỷ này. Người tu thiền không biết dùng phương tiện để phá tan những quái trạng trên sẽ lọt vào đường tà, vọng tưởng chưa hết mà đă có thần thông. Rất nhiều người tu đến giai đoạn này liền tự xưng là thành Phật thành Tổ.
Pháp Tế đang ở trong t́nh trạng này nên bị Ngài Trí Khải quở là:
“Tà chứng, ám nhập”
Phải phá tan các quái trạng đó mới có thể vào sâu trong chánh định được. Người đắm đuối theo các quái trạng đó sẽ phát điên.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 31 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:41am | Đă lưu IP
|
|
|
14 – PHÁP MÔN THÍCH HỢP
(Trích Bổn Sanh 1, tr 21)
Một con gái của người triệu phú thông dâm với nô lệ trong nhà và cùng nhau trốn đi biệt tích. Họ sống với nhau và hạ sinh hai người con trai. Đứa lớn tên Maha Panthaka và đứa nhỏ tên Culla Panthaka. Cuối cùng hai đứa nhỏ được giao lại cho ông ngoại theo sự yêu cầu. Maha Panthaka thường đi với ông ngoại nghe Đức Phật thuyết pháp và rồi xin xuất gia. Sau khi xuất gia, đầy đủ tuổi thọ đại giới, làm tṛn các bổn phận, Maha Panthaka chứng quả Alahán. Tôn giả liền t́m về độ cho Culla Panthaka được xuất gia và thọ giới Sa Di. Nhưng Sa Di Culla Panthaka tỏ ra rất ám độn, trong bốn tháng không thể học thuộc ḷng một bài kệ ngắn. Có lẽ để thúc đẩy người em ḿnh một lần quyết liệt, tôn giả Maha Panthaka đuổi Culla đi về.
Đó là ngày có người cư sĩ Jivaka Ḳmarabhaca thỉnh Đức Phật và năm trăm Tỳ Kheo đến nhà thọ thực, nhưng Maha Panthaka từ chối sự có mặt của Culla. Culla Panthaka buồn bă khởi ư tưởng trở về thế tục để làm các công đức như bố thí.v.v... Trên đường đi ra khỏi Tinh xá, Culla gặp Đức Phật đảnh lễ và được hỏi đi đâu, Culla thưa lại mọi chuyện. Đức Phật đem Culla về hương pḥng, giao cho một miếng vải được tạo bằng thần thông, bảo rằng:
“Này Culla Panthaka, hăy hướng về phía đông, dùng miếng vải này lau qua lau lại và nói: “đồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi”.
Sau đó, Đức Phật đúng giờ, cùng các Tỳ Kheo đi đến Jivaka c̣n lại Culla Panthaka ngồi lau cho đến khi miếng vải bị nhớp. Culla suy nghĩ:
“Vừa rồi, tấm vải này là rất sạch sẽ, nhưng nay v́ ta, nó trở thành nhớp nhúa. Thật sự các hành là vô thường!”
Culla an trú trên đoạn diệt, thiền quán được tăng trưởng. Bậc đạo sư biết tâm thiền quán của Culla đă đạt được viên măn nên phóng hào quang, phân thân ngồi trước mặt Culla nói lên bài kệ rằng:Tham sân si mới là bụi cấu của tâm cần phải trừ bỏ. Cuối bài kệ Culla Panthaka chứng quả Alahán với vô ngại giải thấu suốt ba tạng kinh điển. Sau đó Đức Phật biến mất.
Khi ấy Jivaka dâng vật thực đến, Đức Phật lấy tay ngăn b́nh bát không nhận, hỏi:
“Này Jivaka, trong Tinh Xá c̣n Tỳ Kheo hay không?”
Maha Panthaka thưa:
“Bạch Thế Tôn, trong Tinh xá không c̣n Tỳ Kheo nào!”
Nhưng Đức Phật nói:
“Này Jivaka, c̣n có Tỳ Kheo.”
Jivaka liền sai một người đi xem thử. Tại Tinh xá Culla Panthaka hiện ra cả ngàn Tỳ Kheo đầy cả rừng xoài, tất cả đều khác nhau và làm các công việc khác nhau. Người kia thấy vậy trở về báo với Jivaka.
“Trưởng lăo Panthaka
hóa ḿnh thành ngàn lần
Nơi rừng xoài xinh đẹp
chờ thời được gọi đến.
Đức Phật bảo cho gọi Culla Panthaka. Người kia trở lại hỏi th́ tất cả đều trả lời:
“Tôi là Culla Panthaka!”
Người ấy về thuật lại. Đức Phật bảo hăy nắm tay và mời người xưng danh đầu tiên. Người ấy làm đúng như vậy. Ngay lúc ấy, cả ngàn Tỳ Kheo biến mất.
Sau thời thọ thực, Đức Phật khuyến khích Tôn giả Culla Panthaka rống tiếng sư tử làm cho sống động ba tạng kinh điển trong lời nói cám ơn của ḿnh.
Chiều đến Đức Phật đă trả lời về nguyên cớ đặc biệt của Tôn giả Culla Panthaka cho các Tỳ Kheo. Trong thời Đức Phật Kassapa, Culla Panthaka xuất gia, có trí tuệ, cười khinh bỉ một Tỳ Kheo ám độn đang cố gắng học thuộc ḷng một đoạn kinh. Tỳ Kheo ấy hổ thẹn v́ cái cười ấy nên động tâm không thể nhớ và đọc lên được đoạn kinh. Do kết quả nghiệp ấy, đời này Culla xuất gia trở thành ám độn, những câu mới học làm Tôn giả quên ngay những câu đă học.
Và trong thời quá khứ, Ngài làm vua khi đang đi bộ hành xung quanh thành phố, mồ hôi chảy ra từ trán, Ngài lấy một miếng vải sạch lau trán. Miếng vải trở thành nhơ nhớp. Ngài suy nghĩ:
“Do thân này, miếng vải sạch đă bỏ nguyên trạng trước và trở thành nhơ nhúa. Thật sự các hành là vô thường.”
Ngài nắm được tư tưởng vô thường. Đấy là sự liên quan đến sự tu tập hiện tại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 32 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 9:41am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Bản chất Tôn giả Culla Panthaka là người trí tuệ biện tài, chỉ v́ cười khinh bỉ một vị Tỳ Kheo ám độn nên Tôn giả cảm quả báo ám độn một thời gian. Phải qua một lần đau khổ tuyệt vọng cùng cực Tôn giả mới trả xong ác nghiệp u ám kia. Từ trường hợp Tôn giả, chúng ta có thể đánh giá rằng đôi khi một người ngu si ám độn, không phải v́ bản chất nguời này là thiếu trí tuệ, có khi chỉ v́ lở khinh chê sự dốt nát của người khác nên đời này cảm báo u tối. C̣n người được thông minh trí tuệ là do khéo giữ ǵn không khinh chê người khác, lại hay hướng dẫn giáo hóa làm lợi ích cho người.
Câu chuyện về Tôn giả cho chúng ta thêm niềm kính phục đạo nhăn phi thường của Đức Phật. Ngài biếr rơ một tác ư quán vô thường của Tôn giả khi nh́n miếng vải bị nhớp lúc Tôn giả làm vua trong đời quá khứ xa xôi nào đó. Đức Phật dùng đúng lại sự kiện để làm đề mục thiền quán cho Tôn giả, và hiệu quả xảy ra tức th́!
Sau khi nh́n xuống khăn bị nhớp, Tôn giả chợt nghiệm ra lư vô thường. Liền đó Tôn giả thâm nhập sâu vào các bậc Thiền Định. Đức Phật phân thân đến đánh thức Tôn giả lần cuối cùng bằng một bài kệ, và ngay đó Tôn giả thoát ra khỏi sự ràng buộc của tam giới.
Ai có thực hành Thiền Định đều có kinh nghiệm rằng, với pháp môn này ḿnh dễ nhiếp tâm hơn là với pháp môn khác. Pháp môn thích hợp với ḿnh cũng có nhân duyên từ nhiều đời quá khứ. Một người thành tựu công phu Thiền Định bằng pháp môn tùy tức. Có thể trong đời quá khứ họ đă từng tu tập theo pháp môn này, hoặc tán thán sự tùy tức.
Người thành tựu bằng công phu Thiền Định bằng pháp môn quán sát lư vô ngă, vô thường, nhân duyên, bởi v́ trong đời quá khứ họ đă nói nhiều, suy nghĩ nhiều về giáo lư ấy.
Tuy nhiên điều đó cũng không cố định. Có khi họ có duyên với pháp môn này, nhưng lại gặp vị thầy chỉ dạy duy nhất pháp môn kia theo sở trường của ông. Lúc đầu họ khó áp dụng, nhưng huân tập măi rồi cũng trở thành quen thuộc, mặc dù sẽ không thuận lợi bằng sự áp dụng một pháp môn đă có duyên từ trước.
Người điềm đạm ít kiến giải th́ thích hợp với lối tu chỉ. Người lanh lợi th́ thích hợp với lối tu quán. Tuy nhiên người tu chỉ dễ rơi vào si định nếu không có duyên (tự ḿnh hay nhờ thiện tri thức) vượt qua. Người tu quán dễ rơi vào bệnh kiến giải và ngă mạn. Để tránh hai cái nhược điểm của hai hạng người này, đôi khi vị thầy sáng mắt đổi ngược hai pháp môn lại. Với người dễ rơi vào si định th́ cho tu quán hoặc nghiên cứu công án. Với người kiến giải quá đáng th́ cho tu chỉ để dừng tâm lại.
Pháp môn sở trường của mỗi người vẫn có thể xuất hiện những khuyết điểm của nó, mà nếu hoàn toàn tùy thuộc vào nó, chúng ta có thể mắc những thiên kiến chủ quan, nhất là vấn đề độc tôn pháp môn. Chúng ta có duyên với pháp môn của ḿnh nhưng phải khách quan thấy những ưu điểm của pháp môn người khác. Đừng vội vàng chủ quan một chiều. Đức Phật viên măn trí tuệ nên sử dụng mọi pháp môn một cách linh hoạt tài t́nh. Bài kinh giáo giới La Hầu La, chúng ta thấy, ban đầu buổi sáng Đức Phật dạy La Hầu La quán sự vô thường của Năm ấm. Chiều đến Ngài lại dạy La Hầu La dùng pháp Anban (Anàpanà) một pháp môn tùy tức. Nơi pháp Anban này, Tôn giả chứng quả Alahán. Pháp môn quán Năm ấm cần cho Tôn giả ban đầu, nhưng pháp Anban sẽ cần cho Tôn giả về sau.
Các vị chân sư về sau thường đem pháp môn sở trường của ḿnh ra giáo hóa, ít có thông cảm rộng răi với các pháp môn khác trong đạo Phật. Điều này đưa dần đến thảm kịch chia rẻ trong Phật giáo về sau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 33 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:01am | Đă lưu IP
|
|
|
15 – TRƯỞNG LĂO LOSAKA
(Trích Bổn Sanh 1, tr 158. Chúng tôi trích bài này v́ nơi đây có nhiều ư nghĩa về Nghiệp báo)
Ai là trưởng lăo Losaka? Đó là một người xứ Kosala, con một người đánh cá, một tai ương cho gia đ́nh, một Tỳ Kheo không nhận được vật thực.
Nó đầu thai trong gia đ́nh đánh cá, trong một làng đánh cá gồm một ngàn gia đ́nh ở Kosala. Trong ngày nó đầu thai, cả làng không đánh được con cá nhỏ. Từ đó trở đi làng đánh cá gặp nhiều tổn hại. Khi nó c̣n ở trong thai, làng của chúng bị lửa đốt bảy lần, bị vua xử phạt bảy lần. Dần dần họ rơi vào túng thiếu. Họ suy nghĩ: “Giữa chúng ta phải có một người xúi quẩy”. Họ chia làng thành hai. Bên nào có Losaka th́ tiếp tục bị tổn hại, c̣n bên kia th́ tăng thịnh. Họ lại chia nhóm tổn hại làm hai, làm hai nữa, làm hai nữa, và cuối cùng t́m dược gia đ́nh của đứa bé bất hạnh, gia đ́nh ấy bị đánh đuổi khỏi làng. Người mẹ phải t́m sống một cách khó nhọc, bụng mang thai, và sau đó sinh đứa con trai. Đứa bé được sinh trong đời sống cuối cùng, do đó không thể bị giết hại. Như ngọn đèn trong chiếc ghè, điều kiện để thành Alahán cháy đỏ trong tim của nó. Người mẹ nuôi dưỡng nó, tập nó đi đứng vững vàng, đặt trong tay nó một bát đi xin, bảo nó đi đến các nhà, rồi bỏ trốn! Từ đó, nó sống một ḿnh, t́m đồ ăn tại chỗ này, nằm ngủ tại chỗ khác, không để ư tắm rửa thân thể, và t́m sống một cách cực khổ. Nó dần dần lớn lên được bảy tuổi, lượm từng miếng cơm thừa nơi sàn nước rửa bát của các gia đ́nh.
Rồi bậc tướng quân Chánh pháp (Sariputta) đang đi khất thực ở Savathi, thấy đứa bé đáng thương, khởi ḷng từ bi với nó, gọi đến hỏi han.
“Thưa Tôn giả, con sống không nơi nương tựa. Cha mẹ v́ con sống quá mệt mỏi, nên bỏ rơi con rồi trốn đi.”
“Con có muốn xuất gia không?”
“Thưa Tôn giả, con muốn xuất gia nhưng ai sẽ xuất gia cho kẻ khốn cùng như con?”
“Ta sẽ xuất gia cho!”
“Lành thay! Hăy xuất gia cho con!”
Trưởng lăo Sariputta đem nó về săn sóc, tắm rửa cho ăn uống và thế phát. Khi đầy đủ tuổi nó được trao đại giới. Khi lớn tuổi được gọi là trưởng lăo Losakatissa!
Trưởng lăo Losakatissa ít phước, ít nhận được đồ cúng dường. Ai muốn đặt thức ăn vào bát của trưởng lăo th́ bỗng thấy bát như đă tràn đầy. C̣n ai sớt chút cháo vào bát của Ngài, th́ nơi dĩa của họ, phần cháo c̣n lại biến mất. Sau một thời gian dài, thiền quán được tăng trưởng, trưởng lăo chứng quả Alahán tối thượng. Tuy nhiên trưởng lăo vẫn được đồ ăn ít oi. Thọ hành trưởng lăo dần dần giảm thiểu và ngày nhập Niết Bàn đă đến. Tướng quân Chánh pháp biết điều này, muốn trưởng lăo được no bụng một lần cuối, đưa trưởng lăo cùng vào thành Savathi khất thực. Nhưng hai vị không nhận được một cái xá chào huống nữa là miếng thức ăn! Sariputta bảo Losakatissa về ngồi tại pháp đường chờ đợi, c̣n Ngài xin được thức ăn gởi về nhưng những người được giao đem về đều quên đưa lại cho trưởng lăo. Khi Tôn giả Sariputta trở về hỏi lại biết được sự t́nh th́ bóng mặt trời đă bắt đầu chếch về phía tây. Tôn giả đích thân nhanh chóng (dùng thần lực) đến cung vua Kosala. Nhà vua dâng lên các loại bánh ngọt để ăn phi thời. Tôn giả trở về bảo Losakatissa hăy dùng bánh, trong khi Tôn giả cầm bát đứng một bên. Losakatissa v́ ḷng kính trọng không dám ăn trong t́nh trạng đó. Tôn giả bảo:
“Này hiền giả hăy dùng. Ta sẽ cầm b́nh bát và đứng đây. Nếu ta rời b́nh bát này th́ bánh sẽ biến mất”
V́ thế trưởng lăo Losakatissa an trụ chánh niệm thong thả dùng bánh. Do thần thông của bậc tối thượng thủ tướng quân chánh pháp, bánh ấy không biến mất. Hôm ấy, trưởng lăo Losakatissa được ăn như ư, đầy đủ, no bụng. Ngày hôm ấy Losakatissa nhập Niết Bàn Vô Dư Y. Đức Phật đứng một bên và chứng kiến thân được hỏa táng, các xá lợi được thâu nhận và điện tháp được dựng lên trên.
Đức Phật đă kể lại bổn sanh như sau:
Thời Đức Phật Kassapa, Tôn giả Losaka làm một Tỳ Kheo trụ tŕ một Tinh xá nhỏ nơi ngôi làng và được một điền chủ hộ tŕ. Tỳ Kheo ấy tính t́nh bộc trực, hồn nhiên, giữ giới và chuyên tu tập thiền quán. Chợt có vị trưởng lăo đă chứng Alahán từ đâu đi đến ngôi làng gặp vị điền chủ. Vị điền chủ hoan hỷ kính phục phong cách của trưởng lăo nên đă đón tiếp mời mọc, cúng dường, nghe pháp, đảnh lễ và thưa.
“Thưa Tôn giả, hăy đi đến ngôi Tinh xá trong làng, chúng con sẽ đến yết kiến Tôn giả vào chiều nay.”
Vị trưởng lăo Alahán đi đến Tinh xá, đảnh lễ Tỳ Kheo trụ tŕ và sau khi xin phép, ngồi xuống một bên, vị trụ tŕ thân mật hỏi han.
“Thưa hiền giả, hiền giả đă thọ thực chưa?”
“Thưa, được rồi “
“Được tại dâu?”
“Tại nhà người điền chủ trong làng của tôn giả.”
Trưởng lăo hỏi chỗ nghỉ của ḿnh, sau đó ngồi tọa thiền yên ổn đến chiều mới xuất.
Vào buổi chiều, người điền chủ đem theo hương hoa, đèn dầu đến hỏi vị trụ tŕ về trưởng lăo lúc sáng. Rồi ông đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên nghe thuyết pháp. Sau khi nghe thuyết pháp, ông mời hai vị đến nhà vào ngày mai. Vị tỳ kheo trụ tŕ suy nghĩ:
“Điền chủ này đă bị phân tán. Nếu tỳ kheo này c̣n ở đây, điền chủ ấy sẽ không c̣n đếm xỉa đến ta một chút nào nữa. Ta phải làm thế nào để vị ấy không ở được trong tinh xá này!”
Vị trưởng lăo biết tâm niệm của vị trụ tŕ nên lui về pḥng tọa thiền. Hôm sau, vị trụ tŕ gọi khách bằng cái gơ nhẹ nơi cửa pḥng và ra đi một ḿnh đến nhà người điền chủ. Người điền chủ đón tiếp vị trụ tŕ và hỏi thăm vị khách.
“Tôi có gọi ông ta, nhưng ông ta ngủ say chưa dậy. Có lẽ v́ bữa ăn tại nhà ông hôm qua chưa tiêu hóa nên ông mệt.”
Ở tinh xá, vị trưởng lăo Alahán đến giờ khất thực, cầm bát đắp y bay lên hư không đến một nơi khác.
Sau khi cúng dường các món ăn thượng vị lên trụ tŕ xong, người điền chủ gởi thức ăn về cho vị tăng khách. Về ngang giữa đường, vị trụ tŕ đổ hết thức ăn ấy vào một đống than đang cháy bên đường. Đến tinh xá, không thấy vị khách ở đâu, vị trụ tŕ suy nghĩ:
“Có lẽ tỳ kheo ấy đă đoạn tận lậu hoặc, biết được ư định của ta nên bỏ đi rồi chăng? Ôi! Ta v́ sự ích kỷ đă làm một việc không thích đáng.”
Với ưu sầu ray rứt, vị ấy bỗng như kẻ không hồn và không bao lâu mệnh chung sinh vào địa ngục. Trong nhiều ngàn năm, nó bị thiêu đốt ở địa ngục. Hết thân địa ngục lại làm thân quỷ đói năm trăm năm không ngày nào được no bụng. Chỉ có một ngày duy nhất nó được ăn no bụng bởi đồ uế nhiễm của thai. Hết thân quỷ đói, nó sinh làm chó ngót năm trăm đời. Trong thời gian này, nó chỉ được một ngày duy nhất được ăn no bụng bởi thức ăn mửa ra. Bỏ thân chó cuối cùng, nó sinh làm người trong một gia đ́nh nghèo đói ở nước Kasi. Từ khi nó sinh ra, gia đ́nh càng trở thành nghèo đói cùng cực. Nó không bao giờ được húp đến nửa bát cháo chua. Cha mẹ nó không thể chịu được sự đói khổ quá đáng này, đă đuổi nó đi. Không nơi nương tựa, nó đi lang thang và đến tại Balanại.
Lúc bấy giời Bồ tát (tiền thân Phật Thích Ca) sinh làm vị giáo sư nổi tiếng dạy nghề nghiệp cho năm trăm thanh niên. Dân Balanại trợ cấp đời sống cho những học sinh nghèo. Nó tên Mitavindaka vào học nghề và nhận trợ cấp. Nhưng tánh nó độc ác, khó dạy hay đánh bậy và đi chơi. Được Bồ tát khuyên dạy, nó vẫn không nghe theo. Trong một lần gây gỗ với bạn bè, nó trốn đi lang thang đến một làng biên địa, làm thuê sinh sống. Tại đấy nó sống với một người đàn bà nghèo khổ và sinh được hai đứa con. Người làng thuê nó dạy họ với những kiến thức trước đó, trả tiền và cho nó một cái cḥi tại cửa làng. Từ khi Mitavindaka đến, dân làng bị vua xử phạt bảy lần, nhà cửa bị cháy bảy lần, hồ chứa nước bị cạn bảy lần. Đổ thừa cho nó, họ đuổi nó và vợ con đi. Nó đem vợ con đi lang thang lạc vào một khu rừng phi nhân bị phi nhân ăn thịt cả vợ và con, nó một ḿnh chạy thoát. Ngày kia nó đến bến tàu, xin làm thuê trên một chiếc tàu đi biển. Khi chiếc tàu đi biển được bảy ngày, bỗng nhiên tàu dừng hẳn lại như có ai nắm giữ. Chúng rút thăm xem ai là người xui xẻo. Bảy lần thẻ rơi vào Mitavindaka. Chúng thả nó xuống biển cùng với chiếc bè, và tàu lại tiếp tục ra đi. Nó nằm trên bè tre trôi lang thang trên biển. Do kết quả giữ giới trong thời Đức Phật Ca Diếp, nó gặp một lâu đài bằng pha lê với bốn tiên nữ. Nó sống hưởng lạc thú trong bảy ngày. Nó lại lên bè tre đi chỗ khác và gặp tám tiên nữ trong lâu đài bằng ngọc. Nó lại đi và gặp 32 tiên nữ trong 16 lâu đài bằng vàng. Sau đó nó ra đi và gặp thành dạ xoa ở giữa ḥn đảo. Có một nữ dạ xoa sống với h́nh thức con dê. Mitavindaka không biết, bắt lấy con dê để ăn thịt. Con dạ xoa nữ ấy dùng uy lực nhấc bỗng nó lên ném nó bay qua khỏi biển rơi xuống một bụi gai tại cái hào khô nước, lăn tṛn rồi đứng trên đấy. Lúc bấy giờ tại cái hào ấy, ăn trộm thường hay đến giết dê của vua. Các người chăn dê đứng núp ŕnh ăn trộm. Mitavindaka bị các người chăn dê tủa ra bắt kết tội trộm dê, đánh nó, trói nó và dẫn nó về cho vua. Lúc bấy giờ Bồ tát với năm trăm thanh niên đoanh vây, đi ra khỏi thành để tắm. Thấy Mitavindaka bị bắt, Bồ tát liền xin nhận đem về cho làm người nô lệ để tiếp tục học hỏi và sống với Bồ tát.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 34 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:02am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Cuộc đời cuối cùng của trưởng lăo quá thương tâm, ai nghe đến đều cảm thấy bùi ngùi bi lụy. Cái đói khát đă đeo đuổi tôn giả Losaka suốt bao nhiêu kiếp quá khứ và c̣n bám theo đến tận những giờ phút chót. Chỉ v́ đă đổ bỏ phần ăn cúng dường cho một vị Alahán mà tôn giả phải chịu đựng sự thiếu kém cùng cực khó tưởng tượng như vậy!
Tôn giả vốn là người hiền lành bộc trực, nhưng tâm đố kỵ chưa được diệt trừ, hăy c̣n ngủ ngầm trong góc tối của tâm thức. Và đôi khi cảm thấy có người chia bớt quyền lợi của ḿnh, tâm đố kỵ khởi lên mạnh mẽ. Không ngờ tôn giả đă đố kỵ với một người mà không một lạc thú nào của tam giới có thể ràng buộc được.
Rồi trong cuộc đời chúng ta sẽ phải đối diện với những trường hợp tương tự. Sẽ có những người tinh tấn hơn ta, tài giỏi hơn ta, đức hạnh hơn ta, được sự cung kính cúng dường hơn ta. Lúc đó ta sẽ có dịp nh́n thấy mặt mày của sự đố kỵ xuất hiện. Nếu từ bây giờ chúng ta không chuẩn bị dọn ḷng ḿnh thoát khỏi sự ŕnh rập của tâm đố kỵ, th́ sẽ có một lúc nào đó ta phải tác thành nhiều tội lỗi. Kể từ bây giờ chúng ta phải thường tự nhắn nhủ với ḷng ḿnh là sẽ hoan hỷ vui mừng khi thấy có người vượt trội hơn ta về các phương diện. Tâm tùy hỷ sẽ đem đến cho chúng ta rất nhiều công đức mà chúng ta không phải tốn một chút sức lực tài sản nào cả.
Nếu chúng ta tùy hỷ với người giới hạnh, chúng ta sẽ thành tựu giới hạnh. Nếu chúng ta tùy hỷ với người tài ba, chúng ta sẽ thành tựu tài năng. Nếu chúng ta tùy hỷ với người đắc định, chúng ta sẽ sâu vào Thiền Định. Dĩ nhiên ngoài sự tùy hỷ, chúng ta vẫn phải thực hành các điều kiện khác và ở đây, tâm tùy hỷ, là sự hỗ trợ lớn lao cho kết quả.
Tại sao sự bất hạnh của tôn giả lại lây sang những dân lành sinh sống chung quanh một cách khắc nghiệt như vậy?
Đó là cái duyên cớ để tôn giả bị họ xua đuổi đi lang thang và chịu đựng những khốn đốn khác.
Nhưng ít ra trong vô lượng đời sống quá khứ, họ đă chung nhau tạo những ác nghiệp nào đó rồi, và cái xui cho tôn giả là khi tôn giả hiện diện, quả báo của họ trổ ra.
Qua quá nhiều thời gian ở ba đường ác, tôn giả được sinh làm người, một người ác độc, khó dạy, hay gây gỗ. Những thói xấu của một người thường có nguồn gốc từ một đời sống súc sinh ngạ quỷ nào đó trong quá khứ. Người hiền lành tốt bụng là người đă có được thân trời người liên tục nhiều đời trước đấy. Sự chuyển đổi nghiệp thọ sinh của một người phải bắt đầu bằng sự chuyển đổi tâm hồn của họ. Sự thay đổi tâm hồn là gốc để đưa họ đến những cơi giới khác hơn. Nếu không kiểm soát và chuyển hóa tâm hồn của chính ḿnh, vực thẳm đọa lạc luôn luôn là sự chờ đón gần kề.
Công đức tŕ giới từ thời Đức Phật Kassapa, thay v́ đem đến quả báo xuất thế, lại đem đến cho tôn giả lạc thú trần gian nơi các lâu đài và tiên nữ trên biển. Chỉ v́ qua nhiều đời kiếp lâu xa sinh trong ác đạo, Tôn giả đă đánh mất sự thú hướng về mục tiêu giải thoát. Và như vậy, quả báo của công đức cũ đă đi lạc sang đường khác. Cũng một hành vi cúng dường, nhưng người th́ hướng đến lạc thú ở đời sau, người th́ hướng đến quả vị giải thoát. Quả báo sẽ tùy theo sự thú hướng của họ mà trổ ra thích hợp.
Thế th́ quả vị Alahán đời này của Tôn giả do đâu mà có?
Dĩ nhiên cũng bắt nguồn từ thuở làm tỳ kheo thời Đức Phật Kassapa, và sẽ nhạt nḥa theo ḍng thời gian vô tận, nếu không có sự khám phá của Bồ tát Thiện Tuệ, tiền thân Phật Thích Ca. Chính v́ khám phá ra hạt giống ít ỏi c̣n bị vùi dập nơi con người Mitavindaka khốn khổ và ác độc này nên Bồ tát đă chịu khó nhiếp thọ và giáo hóa dần dần. Câu chuyện bổn sinh trên, không kể tiếp đoạn sau nữa, nhưng chúng ta phải hiểu rằng ở những đời sau Mitavindaka tiếp tục được Bồ tát nhiếp hóa măi. Những đạo tràng ẩn tu Thiền Định của Bồ tát nhiều lần xuất hiện tại Tuyết sơn làm sao không có mặt Mitavindaka! Bồ tát đă khéo léo và kiên nhẫn khơi lại hạt giống giải thoát của Mitavindaka, chăm bón giữ ǵn cho nó tăng trưởng không dừng nghỉ. Và cuối cùng hạt giống đó đă vươn cao sum xuê cành lá để chờ đợi một thời tiết quyết định cần thiết. Thời tiết đó chính là lúc Bồ tát ra đời để thành tựu Phật quả và Mitavindaka vào thai nơi làng đánh cá.
“Như ngọn đèn trong chiếc ghè, điều kiện để thành Alahán cháy đỏ trong tim của nó.”
Câu nói này có một giá trị đặc biệt. Một người ra đời để thành tựu quả vị, hoàn toàn không phải là chuyện ngẫu nhiên trùng hợp, mà điều đó đă được quy định rơ ràng rồi. Dù đứa bé đó sống vất vưởng khổ sở như “con quỷ ăn bùn”, dù nó phải lang thang đầy đọa từ khi vừa biết đi, th́ nó vẫn phải trở thành một vị Alahán tối thượng! Người ở thân tối hậu để thành Alahán th́ không ai có thể làm tổn hại được nữa. Thật vậy dù Tôn giả bị ghét bỏ đến cùng cực, nhưng không một ai có ư định giết chết Tôn giả, và nếu có ư định, họ cũng không thể thực hiện được.
Tuy quả vị xuất thế tối thượng đă viên măn rồi nhưng Nghiệp báo vẫn chưa chịu buông tha Tôn giả. Tôn giả vẫn sống một đói c̣n lại trong sự khó khăn đói kém. Nhưng điều này không có nghĩa tôn giả bị đau khổ. Không c̣n có đau khổ nơi một vị đă chứng Alahán, Mặc dù vị ấy có gặp nhiều chướng ngại nơi hoàn cảnh. Chúng ta thấy Nhân Quả thế gian và Nhân Quả xuất gian tuy có hỗ trợ nhau, nhưng vẫn độc lập với nhau mà Tôn giả Losaka Tissa là một bằng chứng rơ rệt. Các vị Alahán b́nh đẳng nhau trên đạo quả, nhưng vẫn sai biệt nhau trên phước nghiệp thế gian.
Sửa lại bởi QuangQuy : 15 April 2005 lúc 6:02am
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 35 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:03am | Đă lưu IP
|
|
|
C. NHÂN QUẢ BỒ TÁT ĐẠO
Chúng ta nhường phần định nghĩa thuật ngữ cho các vị học giả, chỉ hiểu đơn giản rằng Bồ tát hạnh là sự nghiệp giáo hóa chúng sinh của một vị đă giác ngộ giải thoát. Chỉ bởi sự chứng ngộ viên măn của ḿnh, một vị Bồ tát mới đủ đạo nhăn để quan sát căn cơ chúng sinh, đủ trí tuệ để có những phương tiện giáo hóa thích hợp. Chưa chứng ngộ viên măn, việc làm lợi ích chúng sinh chưa hoàn toàn đúng nghĩa Bồ tát.
Bồ tát là ǵ?
Thật ra danh từ chỉ là hư rỗng, tạm đặt bởi tâm lư của con người. Chúng ta dễ bị danh từ che mất sự thật để rồi lập ra những định kiến trên đó. Hầu hết quan niệm của Phật giáo Đại thừa đều đề cao Bồ tát vị mà chê bai quả vị Alahán là tiêu cực thụ động. Nhưng vấn đề này phải được t́m hiểu sơ lược trước khi chúng ta bước vào nghiên cứu Nhân Quả Bồ tát đạo. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ về giá trị, vai tṛ của Bồ tát trong một luận bản khác.
Tính chất của một vị Bồ tát là Tâm Đại bi viên măn. Chính bởi tâm Đại bi này mà Bồ tát thị hiện vào sinh tử hóa độ chúng sinh không mệt mỏi.
Cũng một vấn đề, khi nói ở phương diện tiêu cực, chúng ta gọi là VÔ NGĂ, khi nói ở phương diện tích cực, chúng ta gọi là ĐẠI BI. Một bậc giải thoát tan vỡ Ngă chấp hoàn toàn, ngay đó không phải là đoạn diệt hư vô (Trung Quán luận). Khi không c̣n ích kỷ, th́ tâm vị tha tự nhiên tràn đầy vô hạn; khi chấp ngă đă hết th́ đại bi tâm hiển lộ không bờ bến. Nếu chúng ta chỉ học hiểu trên văn tự ngôn ngữ, nghe nói vô ngă liền chỉ biết vô ngă mà không biết vô ngă đó chính là đại bi, nghe nói đại bi chỉ biết là đại bi mà không biết đại bi đó chính là vô ngă. Đạo Phật là đạo của sự thật tu thật chứng, không phải một triết thuyết để bàn luận suông, suy tư rỗng như vô số các triết thuyết khác. Và chỉ bởi sự thực tu thực chứng, chúng ta mới có cái nh́n thấu triệt mọi vấn đề mà ngôn ngữ nói chưa hết. Nếu không thực tu thực chứng, văn tự ngữ ngôn sẽ là một ngục tù giam hăm tâm thức chúng ta.
Nếu một vị đă hết sạch ngă chấp, chứng đạt Alahán, ngay đó tâm đại bi đă hiện hữu vô biên. Thời tại thế Nguyên thủy, Đức Phật không tiết lộ về công hạnh Bồ tát đạo của một vị Alahán bởi v́ đó là việc làm của một người chứng ngộ tự biết, không phải việc làm của phàm phu. Kẻ phàm phu nghe nói về công hạnh Bồ tát sẽ khởi sinh vọng tưởng và chấp trước, quên đi việc tự lợi trước mắt của ḿnh, tự cho là gần gũi để hóa độ chúng sinh, không ngờ bị danh lợi cuốn mất. Nếu vị này đă giải thoát giác ngộ, dù không cần dạy bảo, vị ấy tự biết bổn phận của ḿnh đối với những chúng sinh si mê c̣n lại. Chỉ là các ngài không bộc lộ thân thế, không khoe khoang việc làm của ḿnh nên chúng ta lầm tưởng Niết Bàn vô dư y của các ngài là sự chấm dứt vĩnh viễn. Niết Bàn là sáng suốt biết rơ, không phải là mờ mịt si mê, Niết Bàn là không sở đắc, chẳng phải là có sở đắc như chúng ta gán ép. Niết Bàn là linh hoạt, chẳng phải là khô cứng. Niết Bàn là có năng lực tự tại, chẳng phải là sự g̣ bó câu thúc. Niết Bàn là cảm ứng vô biên, chẳng phải là sự đóng khung một ḿnh một cơi.
Chư Thánh ở trong Niết Bàn rất sáng suốt, biết rơ t́nh trạng của Phật pháp, của chúng sinh và cảm ứng với nhau không thể nghĩ bàn. Khi thấy cần phải xuất hiện ở một nơi nào để giáo hóa, các ngài liền âm thầm thọ thân sinh tử để đến với chúng sinh mà chúng sinh không hề hay biết. Vô số vị Alahán đă thọ thân sinh tử để trở lại với chúng sinh mà chúng ta đâu hay biết ǵ, cứ ngỡ các ngài đă ra đi rồi là hết hẳn.
Mặc dù đạo quả Alahán được định nghĩa như là “không trở lui lại trạng thái này nữa” theo Nikaya hoặc “không thọ thân đời sau” theo A hàm, nhưng đó chỉ là không trở lại theo nghiệp. Không nghiệp nào có thể lôi kéo một vị Alahán trở lại sinh tử được nữa nhưng vị này tự có năng lực làm chủ, vẫn có khả năng tùy nguyện trở lại để giáo hóa chúng sinh. Nếu cho rằng, dù muốn trở lại mà một vị Alahán ở trong Niết Bàn vẫn không thể trở lại, tôi gọi Niết Bàn này là một sự trói buộc mới, không phải là giải thoát tự tại. Nhưng chính v́ Niết Bàn là giải thoát tự tại nên một vị Alahán hoàn toàn tự do trong việc hiện thân vào sinh tử để giáo hóa chúng sinh. Nào giờ chúng ta chỉ hiểu trên ngôn từ, nghe nói vị Alahán nhập vô dư y Niết Bàn không thọ thân đời sau, liền cho rằng Alahán là tiêu cực, là cây khô mộng lép, không lợi ích cho Phật pháp và chúng sinh. Chúng ta không ngờ rằng đằng sau phong thái ung dung trầm mặc đó lại là sự hoạt dụng tích cực vô biên. Cái hoạt dụng tích cực của một vị Alahán, được dấu kỹ trong phong cách điềm đạm hư vô đến nỗi trời người không thể nh́n thấy. Khác với kẻ phàm phu tích cực năng nổ hiện tướng bị mọi người biết liền.
Tại sao chúng ta lại lạm bàn về Nhân Quả của Bồ tát đạo nếu đó không phải là công việc của chúng ta?
Chính v́ hai lư do:
Một, v́ công hạnh Bồ tát đă bị kinh Đại thừa tiết lộ quá nhiều. Chúng ta bàn về Nhân Quả Bồ tát đạo để tăng thêm niềm tin đối với Phật pháp.
Hai, biết được Nhân Quả Bồ tát đạo, chúng ta sẽ khéo xử sự với mọi người để không trở ngại việc tự lợi của ḿnh và gây được sự thuận tiện cho việc giáo hóa về sau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 36 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:04am | Đă lưu IP
|
|
|
1 – ĐỒNG SỰ NHIẾP
(trích Bổn Sanh 1, tr 81)
Lúc bấy giờ, các Tỳ kheo sau khi tắm tại hồ Nalakapàna, bảo các Sa Di lấy những ống cây lau để làm ống kim, thấy các cọng lau đều trống bộng hoàn toàn, đi đến Thế Tôn và hỏi:
“Bạch Thế Tôn, chúng con cho lấy các cọng lau để làm ống kim. Nhưng từ gốc cho đến ngọn các cọng lau ấy đều trống bộng hoàn toàn. V́ sao lại như vậy?”
Bậc Đạo sư nói:
“Này các Tỳ kheo, đây là do đại nguyện xưa của ta vậy. Nói xong, Bậc Đạo sư kể câu chuyện quá khứ.
Thuở xưa, tại đây có một cái hồ trong khu rừng rậm. Trong hồ ấy có một quỷ La sát nước ăn thịt những ai xuống nước. Lúc bấy giờ Bồ tát sinh làm khỉ chúa, to lớn như một con nai màu đỏ, đoanh vây với độ tám chục ngàn con khỉ, che chở đoàn khỉ sống ở trong rừng. Bồ tát khuyên đàn khỉ.
– Này các con thân, trong rừng này có những cây trái độc, có những hồ nước mà phi nhân đang sống. Nếu các con muốn ăn những loại trái chưa từng ăn và uống những chỗ nước chưa từng uống, hăy hỏi ta đă!
Đàn khỉ vâng lời. Một hôm đàn khỉ t́m đến một hồ nước lạ, chúng ngồi ở trên chờ Bồ tát đến, Bồ tát đến hỏi:
– Tại sao các con không uống nước?
– Chúng con chờ ngài đến!
– Tốt lắm!
Bồ tát đi ṿng bờ hồ, thấy có dấu chân đi xuống mà không có dấu chân đi lên, biết rằng không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, hồ này có phi nhân ẩn trú.
– Này các con, các con đă làm một việc rất tốt là không uống nước, v́ hồ này có phi nhân ẩn trú.
Con quỷ la sát biết được đàn khỉ không xuống uống nước liền hiện ra h́nh thù ghê tởm với bụng xanh, mặt trắng vàng, tay chân màu đỏ, rẻ nước nổi lên hỏi:
– Sao các ngươi không uống nước?
Bồ tát hỏi:
– Có phải ngươi là la sát sinh ra ở trong nước không?
– Phải.
– Có phải ngươi bắt những ai xuống uống nước chăng?
– Phải. Ta bắt cho đến từ con chim nhỏ xuống uống nước ở đây. Ta sẽ không tha một ai! Ta sẽ ăn thịt tất cả bọn ngươi.
– Chúng ta sẽ không để ngươi ăn thịt.
– Nhưng hăy uống nước đi!
– Được, chúng ta sẽ uống nước, không cần phải đi xuống mà bằng những cọng lau. Ngươi sẽ không làm ǵ được.
Thấy dấu chân đi xuống
không thấy dấu đi lên
Uống nước với cọng lau
ngươi không giết ta được.
Nói vậy xong, Bồ tát đem lại một cọng lau, hồi tưởng lại những hạnh Ba la mật, phát lời chân ngôn, lấy miệng thổi cọng lau, cọng lau trở thành trống không hoàn toàn, không một khúc mắc nào c̣n tồn tại ở trong. Nhưng Bồ tát không thể làm như thế cho từng cọng lau để đủ cho cả đoàn khỉ tám chục ngàn con. Bồ tát đi ṿng quanh hồ và ra lệnh.
“Tất cả cọng lau đều trống bộng hết!”
Do lợi hành rộng lớn từ trước của các vị Bồ tát, mệnh lệnh được thành tựu. Từ đấy trở đi, tất cả cọng lau ở xung quanh bờ hồ đều trở thành rỗng suốt hết.
Trong kiếp này, có bốn thần thông được tồn tại lâu dài.
Một, tướng con thỏ trong mặt trăng sẽ tồn tại trong suốt kiếp này.
Hai, địa điểm mà lửa được dập tắt (Bổn sanh Vattaka) sẽ không bị lửa chạm đến trong suốt kiếp.
Ba, tại chỗ ngôi nhà của người làm đồ gốm Ghatiraka không bao giờ bị mưa rơi xuống trong suốt kiếp này. (xem Trung Bộ kinh 2, tr 344)
Bốn, các cây lau mọc quanh bờ hồ này sẽ rỗng trọn kiếp này.
Rồi Bồ Tát và đàn khỉ đều lấy cọng lau tḥng xuống hồ hút nước và ngồi yên ổn ở trên, con quỷ la sát buồn rầu biến mất.
Bậc Đạo sư nói rằng:
“Này các Tỳ Kheo, những cây lau hoàn toàn rỗng suốt chính do lời phát nguyện của ta thuở trước.”
Khi ấy con quỷ la sát chính là Devadatta, tám muơi ngàn con khỉ chính là hội chúng của Đức Phật. C̣n con khỉ chúa khéo dùng phương tiện chính là Thế Tôn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 37 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:05am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Bồ Tát, tiền thân Phật Thích Ca, đă hiện thân vào loài khỉ để che chở hướng dẫn cho đàn khỉ và kết duyên giáo hóa lâu dài về sau. Thật là khó khăn cho việc gần gũi giáo hóa nếu không có sự tương đồng lớn lao nào đó. Một công hạnh nổi bật của Bồ Tát là thị hiện đồng sự tương ứng với chúng sinh, chúng sinh có những h́nh dáng, tập quán, tâm t́nh, sở thích... ra sao, đều được bồ tát ḥa đồng theo để gần gũi giáo hóa.
Chúng ta có thể bắt chước Bồ Tát để ḥa đồng gần gũi giáo hóa chúng sinh, nhưng chúng ta dễ ô nhiễm theo họ và đánh mất lợi ích của đôi bên. Bồ Tát tuy đồng sự tướng với chúng sinh nhưng vẫn biểu hiện được sự thanh khiết, độ lượng, cao cả và phong cách độc lập của ḿnh.
Người Hồi Giáo tin theo tiên tri Mahomet chỉ độc tôn Thượng đế Allah. Ngoài ra họ c̣n bài xích tất cả và sẵn sàng treo cổ những ai chống lại họ. Họ cũng có những giáo điều đơn giản về Đạo Đức như bố thí, không trộm cắp, không ngoại t́nh v.v... Ảnh hưởng của họ rất lớn, chiếm cả vùng trung Đông đến miền nam Châu Aâu và lan dần về Châu Á, được gây dựng bởi niềm tin cuồng nhiệt và lưỡi gươm sắt bén. Bỗng nhiên giữa họ một số tín đồ mặc áo vải, nhóm Soufi, cũng nhận ḿnh tôn thờ Thượng đế Allah, nhưng lại chủ trương phải trừ diệt ái dục, từ bỏ ngă chấp, lắng tâm thanh tịnh. Họ dùng danh hiệu Allah để nhiếp tâm một chỗ. Họ đă bổ túc giáo lư của hồi giáo đến gần với đạo Phật.
Nhà hiền triết Socrate có thể nhập định trong tư thế đứng bất động một ngày một đêm. Aûnh hưởng của ông trong nền triết học Tây phương c̣n kéo dài đến hôm nay và để lại trong ḷng người niềm kính thương sâu đậm. Ông có một trí tuệ phi thường, một tâm hồn độ lượng nhẫn nhục, một đời sống thánh thiện và một phong cách tự tại trước cái chết oan ức đến với ông.
Chúng ta hay mắc cái tật công kích tôn giáo khác. Không khéo chúng ta công kích luôn những bồ tát hiện thân đồng sự trong tôn giáo đó.
Mục đích của công hạnh đồng sự là để kết duyên giáo hóa chúng sinh, nhưng không có cái ǵ đúng tuyệt đối. Có những trường hợp một vị xuất gia cách biệt hẳn với thế gian, không ngồi chung bàn rượu với người thế tục, không mặc đồng chiếc áo, không nghỉ chung một giường không để chung mái tóc, sống khắc khổ đạm bạc, nhưng h́nh ảnh này lại khiến chúng sinh vâng phục kính tin hơn cả. Bồ tát biết rơ khi nào phải đồng sự, và khi nào phải cách biệt. Có những người cư sĩ hiểu không hết công hạnh đồng sự của Bồ tát rồi chê bai người xuất gia là thiên kiến, một chiều g̣ bó... Những kẻ này chưa đủ trí tuệ của Bồ tát.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, diễn tả công hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện vô số ứng thân để đến với chúng sinh tùy theo chúng sinh đó đáng được dùng loại ứng thân nào. Hoặc thân cận gần gũi như h́nh ảnh cư sĩ, trưởng giả, đồng nam, đồng nữ hoặc độc lập siêu thoát như h́nh ảnh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thanh văn, Bích chi, Phật đà...
Đồng sự để giáo hóa, mà không đồng sự cũng để giáo hóa. Đừng chấp một chiều!
Chúng sinh chỉ vâng lời chỉ dạy của người nào mà họ cảm thấy kính và thương. Bồ tát đă khơi dậy niềm thương kính của chúng sinh đối với ḿnh bằng hạnh đồng sự và ban phát ân nghĩa. Bồ tát Thiện Tuệ (tiền thân Phật Thích Ca) thị hiện vào loài khỉ và làm con khỉ chúa to lớn với trí tuệ và quyền năng phi thường. Để đồng sự với tám chục ngàn con khỉ và che chở hướng dẫn cho đàn khỉ đó, Bồ tát đă ban phát ân nghĩa bằng mọi khả năng và trí tuệ của ḿnh đem lại sự an vui cho đàn khỉ. Vô số đời sau gặp lại nhau ở thân người, họ sẽ dễ dàng nghe theo sự dạy bảo của Bồ tát.
Tứ nhiếp pháp trong đạo Phật gồm có: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.
Trong đó bố thí và lợi hành thuộc về ban phát ân nghĩa, ái ngữ và đồng sự thuộc về gần gũi thương yêu. Đầy đủ đồng sự và ân nghĩa, chúng sinh sẽ dành nhiều kính thương với Bồ tát.
Thần lực của một vị Bồ tát c̣n tùy thuộc vào công đức quá khứ, mặc dù Bản thể giải thoát đă b́nh đẳng suốt từ Alahán đến chư Phật. Bản thể giải thoát th́ b́nh đẳng nhưng trí tuệ thần lực lại lệ thuộc về công đức. Cùng là Alahán nhưng tôn giả Mục kiền liên th́ thần thông đệ nhất; tôn giả Xá lợi Phất th́ trí tuệ đệ nhất. Muốn dùng thần lực để làm rỗng suốt cọng lau, Bồ tát đă hồi tưởng lại những hạnh Ba la mật quá khứ, sử dụng công đức đó để thành tựu một phép lạ cho hiện tại là làm thông suốt cọng lau. Nhưng chưa đủ, Bồ tát đi quanh bờ hồ và ra lệnh tất cả cọng lau đều trở thành rỗng suốt, lập tức các cọng lau đều trở thành rỗng suốt như mệnh lệnh của Bồ tát. Và thần lực đó đủ để tồn tại suốt kiếp này (một kiếp là một chu kỳ thành hoại của địa cầu).
Chuyện này tương tự với phép lạ mà vị Thánh da đen Martin de porres ở Péru thực hiện. Thánh là thầy ḍng thuộc ḍng tu Đa Minh. Suốt đời Thánh đă đem lại an vui lợi ích cho vô số người và vật. Những phép lạ của Thánh th́ tương đương với phép lạ của Chúa Jésus và đức hạnh của Thánh th́ chu toàn tuyệt diệu. Năm 1634, nước sông Lima bị mưa lũ trên nguồn đang dâng lên nhanh chóng, có thể cuốn trôi thành phố Lima bên cạnh. Dân chúng lo ngại cho tương lai đen tối! Thánh Martin cũng có mặt tại nơi để chứng kiến. Thánh chạy ra bờ sông lấy ba ḥn đá ném vào chỗ xoáy nước mạnh nhất rồi quỳ xuống cầu nguyện trước mặt mọi người. Khi Thánh vừa cầu nguyện xong th́ nước sông đă rút xuống trở lại b́nh thường. Đứng trước hiện tượng phi thường vừa xảy ra, toàn dân sung sướng hoan hô Thánh đă cứu họ khỏi sự đe dọa này. Họ đề nghị cất một thánh đường bên cạnh để kỷ niệm, nhưng thánh không đồng ư v́ gần đó đă có sẵn nhà thờ Đức Bà. Và Thánh c̣n tuyên bố rằng vĩnh viễn sẽ không có nạn lụt tại vùng Lima nữa. Đến hôm nay, sắp sang thế kỷ 21, mấy trăm năm trôi qua, lời tuyên bố trên vẫn c̣n giá trị chân thật.
Với lợi hành rộng lớn từ quá khứ kết nên công đức sâu xa, thần lực của Bồ tát tồn tại rất lâu dài.
Sự xuất hiện của Devadatta là điều làm chúng ta ngạc nhiên. Devadatta là kẻ thù, là đối thủ gây trở ngại tai họa cho Bồ tát với những h́nh tướng và hành vi ác độc. Đến tận đời cuối cùng hiện thân làm Phật của Bồ tát, mà Devadatta vẫn chưa chấm dứt sự thù địch với Ngài. Nhưng chúng ta đặt vấn đề nếu Devadatta chỉ thuần là kẻ ác độc trong nhiều kiếp, làm sao ông có thể đủ phước sinh cùng với Phật trong hoàng tộc và được dung mạo khá đẹp đẽ, cùng đời sống vương giả sung sướng như vậy? Công đức đó từ đâu mà có?
Mặc dầu kinh Pháp Hoa xuất hiện khoảng 700 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, nghĩa là thời tại thế nguyên thủy Đức Phật không giảng kinh Pháp Hoa cũng như các kinh Đại thừa khác, nhưng kinh Pháp Hoa tiết lộ rằng Devadatta là vị Bồ tát nghịch hạnh, theo phá hoại Đức Phật Thích Ca để Ngài thành tựu đại hùng đại lực và hạnh nhẫn nhục vô biên. Đúng là chỉ có nghịch cảnh mới thử thách và giúp một người phát khởi được ư chí dũng mănh. Có thể như thế, rằng Devadatta là vị Bồ tát chân thật, chịu tổn phước làm nghịch hạnh trợ duyên cho công hạnh của Bồ tát Thiện Tuệ sớm được viên măn. V́ là Bồ tát nên Devadatta làm nghịch hạnh với Bồ tát Thiện Tuệ, nhưng làm lợi ích chúng sinh ở những chỗ khác để tạo cho ḿnh một hồ nước phước vĩ đại nhằm hóa giải nắm muối tội kia. Thế nên ông đủ phước bám theo Đức Phật từ đời này sang đời khác.
Trở lại vấn đề đồng sự, Bồ tát thị hiện đồng sự tướng với chúng sinh và khơi dậy được nơi chúng sinh niềm thương kính đối với ḿnh. Sau khi được chúng sinh thương kính hoặc hiện đời hay đời sau, Bồ Tát mới đem chánh pháp giáo hóa. Nếu chúng sinh chưa đủ niềm thương kính mà chúng ta đă vội đem chánh pháp ra giáo hóa, họ sẽ phỉ báng chúng ta lẫn chánh pháp. Điều này khiến cho họ bị bất hạnh nhiều hơn. Phải đợi niềm thương kính của họ thuần thục Bồ Tát mới dạy họ những giáo lư mầu nhiệm khác.
Có thể trong những trường hợp nào đó, chúng ta phải đồng sự với mọi người, nhưng làm sao đưa họ đến niềm thương kính chứ không đưa họ đến sự khinh thường. Nếu việc đồng sự của chúng ta không gây được niềm kính thương của mọi người, trái lại, đă đưa đến sự coi thường, tốt hơn chúng ta nên cách biệt để quay lại lo tu cho chính ḿnh đợi đến khi chúng ta đủ trí tuệ và uy đức hăy thực hành đồng sự.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 38 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:12am | Đă lưu IP
|
|
|
2 – TẠO CƠ HỘI CHO CHÚNG SINH TÁC PHƯỚC.
(Trích Từ Bi Thủy Sám, tựa)
Thuở xưa về triều Vua Đường Ư Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt. Ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất kinh sư trong một ngôi chùa. Nhà sư ấy mắc bệnh cùi, ai cũng ghê tởm lánh xa, chỉ có ngài Tri Huyền khởi ḷng thương cảm đến chăm sóc hầu hạ tận t́nh. Đến lúc nhà sư sắp ra đi mới dặn Tri Huyền rằng:
– Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Bành Châu đất Tây Thục t́m ta, và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ ta trú ngụ.
Sau đó ngài Ngộ Đạt cũng dời đến chùa An Quốc th́ Đạo Đức của Ngài vang khắp. Vua Ư Tôn thân hành đến Pháp Tịch nghe Ngài giảng đạo và phong làm quốc sư. Vua dâng cúng Ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương. Một hôm ngài ngồi một ḿnh trên chiếc tọa ấy, tâm khởi niệm măn nguyện hài ḷng trước sự thành đạt của ḿnh, hốt nhiên Ngài nghe đau nhói tột độ nơi đầu gối muốn xỉu. Khi xem lại th́ đầu gối xuất hiện một mụt ghẻ mặt người. Nỗi đau hoành hành Ngài vô tận mà không một danh y nào chữa nổi. Ngài chợt nhớ lời căn dặn năm xưa của vị sư nên sắm sửa đi về Tây Thục.
Trên đường đi trời đă mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mờ Ngài nh́n xem bốn phía bỗng thấy dạng hai cây tùng. Ngài mới tin rằng lời ước hẹn không sai. Ngài liền đi ngay đến chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa, nhà sư đang đứng chờ đón Ngài một cách thân mật.
Ở lại đêm, Ngài Ngộ Đạt mở tỏ hết tâm sự đau khổ của ḿnh. Nhà sư nói:
– Không hề ǵ đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa, mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn Ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa th́ mụt ghẻ kêu lên:
– Đừng rửa vội! Ông học nhiều biết rộng, đă khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Án, Triệu Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
Kinh ngạc vô cùng, Ngài đáp:
– Tôi có đọc.
– Ông đă đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện Viên Án giết Triệu Thố! Triệu Thố bị chém ở chợ phía đông oan ức biết dường nào! Viên Án là ông. Triệu Thố là tôi. Đời đời tôi t́m cách báo thù ông, song đă mười kiếp ông làm bậc cao Tăng, giới luật tinh nghiêm nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay v́ ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù ông được. Nay nhờ tôn giả Ca Nhă Ca lấy nước pháp tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trở đi tôi không c̣n báo oán ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa. Nước vừa chạm vào th́ cơn đau xảy ra kịch liệt Ngài bất tỉnh hồi lâu. Khi tỉnh lại th́ không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Ngài mới biết thánh hiền ẩn dấu Bồ Tát thị hiện, kẻ phàm phu không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó lại th́ điện các uy nghi đă biến mất tự bao giờ. Ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo đời Nhà Tống mới sắc hiệu là “Chí Đức Thiền Tự” có một vị cao tăng làm bài kư sự ghi chép việc này rơ ràng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 39 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:13am | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN XÉT:
Chẳng biết có ai đọc truyện Tây Hán ra sao c̣n tôi không có đọc được cốt truyện ấy nên không rơ hết sự t́nh, chỉ theo chỗ dẫn trên để hiểu rằng Viên Án đă âm mưu giết Triệu Thố một cách rất oan ức. Lẽ ra Ngài Ngộ Đạt sẽ đền trả tội nghiệp này một cách đau đớn ở địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh. Nếu Ngài không có công đức lớn lao trong Phật Pháp. Ở đây ta thấy công lao tu hành chân chính của một người đă hóa giải khá nhiều trọng tội của họ. Sau đời giết oan Triệu Thố, Viên Án liên tiếp mười đời làm cao tăng tŕ giới nghiêm chỉnh. Không thể có sự kiện này nếu nhiều đời trước nữa Viên Án không từng kết duyên tu tập sâu dày trong Phật Pháp. Công đức trước và sau sự kiện Triệu Thố, Viên Án đă cảm ứng được sự cứu độ của Bồ Tát. Vị Bồ Tát xuất hiện ở đây chính miệng mụn ghẻ cho biết là tôn giả Ca Nhă Ca. Tôn giả Ca Nhă Ca là ai, chúng ta cũng không biết rơ ràng, chỉ chiêm ngưỡng phương tiện thiện xảo của tôn giả nơi câu chuyện này. Và tại sao Triệu Thố biết được điều này, lại nói rằng tôn giả đă giải oan cho ông rồi? Sự liên hệ riêng giữa tôn giả Ca Nhă Ca và Triệu Thố c̣n nằm trong bí mật. Chỉ có sự liên hệ giữa tôn giả Ca Nhă Ca và Ngài Ngộ Đạt được biểu hiện cụ thể nơi đây.
Thuở c̣n là sai di, Ngài Ngộ Đạt nổi tiếng thần đồng, đă từng đăng đàn thuyết pháp cho tăng chúng tỳ kheo. Ngài được Lư Thương Ẩn đề thơ khen tặng.
Sa Di mười bốn giỏi giảng kinh
Tuổi nhỏ như ông chỉ cầm b́nh
Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
Chẳng bởi tuổi cao, trọng tánh linh
(Thập Tứ Sa Di năng giảng kinh
Tợ sư niên kỷ chỉ huề b́nh
Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
Bất tại niên cao tại tánh linh)
Nhưng chẳng những Ngài thông minh trí tuệ thôi mà đức hạnh cũng rất chu toàn đặc biệt. Nhà sư bịnh cùi bị mọi người ghê tởm xa lánh, thế mà Ngài lại ân cần chăm sóc trị liệu chu đáo. Không ngờ Ngài đă tác thành phước duyên to lớn là hầu hạ một bậc Bồ Tát siêu phàm. Chính tôn giả cố ư thị hiện bệnh nặng để tạo cơ hội cho Ngộ Đạt làm phước. Và rồi chính phước nghiệp đó sẽ hóa giải oan ức về sau mà tôn giả biết trước Ngộ Đạt không thể nào vượt qua nổi. Tôn giả là người chứng ngộ, thấu suốt đường đi phức tạp của Nhân Quả Nghiệp báo nên không dùng thần thông phép lạ để chận đứng Nghiệp báo của Ngộ Đạt. Tôn giả chỉ dùng thần thông tạo cơ hội cho Ngộ Đạt tác phước và có lẽ trong cơi giới khác đă khuyên bảo Triệu Thố khá nhiều.
Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sinh không chỉ bằng cách đem tài vật bố thí cho họ, mà phải biết tạo điều kiện cho họ tác phước, sự thọ nhận tài vật giúp họ qua cơn thiếu thốn nhất thời nhưng lại tiếp tục tổn phước về sau. C̣n sự chịu khó tạo phước mới đem lại cho họ an vui lâu dài. Những khi Bồ tát ra đời làm vua, quan, hướng dẫn sư... đều dùng uy lực của ḿnh khuyên bảo nhân dân tu hành thập thiện, khuyên họ vui vẻ cùng nhau đắp đường, sửa đê, đào kinh, cất trường học, mở bệnh viện, trồng rừng... Những công tŕnh phúc lợi công cộng là cơ hội để nhiều người tạo phước. Nó khác với những công tŕnh bắt dân xu dịch khổ sở để kiến tạo điện đài cho tập đoàn thống trị phong kiến. Nếu chúng ta có tâm từ ái với chúng sinh nào, hăy khéo léo tạo điều kiện cho chính họ tác phước. Điều kiện đó là những lời khuyên bảo ân cần, là ư kiến chỉ vẻ phương pháp, là phương tiện tài vật cụ thể. Ví như ta khuyên họ hăy đắp lại đoạn đường trong làng, ta sẽ bảo họ cố gắng lên, chỉ họ cách thức tu sửa đường sá, cấp cho họ thức ăn và dụng cụ. Làm được điều này, họ sẽ bớt khổ về sau.
Chúng ta cũng thấy công đức tŕ giới tinh nghiêm có năng lực chận đứng nghiệp lực quá khứ. Mười đời làm cao tăng khiến cho oan hồn Triệu Thố không có cơ hội đột nhập phá tán Viên Án. Nếu chúng ta phát tâm tu hành chân chính, tŕ giới cẩn trọng, Thiền Định chuyên cần th́ những nghiệp lực cũ bị chận lại. Nhờ vậy chúng ta được yên ổn thuận tiện tiến tu đạo nghiệp cho đến viên măn. Tới khi đạo nghiệp viên thành, quả báo cũ xuất hiện, chúng ta không cảm thấy đau khổ.
Chỉ v́ niệm tự măn bất ngờ khởi lên không kiểm soát được, uy đức bị khiếm khuyết, ác nghiệp xưa mới có cơ hội làm thành mụt ghẻ mặt người gây ra đau đớn. V́ vậy, người phát tâm tu hành cần phải giữ ǵn chánh niệm trong từng phút giây miên mật, kiểm soát đừng để ác niệm, tà niệm xen vào làm tổn thương uy đức. Nhưng ngài Ngộ Đạt có công đức quá khứ giữ ǵn nên oan hồn Triệu Thố không xâm nhập vào trong tư tưởng để gây thành đồng cốt điên loạn, chỉ biểu lộ nơi cơ thể, dưới đầu gối làm thành mụn ghẻ đau đớn mà thôi! Có những người thiếu công đức quá khứ, chê bai thánh hiền, đă từng dùng bùa chú hại người, đời này những oan trái xưa trổ quả, thường báo ứng vào tư tưởng để sai sử làm thác loạn mê mờ.
Tôn giả Ca Nhă Ca thấy trước cái lúc vinh quang trong đời Ngộ Đạt và biết cơ hội cho nghiệp cũ sẽ đến nên đă ân cần dặn ḍ mọi điều. Khi nạn xảy ra, Ngộ Đạt t́m đến nơi hẹn ước th́ trông thấy cảnh chùa viện nguy nga, lầu vàng điện ngọc, ánh sáng chói lọi giao xen rực rỡ. Sáng hôm sau khi bệnh được chữa xong, th́ tất cả biến mất, chỉ c̣n lại núi rừng tĩnh mịch hoang vu như thuở nào.
Do công đức vĩ đại từ nhiều kiếp, một vị Bồ tát được tùy nguyện tạo thành những Tịnh độ theo ư muốn để giáo hóa chúng sinh. Tôn giả Ca Nhă Ca đă thị hiện một chút Tịnh độ của ḿnh qua một đêm làm chỗ trú ngụ cho Ngộ Đạt và cũng để an ủi gây thêm niềm tin sức mạnh cho Ngài. Khi công việc đă xong, Tôn giả thâu hồi thần lực, trả lại núi rừng cảnh cũ người xưa. Tịnh độ không phải là cứu cánh của chư Phật. Nó chỉ là huyễn cảnh được dựng nên tạm thời để giáo hóa chúng sinh. Cứu cánh mà chư Phật, chư Bồ tát nhắm đến là làm sao cho chúng sinh thành tựu giới định huệ giải thoát. C̣n tịnh độ chỉ là việc bên ngoài không chân thật. Nếu chúng sinh ngay nơi tự tâm được thanh tịnh giải thoát th́ Tịnh độ là thừa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên

Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 40 of 49: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 6:14am | Đă lưu IP
|
|
|
3 – NHẪN NHỤC
(Truyện về vị Tiên nhân và Ca lợi Vương, chúng tôi đă có dịp đề cập trong tạp bút Cuối Hàng Dương. Ở đây xin phép được lập lại.)
Thuở xưa có một vị Tiên nhân tu tập Thiền Định trong rừng vắng. Một hôm vua Ca lợi (Kali) dẫn cung phi đi vào rừng dạo chơi. Đoàn người đông đảo chia nhau tản mác khắp nơi. Có một số cung nữ vào sâu gặp vị Tiên nhân đang tọa thiền trên bệ đá dưới hàng cây. Họ sinh ḷng cung kính liền đem hoa quả dâng cúng và ngồi quanh thưa hỏi. Vị Tiên nhân v́ họ thuyết pháp. Chợt vua Ca Lợi xuất hiện trông thấy cảnh tượng một gă đàn ông ngồi giữa đám cung phi xinh đẹp của ḿnh, bất giác sinh ḷng tức giận, đến hỏi:
– Ngươi ở trong rừng này làm ǵ?
Vị Tiên nhân thưa:
– Thưa, tôi tu hạnh nhẫn nhục.
– Ngươi đă nhẫn nhục được chưa?
– Đă nhẫn nhục được.
Vua liền lấy gươm cắt đứt cánh tay của vị Tiên rồi hỏi:
– Ngươi nhẫn nhục được chăng?
– Tôi nhẫn nhục được.
Vua lại lấy gươm chặt đứt cánh tay c̣n lại và hỏi:
– Ngươi nhẫn nhục được chăng?
– Tôi nhẫn nhục được.
Đến đây vua Ca Lợi kinh hoảng trước thái độ hiền lành bất động của Tiên nhân, quăng gươm xuống cầu xin sám hối. Tiên nhân bảo:
– Đại vương, tôi không hề oán hận đại vương, vẫn thương yêu đại vương như tôi vẫn thương yêu tất cả chúng sinh khác. Tôi nguyện đến khi thành Phật, sẽ độ đại vương trước hết.
Vua Ca Lợi chính là tiền thân của tôn giả Kiều Trần Như, vị đệ tử đầu tiên chứng Alahán của Đức Phật.
NHẬN XÉT:
Nhẫn nhục là một trong những công hạnh nổi bật của Bồ tát. Dĩ nhiên sự nhẫn nhục của Bồ tát khác người phàm phu với những đè nén ức chế. Bồ tát nhẫn nhục bằng định lực sâu xa của ḿnh. Không một sự sân hận nào có thể khởi lên trong tâm thể thênh thang của Bồ tát.
Từ nhiều kiếp si mê chưa thông đạt chánh pháp, Bồ tát vẫn đă từng gây oan trái với chúng sinh. Rồi đến khi đạt đạo giải thoát, nếu Bồ tát an trụ Niết Bàn th́ oan trái ngày xưa không ảnh hưởng tới được. Nhưng v́ đại bi tâm thúc đẩy, Bồ tát (tức là vị Alahán đủ tam minh) không bao giờ rời bỏ chúng sinh. Trong Niết Bàn tịch tĩnh, Bồ tát biết rơ t́nh trạng của chúng sinh, của thế gian, của Phật pháp. Khi thấy cần phải trở lại giáo hóa, Bồ tát lập tức thọ thân sinh tử vào nơi thích hợp. Một khi đă thọ thân sinh tử th́ oan trái xưa phải gặp lại. Bồ tát sẽ nhẫn nhục để trả xong những tiền khiên túc trái và luôn tiện kết duyên giáo hóa cho kẻ thù. Thù hận cũng không cố định. Chưa trả được hận thù th́ chúng sinh tức giận căm hờn. Khi trả xong rồi th́ có khi khởi ḷng thương hại. Vua Ca Lợi cũng vậy, chưa trả được mối thù trước th́ hậm hực dữ dằn, sau khi trả thù xong th́ hối hận sợ hăi. Thái độ nhẫn nhục hiền lành của Bồ tát Tiên nhân làm tăng nỗi hối hận của vua thêm bội phần. Nỗi hối hận đó giúp cho Bồ tát dễ dàng kết duyên giáo hóa về sau. Có lẽ những đời kiếp tiếp theo, vua Ca Lợi đă được Bồ tát nhiếp hóa măi để rồi vua trở thành tôn giả Kiều Trần Như, vị đệ tử chứng ngộ đầu tiên của Đức Phật, như lời Phật đă hứa.
Nhưng sức nhẫn nhục của Bồ tát không phải chỉ dùng để trả nghiệp xưa mà c̣n để hóa độ chúng sinh. Bồ tát muốn đem từ bi bủa khắp chúng sinh th́ cần phải có sức nhẫn nhục vô biên v́ chúng sinh vốn cang cường khó bảo. Dù có giúp họ một trăm lần, chỉ cần một lần trái ư họ là họ liền quên hết ơn xưa và tỏ thái độ thù oán. Thiếu kiên nhẫn Bồ tát không thể viên măn sự nghiệp độ sinh.
Chư Tổ đă biểu tượng ư nghĩa này khi vẽ h́nh tượng bồ tát Quan Âm dùng cành dương mềm mại (tượng trưng hạnh nhẫn nhục) để rưới nước cam lồ (tượng trưng hạnh từ bi). Phải có nhẫn nhục mới tỏ được từ bi.
Kết duyên giáo hóa chúng sinh không phải là chuyện trong một đời hai đời. Bồ tát phải kiên nhẫn đi theo họ măi từ đời kiếp này sang đời kiếp khác. Họ đọa làm thân thú th́ Bồ tát thọ thân thú; họ sinh làm người th́ Bồ tát thọ thân người; họ sinh cơi trời th́ Bồ tát hiện thân thiên chủ. Nhưng trong mỗi thân đến với họ, Bồ tát luôn luôn ở một địa vị cao quư khiến họ phải kính phục vâng lời (dĩ nhiên không phải luôn luôn như vậy). Sức kiên nhẫn của Bồ tát đi theo chúng sinh để giáo hóa thật là không bờ không bến.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|