Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 207 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC hay những bài học về ĐẠO ĐỨC! Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tranngocai
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 October 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 141 of 349: Đă gửi: 18 February 2005 lúc 9:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranngocai


Bài 8:     B̀NH ĐẲNG




1. ĐỊNH NGHĨA:

a. B́nh đẳng khác với san bằng quyền lợi.

San bằng quyền lợi là buộc mọi người chỉ nhận được một số quyền lợi giống nhau, dù họ có phước khác nhau, dù họ bỏ ra công sức khác nhau, dù họ đem lại hiệu quả khác nhau.

Chữ Lục ḥa trong cách sống của chư Tăng nhiều khi cũng được hiểu là san bằng quyền lợi như vậy, mọi người đều có quyền lợi như nhau, không ai nhiều quyền lợi hơn ai. Trong cộng đồng người tu, điều này có thể chấp nhận được v́ người tu không đ̣i hỏi quyền lợi dù công sức bỏ ra rất nhiều. Nhưng sẽ là rất khó nếu điều này được áp dụng trên toàn xă hội.

Hầu hết ai cũng có vị kỷ tiềm ẩn, ai cũng muốn được công bằng. Người làm nhiều phải được hưởng nhiều. Công bằng cũng là tính chất của luật Nhân Quả. Nghĩa là người nào có phước nhiều, họ phải được hưởng sung sướng nhiều hơn.

Trong xă hội, người nào đóng góp công sức nhiều, người đó phải được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Đó là tính công bằng của xă hội. Cho nên, xă hội không thể buộc mọi người phải hưởng quyền lợi giống nhau, trong khi khả năng của họ khác nhau. Người thông minh hơn, tài năng hơn, làm việc hiệu quả hơn, không thể hưởng mức lương như người không có tài năng, không có trí tuệ. Nếu buộc mọi người hưởng quyền lợi giống nhau dù họ đem lại hiệu quả khác nhau sẽ phá vỡ sự phấn đấu cá nhân, v́ thực tế là ai cũng c̣n tâm lư vị kỷ, và đ̣i hỏi sự công bằng.

Do đó, san bằng quyền lợi, buộc mọi người hưởng quyền lợi giống nhau là một điều không thể thực hiện được. Đó là việc làm phá vỡ luật công bằng và làm nhiều người nảy sinh tâm lư chán nản.

Chỉ trong môi trường của người tu theo đạo Phật, điều này mới có thể thực hiện được ở một chừng mực nào đó. Trong đạo Phật, trong một đại chúng, có người làm được nhiều việc, có người làm được ít việc. Nhưng người làm được nhiều việc thường không chấp, họ buông xả được tính vị kỷ của ḿnh, chấp nhận đời sống san bằng quyền lợi. Tất nhiên, việc san bằng quyền lợi, chỉ áp dụng được trong chùa một phần thôi, có khi không được hoàn toàn. Đó là khi trong chúng có những người phước bổng vượt lên. Họ là người tu tập được nhiều, đóng góp được nhiều cho đại chúng. Dù không mong nhiều quyền lợi, vẫn muốn chia đều quyền lợi nhưng phước đến không kéo lại được nữa. Họ bắt đầu được nhiều Phật tử mến mộ. Do phước tự nhiên, trí tuệ họ được mở mang, họ có thể thuyết pháp, giảng kinh, làm được nhiều việc nổi bật hơn. Thế là, những vị Trụ tŕ, những Thầy bậc trên ưu ái, dành cho họ những đặc quyền đặc lợi. Dù không muốn nhưng họ cũng bắt đầu được hưởng. Rồi chúng khác cũng không lấy làm khó chịu v́ phước của họ xứng đáng được hưởng như thế.

Như vậy, buộc mọi người phải sống bằng nhau trong quyền lợi là điều rất khó thực hiện. Trên tâm nguyện, người tu theo đạo Phật có học pháp Lục ḥa nên dễ dàng chấp nhận hưởng quyền lợi bằng Huynh đệ cho dù họ đóng góp nhiều hơn. Nhưng có những trường hợp, chùa cũng không làm được điều đó v́ phước của mỗi người có sự sai biệt.

Ngoài xă hội, điều này tuyệt nhiên không thể thực hiện được. Những người có tài năng, có trí tuệ phải được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Như vậy, b́nh đẳng không phải là san bằng quyền lợi.


b. B́nh đẳng là thái độ Đạo đức trong giao tiếp với mọi người.

Nếu san bằng quyền lợi là cơ chế của tổ chức, ở trong chùa hay ngoài thế gian, th́ b́nh đẳng là thái độ của Đạo đức khi đối xử với mọi người.

Hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau.

Trong đối xử, b́nh đẳng ngược với sự thiên vị. Người xuất gia, đối với Phật tử phải có sự b́nh đẳng. Phật tử đến chùa, có người nghèo, người giàu. Trước hai hạng người như vậy, nếu giữ được sự b́nh đẳng, chúng ta sẽ không có sự phân biệt đối xử với họ. Như vậy, chúng ta là người có Đạo đức b́nh đẳng. Nhưng giữ được thái độ này là điều hoàn toàn không đơn giản, không phải ai cũng có thể làm được.

Người ngoài thế gian cũng như người trong Đạo thường có nhiều lư do để đối xử thiên vị.

-Thứ nhất, chúng ta thường đối xử thiên vị người có duyên với ḿnh từ những kiếp trước,( duyên ở đây có nghĩa là duyên lành).Trong những kiếp trước, có thể họ đă ưu ái, đă giúp đỡ ḿnh. Kiếp này gặp lại, dù không cố ư nhưng tự nhiên chúng ta vẫn thiên vị họ, vẫn đối xử tốt với họ hơn những người khác.

Chẳng hạn, do duyên kiếp trước chi phối nên có người đến xin xuất gia, Thầy trụ tŕ nhận ngay, có người lại bị từ chối. Trong đối xử, nếu không có sự b́nh đẳng cũng do duyên đời xưa. Mặc dù trong ḷng không có sự phân biệt, không thương ai nhiều hay ghét ai nhiều hơn, nhưng duyên đời xưa chi phối rất mạnh nên chúng ta có sự thiên vị, không b́nh đẳng trong đối xử. Chỉ v́ đây là điều thuộc về Nhân quả nên chúng ta rất khó vượt qua.

Ngay cả trong gia đ́nh, cha mẹ đối với con cái cũng không đồng đều, vẫn có sự thiên vị . Thực ra, con nào cũng do ḿnh sinh ra nên không có lư do ǵ để cha mẹ ghét bỏ, đối xử phân biệt. Nhưng do duyên chi phối nên nhiều khi cha mẹ lại thương những đứa con quậy phá tày trời mà những đứa ngoan hiền lại không để ư đến. Có những t́nh cảm ḱ lạ như thế.

Những sự thiên vị đó, chúng ta chỉ có thể giải thích được bằng nguyên nhân thuộc về duyên đời trước mà thôi.

-Thứ hai, chúng ta thường đối xử thiên vị với những người có nhiều ưu điểm. Điều này cũng đă được nhắc đến trong bài Tâm từ. Người có ưu điểm là người có nhan sắc, có vẻ đẹp nổi trội hoặc sang trọng hơn so với người khác. Mặc dù người ta không có duyên với ḿnh lắm, nhưng v́ những điểm nổi trội đó mà chúng ta hay để ư đến họ, thiên vị họ. Sự thiên vị nhiều khi cũng ẩn chứa một sự cầu cạnh, mong rằng người ta sẽ đoái hoài tới ḿnh, giúp đỡ ḿnh. Dù khác nhau về mức độ nhưng nó vẫn là biểu hiện của sự vị kỷ.

Thiên vị không phải là Đạo đức, và đó là điều mà tất cả chúng ta, người xuất gia hay cư sĩ, cũng đều dễ phạm phải. Nếu tu tập không vững chắc, đạo lực không mạnh, chúng ta sẽ dễ rơi vào t́nh trạng đối xử thiên vị.

Hiện nay, t́nh trạng người xuất gia đối xử phân biệt với cư sĩ đến chùa, phân biệt giữa người giàu và người nghèo là một tŕnh trạng rất phổ biến và bị than phiền khắp nơi. Nếu quư Phật tử nào chưa rơi vào trường hợp ấy là người có phước, đă gặp được những vị tu hành chân chính. Không ít người tỏ ra rất bất măn khi thấy có nơi, các Thầy chỉ ân cần, vồn vă với những Phật tử giàu có và tỏ ra lơ là với những người nghèo khổ.

Để lư giải điều này với Phật tử, chúng ta chỉ có thể nói rằng v́ đời trước những người ấy đă tạo phước, biết quan tâm đến người khác. Phước sẽ hiện ra trên gương mặt rạng rỡ, ánh mắt khả ái, tiền bạc nhiều, tướng người sang trọng….nên họ có một lực thu hút sự chú ư của người khác, đi đâu cũng được người ta trân trọng. Khi đến chùa, họ cũng thu hút sự chú ư của người xuất gia. Người nghèo thường là người ít phước, họ không được sự chú ư của người khác. Đó là luật công bằng, công bằng đến nghiệt ngă mà chúng ta phải chấp nhận.

Nhưng về phía người xuất gia, nếu biết tu tâm, biết giữ tâm ḿnh thanh tịnh, đứng trước mọi người, mọi cảnh, tâm vẫn không chạy theo. Họ luôn luôn kiểm soát tâm ḿnh. Đứng trước hai đối tượng ấy, có thể phước của người giàu thu hút tâm họ, nhưng v́ sức định trong ḷng họ vững chắc nên tâm họ không bị hút về đó. Họ vẫn ở lại với tâm ḿnh. Bởi vậy, dù người kia có giàu sang, gương mặt rạng rỡ, nhưng họ vẫn ở lại với tâm, không bị chi phối.

Dù là niệm Phật hay tu Thiền, người biết tu tập thường không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Có khi đang niệm Phật, tuy nói chuyện với người khác nhưng họ vẫn ở lại với câu niệm Phật trong tâm ḿnh, tâm không hướng ra ngoại cảnh. Người tu Thiền lúc nào cũng kiểm soát tâm ḿnh, xem tâm tịnh hay động. Mặc dù nói chuyện với người khác hoặc làm việc ǵ đó nhưng lúc nào họ cũng ở lại với tâm, kiểm soát tâmï. Sức định càng sâu, họ càng ít bị ngoại cảnh chi phối.

Đây là vấn đề tế nhị của tâm và cũng là vấn đề khó hiểu. Người không tu tập vững chắc, thừơng bị ngoại cảnh lôi cuốn tâm ra bên ngoài. C̣n người có công phu tu tập vững chắc, họ sẽ ở lại với tâm của ḿnh. V́ vậy, giữa hai người giàu và nghèo, không ai có thể cuốn hút họ được. Điều này biểu hiện ra ở cách ứng xử bên ngoài. Đó là ḷng từ bi, ḷng b́nh đẳng.

Người giữ được tâm ḿnh trong định là người có trí tuệ. V́ là người có trí tuệ nên họ thường chú ư đến người nghèo khổ nhiều hơn. Sở dĩ như vậy là do họ biết người nghèo khổ dễ bị mặc cảm, mặc cảm về thân phận nghèo hèn của ḿnh. Khi đến chùa, những người ấy thường không dám gặp thầy Trụ tŕ. Họ loanh quanh làm lụng việc ǵ đó hoặc khi nghe Thầy nói chuyện, họ cũng chọn một chỗ ngồi kín đáo, không dám lộ mặt ra.

Nếu có công phu tu hành vững chắc, tâm ổn định, người xuất gia sẽ nhận ra được thái độ mặc cảm, buồn tủi của người nghèo, nhất là người tật nguyền, để tỏ ḷng thương và quan tâm đến họ nhiều hơn. Chính t́nh yêu thương và sự quan tâm đúng mực của chúng ta sẽ giúp họ vơi đi những mặc cảm vốn tồn tại cố hữu trong ḷng họ. Đó là Đạo đức b́nh đẳng. Thực ra, trong trường hợp này, đối với những người có trí tuệ, sự b́nh đẳng lại mang một ư nghĩa khác, linh hoạt hơn. B́nh đẳng nhưng lại thiên vị đối với người nghèo. Những người giàu có thường sinh tâm kiêu ngạo về sự giàu sang của ḿnh. Nếu được ân cần vồn vă, họ càng dễ kiêu ngạo hơn. Với những người như vậy, chúng ta không thiên vị cũng không sao, v́ chùa này không quan tâm sẽ có chùa khác quan tâm.

Có những Phật tử cậy chỗ giàu sang, khi cúng dường công quả thường yêu cầu chùa phải làm theo ư ḿnh. Gặp những trường hợp ấy, chúng ta phải dứt khoát, không bao giờ nghe theo. Chúng ta không đồng ư là để diệt cái ngă của họ, diệt tâm kiêu mạn về sự giàu có của họ. Tất nhiên, sự lạnh lùng nghiêm khắc của chúng ta có khi không đem lại hiệu quả v́ người ấy có thể đến chùa khác và sẽ được ân cần đón tiếp. Hoặc kết quả có thể xảy ra ngược lại, người ấy không bao giờ đến chùa nữa. Nhưng chúng ta vẫn phải kiên quyết để cho họ một bài học. Có thể họ được đón tiếp ân cần ở chùa khác, nhưng dù sao họ cũng hiểu rằng, có ít nhất một nơi không có chỗ cho tâm kiêu mạn của họ ngự trị.

Những người nghèo thường lui tới chùa là những người mến chùa, cần t́nh yêu thương. Nếu chúng ta không tiếp, họ sẽ cảm thấy lạc lơng, mặc cảm cho thân phận ḿnh. V́ vậy, chúng ta phải thương yêu những người nghèo khổ, bù đắp cho họ những thiếu thốn trong đời sống tinh thần. Đối với những người tật nguyền, chúng ta càng phải quan tâm hơn nữa để xoá dần trong họ những nỗi mặc cảm, giúp họ tự tin hoà nhập với cuộc đời.

Nếu là người quản chúng, chúng ta phải tạo cơ hội đồng đều cho chúng tu học và công quả, không phân biệt ḍng dơi, tài năng. Như vậy là chúng ta đă giữ được Đạo đức b́nh đẳng.

Người tu hành thường có ba việc: tu, học và làm việc.

Tu bao gồm nhiều việc ngồi Thiền, lễ Phật, tụng Kinh. Học có thể hiểu một cách rộng răi: học trên lớp, tự học ở nhà, học với Thầy….Người quản chúng phải đào tạo điều kiện cho chúng thực hiện hai điều này. Phải tạo điều kiện cho họ nhưng không được thiên vị. Người có điều kiện học, chúng ta phải giúp cho họ được học, giúp cho họ có th́ giờ để tu. Đối với người xuất gia, tu là việc quan trọng nhất. V́ vậy, lười biếng, không tu tập là điều không thể chấp nhận được. Người tu hành có thể học ít, nhưng tu là phải luôn luôn tinh tấn, không tinh tấn tu hành th́ không xứng đáng làm một người xuất gia.

Vấn đề ở đây là không thiên vị. Người Trụ tŕ, Giáo thọ, Tri sự hay quản chúng phải tạo điều kiện đồng đều cho họ học hành, tu tập.ï Có khi có duyên với người này nhiều, với người kia ít, nhưng chúng ta phải quan tâm đến tất cả mọi người, quan tâm đến từng người, từng căn cơ một. Nếu để cho người nào đó lôi cuốn bởi cái phước của họ, chú ư nâng đỡ họ th́ chúng ta là người không có đạo lực. Trong từng lúc, từng nơi, chúng ta phải cẩn thận, đừng để thiên vị bởi phước của người khác. V́ thiên vị với người có phước sẽ làm cho chúng ta mất đi Đạo đức b́nh đẳng.

Nếu là người có trách nhiệm, chúng ta nên chú ư nhiều đến những người trí tuệï kém cỏi, căn cơ c̣n kém, tánh t́nh chưa được đàng hoàng. V́ dù sao họ cũng đă có chí nguyện xuất gia. Những người có phước, tự ḿnh có thể đi được, có thể đứng vững trên đôi chân của ḿnh được. Người không có phước, chúng ta phải kèm cặp, quan tâm nhắc nhở nhiều hơn. Đó chính là Đạo đức của người quản chúng.

Việc công quả với người tu hành cũng rất quan trọng. V́ thế, chúng ta phải lưu ư tạo điều kiện cho họ công quả. Nếu không công quả, người xuất gia không thể nào tiến Đạo.

Người Trụ tŕ thường mắc phải sai lầm ở chỗ hay phạt những người có tánh xấu, thường phạm lỗi bằng cách bắt họ làm những việc nặng nhọc. Đó là điều nguy hiểm cho đại chúng về sau. V́ sai họ làm như vậy, chúng ta cứ tưởng là phạt họ nhưng thực chất là tạo điều kiện cho họ công quả. Sau này họ sẽ có phước, sẽ là người lănh đạo trong chùa. Một khi người có tánh t́nh xấu làm lănh đạo trong chùa, điều ǵ sẽ xảy ra? Chắc chắn chùa không c̣n là nơi tu hành nghiêm túc nữa. Những người tu tốt sẽ không chịu đựng được, cuối cùng sẽ bỏ đi .

Sẽ có người thắc mắc tại sao người không tốt lại được làm lănh đạo? Đây cũng là điều hợp lư, hợp lư theo luật Nhân Quả. V́ trước kia, họ bị người lớn ghét, bắt công quả nhiều, bây giờ họ được hưởng phước, được làm người lănh đạo.

Bởi vậy, theo luật Nhân Quả, chúng ta cần lưu ư: những người có Đạo đức, muốn đào tạo để thành người lănh đạo tốt sau này, chúng ta phải bắt công quả nhiều hơn. Người lănh đạo chúng có Đạo đức sẽ rất tốt cho chùa. Những chùa có người lănh đạo như vậy sẽ là nơi tu học nghiêm túc, là nơi Phật tử có thể chọn làm chỗ nương tựa vững chắc cho ḿnh. Những chùa tốt sẽ góp phần làm cho Phật pháp ngày càng hưng thịnh.

Về căn bản, chúng ta tạo cơ hội cho đại chúng công quả đồng đều, để họ có phước, tu hành được tinh tấn. Nhưng chỉ công quả trong chùa chưa đủ, người xuất gia phải biết làm công quả ở ngoài chùa. V́ nếu công quả giới hạn trong phạm vi chùa, mỗi người lo làm việc tốt cho nhau th́ người tu chỉ tiến được Đạo đức chứ không tiến được phước. Người Trụ tŕ phải tạo điều kiện cho chúng công quả ngoài chùa, thường xuyên làm việc từ thiện để tạo phước về sau.

Có những ngôi chùa làm được những việc rất đáng tán thán, ngợi ca. Có một ngôi chùa, khi cần thiết, có đến 42 người trong chúng hiến máu. Phải thấy rằng, không có phước ǵ lớn bằng phước hiến máu cứu người. Người ta có thể cho tiền bạc, nhưng hiến máu không phải ai cũng làm được. Người ta gọi đó là bố thí nội tài.

Chúng ta cần lưu ư, không thiên vị, nhưng cũng không san bằng quyền lợi. V́ như đă nói ở trên, san bằng quyền lợi là phá vỡ Nhân Quả. Trong chúng, khi đối xử với mọi người, chúng ta phải luôn luôn tạo cơ hội đồng đều cho họ. Tuy nhiên, làm được hay không c̣n tùy thuộc vào họ. Có người , đến giờ tu, rất tinh tấn nhiếp tâm. Có người vẫn ngồi đó nhưng tâm không ở với họ mà đi lang thang. Có người lễ Phật với ḷng tôn kính thiết tha. Nhưng cũng có người lễ Phật một cách hời hợt. Như vậy, Nhân Quả lúc này là tự họ gieo chứ không phải chúng ta nữa. Trách nhiệm của chúng ta là tạo điều kiện đồng đều cho tất cả mọi người. C̣n dụng tâm, nỗ lực đến đâu là tuỳ họ. Càng về sau, phước của mỗi người sẽ tách ra dần dần. Người tốt sẽ đi theo con đường tốt. Người chưa tốt tự nhiên sẽ dừng lại, sẽ bị rơi lại đằng sau. Đó là lẽ đương nhiên, chúng ta không thể cưỡng lại được, mặc dù ḷng ḿnh vẫn b́nh đẳng thương yêu. Đừng bao giờ nghĩ rằng, b́nh đẳng là điều ǵ cũng phải bằng nhau. Nghĩa là, mọi người chưa đạt được điều này th́ người khác cũng không thể đạt được điều kia. Hiểu như vậy là sai lầm, là ḱm hăm sự phát triển, sự tu hành tinh tấn của mỗi cá nhân.

Chẳng hạn, khi có người tu tốt, trí tuệ mở ra, được nhiều Phật tử quư mếnï, duyên giáo hóa của họ cũng đă đến, chúng ta không nên cản lại. Chúng ta đừng v́ lư do bao nhiêu người khác chưa ra giáo hóa, giảng dạy mà ngăn cản việc giảng pháp của họ. Làm như vậy là chúng ta bắt đầu rơi vào bệnh san bằng quyền lợi. Khi phước của họ đă khác, duyên của họ đă đến, chúng ta phải tùy duyên mà tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng, làm những việc Phật sự lớn hơn. Đó không phải là sự thiên vị . Đó là một hành xử đúng với luật Nhân Quả.

Trong đối xử, chúng ta cần phải giữ sự trung đạo. Nghĩa là ḷng chúng ta vẫn thương yêu đồng đều, không thiên vị, vẫn muốn cho mọi người đều tốt. Nhưng khi ứng xử hành động, chúng ta phải tùy duyên, tùy phước, tùy nhân quả của mỗi người, không nên áp đặt và không san bằng quyền lợi. Hay nói cách khác, giữa b́nh đẳng và san bằng quyền lợi có sự khác nhau, chúng ta phải phân biệt cho rơ để áp dụng cho đúng, tránh phạm phải những sai lầm. Đây là điều khó mà những bậc Trụ tŕ cần lưu ư. Nếu không cẩn thận, không giữ được tâm, chúng ta sẽ thiên vị trong đối xử.

Nếu một lúc nào đó, chúng ta rơi vào cực đoan, không thấy được Nhân Quả nên san bằng quyền lợi, trong khi phước của mỗi người bắt đầu có sự sai biệt là chúng ta đă cưỡng lại Nhân Quả. Như vậy, chúng ta đă phạm sai lầm. Đây là chỗ người tu phải cẩn thận. Bởi vậy, nói đến Đạo đức b́nh đẳng là nói đến việc phán xét bên ngoài nhiều hơn, mặc dù có sự kiểm soát tâm ḿnh.


__________________
Nhân quả là gốc của số mệnh!
Quay trở về đầu Xem tranngocai's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranngocai
 
tranngocai
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 October 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 142 of 349: Đă gửi: 18 February 2005 lúc 9:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranngocai

2.B̀NH ĐẲNG BIỂU LỘ ĐẠO LỰC.

Người có phước luôn luôn tạo sự thu đối với mọi người. Ngược lại, người có tội, người nghèo khổ thường tạo ra sự thờ ơ ghẻ lạnh. Nếu tu tâm từ bi ít, không thương người nghèo khổ, chúng ta sẽ bị phước của người giàu sang thu hút, trở nên thiên vị. Lúc ấy, chúng ta sẽ thành một người cục bộ, thiên vị cá nhân. Như vậy, làm sao chúng ta xứng đáng là tàng cây che mát cho mọi người?

Bởi vậy, đối với chúng ta, tu tập tâm từ bi là yêu cầu căn bản, là điều kiện tiên quyết để hiểu sâu sắc những vấn đề về Đạo đức và áp dụng có hiệu quả những vấn đề ấy trong cuộc sống. Tâm từ bi không chỉ tu ngày một, ngày hai mà phải tu tập cả một đời. Mỗi ngày, khi lễ Phật, khi ngồi Thiền, chúng ta phải quán từ bi, thương yêu mọi người. Chừng nào khi tiếp xúc, những người nghèo làm cho chúng ta thương yêu nhiều hơn là lúc ấy chúng ta đă đi đúng con đường của kẻ tu hành. Trong đối xử, chắc chắn chúng ta sẽ biểu lộ được Đạo đức b́nh đẳng.

Người có đạo lực là người không bị sự sai biệt của ngoại cảnh chi phối, không bị kẻ có phước kéo tâm ḿnh chạy về phía họ. Bởi vậy, trong giao tiếp, chúng ta cần giữ được tâm từ bi đồng đều với mọi người dù đó là người phước nhiều hay kẻ phước ít. Tăng Ni hiện đang bị phê phán rất nhiều về thái độ vồn vă với người giàu và thờ ơ với người nghèo.

Chúng ta nên nhớ rằng, đối với những người giàu sang, chúng ta có đối xử ân cần hay không, điều ấy không quan trọng. Đi đâu họ cũng được đối xử ân cần. Họ đến chùa nào cũng được như vậy và đến với bạn bè, họ cũng được điều đó. Có những người giàu rất thán phục khi thấy chúng ta đối xử tốt với người nghèo. C̣n ân cần vồn vă với họ, có khi chúng ta lại bị coi thường. Có một số Phật tử giàu sang tỏ ra khinh thường khi thấy người tu chúng ta đến thăm. Họ nghĩ rằng, chúng ta đến cầu sự cúng dường của họ. Bên ngoài nhiều khi không biểu hiện, nhưng trong tâm họ đă xuất hiện tâm lư coi thường. Người tu chúng ta phải cẩn thận, dè dặt khi tiếp xúc với những người giàu có. Tất nhiên, chúng ta không “vơ đũa cả nắm”, nhưng phải thừa nhận rằng, người giàu thường kiêu ngạo và dễ nghĩ xấu cho người tu. Bởi vậy, chúng ta cần phải giữ thái độ b́nh thản khi giao tiếp với họ. Tuyệt đối không được đối xử lạnh nhạt, thờ ơ với người nghèo mà ân cần vồn vă với người giàu. Phải cho họ thấy được sự khác biệt giữa chúng ta với người đời.

Để thực hiện được điều đó, người tu phải có một bản lĩnh, bản lĩnh vượt lên trên cái thường t́nh, có thể thờ ơ bất cần với người giàu, nhưng lại ưu ái với người nghèo

Nói như vậy, không phải ai đến chùa chúng ta cũng xem xét vấn đề giàu nghèo. Sở dĩ chúng ta thương người nghèo, v́ họ dễ bị mặc cảm, dễ tủi thân. C̣n cái chúng ta quan tâm, chú ư thật sự đối với những Phật tử khi đến chùa là cái tâm. Tâm ở đây nghĩa là tâm Đạo, là mức độ hiểu Đạo, mức độ ham thích tu tập của họ. V́ vậy, xét về mặt này, chúng ta không nên phân biệt giàu nghèo. Có trường hợp đến với chùa là những người giàu sang nhưng có tâm Đạo. Chúng ta nên quư trọng họ. Một khi hiểu Đạo, những người ấy sẽ không nghĩ xấu, nghĩ lệch lạc khi được chúng ta đối xử tốt.

Tóm lại, trong cách cư xử, nếu là người “sáng mắt”(hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), chúng ta sẽ nhận ra ở người giàu tâm Đạo của họ đến mức nào và sẽ có thái độ thích hợp. Nếu là người kiêu ngạo, chúng ta giữ thái độ thờ ơ, lạnh lùng để cho họ một bài học Đạo đức trong cách sống. Nếu là người có tâm Đạo, chúng ta phải đối xử tối với họ như bao người khác.





__________________
Nhân quả là gốc của số mệnh!
Quay trở về đầu Xem tranngocai's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranngocai
 
tranngocai
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 October 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 143 of 349: Đă gửi: 18 February 2005 lúc 9:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranngocai

3. ÁP DỤNG ĐẠO ĐỨC B̀NH ĐẲNG TRONG ỨNG XỬ.

a. Với Phật tử:

Chúng ta cố gắng đối xử từ ái với người nghèo khổ v́ họ rất dễ mặc cảm. Người giàu có trong cuộc sống vốn dễ được ưu ái, và v́ thế cũng dễ sinh tâm kiêu mạn. Chúng ta dành cho họ sự hờ hững cũng rất cần thiết để chữa căn bệnh kiêu mạn ấy. Đối với người có tâm, chúng ta luôn luôn đối xử tốt.

b. Với Huynh đệ:

Chúng ta đừng kết thân riêng với một vài người tạo thành mầm mống chia rẽ cho Tăng đoàn về sau. V́ khi kết thân với một vài người, có thể người cùng ở chung liêu, người có duyên với ḿnh, chúng ta sẽ hay lui tới, gắn bó với người đó mà không quan tâm đến những người xung quanh. Lâu ngày, điều đó sẽ trở thành mầm mống của sự chia rẽ.

Bởi vậy, chúng ta phải cẩn thận. Dù là người có duyên với ḿnh hay là người có nhiều ưu điểm, chúng ta cũng cố gắng giữ thái độ b́nh thường như với người khác. Chúng ta có thể gần gũi với những người ấy để học hỏi, nhưng đừng v́ vậy mà kết thân riêng. Chính sự kết thân riêng sẽ tạo nên sự ích kỷ, dẫn đến ganh tỵ.

c. Với chúng do ḿnh kiểm soát:

Trong chúng, rất nhiều người sống với nhau, chắc chắn sẽ có người tốt với chúng ta, có duyên với chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố gắng giữ ḷng ḿnh, để đối xử một cách b́nh đẳng, không phân biệt. Đây là điều rất khó, không phải ai cũng dễ dàng thực hiện được. Nếu không cố gắng, chúng ta sẽ mất Đạo lực, sẽ quen thiên vị , đối xử không b́nh đẳng với mọi người. Dần dần, khi đi làm việc Đạo, chúng ta sẽ bị thái độ thiên vị đó chi phối và trở nên cục bộ địa phương.

Nếu là Trụ tŕ, Tri sự, chúng ta hăy cho mọi người cơ hội đồng đều trong việc tu học, đừng bao giờ ưu tiên người này, chèn ép người khác. Nếu có vài người ngang bướng với ḿnh, chúng ta không nên ác cảm mà hăy thương yêu để hoá độ họ.

d. Người cư sĩ cũng phải đối xử b́nh đẳng với nhau.

Trong xă hội, có nhiều tầng lớp người, bên cạnh những người giàu có c̣n không ít những người nghèo khổ, những kẻ bất hạnh. Người cư sĩ nên đối xử b́nh đẳng với nhau. Những người nghèo, ḿnh nên quan tâm, thương yêu giúp đỡ nhiều hơn. Với những người biết Đạo, dù ít hay nhiều, ḿnh cũng nên quư mến. Nếu là người biết Đạo nhiều, hăy coi đó là những người thiện tri thức của ḿnh, cùng đi với nhau để học hỏi. Những người chưa biết Đạo nhiều, hăy quan tâm giúp đỡ để họ hiểu thêm về Đạo.

Ví dụ, nghe ở đâu có Thầy giảng hay, ḿnh nên rủ mọi người cùng đi. Hoặc có cuốn băng nào hay, phải chuyền cho nhau nghe, cuốn sách nào hay, phải khuyên nhau đọc…Người hiểu Đạo phải tạo điều kiện cho những người khác đến với Đạo. Những Phật tử nếu có tu tập từ bi sẽ làm được điều đó.

Đối với Tăng Ni, người cư sĩ nên tôn kính nhưng cũng phải b́nh đẳng, nghĩa là không nên thiên vị Thầy này hay Cô khác. Mặc dù có những vị đáng cho ḿnh học, có những vị c̣n phải tu tập nhiều nhưng cư sĩ đều phải tôn kính, đều phải học hỏi. Những Phật tử khi Quy y cũng cần lưu ư một điều này, Quy y Tăng có nghĩa là Quy y mười phương Tăng. V́ vậy, không phải chúng ta chỉ biết một ḿnh Thầy Bổn Sư, mà đi bất cứ nơi nào, nếu gặp những vị Tăng Ni tu hành chân chính, chúng ta đều phải kính trọng.

Có một thời gian, Phật tử có quan niệm là, đối với Tăng Ni, dù lầm lỗi thế nào họ cũng một mực kính trọng. Quan niệm này cũng có nhiều cái hay, thể hiện sự bao dung, độ lượng của Phật tử đối với người tu hành. Nhưng vô t́nh, quan niệm ấy đă góp phần nuôi dưỡng những phần tử xấu trong Phật pháp, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đạo, làm cho Phật pháp nhanh chóng suy tàn. Phật tử cần phải khắt khe hơn nữa, phải đặt ḷng tôn kính cúng dường của ḿnh đúng chỗ, đúng đối tượng. Có như vậy, chúng ta mới gạn lọc dần những đối tượng kém phẩm chất, lợi dụng Phật pháp để thoả măn nhu cầu của ḿnh.

Xây dựng lại Phật pháp, không chỉ là trách nhiệm, là sự cố gắng tu hành của Tăng Ni, mà trong đó c̣n có trách nhiệm của Phật tử. Nếu Phật tử đồng ḷng khắt khe trong việc đánh giá người tu hành, chắc chắn sẽ không c̣n người xuất gia tùy tiện, bừa băi. Như vậy, trong quá tŕnh làm cho Phật pháp hưng thịnh trở lại, có sự đóng góp không nhỏ của quư Phật tử.

Đức Phật luôn luôn biểu lộ thái độ hiền lành, đúng mực trong cư xử. Có chuyện kể rằng, vào thời Đức Phật, một lần một số chư Tăng căi cọ với nhau. Các vị này chắc tu hành cũng chưa cao, không như những vị A La Hán. Khi có điều bất ḥa, họ gây gổ với nhau và chia thành hai phe. Thấy vậy, Đức Phật khuyên với giọng rất từ tốn:

-Này các Tỳ Kheo, các ông đừng căi cọ với nhau nữa, đừng tranh căi nữa, đừng bất ḥa nữa.

Phật nói rất từ tốn nhưng các vị đang trong cơn hăng say, trong cơn hơn thua hiếu thắng nên không nhịn được và trả lời:

-Thế Tôn cứ nghỉ ngơi cho khỏe, việc này tụi con phải nói cho ra lẽ.

Đức Phật nói:

-Thôi đủ rồi, các ông đừng có tranh căi nữa, đừng có bất ḥa nữa.

Các ông ấy lại nói :

-Bạch Thế Tôn ! Hăy lui về yên nghỉ cho có sức khỏe, Ngài hăy để các con làm cho ra lẽ.

Đức Phật khuyên ba lần mà các vị ấy vẫn không nghe, vẫn cứ căi nhau. Đức Phật cảm thấy những người ấy bướng quá, Ngài không nói nữa mà dùng biện pháp khác. Ngài không ở lại chùa nữa mà ra đi. Khi Ngài đi rồi, Phật tử làm ầm lên. Họ kéo đến trách chư Tăng và tuyên bố từ nay sẽ không cúng dường nữa.

-Quư Thầy cần th́ hăy đi nơi khác khất thực, không được ở làng mạc, thị trấn của chúng tôi nữa. Chúng tôi sẽ dứt ḷng, không ai cúng dường cho quư Thầy nữa, nếu các Thầy c̣n tranh căi để Đức Thế Tôn phải rời chỗ này ra đi.

Lúc đó, Đức Phật đi đến khu rừng Sừng Ḅ, nơi có ba vị Tôn giả A La Hán đang sống. Đó là ngài A-nu-rud-dha, Nan-di-ya và Kim-bi-la. Ba Ngài sống với nhau rất ḥa hợp. Đức Phật đến thăm ba vị và nói chuyện với họ rất lâu. Sau này, chúng ta đă dựa vào cuộc tṛ chuyện ấy soạn thành một bài kinh. Đó là kinh Sống ḥa hợp.

Trước sự đấu tranh dữ dội của các Phật tử, trước áp áp lực kinh tế và áp lực của các tín đồ, các Thầy không dám tranh căi nữa. Lúc đó, Đức Phật trở về chùa tiếp tục dạy dỗ các chư Tăng.

Như vậy, thái độ của cư sĩ đối với Tăng Ni cũng rất quan trọng.

Quư Phật tử phải giữ thái độ b́nh đẳng, không nên thiên vị hay cục bộ địa phương. Phật tử đừng có quan niệm, ḿnh là người địa phương nào th́ t́m chùa của địa phương đó để ủng hộ. Làm như vậy là quư Phật tử đă thiên vị trong đối xử. C̣n một điều nữa cũng xin lưu ư các Phật tử. Đó là việc nhiều Phật tử không đánh giá quư Thầy, quư Cô trên đức hạnh, mà đánh giá trên cơ sở những cảm nhận bên ngoài hời hợt, cảm tính của ḿnh. Chẳng hạn, Phật tử thường tỏ ra ngưỡng mộ những vị Thầy có giọng tụng kinh hay, có gương mặt hảo tướng, hoặc những Thầy có Phật tử đông, có uy thế… Đó là sự đánh giá không chính xác. Những Phật tử có sự đánh giá chân chính là những người biết nh́n vào đạo hạnh, vào tâm của người Thầy. Nếu chú ư về đạo hạnh, chúng ta sẽ chọn được người xứng đáng để đặt ḷng tôn kính của ḿnh, để thừa sự học hỏi. Đó là sự gạn lọc khách quan cũng là Đạo đức b́nh đẳng của người tu sĩ.




__________________
Nhân quả là gốc của số mệnh!
Quay trở về đầu Xem tranngocai's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranngocai
 
tranngocai
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 October 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 144 of 349: Đă gửi: 18 February 2005 lúc 9:58pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranngocai


4. PHẢI TUỲ BỆNH CHO THUỐC:

B́nh đẳng có nghĩa là tâm ḿnh không thiên vị, là thương yêu tất cả mọi người. Nhưng cách chúng ta cư xử mỗi người sẽ mỗi khác v́ tâm t́nh, tŕnh độ của mỗi người không giống nhau.

a. Với người c̣n tự ái:

Những người này khi phạm lỗi, chúng ta chưa thể nói thẳng lỗi của họ. V́ người hay tự ái, khi bị chỉ lỗi sẽ dễ nổi giận. Chúng ta chỉ khuyên họ lễ Phật và tác ư khiêm hạ. Một khi đă lễ Phật, đă tác ư khiêm hạ, coi thân ḿnh như cỏ rác, cát bụi th́ họ sẽ không c̣n tự ái như trước. Lúc đó, chúng ta có thể nói lỗi của họ một cách thẳng thắn mà không sợ họ nổi giận. Chẳng những không giận, họ c̣n cố gắng tu tập, sửa lỗi.

b. Với người tự ti mặc cảm:

Người tự ti mặc cảm là người cho rằng ḿnh kém cỏi. Ơû đây, chúng ta cần phân biệt hai loại người. Có người cho rằng ḿnh kém cỏi v́ họ có tâm khiêm hạ. Có người cho ḿnh kém v́ họ tự ti, mặc cảm. Người nghĩ rằng ḿnh kém (v́ khiêm hạ) là người có Đạo đức, chắc chắn họ sẽ tiến bộ. C̣n người nghĩ ḿnh kém rồi sinh ra buồn bă, chán nản, không c̣n nghị lực phấn đấu nữa th́ không phải là người có Đạo đức . Đó là người đă rơi vào bệnh mặc cảm, tự ti.

Những người này thường chưa đủ tự tin. Họ không tin rằng ḿnh sẽ làm được điều tốt, không tin ḿnh sẽ tiến đạo khi tu tập. Với họ, chúng ta đừng khuyến khích bằng cách khen ngợi. V́ nếu khen không đúng, chúng ta sẽ làm họ tăng bản ngă. Từ bịnh tự ti, họ có thể sinh bịnh tự tôn với lời khen hăo huyền. Với những người này, chúng ta chỉ khuyên họ tạo phước, vị tha hy sinh. Phước vị tha sẽ đem lại tự tin. Đây là hệ quả rất kỳ lạ. Nếu không giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ rụt rè, mất tự tin; nếu sống tốt với mọi người, chúng ta sẽ tự tin hơn.

c. Với người không có duyên:

Với người không có duyên, chúng ta đừng cầu cạnh làm mất tư cách của ḿnh và cũng dễ bị họ khinh thường. Nhất là đối với những người giàu mà không có duyên với ḿnh, nếu cứ ân cần, vồn vă, chúng ta sẽ bị họ khinh thường.

Bổn phận của chúng ta là đối xử tốt với mọi người, đừng cầu cạnh ai dù đó là người giàu sang hay quyền thế. Đối với những người như vậy, chúng ta chỉ hóa độ bằng cách cứ b́nh thản làm lợi ích cho người khác. Thấy chúng ta lo lắng cho mọi người, dần dần họ sẽ hiểu.

d. Với người có duyên, ưu ái ḿnh.

Chúng ta nên cẩn thận để giữ duyên, nghĩa là đừng nhận của người ta nhiều quá. Chúng ta không nên ỷ lại vào sự ưu ái của họ, đến lúc hết duyên, hết nợ lại xa nhau. Nếu thấy người đó đáng quư, có tư cách, muốn t́nh cảm được bền bỉ dài lâu, chúng ta nên đem đạo lư cho họ, và ít nhận tiền bạc của họ. Có như vậy, duyên mới giữ được lâu bền.

Có một Ḥa Thượng nổi tiếng, đến ở nhờ nhà của một Phật tử. Người đó chăm sóc rất chu đáo, c̣n cất một cái cốc sau vườn để Hoà thượng tu cho yên tĩnh. Được ba năm, h́nh như nợ hết, người Phật tử có điều ǵ bất măn về Ḥa Thượng. Ḥa Thượng không thể ở được nữa, phải ra đi. Từ đó hai bên không nh́n nhau nữa. Có thể đó là do ḿnh đă hưởng hết duyên với người khác nên ê chề cay đắng như thế.

Như vậy, trong vô lượng kiếp luân hồi, chúng ta đă gieo duyên với người khác. Nếu gieo duyên đời trước bền bỉ th́ người ta sẽ gắn bó với ḿnh măi măi. Ngược lại, duyên gieo không nhiều, gặp một thời gian ngắn rồi cũng sẽ ra đi. Từ đó, chúng ta rút ra bài học: khi đối xử tốt với con người, ḷng tốt của ḿnh cũng phải bền bỉ và vô hạn, đừng v́ một lư do nào mà ngừng lại nửa chừng. Bất đắc dĩ phải xa nhau v́ ḥan cảnh th́ đành chịu. C̣n nếu có thể gặp được, lúc nào chúng ta cũng phải cố gắng sống tốt với nhau để giữ duyên bền bỉ trong vô lượng kiếp luân hồi sắp tới.

e. Với người có lỗi:

Với người ít kiêu mạn, tinh thần chưa vững mạnh, nếu họ phạm lỗi, chúng ta phải chăm sóc, nhắc nhở nhiều hơn. Có như vậy, họ mới vượt qua lỗi lầm và đi tiếp con đường tu hành. Nếu chúng ta lạnh lùng, ghét bỏ, hoặc căn cứ theo luật quá nghiêm khắc, họ sẽ không tiếp tục theo Đạo được nữa. Lúc đó, Đạo của chúng ta sẽ mất đi một người.

Ví dụ, trong chúng có người phạm tội ăn cắp. Với người tu hành, đó là tội rất nặng, không chấp nhận được. Nhưng chúng ta cũng đừng vội căn cứ theo luật mà đuổi họ ra khỏi chùa. Lúc ấy, chúng ta phải b́nh tâm quan sát tâm tính, quá khứ của họ, nguồn gốc gia đ́nh họ như thế nào, v́ sao họ phạm tội ăn cắp…. Nhiều khi, đối với người có thể chữa được, chúng ta không chữa để họ tốt hơn, chúng ta cũng tổn từ bi. Như vậy, Đạo sẽ mất một người, Phật cũng mất một chúng sinh. Trong khi Phật muốn tất cả chúng sinh đều được Đạo để tu, chúng ta khắt khe quá làm chúng sinh xa rời Đạo cũng là điều không đúng.

Trong cuốn T́nh yêu cuộc sống (tiếng Anh là Love of life ), có câu chuyện về một người bị lạc. Họ lạc vào một vùng ven bờ biển, không có lương thực nên đói kinh khủng. Cho đến một ngày, có một chiếc tàu ghé vào bờ. Người trên tàu t́m thấy anh ta đang nằm lả và mang lên tàu, cứu sống. Khi tỉnh lại, trong suốt tuần đầu, họ thấy anh ta có miếng bánh nào đều bỏ vào bọc ni lông, cất giấu dưới giường. Thủy thủ thấy lạ báo cho thuyền trưởng biết. Thuyền trưởng nói, “không phải anh ta là người xấu. Người nào vừa thoát chết đói cũng đều bị cái đói ám ảnh quá nặng nên mắc bịnh như vậy, bịnh tích lũy lương thực”.

Có những người xuất thân từ một gia đ́nh quá nghèo, cha mẹ ra ngoài đường thấy cái ǵ cũng nhặt nhạnh mang về. Những người con sinh từ gia đ́nh đó, cũng bị ảnh hưởng, đôi khi thành ra ăn cắp lặt vặt. Cho nên, lâu ngày trở thành cái tập khí, tập khí xuất thân từ gia đ́nh hèn kém đáng thương. Nếu biết họ vừa ăn cắp món đồ của huynh đệ, chúng ta phải suy xét để có cách xử sự hợp lư, hợp t́nh. Nếu lỗi của họ do tập khí gia đ́nh để lại, chúng ta nên khuyên bảo, t́m cách d́u họ đứng lên, không được ruồng bỏ họ. Đó là đạo đức của người tu.

Nhưng với những người kiêu mạn, khó bảo, đôi khi sự im lặng, lạnh lùng là cần thiết.

Người kiêu mạn rất khó được dạy dỗ. Chính Phật cũng thú nhận rằng rất khó độ cho người kiêu mạn. Trong Kinh Pháp Hoa diễn tả ư này khi để cho 500 Tỳ kheo bỏ pháp hội ra đi. Người kiêu mạn phạm lỗi rất khó nói. Nhiều khi, chúng ta chỉ dùng sự im lặng. Thấy thái độ im lặng của ḿnh, dần dần họ phải xét lại và bớt đi cái ngă.

Như vậy, mặc dù ḷng rất b́nh đẳng, không thiên vị, nhưng chúng ta phải tuỳ bịnh cho thuốc.




__________________
Nhân quả là gốc của số mệnh!
Quay trở về đầu Xem tranngocai's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranngocai
 
tranngocai
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 October 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 145 of 349: Đă gửi: 18 February 2005 lúc 10:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranngocai

5. THANH QUY CỦA CHÙA PHẢI ĐẶT TRÊN NỀN TẢNG B̀NH ĐẲNG.

Chùa phải có thanh quy đặt trên nền tảng của sự b́nh đẳng. Nếu thanh quy của chùa lỏng lẻo, trong chúng sẽ kết thân riêng từng nhóm, gây chia rẽ. Hoặc nếu cho tiếp xúc với Phật tử một cách dễ dăi, tu sĩ sẽ nảy sinh t́nh cảm thiên vị, tạo thành những Phật tử riêng. Nguyên nhân chính là do đường lối, tổ chức của chùa kém. Chúng ta hy vọng lớp Tăng Ni trẻ sau này có cách thức quản trị chặt chẽ hơn. Muốn vậy, chúng ta phải nghiên cứu về quản trị hành chánh. Có thể đến lớp học hoặc mượn sách về đọc để t́m hiểu xem các công ty xí nghiệp, các cơ quan, các tổ chức … ở thế gian, họ tổ chức quản trị hành chánh như thế nào. Từ đó, áp dụng trong đường lối của chùa ḿnh cho chặt chẽ, nghiêm túc.

6. VẤN ĐỀ HỢP TÁC VỚI NGƯỜI CÓ DUYÊN VÀ CÓ KHẢ NĂNG.

Trong cuộc sống, để đạt được hiệu quả công việc, chúng ta phải gắn bó hợp tác với người có khả năng và có duyên với ḿnh. Tuy nhiên, đừng để mất sự quan tâm đến người khác. V́ nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ rơi vào thái độ thiên vị trong đối xử.

7. NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC DÀNH ƯU TIÊN.

Theo Đạo đức b́nh đẳng, chúng ta chấp nhận cho người có phước hưởng thành quả nhưng vẫn quan tâm, ưu ái đến những người chưa đủ khả năng, chưa đủ phước.

8. VẤN ĐỀ B̀NH ĐẲNG NAM NỮ TRONG XĂ HỘI.

Trong xă hội, tuỳ theo quan niệm của mỗi địa phương, mỗi thời đại mà giữa người nam và người nữ có sự đối xử khác nhau. Có nơi người ta rất coi trọng phụ nữ. Ngược lại, có xă hội, người phụ nữ không được coi trọng dúng mức.

Ví dụ: Trong xă hội Âu Mỹ, người nữ bao giờ cũng được ưu tiên( Lady first ). Người đàn ông được xếp hàng thứ năm, sau súc vật. Nhưng ở xă hội Hồi Giáo, người đàn bà chỉ là công cụ cho người đàn ông. Như vậy, trong đối xử luôn có sự biến thiên, không có sự b́nh đẳng.

Ở nước ta, trong xă hội phong kiến, người phụ nữ bị coi thường, không có vai tṛ vị trí ǵ trong xă hội. Họ tồn tại gần như là cái bóng của người đàn ông. Trong xă hội hiện nay, vấn đề b́nh đẳng giữa nam giới và nữ giới rất được quan tâm. Giữa họ đă có sự b́nh đẳng. Người phụ nữ ngày càng giữ những vị trí quan trọng trong xă hội, chiếm ưu thế so với người nam. Trong xă hội văn minh, hiện đại, mọi công việc dần dần đều được thay thế bằng máy móc, người phụ nữ có nhiều cơ hội hơn. Họ vẫn có thể đảm nhiệm được những việc quan trọng nhưng lại không phải bỏ ra quá nhiều công sức, không phải lao động tay chân.

Như vậy, giữa nam và nữ đă có sự b́nh đẳng. Tuy nhiên, c̣n một vấn đề cần phải quan tâm nữa. Đó là quan niệm về nghiệp của con người. Từ xưa đến nay, người ta vẫn quan niệm rằng người nữ nặng nghiệp hơn người nam, bởi vậy, lúc nào người nữ cũng phải chịu thiệt tḥi, thua sút người nam một chút. Đó là quan niệm không đúng. Quan niệm này chỉ do các “đấng mày râu” đặt ra để có lợi cho họ mà thôi.

Theo quan niệm của Đạo Khổng, người phụ nữ phải chịu rất nhiều thiệt tḥi, đau khổ. Đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp trong khi đó, phụ nữ chỉ chính chuyên một chồng. C̣n nhiều điều bất công khác mà người phụ nữ phải chịu đựng, nhất là những luật tục cổ hủ.

Tuy nhiên, vai tṛ của người phụ nữ trong gia đ́nh và trong xă hội có sự biến thiên theo thời gian, tuỳ theo từng xă hội. Có nơi, người vợ đi lấy chồng và có thể lấy được nhiều người. Có xứ, người phụ nữ đi làm dâu, làm vợ, tức là làm dâu làm vợ cho tất cả mấy anh em trong một gia đ́nh. Mỗi lần đi chợ, người vợ chỉ cần ra lệnh mua cái ǵ, c̣n những người kia răm rắp làm theo.

Có xă hội, người vợ được quyền làm chủ. Nhưng cũng có những xă hội người vợ chỉ làm đầy tớ. Khi chồng ăn cơm, vợ phải đứng hầu. Như vậy, rơ ràng quan niệm cho rằng người phụ nữ nặng nghiệp là không đúng. V́ nếu nặng nghiệp, tại sao có xă hội lại tôn trọng, ưu tiên người phụ nữ nhiều hơn nam giới ?

Chúng ta không nên quan niệm nam hay nữ nặng nghiệp. Điều đó tùy thuộc vào mỗi người. Nếu ai quen ngược đăi phụ nữ, coi phụ nữ là công cụ, kiếp sau sẽ bị đầu thai thành người nữ trong xă hội Hồi Giáo (xă hội ngược đăi phụ nữ).



__________________
Nhân quả là gốc của số mệnh!
Quay trở về đầu Xem tranngocai's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranngocai
 
tranngocai
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 October 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 146 of 349: Đă gửi: 18 February 2005 lúc 10:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranngocai

9. VẤN ĐỀ B̀NH ĐẲNG TĂNG NI -BÁT KỈNH PHÁP.

Người ta kể rằng, vào thời Đức Phật, D́ của Đức Phật xin xuất gia, Ngài không cho. Khi ngài A Nan năn nỉ tha thiết quá, Phật đồng ư nhưng với điều kiện phải tuân thủ tám điều. Trong tám điều đó, Phật có yêu cầu: Dù người Ni một trăm tuổi hạ vẫn phải tôn kính đảnh lễ một Tỳ kheo Tăng dù chỉ một tuổi hạ.

Vấn đề ở đây là Phật đă đặt giai cấp của người Ni thấp hơn hẳn giai cấp của Tăng. Từ đó h́nh thành quan niệm cho rằng người nữ nặng nghiệp hơn người nam. Thực ra, nếu đặt vào bối cảnh lúc bấy giờ chúng ta sẽ hiểu đúng hơn ư nghĩa lời yêu cầu của Đức Phật . Bối cảnh lúc đó là người Ni đầu tiên lại là D́ của Phật. Nếu để một cách b́nh thường, Tăng Ni b́nh đẳng th́ những Tỳ kheo khác sẽ rất sợ bà. Họ sợ cũng là điều hợp lư v́ bà là D́ Đức Thế Tôn, người đă từng nâng niu, bú mớm cho Phật từ khi c̣n nhỏ. Công của bà rất lớn. Hơn nữa, bà thuộc ḍng dơi Hoàng tộc, lại xuất gia khi đă lớn tuổi. Những Tỳ kheo Tăng nhỏ tuổi, những người thuộc giai cấp khác gặp bà, chỉ dám gọi là Lệnh Bà. Như vậy, đối với những Tỳ kheo Ni khác xuất gia theo bà, các tỳ kheo tăng phải đối xử như thế nào? Họ cũng phải một mực kính trọng. Từ đó, sẽ nảy sinh t́nh trạng các Tỳ kheo Ni coi thường các Tỳ kheo Tăng, làm mất tôn ti trật tự, không c̣n b́nh đẳng nữa. Như vậy, thực tế lúc đó, nếu Phật để mọi người b́nh đẳng th́ sẽ sinh ra mất b́nh đẳng. Nghĩa là từ chỗ sợ D́ Đức Phật, người Tăng sẽ có truyền thống cung kính với người Ni.

Phật sợ t́nh trạng đó xảy ra nên đă đặt ngược vấn đề, dù lớn tuổi hạ, Tỳ kheo Ni vẫn phải tôn kính Tỳ kheo Tăng. Nhờ vậy, sau này, những người Ni xuất gia không dám dựa thế Kiều Đàm Di Mẫu mà coi thường quư Tăng. Nếu không triệt cái ngă của họ, chẳng những họ không tu được mà trong đạo Phật c̣n xuất hiện truyền thống người Tăng gặp người Ni phải sợ hăi, cung kính. Dần dần sẽ gây nên sự bất b́nh đẳng giữa Tăng và Ni.

Hiện nay, người Tăng được đứng ở vị trí cao hơn người Ni. Điều đó cũng có lợi, nhưng đôi khi do cách xưng của người Việt Nam ( Thầy-Con), chúng ta có cảm giác người Ni bị hạ thấp quá. Ở nước ngoài, đại từ nhân xưng đơn giản hơn ( I- You) nên không thấy rơ sự cách biệt đó. Tuy nhiên, khi xưng hô khiêm tốn và có vẻ hạ ḿnh như vậy, qúy Cô đă hạ được cái ngă của ḿnh rất nhiều, nên có Đức. Ngược lại, khi được quư Cô xưng con, cái ngă của quư Thầy lại tăng lên. Khi đó, quư Thầy bị tổn Đức.

Những Thầy có Đạo đức, rất sợ điều này. C̣n những Thầy không biết, cho rằng Bát kỉnh pháp là chân lư tuyệt đối, luôn coi thường quư Cô. Những người đó, kiếp sau sẽ được làm Ni, để hiểu rằng trong một đất nước mà Bát kỉnh pháp nặng nề như vậy, làm Ni sẽ được đối xử như thế nào.

Ngày xưa, sống trong rừng núi vắng vẻ, người Ni phải ở gần người Tăng để được Tăng bảo vệ. Thời đó, trộm cướp hoành hành khắp nơi. Trong luật Tứ Phần, người ta c̣n ghi lại chuyện một Tỳ Kheo Ni bị hăm hiếp. Do vậy, để đảm bảo an toàn cho người Ni, Phật dặn Tỳ Kheo Ni phải an cư những nơi gần đó có Tỳ Kheo Tăng. Nghĩa là Tăng có trách nhiệm bảo vệ Ni.

Bây giờ, vấn đề an ninh được Nhà nước chú trọng tăng cường nên ít xảy ra những bất ổn đối với người Ni. Hơn nữa, các Tỳ Kheo Ni sống thành từng cộng đồng, có tổ chức nên an toàn hơn. Bởi vậy, chúng ta chủ trương cần b́nh đẳng hơn trong quan hệ giữa Tăng và Ni. Nhiều khi do giữ Bát kỉnh pháp, người Ni vẫn xưng con với các Thầy . Điều đó cũng không có ǵ sai, nhưng người có Đạo đức b́nh đẳng sẽ tỏ ra băn khoăn. Họ sợ không giữ được tâm ḿnh, cái ngă của ḿnh tăng lên.

Đối với Phật tử cũng vậy, sự tôn kính nên để trong ḷng. Có thể các Phật tử đến chùa không nhất thiết phải xưng con với người xuất gia.

Tóm lại, con người thường có sự sai biệt về phước. Đó là chênh lệch rất tự nhiên và hợp lư. Trước t́nh trạng đó, chúng ta không được san bằng quyền lợi. Tuy nhiên, cũng không v́ những sai biệt về phước mà chúng ta đối xử quá thiên vị, quá chênh lệch giữa người này với người kia. Một điều cần lưu ư là Đạo đức của người tu buộc chúng ta phải quan tâm đến người khác, phải chú ư nhiều hơn đến thân phận những người thấp kém. Họ là những người nghèo khó, tật nguyền, những người ít học , vv….

Ngoài việc đối xử b́nh đẳng, chúng ta phải biết quan tâm đến người khác. Điều đáng quan tâm ở họ không phải là giàu sang hay nghèo hèn mà là cái tâm của họ, tâm Đạo của họ. Dù giàu hay nghèo, nếu có tâm Đạo, họ đều đáng để chúng ta yêu thương, trân trọng. Và trước sự sai biệt như vậy, chúng ta cũng phải tùy bệnh cho thuốc. Có trường hợp, chúng ta đối xử ân cần sẽ đem lại lợi ích cho họ. Có trường hợp, chúng ta nên hờ hững, lạnh lùng để họ nhận ra và sống tốt hơn. Phải đặc biệt lưu ư, trong đối xử, chúng ta đừng bao giờ nghĩ đến lợi ích của ḿnh, đừng cầu cạnh quyền lợi cho ḿnh. Điều quan trọng là chọn thái độ cư xử như thế nào để có lợi cho người khác.



__________________
Nhân quả là gốc của số mệnh!
Quay trở về đầu Xem tranngocai's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranngocai
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 147 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 2:03am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Theo mong muốn của bác tranngocai, tôi sẽ tiếp tục đăng tải các bài viết về TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC.

Kính chúc mọi người thân tâm thường an lạc và trí tuệ!
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 148 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 2:09am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

BÀI 9: HẠNH NHẪN NHỤC

1. ĐỊNH NGHĨA.

Nhẫn là nhịn, là chịu đựng phần kém, phần thiệt tḥi về ḿnh. Trong tiếng Việt, chữ nhịn có cùng nghĩa với chữ nhẫn của Trung Quốc. Có thể coi chữ nhẫn mà chúng ta dùng hôm nay có nguồn gốc từ tiếng Hán và đă được Việt hóa. Nhục là hèn kém, đáng xấu hổ. Như vậy, nhẫn nhục là chịu đựng sự hèn kém, nhục nhă, đáng xấu hổ.

Trong trường hợp nào chúng ta phải chịu đựng và sự chịu đựng ấy được coi là nhẫn nhục?

Chúng ta thường nhẫn nhục trong trường hợp bị xúc phạm bởi người bằng ḿnh hoặc dưới ḿnh.

Ví dụ, chúng ta cảm thấy bị xúc phạm khi một người nhỏ hơn ḿnh lại hỗn láo với ḿnh. Nhưng khi bị xúc phạm, chúng ta vẫn b́nh thản chịu đựng, không có sự phản ứng ǵ trước sự xúc phạm ấy. Như thế là chúng ta đă nhẫn nhục. Hoặc một người "bằng vai phải lứa" với chúng ta lại nặêng lời hoặc tỏ ra lấn át chúng ta, nhưng lúc ấy chúng ta không phản ứng, phải chịu đựng phần thiệt tḥi về ḿnh, đó cũng là sự nhẫn nhục.

Trường hợp thứ hai, chúng ta là người nhỏ, bị người lớn chèn ép, tước đoạt hết quyền lợi, phải gánh chịu những vất vả, cực nhọc cho người khác. Sự chịu đựng đó được gọi là nhẫn nhục.

Ngoài ra, chúng ta c̣n phải chịu đựng, nhẫn nhục khi rơi vào những hoàn cảnh khốn khó. Chẳng hạn, gặp lúc thiếu thốn, đói khổ, chúng ta không bi quan, không ngă gục, phải chịu đựng để vượt qua. Sức chịu đựng ấy cũng được coi là nhẫn nhục.

Ở đây, chúng ta cần phân biệt nhẫn nhục với những trạng thái tâm lư khác. Nếu bị người khác xúc phạm, chúng ta không giữ được b́nh tĩnh th́ sẽ rơi vào tâm sân (nóng nảy). Nhẫn nhục không phải là phản nghĩa của nóng nảy. Nóng nảy là mất b́nh tĩnh, là đưa ra những phản ứng mạnh. Trong khi đó, nhẫn nhục là chịu đựng sự xúc phạm mà không phản ứng. Người vượt lên tâm sân sẽ giữ được trầm tĩnh, không phản ứng. Nhưng thái độ trầm tĩnh ấy chưa hẳn là nhẫn nhục. V́ ẩn sau vẻ ngoài trầm tĩnh ấy thường có nhiều tâm trạng khác nhau.

Trước hết là sự thâm hiểm. Chúng ta biết rằng, người có ḷng dạ thâm hiểm luôn tỏ ra b́nh tĩnh, không phản ứng trước sự xúc phạm của người khác. Nhưng họ nuôi trong ḷng sự oán hận, nuôi ước muốn trả thù. Đây là trường hợp rất nguy hiểm.

Có trường hợp bị hiếp đáp, bị xúc phạm nhưng người ta không phản ứng. Mặc dù bên ngoài họ có vẻ như trầm tĩnh, nhưng thực chất bên trong họ mang tâm trạng sợ hăi. Đó không phải là nhẫn nhục mà là nhu nhược.

Như vậy, nhẫn nhục khác với những tâm lư ấy. Nhẫn nhục là chịu đựng mọi việc với tâm tha thứ, không nhu nhược cũng không nuôi sự giận ghét trong ḷng. V́ vậy, khi gặp trường hợp bên ngoài trầm tĩnh chúng ta phải xét nội tâm bên trong để đánh giá. Cần phân biệt rơ đâu là nhẫn nhục, đâu là thâm hiểm, đâu là nhu nhược, yếu đuối.

Người tu hành phải biết nhẫn nhục, chịu đựng. Trong đại chúng đôi khi cũng xảy ra những va chạm nhỏ, mỗi người phải nhẫn nhục, không nuôi hờn giận trong ḷng. Trong cuộc sống cũng vậy, không phải lúc nào bước ra làm Phật sự, chúng ta cũng gặp thuận lợi. Nhiều khi chúng ta phải đối mặt với những nghịch cảnh éo le. Có người do bất đồng quan điểm, t́m mọi cách công kích, chỉ trích, ngăn cản việc làm của ḿnh. Thậm chí, có lúc chúng ta bị vu khống, bị người ta đặt điều nói xấu…Nhưng dù bị oan, lúc đó chúng ta cũng phải chịu đựng. Làm được điều này không phải dễ.

Như vậy, nếu không trang bị cho ḿnh một sức nhẫn nhục cao, chúng ta sẽ không vượt lên được những khó khăn và sẽ chuốc lấy thất bại. Ngay từ bây giờ, mỗi người chúng ta phải tu tập, rèn luyện sức chịu đựng để đối phó với những khó khăn, những nghịch cảnh trong cuộc sống.

Ngày trước, người đi tu phải chịu đựng rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Họ thiếu lương thực, quần áo, thiếu những nhu yếu phẩm hằng ngày. Không xin được gạo, quư Thầy phải ăn rau rừng, phải tự cuốc đất trồng khoai lang chế biến để dành dùng trong những lúc đói. Chưa hết, họ c̣n bị cái rét giày ṿ, đêm không ngủ được. Khi ngồi thiền phải lấy y sa di quấn quanh chịu đựng. Đó là chịu đựng v́ hoàn cảnh khốn khó.

Sau này, đời sống của những người tu hành đỡ khó khăn hơn v́ xă hội ngày càng tiến bộ. Tuy nhiên, khó khăn mà chúng ta có thể gặp phải là sự chống đối hoặc những ác cảm của người khác. Chúng ta phải chuẩn bị một tâm tư để đón nhận. Trước hết, bây giờ chúng ta phải tập chịu đựng những bất như ư trong đời sống tu hành của ḿnh. Khi bị một huynh đệ nào nói nặng lời hay hiếp đáp, chúng ta phải biết cảm ơn họ v́ chính họ đă tạo những điều kiện tốt nhất để chúng ta tập hạnh nhẫn nhục

Chúng ta phải thấy rằng, những đau khổ, khó khăn trong cuộc sống thật vô cùng quư giá. Nếu sống một cuộc đời yên ả, dễ chịu, chúng ta sẽ mất hết ư chí, nghị lực, sẽ không có cơ hội rèn luyện sức chịu đựng. Bởi vậy, nhẫn nhục là một hạnh rất quan trọng để làm tăng đạo lực của người tu hành. Đó là lư do v́ sao trong cuộc đời tu hành của Đức Phật luôn có ông Đề Bà Đạt Đa đi theo quấy phá. Đức Phật bị quấy phá từ bao nhiêu kiếp. Cho đến khi thành Phật, Ngài cũng không thoát khỏi sự quấy phá ấy. Sở dĩ như vậy v́ trong mọi công phu tu tập, để có được Đạo lực, Đạo hạnh, nhẫn nhục và tinh tấn đóng một vai tṛ rất quan trọng. Để có hạnh nhẫn nhục, chúng ta rất cần nghịch cảnh để rèn luyện. Nhắc đến điều này, chúng ta nhớ lại câu thơ của một nhà sư:

Không đau khổ lấy chi làm chất liệu

Không buồn thương sao biết chuyện con người

Quả thật, không đau khổ chúng ta sẽ không có điều kiện rèn luyện bản thân ḿnh. Liên hệ đến đời sống của những người lính trong quân ngũ, chúng ta sẽ hiểu rơ hơn giá trị của những gian khổ, khó khăn. Nếu không chịu đựng những tháng ngày huấn luyện nhọc nhằn, dầm mưa dăi nắng; nếu không chịu những h́nh phạt nặng nề, làm sao họ có thể đương đầu với hy sinh gian khổ, quyết sống mái với kẻ thù?

Người ta kể rằng, những trường vơ bị, đào tạo sĩ quan trên thế giới cũng như ở Việt Nam có kỷ luật rất nghiêm khắc. Trong thời gian huấn luyện, học viên phải trải qua một tuần lễ gọi là tuần huấn nhục. Khi bước vào tuần huấn nhục, gia đ́nh, người thân không dám đến thăm, v́ khi đó học viên bị đày đọa đủ điều mà không được từ nan bất cứ điều ǵ, kể cả những điều nhục nhă nhất. Họ rèn luyện cho con người sức chịu đựng, sức nhẫn nhục đến như vậy.

Môi trường tu hành cũng vậy. Nếu đào tạo không nghiêm khắc, không có phương pháp, Tăng Ni khi ra trường sẽ không có tài năng, Đạo đức lẫn bản lĩnh. Nếu không có bản lĩnh, chúng ta sẽ sợ hăi, khiếp nhược, rút lui khi lâm vào cảnh khổ. Như vậy, sẽ không ai dám dấn thân vào vùng sâu, vùng xa để làm việc đạo, giáo hóa chúng sinh.

Hiểu được điều này, chúng ta sẽ không tỏ ra khó chịu hay giận hờn mỗi khi bị huynh đệ xúc phạm. Nếu có bị người lớn chèn ép, chúng ta cũng vui mừng, coi như đó là những điều kiện thử thách ḷng nhẫn nhục của ḿnh. Có không ít trường hợp phiền năo, đầy nước mắt nhưng chúng ta hăy xem đó là cơ hội để tu hành. Hăy tâm niệm rằng, chịu đựng như vậy, khi ra ngoài làm Phật sự, việc khó khăn nào chúng ta cũng vượt qua được. Chỉ cần nhớ một điều, chịu đựng nhưng không phải sợ hăi, cũng không phải giận hờn nuôi dưỡng thù oán bên trong, mà là tâm tha thứ, tâm buông xả, không phiền năo. Đó chính là tâm nhẫn nhục của đạo Phật.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 149 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 2:35am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. NHẪN NHỤC LÀ THÀNH TỰU CỦA ĐẠO LỰC.

Người tu hành thường có đức nhẫn nhục. Chúng ta phân biệt hai loại nhẫn nhục: Nhẫn nhục bằng sức mạnh của Thiền định, bằng kết quả của Thiền định và nhẫn nhục bằng tư duy chân chính.

a. Về sức mạnh của Thiền định:

Chúng ta từng nghe câu chuyện về ngài Bạch Ẩn. Ông là tấm gương tiêu biểu về hạnh nhẫn nhục. Ngài Bạch Ẩn thuộc ḍng Lâm tế, ở nước Nhật. Ngài khán công án. Một hôm, không hiểu v́ lư do ǵ, ngài bị Thầy đánh một cái rơi từ trên thềm xuống. V́ chùa ở trên dốc núi nên Ngài bị rơi xuống rất sâu và bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, Ngài đă ngộ Đạo. Ngài đến tŕnh Thầy và được Thầy chấp nhận. Sau đó, Ngài về làng quê chăn ḅ thuê. Việc làm này không rơ nhằm mục đích ǵ, có thể là Ngài muốn rèn luyện hay hàm dưỡng điều ǵ đó. Khi sống ở làng, Ngài cũng ăn chay, tụng kinh lễ Phật, tỏ ra hiền lành nên mọi người gọi là ông sư, và ai cũng thương quư Ngài.

Ngài cất cḥi ở và chăn ḅ thuê được một thời gian th́ trong làng xảy ra chuyện. Một cô gái chưa chồng bỗng dưng bụng ngày một to. Khi cha mẹ tra hỏi, lúc đầu cô chối quanh co, sau đó cảm thấy không ổn nên cô đă đổ tội cho ông sư. Có lẽ cô cho rằng như vậy là đỡ rắc rối nhất. Cha mẹ cô nghe vậy, đến mắng chửi Ngài thậm tệ. Ngài chỉ hỏi :“Vậy à” rồi im lặng. Từ đó, người làng coi Ngài không ra ǵ nữa. Giá trị quan trọng nhất của một người tu là phạm hạnh trong sạch. Ngài phạm tội nặng như vậy, c̣n ǵ giá trị nữa. Khi đứa bé được sinh ra, người ta mang đến giao cho Ngài nuôi. Ngài nhận em bé nhưng không biết nuôi như thế nào. Hằng ngày, Ngài phải ẵm em bé đi xin sữa hàng xóm. Thời gian trôi qua chừng vài năm, cô gái cảm thấy ray rứt bèn thú thật, bố đứa bé không phải là vị sư tội nghiệp kia mà là anh chàng bán cá ngoài chợ. Biết sự thật, cha mẹ cô gái đến xin lỗi Ngài. Lúc này, Ngài cũng chỉ nói: “Vậy à”, rồi trả đứa bé lại cho mẹ nó, coi như không có chuyện ǵ xảy ra.

Đó là một tấm gương nhẫn nhục tuyệt vời. Ngài đă chịu đựng sự vu khống, sự nhục nhă, mất thể diện, mất danh dự một cách b́nh an, không hề oán ghét giận hờn. Quả là một sự nhẫn nhục rất tiêu biểu, rất đúng nghĩa.

Trong bài Khiêm hạ, chúng ta đă bàn về vấn đề danh dự của người tu hành. Người tu không coi trọng danh dự, v́ c̣n đặt vấn đề danh dự nghĩa là vẫn c̣n chấp ngă. Nhưng không phải v́ thế mà chúng ta sống bừa băi, phóng túng. Dù không coi trọng danh dự nhưng chúng ta vẫn sống rất đàng hoàng, nghiêm túc. Sống như vậy là chúng ta muốn giữ tín tâm cho mọi người đối với Phật pháp. Nh́n gương tu hành đứng đắn, nghiêm túc của chúng ta, người đời sẽ tin con đường Phật pháp là chân chính. Mặt khác, lối sống nghiêm túc, có Đạo đức sẽ sớm đưa chúng ta đến sự giải thoát, giác ngộ. Chúng ta đừng nghĩ rằng, sống đàng hoàng, đứng đắn để được người đời ca ngợi, tôn trọng. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ tránh được sự nhầm lẫn, một lúc nào đó xem danh dự, thể diện là quan trọng.

Trở lại trường hợp Ngài Bạch Ẩn, chúng ta thấy Ngài tu rất đúng, không coi trọng danh dự, thể diện nên đă nhẫn nhục một cách phi thường. Trong khi đó, Ngài vẫn sống rất đàng hoàng, nghiêm túc. Đó là thái độ rất đúng của người tu theo đạo Phật. Bởi vậy, trong cuộc sống, có lúc bị người ta chỉ trích, nói xấu, chúng ta cũng không phản ứng, không trả đũa, không cải chính, không biện minh, ḷng không hề oán hận, tiếp tục sống cuộc đời rất đàng hoàng, Đạo đức tốt đẹp. Người sống như vậy người biết nhẫn nhục cao độ.

b. Nh́n bên ngoài, nhẫn nhục có vẻ nhu nhược nhưng bên trong là sức mạnh của nội tâm.

Người có tâm hồn yếu đuối, hay xao động không thể gọi là người nhẫn nhục. Nhẫn nhục là có một sức mạnh, giữ tâm ḿnh không bị xao động, lung lay, không bị hoang mang. Nghĩa là đứng trước lời nói xấu của người khác, chúng ta vẫn không hoang mang, lo lắng cho danh dự bị tổn thương và t́m cách cải chính. Khi bị người ta xúc phạm chửi mắng, chúng ta vẫn không dao động, không giận hờn, không buồn bă. Giữ được tâm vững vàng như vậy, phải có một sức mạnh nội tâm rất lớn.

Những người tâm c̣n ích kỷ không bao giờ nhẫn nhục được v́ ích kỷ sẽ đưa đến chấp ngă nặng. Hễ chấp ngă nặng, khi bị xúc phạm, bị xâm phạm chúng ta sẽ rất khó chịu, không chịu đựng được sự xúc phạm.

Tâm tự ái cũng làm cho chúng ta không nhẫn nhục được. V́ tự ái là coi trọng thể diện. Người tu theo đạo Phật phải vô ngă mới nhẫn nhục được.

Tâm c̣n xao động cũng không thể nhẫn nhục được. V́ dễ xao động, khi người ta xúc phạm, chúng ta sẽ mất b́nh tĩnh và không c̣n nhẫn nhục. Muốn trị xao động, muốn nhẫn nhục được, chúng ta phải tu Thiền định.

Người hay giận hờn, thù hận cũng không chịu được xúc phạm nên không thể nhẫn nhục được.

Tóm lại, tâm c̣n ích kỷ, tự ái, xao động hay thù hận đều không thể chịu được sự xúc phạm của người khác nên không thể nhẫn nhục.



c. Nhẫn nhục khác với nhu nhược, yếu đuối, vô tàm quư.

Khi lầm lỗi, người ta góp ư nhưng chúng ta vẫn trơ ra, không biết hối hận, không biết lỗi, vẫn tiếp tục làm. Đó không phải là nhẫn nhục mà gọi là trơ ĺ. Trong đạo Phật, chúng ta gọi là vô tàm vô quư, không biết hổ thẹn.

Ví dụ, khi bị phát hiện, một người có tật ăn cắp vặt vẫn im lặng, tỏ ra b́nh tĩnh, không hổ thẹn, coi như không có ǵ xảy ra. Sự im lặng đó không phải là nhẫn nhục mà trơ ĺ .

Trong bài Hạnh chân thật, chúng ta đă nhắc đến ba hạng người. Hạng đầu tiên là vô tàm, hạng thứ hai là hối và thứ ba là bất hối.

Người vô tàm là người khi mắc phải lỗi lầm, được người khác chỉ lỗi vẫn không mắc cỡ, không hổ thẹn. Theo ngôn ngữ của người đời, đó là người “mặt dày”. Những người này thường không biết thiện ác tội lỗi, Nhân Quả, là người rất đáng sợ.

Hạng người thứ hai là người biết được Nhân Quả tội phước. Khi đă làm điều ǵ lầm lỗi, được người khác chỉ lỗi cho, họ thường hối hận. Đây là người biết tu, là người rất tốt.

Hạng người thứ ba là người khi lầm lỗi, biết ḿnh có lỗi nhưng ḷng không hề hối hận, không hề ray rứt. Không hối hận nhưng quyết tâm không bao giờ phạm lỗi nữa. Đây là hạng người chứng được Sơ thiền. Người chứng Sơ thiền sẽ đạt được bất hối. Quyết tâm không phạm lỗi của họ rất mạnh.

Đối với chúng ta, biết lỗi và biết hối hận cũng là một công phu tu hành nghiêm túc. Đạt được điều đó là chúng ta đă trở thành người tốt.

Trong cuộc sống, chúng ta gặp những trường hợp tương tự như nhẫn nhục nhưng thực chất đó là người không có ḷng tự trọng, v́ cầu danh lợi nên chịu hèn kém, nịnh bợ luồn cúi. Đó là hạng người vô liêm sỉ, không có tiết tháo. Trường hợp này thường xảy ra ngoài đời, trong Đạo ít khi gặp phải. Chẳng hạn, có người thấy người khác giàu sang, bèn lân la kết thân. Khi người giàu tỏ ra khinh thường, sai làm hết việc này sang việc khác, thậm chí chửi mắng, họ cũng cười trừ coi như chẳng có ǵ quan trọng. Như vậy, không thể gọi là nhẫn nhục . Đó là cầu cạnh, luồn cúi, nịnh bợ. Nhẫn nhục của đạo Phật là không có sự cầu cạnh, không mong muốn điều ǵ cho ḿnh.

Những người chịu đựng nhục nhă, hạ thấp phẩm giá để mong được ích lợi cho ḿnh mà dân gian gọi là “ chịu đấm ăn xôi”, là người không có liêm sỉ, là kẻ tiểu nhân với tư cách tầm thường, hèn hạ. Biểu hiện bên ngoài của hạng người này rất giống nhẫn nhục nhưng hoàn toàn không phải. Chúng ta cần chú ư phân biệt cho đúng. Bởi vậy, khi tiếp xúc với những người giàu có, quyền thế, chúng ta phải kiểm soát tâm ḿnh. Nếu bị người ta đối xử không đàng hoàng mà ḿnh vẫn nhịn, phải xét lại tâm ḿnh xem việc ḿnh nhịn là nhẫn nhục hay nịnh bợ, muốn cầu cạnh điều ǵ.

Người đời có những kẻ tiểu nhân, sẵn sàng bán rẻ danh dự, phẩm giá để cầu danh lợi. Người tu theo đạo Phật luôn tỏ ra quân tử, có thái độ bất cần, thấy lợi không ham, thấy danh không màng. Chúng ta chỉ cần sự tinh tấn, cần có Đạo đức cao dày, cần có phước và trí tuệ để giáo hoá chúng sinh.

Người khiếp nhược, sợ hăi không biết làm ǵ khi bị chèn ép là người nhu nhược. V́ khi bị chèn ép, trong ḷng họ cũng giận hờn, cũng uất ức nhưng không dám phản ứng v́ người ta có thế lực hơn ḿnh. Ví dụ, một tù nhân bị cai ngục đánh đập, hành hạ nhưng anh ta vẫn chịu đựng. Trường hợp này gọi là nhu nhược. Tuy có sự chịu đựng, nhưng là chịu đựng v́ không có khả năng phản ứng, không có khả năng trả đũa nên không phải là nhẫn nhục theo đúng nghĩa của đạo Phật.

Có trường hợp, người ta không phản ứng lại việc người khác chèn ép hay xúc phạm ḿnh không phải v́ yếu thế mà không muốn sự việc trở nên phức tạp, để lại hậu quả xấu. Như thế gọi là người biết nhẫn nhục. Câu chuyện về hai đứa bé với một cái bóp nhặt được trên đường là một ví dụ.

Một thằng bé trông cũng to con đang đi trên đường, chợt thấy cái bóp của ai đó đánh rơi. Nó vừa nhặt lên xem th́ một đứa bé khác, nhỏ hơn nó, ở đâu chạy tới đ̣i chia đôi số tiền có trong bóp. Nó không chịu v́ muốn trả lại cho người bị mất. Đang dùng dằng, bỗng nó nh́n thấy một người đàn ông loay hoay t́m kiếm một vật ǵ. Hỏi ra, biết cái bóp nhặt được là của ông ta, nó vui vẻ trả lại. Người đàn ông mừng quá, mở ra xem. Tất cả tiền bạc, giấy tờ trong bóp vẫn c̣n nguyên. Ông bèn lấy ra năm chục ngàn để “hậu tạ” nó. Thằng bé dứt khoát không lấy. Nó giải thích ngắn gọn : Nếu con muốn th́ đă lấy hết rồi, con không trả lại chú đâu. Nghe vậy, ông ta cảm ơn nó rối rít rồi đi. Người đàn ông vừa đi khỏi, thằng bé nhỏ hơn nói :

_ Mày đưa tao hai lăm ngàn.

- Tiền ǵ ?

- V́ tao với mày cùng nhặt được, ông ta cho năm chục th́ phải chia đôi, mày hai lăm tao hai lăm.

- Lúc năy mày không thấy tao trả lại hết cho ông ta rồi à?

- Tao không cần biết, ông ta cho năm chục tức mày hai lăm tao hai lăm, c̣n trả là việc riêng của mày, tao không biết.

Hai đứa cứ căi qua căi lại như vậy một lúc. Thằng nhỏ đ̣i đánh thằng lớn v́ không đưa tiền cho nó. Thằng lớn bỗng đâm đầu chạy. Người ta hỏi nó: “Chẳng lẽ con không đánh lại nó hay sao mà bỏ chạy ?”. Nó trả lời: “Đâu có, nếu con đánh lại là nó chết, con phải chạy để đừng đánh nó”.

Đó chính là sự nhẫn nhục đúng nghĩa. So sánh với trường hợp thứ nhất, chúng ta thấy có sự khác biệt. Sở dĩ người tù bị cai ngục đánh mà phải cắn răng chịu đựng v́ anh ta biết rằng ḿnh không làm ǵ được người ta, quyền hành nằm trong tay họ. Trường hợp này, đứa bé lớn thừa khả năng đánh lại nhưng nó không đánh.

Như vậy, người có khả năng mà vẫn chịu đựng, không phản ứng, không trả đũa là người có sức nhẫn nhục rất cao. Trong cuộc sống, ta gặp không ít trường hợp chịu đựng bởi không dám hoặc không đủ sức phản ứng, nhưng trong ḷng vẫn nuôi ấm ức, chờ cơ hội phục thù: “ rồi sẽ biết tay ta”. Đó không c̣n là nhẫn nhục nữa.

Chúng ta cần phân tích tâm để thấy sự khác nhau giữa hai trường hợp này. Tất nhiên, đây là điều không đơn giản. V́ cái khó là ở việc phân tích hai cái tâm. Một bên v́ yếu thế nên phải nhịn nhưng trong tâm luôn luôn muốn trả đũa. Tâm muốn trả đũa khi bị người khác xúc phạm là tâm rất mạnh. Một bên thừa khả năng, dư thế lực mà vẫn nhịn, không trả đũa do tâm vui làm mất đi ước muốn trả đũa. Đa số chúng ta đều bị tâm trả đũa thôi thúc. Hễ bị xúc phạm, chúng ta muốn phản ứng lại ngay. Bởi vậy, tâm không trả đũa là tâm rất quư. Gốc nhẫn nhục là ở nơi tâm ấy.

Người tu hành phải tu làm sao trong thâm sâu của tâm không c̣n ư muốn trả đũa nữa ngay cả trong trường hợp dư thế lực. Như thế, chúng ta đă thành tựu được nhẫn nhục, không phiền năo, không giận hờn, không phản ứng …, dù ḿnh dư điều kiện để làm điều đó. Những người thoát được tâm muốn trả đũa rất đáng được ngợi ca, trân trọng.

Nhẫn nhục là phẩm chất của người biết tự trọng, biết giữ phẩm giá, không sợ hăi, nhưng giữ ḷng b́nh thản tha thứ. Chỉ những người tu tập hạnh Vô Ngă khiêm hạ, tự xem ḿnh là cỏ rác mới nhẫn nhục được. Chúng ta biết rằng, bao nhiêu công hạnh Đạo đức đều tập trung ở ba tâm hạnh ban đầu là Tôn kính Phật, Từ bi và Khiêm hạ. Từ ba tâm này, vô số tâm hạnh khác được mở ra.

Nhẫn nhục có liên quan đến tâm khiêm hạ. Người thấy ḿnh như cỏ rác, cát bụi sẽ dễ nhẫn nhục hơn. Bởi vậy, mỗi đêm khi ngồi thiền, chúng ta đều quán ḿnh là cát bụi, là cỏ rác. Khi bị người khác chửi mắng, xúc phạm, chúng ta sẽ b́nh thản, không thấy ǵ đáng giận nữa. Thậm chí, khi có người mắng ḿnh là chó, ḿnh vẫn không giận. Có khi c̣n trả lời nhẹ như không khiến người ta phải bất ngờ: “ Bạn nói không đúng sự thật, nếu là chó vẫn c̣n lớn lắm, thực ra tôi là cát bụi, cỏ rác”

Người ta kể rằng, vua Phillippe xứ Macédoine, cha của Alexandre Đại đế (người từng đem quân đi đánh từ Hi Lạp qua Ấn Độ, chiếm cả một vùng đế quốc rất rộng lớn qua Trung Đông, Ai Cập đến Ấn Độ) là người rất tinh tế. Ông cho rằng, bệnh chung của tất cả các ông vua trên thế giới này là kiêu ngạo. Bởi vậy, ông dặn người hầu đứng ở đầu giường, mỗi buổi sáng, khi ông vừa thức dậy, câu phải nói với ông đầu tiên là: Philip, ngươi phải nhớ rằng ngươi chỉ là một con người tầm thường mà thôi. Làm như vậy là ông muốn nhắc nhở ḿnh suốt cuộc đời ông không được kiêu ngạo. V́ kiêu ngạo thường đem lại thất bại cho con người. V́ thế, trong cuộc đời làm vua, ông trị dân rất thành công. Con trai ông là Alêchxăng Đại đế, từng chinh phục khắp nơi cũng là người đa mưu, túc trí.

Thời đó, vua Philip muốn cất quân sang đánh chiếm một nước lân cận. Thấy nguy cơ vua Philip sẽ xâm lược đất nước ḿnh, trong khi dân chúng lo vui chơi không pḥng bị, nhà hùng biện Demothène đă đứng lên hô hào, kêu gọi dân chúng đoàn kết, rèn luyện đểø chống lại kẻ thù. Ông mắc tật nói ngọng nên hằng ngày, ông ra bờ biển để viên sỏi lên lưỡi gào thi với sóng biển để luyện giọng. Cứ như thế, sau này ông đă trở thành một nhà hùng biện nổi tiếng thời cổ. Ông đứng giữa đô thị khuyên dân chúng phải biết tai họa mà vua Philip sắp giáng xuống đất nước ḿnh. Thám tử của vua Philip ghi lại tất cả những lời Demothène nói trước dân chúng và mang về tŕnh cho vua Philip xem. Đó là những lời công kích gay gắt vua Philip. Đọc xong, nhà vua không giận lại khen Demothène nói hay: “ Trẫm mà trực tiếp nghe những lời này chắc trẫm cũng chống lại chính ḿnh”. Tuy vậy, vua Philip vẫn cất quân sang đánh và thắng lợi vẻ vang. Ông chiến thắng bởi ông là một ông vua, vừa là một nhà minh triết. Cái sáng suốt của ông không chỉ thể hiện ở sự khôn ngoan, ở chiến thuật bên ngoài mà c̣n thể hiện ở sự kiểm soát trong tâm của ḿnh. Người ta khâm phục vua Philip là như vậy.

Giỏi việc bên ngoài mà vẫn kiểm soát được tâm bên trong, đó là điều rất hay mà người tu theo đạo Phật cần để ư. Khi trở nên giỏi giang, gánh vác được mọi việc, chúng ta phải thường xuyên kiểm soát tâm ḿnh, nhất là tâm kiêu mạn. Như vậy, tâm khiêm hạ là nền tảng để chúng ta tu tập được những tâm này.

d. Có trường hợp nhẫn nhục v́ từ bi.

Chúng ta từng nghe câu chuyện vị vua tiền thân của Phật, bỏ ngai vua để dân chúng thoát khỏi cảnh chiến tranh. Ông nhường nước của ông cho vua nước địch. Đức Phật vô lượng kiếp từng làm vua do Ngài có phước lớn. Ngài làm vua cai trị thiên hạ với tất cả ḷng thương yêu. Lúc bấy giờ, dân số vẫn c̣n ít nên vua thường trực tiếp đến thăm từng người dân. Ai có chuyện ǵ, Ngài đều chăm sóc chu đáo. Do ngân quỹ quốc gia thường dành cứu trợ dân nên nhà vua không trang bị cho việc vơ bị quân sự. Lực lượng, quân sự của Ngài rất yếu. Nước láng giềng biết điều đó nên cất quân sang đánh chiếm. Khi thám tử ở biên giới chạy về cấp báo, vua ngồi suy nghĩ rất lâu. Ngài thấy rằng, nếu chống lại chắc chắn chín mươi phần trăm thất bại thuộc về nước ḿnh. Như vậy, sự hy sinh xương máu của dân chúng là quá lớn. Hơn nữa, vị vua kia cũng là người biết cai trị dân. Nghĩ vậy, Ngài đă hạ lệnh cho quân sĩ không cầm vũ khí. Các quan tướng, lính tráng mở cửa thành đứng hai bên chờ quân nước kia tiến tới. Xong đâu đấy, Ngài nhảy lên lưng ngựa chạy trốn.

Khi dẫn quân ầm ầm kéo đến, ông vua nước kia vô cùng ngạc nhiên khi thấy dân chúng yên lặng, binh sĩ không ai chiến đấu. Ông tiến vào thành, quan lại cũng đứng yên như đang đón tiếp. Ngai vàng trống rỗng, hỏi ra mới biết ông vua kia đă chạy mất rồi. Ông ngửa mặt lên trời cười và nói rằng : “Thằng kia nghe tiếng đă sợ chạy mất rồi, nhưng biết đâu nó lại kết tập lực lượng, quay lại đánh ḿnh”. Ông ra lệnh truy nă và hứa sẽ trọng thưởng cho ai bắt được vị vua này.

Sau khi rời thành, Ngài đi lang thang trong rừng, đào củ, ăn lá cây sống cho qua ngày. Quần áo Ngài cũng đă rách rưới trông thật thảm hại. Một hôm, trên đường rừng, Ngài gặp một người Bà la môn. Người ấy hỏi thăm Ngài có biết đường về kinh thành xứ đó hay không. Ngài hỏi : “Để làm ǵ ? ”. Ông ta trả lời : “ Dạ, tôi nghe đồn ông vua trị v́ xứ ấy là người rất tốt, thường giúp đỡ mọi người. Tôi ở xa đến, hoàn cảnh của tôi vô cùng bi đát. Bây giờ, năm sáu bà vợ và mấy chục đứa con tôi đều rơi vào hoàn cảnh như vậy. Nếu không được giúp đỡ, chắc gia đ́nh tôi phải chấp nhận một kết cục bi thảm là chết đói. Nghe tiếng ông vua ấy tốt, tôi quyết t́m đến để được giúp đỡ”. Nghe vậy, Ngài thốt lên: “ Trời ơi, ông vua đó chính là ta đây”. Người Bà la môn ôm nhà vua vừa khóc vừa nói: “ Trời ơi! Tôi đi t́m Ngài để Ngài giúp đỡ tôi, không ngờ Ngài thân tàn ma dại như vậy biết làm sao được”. Suy nghĩ một lúc, Ngài nói: “ Thôi được, ta c̣n cách giúp ngươi. Ngươi trói ta lại, đem nộp cũng được một món tiền kha khá”. Người đàn ông hoảng hốt: “Trời ơi, làm sao con làm được điều đó”.“Ngươi cứ làm theo lời ta đi. Ta chỉ có một thân, một ḿnh không sao, năm sáu bà vợ với mấy chục đứa con ngươi mới quan trọng”. Nghe Ngài phân tích, người đàn ông xiêu ḷng, lấy dây thừng trói vua dẫn về. Ông vua đang ngự trị ngai vàng lúc bấy giờ mừng quá, v́ nghĩ sẽ trừ được hậu hoạ. Sau khi ban thưởng rất trọng hậu cho người Bà la môn, ông hỏi : “ Ngươi làm thế nào bắt được hắn? ”. Người Bà la môn kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, nhà vua rất xúc động. Ngài không ngờ trên đời này c̣n có người tốt đến thế, luôn sẵn sàng hi sinh v́ người khác, không nghĩ đến bản thân ḿnh. Ông cảm thấy bao nhiêu năm chinh chiến, tranh giành, chiếm đoạt, ḿnh không cao cả bằng con người ấy, con người lúc nào cũng chỉ biết hy sinh, nhường nhịn. Nhà vua thức tỉnh, Ngài xin lỗi và cởi trói cho vị vua nhân đức kia. Sau khi trả lại ngôi vua, hai bên kết nghĩa bang giao.

Như vậy, hành động của Ngài là biểu hiện của Đức nhẫn nhục cao cả. Sự nhẫn nhục ấy xuất phát từ tâm từ bi chứ không v́ lợi ích cá nhân.

Từ chuyện vị vua rời bỏ ngai vàng (tiền thân của Đức Phật) ấy, chúng ta liên hệ đến trường hợp vua Trần Thái Tông ở Việt Nam. Khi ông mới lên ngôi, Mông Cổ kéo quân sang xâm lược nuớc ta. Lịch sử c̣n ghi lại, vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu, cỏ cây không mọc được đến đó. Quân Mông Cổ rất hùng mạnh. Chúng đem quân xâm chiếm khắp nơi, từ châu Á đến châu Âu. Bởi vậy, khi nghe tin Mông Cổ sắp đem quân sang đánh nước ta, vua Trần Thái Tông rất lo sợ. Ngài nghĩ rằng, nếu đương đầu với chúng, chắc chắn sẽ tắm máu không biết bao nhiêu sinh linh vô tội. Ngài bàn với Thái sư Trần Thủ Độ nên đầu hàng cho muôn dân thoát khỏi cảnh núi xương sông máu. Ông Trần Thủ Độ trả lời một cách cương quyết : “ Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hăy chém đầu thần đi đă”. Lúc đó, ông Trần Thủ Độ cương quyết chiến đấu v́ ông có niềm tin là ḿnh sẽ chiến thắng. Dù có quyết đoán và đôi khi thủ đoạn, nhưng quyết tâm của ông đă giúp chúng ta chiến thắng quân Mông Cổ, mở ra một trang sử oai hùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Cho đến bây giờ, thế giới vẫn chưa hết băn khoăn, không hiểu v́ sao một đất nước nhỏ bé như Việt Nam lại chiến thắng được quân Mông Cổ. Người ta đặt vấn đề nghiên cứu lại những bài học chiến thắng quân Mông Cổ của Việt Nam.

Chúng ta đă ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Hai lần sau là công của vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Có nhiều nguyên nhân đem lại những chiến thắng vẻ vang ấy. Trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là cuộc kháng chiến được dẫn dắt bởi những vị minh quân, có đạo đức cao dày. Trong “ Bạch Đằng giang phú”, ông Trương Hán Siêu đă ngợi ca:

Anh minh hai vị Thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thanh b́nh

Bởi đâu đất hiểm, cốt ḿnh đức cao.

Trương Hán Siêu là một mưu thần của Hưng Đạo Vương, cùng với Vương vạch ra những quyết sách đánh giặc, nhưng lại cũng là người thầm lặng ít bộc lộ.

Một điều chúng ta phải ghi nhận là các bậc vua quan đời Trần: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo…đều ngưỡng mộ đạo Phật. Họ đều là những Thiền sư, có đạo đức. Trần Hưng Đạo là người có sở đắc tâm linh rất sâu. Ông có đạo đức, có tu tập, và có công lớn với đất nước. V́ thế, người đời tôn thờ ông như một vị Thánh (Đức Thánh Trần).

Như vậy, việc Trần Thủ Độ cũng như các đời vua Trần sau này quyết tâm chiến đấu chống Mông Cổ mà không nhẫn nhục là đúng hay sai ? Phải chăng, hành động chống lại ngoại xâm một cách ngoan cường như vậy là không đúng với hạnh nhẫn nhục của đạo Phật ?

Ở đây, chúng ta cần lưu ư một điều, ở vào hoàn cảnh của các vị ấy th́ không thể nghĩ đến cá nhân nữa mà phải đặt vấn đề đại thể, vấn đề của quốc gia, dân tộc. Cho nên, vị vua (trong câu chuyện tiền thân Đức Phật) nhịn nhục là v́ dân. Các vua Trần quyết đánh cũng v́ dân chứ không phải v́ sự nghiệp của riêng ḿnh.

Vẫn biết rằng, nhẫn nhục là Đạo ïđức cao quư mà mỗi chúng ta phải tu tập, rèn luyện nhưng không phải trong bất kỳ t́nh huống nào chúng ta cũng nhẫn nhục. Chúng ta cần lưu ư đến quyền lợi của nhiều người mà có thái độ ứng xử phù hợp. Với bản thân ḿnh, một khi đă tu hạnh vô ngă, khiêm hạ th́ chúng ta sẽ nhẫn nhục được. Nhưng khi biết thái độ, quyết định của ḿnh có liên quan đến quyền lợi của mọi người, chúng ta phải cân nhắc. Trong đánh giá người khác cũng vậy, chúng ta phải xem thái độ ứng xử của họ liên quan đến lợi ích cá nhân hay quyền lợi của nhiều người, không được đánh giá một cách phiến diện, một chiều.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 150 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:06am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. NHẪN NHỤC LÀ BIẾT TRẢ CHO HẾT NGHIỆP.

Trong vô lượng kiếp luân hồi, chúng ta đă tạo rất nhiều nghiệp. Có thể trong vô lượng kiếp trước, chúng ta đă gây ra không biết bao nhiêu điều không tốt, làm khổ không biết bao nhiêu người. V́ vậy, chúng ta hăy nghĩ rằng, ḿnh có mặt trên cuộc đời này là để trả cho hết những nghiệp đó. Nếu gặp khó khăn, trắc trở trong cuộc sống, chúng ta cũng phải nhẫn nhục, chịu đựng để trả những nghiệp mà ḿnh đă gây ra trong quá khứ. Đó là sự công b́nh. Chúng ta chỉ mong như vậy thôi, mong nhẫn nhục tu hành để thành Con người đúng nghĩa, đừng nghĩ đến điều ǵ xa xôi, tu để thành Thánh, hay thành Bồ Tát. Có những nghiệp chúng ta đă tạo nên trong quá khứ, kiếp này hiện ra cho chúng ta trả. Nhưng cũng có những nghiệp không hiện ra kiếp này, mà hẹn đến mấy kiếp sau. Đừng nghĩ hễ kiếp này gieo điều ǵ, chúng ta trả liền ngay điều đó. Có những nghiệp hẹn đến năm mười kiếp sau, có khi một trăm kiếp sau, chúng ta mới gặp nhân duyên để trả.
Chúng ta c̣n nhớ chuyện ngài Triệu Thố Viên án- Ngộ Đạt Quốc sư trong Thuỷ Sám. Mười đời trước khi làm Ngộ Đạt Quốc sư, Ngài đă từng làm Viên án. V́ tâu oan, Ngài đă giết chết một người. Oan hồn theo đuổi măi đến mười kiếp mới báo thù được, bằng cách nhập vào thân Ngài làm thành mụt ghẻ mặt người khiến Ngài đau đớn vô cùng.
Như vậy, không phải mỗi nghiệp đều được trả liền. Không ai trong chúng ta lại không từng gây nghiệp. Có nhiều nghiệp, chúng ta đă tạo nên trong vô lượng kiếp quá khứ nên bây giờ phải có sức mạnh chịu đựng, trả cho hết những nghiệp ấy. Biết vậy, khi bị xúc phạm đến bản thân, chúng ta phải chịu đựng, không phản ứng, không oán thù để tránh tạo thêm tạo thêm nghiệp mới, tạo thêm oan trái mới cho đời sau.
Có câu chuyện tiền thân của Phật lúc c̣n là Đạo sĩ tu trong rừng. Thời đó có một ông vua tên là Ca Lợi. Một hôm, ông cùng các cung nữ vào rừng dạo chơi. Khi mọi người tản ra dạo chơi, ngắm cảnh, các cung nữ đến bệ đá thấy một Đạo nhân đang ngồi bất động, gương mặt an tĩnh, hiền lành. Các cô liền đặt cây trái lên cúng dường, đảnh lễ và hỏi pháp. Vị Đạo sĩ thuyết pháp cho các cô nghe. Lần lượt, các cung nữ khác đến rất đông, ngồi quanh vị Đạo sĩ để nghe thuyết pháp. Lúc đó, nhà vua đang dạo chơi bỗng nhận ra xung quanh ḿnh không c̣n một ai. Ông đi t́m và bắt gặp h́nh ảnh một Đạo sĩ ngồi giữa đang say sưa nói, chung quanh là các cung nữ yêu quư của ḿnh chăm chú lắng nghe. Ḷng tự ái trỗi dậy (cũng là nghiệp xưa nay đă đến lúc đ̣i), ông hỏi Đạo sĩ một cách xấc xược : “ Ông ở đây làm ǵ ?”. Đạo sĩ trả lời: “Thưa Đại vương, tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục” . “Được”, vua vừa nói vừa rút gươm ra chặt đứt cánh tay phải của ngài Đạo sĩ. Cánh tay rơi xuống, máu tuôn xối xả. Vua hỏi: “ Sao, nhẫn được không?”. Đạo sĩ trả lời: “Thưa Đại vương, tôi nhẫn được”. Ông vua vung gươm lần nữa, cánh tay trái rơi xuống. Ông lại hỏi: “Sao, nhẫn được không?”. “Thưa Đại vương, tôi nhẫn được”. Nhà vua lại vung gươm lên chém và hỏi: “Sao nhẫn được không?”. “Dạ được”. Vua lại vung gươm lần nữa và hỏi “Nhẫn được không?”. Đạo sĩ vẫn b́nh thản: “Dạ nhẫn được”. Lúc này, h́nh như nghiệp quá khứ đ̣i xong rồi, nhà vua bỗng thấy hối hận. Ngài buông gươm quỳ xuống trước mặt Đạo sĩ xin sám hối.
Máu ra nhiều quá không cứu được, vị Tiên nhân đă chết. Trước khi nhắm mắt, Ngài nói: “Tôi nhẫn nhục được, tôi không oán thù Đại vương, tôi vẫn thương yêu Đại vương như mọi người, và tôi nguyện sau này khi thành Phật, người đầu tiên tôi độ sẽ là Đại vương.”
Quả thật, sau này thành Phật, Ngài đă độ cho vị vua ấy. Kiều Trần Như, người đệ tử đắc A La Hán đầu tiên chính là ông vua đă chém Ngài khi xưa. Ngài đă giữ lời hứa, không oán thù v́ Ngài hiểu đó là nghiệp quá khứ mà ḿnh phải trả.
Các vị Bồ tát nhẫn nhục v́ hơn ai hết, các Ngài nhớ đích xác ḿnh đă làm ǵ, chuyện đă xảy ra ở đâu, bây giờ là lúc phải trở lại trả nghiệp…V́ vậy, các Ngài không bao giờ giận, cũng không động tâm, không phiền năo. Chúng ta cũng vậy, đă gây ra nhiều nghiệp từ quá khứ, bây giờ gặp lại những oan trái, phải biết kiên nhẫn chịu đựng. Đó là thái độ đúng nhất của người đệ tử Phật.
Ví dụ, khi gặp một người nào đó, dù chúng ta không làm điều ǵ sai trái nhưng tự nhiên họ ghét ḿnh cay đắng, chúng ta cảm thấy rất khổ tâm. Nhưng đến lúc nào đó, trong một giấc mơ bất chợt chúng ta thấy được trong tiền kiếp đă có oan trái với họ. Có thể ḿnh với họ đă từng gặp nhau trong chiến trận, Khi đó, ḿnh là người chiến thắng, hả hê vui sướng, c̣n họ thất bại ôm buồn giận cho đến kiếp này. Bởi vậy, khi gặp lại, họ thù ghét và t́m cách hại ḿnh đủ điều. V́ giấc mơ đă hiện ra cho biết điều đó nên bây giờ chúng ta hiểu và không c̣n buồn giận nữa. Đây là trường hợp nhẫn nhục do nhớ đích xác được nghiệp quá khứ ḿnh đă gây ra.
Thời Đức Phật, tại làng nọ có một gia đ́nh sinh được một cô con gái rất xinh đẹp. Người cha biết coi tướng số. Nh́n con gái quư tướng đầy đặn, ông nói rằng, con gái ông phải làm đến ngôi Hoàng hậu, nghĩa là danh vọng tột đỉnh. Bởi vậy, ông phải kén một chàng rể đàng hoàng, danh giá. Đang trong giai đoạn kén rể, một hôm trên đường đi, cô gái gặp Đức Phật đang đi khất thực. Nh́n Ngài, cô ngạc nhiên quá đỗi v́ không ngờ trên đời này lại có một người đẹp trai, hảo tướng đến như vậy. Cô vội vàng chạy về nói với cha: “Thưa cha, con đă gặp người xứng đáng”. “Người đó như thế nào?”. “Con người vô cùng tốt, vô cùng đẹp, tướng vô cùng quư, chỉ có điều là đang đi tu” Ông nói: “Để cha xem sao”. Nói rồi, ông đi vào rừng hướng về nơi Đức Phật đang đi. Đức Phật biết được tâm ông ta nên dùng thần thông in lại dấu chân Ngài lên mặt đất ( b́nh thường Ngài đi rất nhẹ).
Bàn chân Đức Phật có một cái xoáy ở giữa, như là bánh xe pháp. Khi vào rừng, nh́n thấy dấu chân, ông già nói: “Không xong rồi” và quay về. Ông nói với vợ: “Không được rồi bà ơi, người này là vị Thánh, bàn chân rất đầy lại có xoáy ở giữa”. Bà vợ thương con gái quá nên thuyết phục chồng : “Thôi kệ, Thánh th́ Thánh, tu th́ tu, cũng có thể làm vua được. Con ḿnh đă thích rồi, đừng để nó buồn”. Hai vợ chồng cùng với con gái dắt nhau vào rừng gặp Ngài. Lúc ấy, Đức Phật đang b́nh lặng ngồi Thiền. Ông già đứng chào và nói: “ Thưa ông, tôi là người giàu có ở làng này, tôi có một đứa con gái duy nhất, sắc đẹp của nó cũng không thua kém ai. Đă đến lúc cần phải chọn cho nó một nơi xứng đáng để gởi tấm thân. Nó có quư tướng đặc biệt. Thấy Ngài cũng rất quư, tôi muốn chọn Ngài làm con rể. Mặc dù Ngài đang tu hành, nhưng nếu Ngài đồng ư về làm rể của tôi th́ Ngài sẽ được tất cả”. Ông huyên thuyên, hứa hẹn rất nhiều. Đức Phật trả lời: “ Từ rất lâu, Như Lai đă vứt bỏ tất cả mọi tham muốn tầm thường ở thế gian này. Ái dục chỉ làm cho người ta đau khổ. C̣n tấm thân gọi là đẹp, mỹ miều có nghĩa lư ǵ đâu. Đó chẳng qua là cái túi da mỹ miều chứa đựng bên trong những điều hôi thối. Một ngày kia, thân sẽ già nua, tàn tạ héo úa, da sẽ nhăn nheo, tóc bạc, mắt tí hí, lưng c̣ng…Nếu nh́n kỹ bản chất, sẽ không có ǵ là đẹp, đừng chấp vào sắc đẹp. Như Lai từ lâu đă vượt qua những ham muốn tầm thường như vậy”.
Biết không thuyết phục được, hai vợ chồng tiu nghỉu ra về. Cô gái nghe vậy, không hiểu rơ đó là đạo lư, cứ tưởng rằng người kia chê ḿnh xấu, chửi ḿnh bên ngoài đẹp đẽ mỹ miều nhưng bên trong hôi thối. Cô đâm ra giận và nuôi ḷng oán hận. Quả thật, ông già coi tướng đúng. Sau này vua Udena (tức vua U Điền) rước bà về làm Hoàng hậu. Nhưng trong ḷng bà vẫn nuôi mối căm thù đó.
     Một lần, nghe tin Đức Phật tới xứ ḿnh, bà ra lệnh toàn dân đứng hai bên đường để chửi Ngài. Lúc đó, đường sá rất hẹp. Người đứng hai bên chỉ tay vào gần chạm mặt Ngài. Cứ thế, họ xếp hàng hai bên chửi mắng Ngài thậm tệ. Ai chửi hay đều được Hoàng hậu trọng thưởng. Ngài A Nan đi với Ngài không chịu nổi cảnh người ta xúc phạm Đức Phật bèn thưa:
- Bạch Thế Tôn, dân xứ này không ưa ḿnh, thôi chúng ta đi nơi khác.
- Đi đâu, nếu nơi đó người ta chửi nữa th́ sao?
- Dạ, ḿnh đi chỗ khác nữa.
- Nếu đi nữa cũng gặp người ta chửi th́ sao?
- Dạ, ḿnh lại đi nữa.
Đức Phật nói:
- “ Không phải, nghiệp xuất hiện chỗ nào sẽ hết ở chỗ đó”.
Nói rồi, Ngài ôm b́nh bát đi tiếp. Nơi nào có người đang chờ Ngài đến để chửi, là Ngài đến nơi đó. Cứ thế, nghe người ta chửi chỗ này xong, Ngài lại đến chỗ khác tiếp tục nghe chửi. Ngài A Nan vẫn lẽo đẽo theo sau để được nghe chửi cùng Ngài.
Ngày hôm đó, không ai cúng vật ǵ, hai thầy tṛ nghe chửi no và nhịn đói trở về. Hôm sau, vẫn ôm b́nh bát, Ngài đi vào làng. Dân chúng cũng đứng xếp hàng chờ chửi. Không một chút ngần ngại, Ngài đến ngay những chỗ họ đang đứng. Qua hết con đường này, rồi lại đến con đường kia, người người đang đứng chờ Ngài để chửi, Ngài vẫn không nói ǵ. Thêm một ngày nữa, Ngài nhịn đói để nghe chửi rồi trở về nhà.
Ngài A Nan vô cùng đau khổ. Đến ngày thứ tư, dân chúng bắt đầu không chửi nổi nữa. Thấy Ngài vẫn tiếp tục ôm b́nh bát đi một cách thong dong, họ chỉ đứng nh́n với ánh mắt ngạc nhiên pha lẫn niềm thán phục mặc cho Hoàng hậu ra lệnh tiếp tục chửi. Ngài cứ lặng lẽ đi. Người ta cứ lặng lẽ nh́n. Thấy dân chúng không chửi nữa, Hoàng hậu hạ lệnh quyết liệt hơn. Cũng chỉ được một vài người chửi một hai câu rồi dừng lại. Họ không dám chửi nữa v́ nh́n thấy gương mặt của Ngài rạng rỡ, b́nh an, mà từ bi quá. Dần dần, Ngài đă hoá độ được dân chúng xứ này.
Sở dĩ Đức Phật nhẫn nhục phi thường như vậy v́ Ngài biết trong một kiếp xa xưa nào đó, Ngài đă xúc phạm đến danh dự của người khác. Không chỉ xúc phạm Hoàng hậu, Ngài c̣n chạm đến dân xứ đó. Chuyện người ta đến đ̣i hỏi cưới xin chỉ là một cái mốc, một cái duyên của hiện tại để quả báo xuất hiện. Đó không phải là Nhân chánh. Cái Nhân chánh đă nằm ở nhiều kiếp trước, lúc Ngài xúc phạm cả một xứ dân.
Chúng ta không nên nhầm lẫn nhẫn nhục với thái độ ươn hèn, cầu an, ích kỷ khi nh́n thấy người khác bị ức hiếp, bị nguy hại.
Chẳng hạn, trên đường đi gặp tên cướp đang giật dây chuyền của một cô gái, chúng ta không được nhẫn nhục mà bỏ qua. Đó là thái độ ươn hèn, cầu an, ích kỷ, chứ không phải nhẫn nhục. Trong trường hợp này, nếu có học được món vơ nào, chúng ta hăy làm người anh hùng cứu giúp người ta. Nếu lượng sức ḿnh không làm nổi, chúng ta phải tri hô, kêu cứu để mọi người giúp đỡ. Hăy nhớ rằng, nhẫn nhục chỉ v́ ḿnh là điều đơn giản, nhưng liên quan đến người khác chúng ta phải cẩn thận, cần chọn thái độ ứng xử thích hợp.
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đă chứng minh điều ấy. Không phải lúc nào cha ông ta cũng nhịn nhục. Dù rất yêu chuộng ḥa b́nh, nhưng khi cần thiết, nhân dân ta cũng đứng lên chiến đấu ngoan cường để bảo vệ nền độc lập, tự do cho dân tộc. Có những người có thể được chúng ta cảm hóa bởi thái độ nhẫn nhục. Khi họ nặng lời, xúc phạm, chúng ta vẫn hiền lành, nhẫn nhục, dần dần họ đổi tâm thương cảm. Nhưng với không ít người, chúng ta cần có thái độ nghiêm khắc để dạy cho họ bài học, ngăn không cho họ tiếp tục gây ra lầm lỗi. Bởi những người ấy thường có bản chất hung dữ. Thấy chúng ta nhịn nhục, họ tự rút ra một chân lư, sống ở đời muốn thành công phải hung dữ, phải biết lấn lướt người khác giành quyền lợi về ḿnh. Chúng ta từng nghe những kẻ không có lương tri quan niệm: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ” hoặc “Mạnh được yếu thua”. Với những con người như vậy, đức nhẫn nhục của chúng ta không thể cảm hoá được, nên phải có thái độ rơ ràng, dứt khoát kẻo đôi khi sự nhẫn nhục của ḿnh lại gây nên tai hoạ cho người khác. Đối với kẻ thù xâm lược, nhẫn nhục càng không đem lại hiệu quả, chúng ta cần mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn v́ bản chất của bọn xâm lược, dù ở bất kỳ thời đại nào, cũng đều tàn bạo.
Có khi rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, sức khỏe hao tổn mà vẫn đủ ư chí chịu đựng, đó là con người dũng, có hùng lực. Người tu chúng ta cần được như vậy. Dù gặp hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, khổ sở, bệnh hoạn…tâm chúng ta vẫn không lay chuyển, không mất ư chí, không từ bỏ lư tưởng.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 151 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:14am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy


4. CÁI NHẪN CỦA NGƯỜI CÓ TU TẬP THIỀN ĐỊNH.
a. Người đạt được Sơ thiền, khi bị xúc phạm, thường không động tâm. Người ngoài nh́n vào thấy họ rất trầm tĩnh, không động tâm và cho là họ rất nhẫn. Nhưng thực chất, họ không cảm thấy ḿnh nhẫn v́ tâm không có bụi phiền năo khởi lên. Họ rất b́nh thản, b́nh an. Khi chúng ta nói họ rất nhẫn nhục dù bị xúc phạm, họ cho rằng không có ǵ để nhẫn. Đó là sức mạnh của Thiền định. Người chứng từ Sơ thiền trở lên bắt đầu có được điều đó.
b. Tâm nhẹ nhàng nên có thể khởi thành từ bi hoặc khôi hài để hóa giải thù oán. Thường khi gặp nghịch cảnh, gặp chuyện trái ḷng, chúng ta phải chịu đựng. Nếu sức chịu đựng chưa mạnh, chúng ta phải dùng hết cả tâm ḿnh để chịu đựng. Như vậy, chúng ta không c̣n tâm để làm được ǵ nữa.
Ví dụ, có người nào đó vô cớ chửi mắng ḿnh. Họ rất thô lỗ, giận dữ, nói những lời xúc phạm. Lúc đó, chúng ta cũng nhịn, cũng chịu đựng, cúi đầu im lặng, nhưng sự chịu đựng đó che hết cả tâm. Chỉ chịu đựng thôi cũng gọi là nhẫn nhục, nhưng như vậy, Đạo lực của chúng ta chưa nhiều.
Ngược lại, có trường hợp bị xúc phạm, chúng ta chịu đựng nhưng tâm c̣n “dư”, nghĩa là chúng ta không phải dùng nhiều tâm lực để chịu đựng. Lúc đó, chúng ta có thể nghĩ ra điều ǵ vui vẻ, nói một câu khôi hài để hoá giải sự căng thẳng.
Một ví dụ đơn giản nhất: Hôm nay đến phiên ḿnh nấu cơm, không hiểu sao Sư huynh luôn tỏ ra khó chịu, cứ phiền trách ḿnh ngay trước mặt các cư sĩ. Khi th́ Huynh chê cơm sống, khi cho rằng nấu thức ăn không ngon….Lúc ấy, sức chịu đựng của ḿnh cũng cao, ḿnh bèn khôi hài một câu:“ Vậy mà hôm qua có người khen em giống Sư huynh đó”. Nghe vậy, tất cả mọi người cùng cười. Chính câu nói đùa rất đúng lúc này đă làm mất đi không khí căng thẳng ban đầu. Trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta vẫn nghĩ được câu khôi hài là do tâm ḿnh c̣n “dư”, không phải là sự chịu đựng quá sức đến nổi che hết cả tâm, khiến chúng ta cúi đầu chịu đựng, ôm buồn khổ trong ḷng.
c. Người xuất gia phải có khả năng nhẫn nhục cao độ để làm gương cho Phật tử. Nếu vào chùa, thấy chúng ta phiền trách nhau, nói qua nói lại, giận hờn nhau, Phật tử sẽ cho là chúng ta tu chưa tốt, chùa không thanh tịnh, họ sẽ nản chí, và dễ thoái tâm. Bởi vậy, nhiều khi nghĩ đến thể diện của chùa, chúng ta phải nhẫn nhịn. Đó cũng cũng là công đức lớn. Trong hoàn cảnh khó khăn, Phật tử thấy chúng ta vẫn b́nh thản, vẫn chịu đựng được, họ sẽ tin ở Phật Pháp.
Trước khi nhẫn nhục được bằng Thiền định, chúng ta nên tập nhẫn nhục bằng tư duy chân chính.
Ví dụ, khi bị người ta mắng chửi, chúng ta nhịn v́ nghĩ theo Nhân quả, chắc đây là là chuyện oan gia đời trước, do ḿnh đă từng xúc phạm đến họ nên bây giờ họ mắng lại. Đó là tư duy thứ nhất, theo Nhân quả mà nhịn. Tư duy thứ hai, chúng ta biết ơn người này v́ nhờ họ chửi mắng mà ḿnh tập được sức chịu đựng. Đây là thiện trí thức nhắc chúng ta nhớ lúc nào ḿnh cũng là cỏ rác, là cát bụi. Hoặc có khi đó là suy nghĩ, nhờ sự nhẫn nhịn của ḿnh mà người ta hiểu ra và được cảm hóa. Đây là v́ từ bi mà nhịn. Cao hơn, chúng ta nhịn v́ nghĩ đến thể diện của chùa, của Phật pháp, đến niềm tin của Phật tử. Công đức của sự nhịn nhục v́ mục đích này rất lớn. Như vậy, trước khi đạt đựơc Thiền định để có được nhẫn nhục tự nhiên, chúng ta nên nhẫn nhục bằng tư duy.
Cần phân biệt từng trường hợp để thực hiện nhẫn nhục một cách đúng nghĩa. Trước sự công kích của ngừơi khác, lúc nào chúng ta cũng phải b́nh tĩnh suy xét, xem người ta nói sai hay đúng. Nếu thấy điều người ta phê b́nh, công kích là đúng, chúng ta nên dừng việc đang làm lại, thay đổi và t́m cách sửa sai. Chúng ta cần tránh cả hai thái độ: phản ứng, chống lại một cách gay gắt hoặc im lặng, không để ư đến lời người khác. Biết sai mà vẫn cố gắng đến cùng sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ư chí, cuối cùng chuốc lấy thất bại thảm hại. Trường hợp thấy việc ḿnh làm hoàn toàn đúng, người ta góp ư, chỉ trích sai, chúng ta vẫn chịu đựng sự công kích của họ để tiếp tục công việc đang làm. Như vậy gọi là giữ lập trường kiên định.
Nói đến nhẫn nhục, người ta thường nhắc lại câu chuyện nổi tiếng: “Tây Thi- Nữ hoàng Ngô quốc”. Thời đó, Ngô Vương Phù Sai đem quân đánh chiếm nước Việt (không phải Việt Nam bây giờ) và bắt Việt Vương Câu Tiễn về làm nô lệ. Đó là mối nhục lớn đối với một vị vua. Việt Vương Câu Tiễn ngày ngày vẫn hầu hạ vua Ngô một cách chu đáo, tận tuỵ. Thậm chí, một lần Phù Sai bị bệnh rất nặng, các Thái y hoang mang không biết phải làm thế nào, Câu Tiễn đă xin được nếm phân Phù Sai để định bệnh. Việc làm của Câu Tiễn khiến vua Phù Sai và các quan trong triều vô cùng cảm phục. Ngô Vương Phù Sai tin rằng vua nước Việt đă hoàn toàn quy phục, không c̣n ư định trả thù. Sau khi khỏi bệnh, Phù Sai cho Câu Tiễn trở về nước. Việt Vương Câu Tiễn hằng năm vẫn dâng cống phẩm đều đặn cho vua Ngô. Lúc đầu là vàng bạc, châu báu, sau là các loại gỗ quư để vua Ngô xây Cô Tô đài, cuối cùng là tiến cống mỹ nhân để vua vui chơi giải trí. Trong số các mỹ nhân được dâng nạp có nàng Tây Thi sắc đẹp “nghiêng thành, đổ nước”. Một mặt, vua Câu Tiễn dặn những người đẹp phải làm cho Ngô Vương Phù Sai mê đắm, suốt ngày vui chơi trong Cô Tô đài mà quên hết mọi công việc triều chính. Một mặt, ông củng cố binh lực và rèn luyện ư chí bằng cách “nằm gai nếm mật”. Khi thời cơ đến, quân đội của Câu Tiễn kéo sang đánh, Phù Sai không kịp trở tay. Cả thành Cô Tô ch́m trong biển lửa và Phù Sai cũng chết một cách bi thảm.
Giai đoạn làm nô lệ cho Phù Sai, Câu Tiễn đă nhẫn nhục chịu đựng một cách đáng khâm phục. Nhưng đó không phải là sự chịu đựng nhẫn nhục của đạo Phật. Đó là sự thâm hiểm, nhẫn nhục nhằm mục đích trả thù.
Hàn Tín ngay từ nhỏ đă bộc lộ tài năng thiên bẩm. Ông rất giỏi về quân sự, nghiên cứu binh thơ đồ trận, gặp ai cũng bàn bạc. Một lần, ra chợ, ông ta gặp một kẻ du côn. Hắn đứng dạng chân và yêu cầu ông phải chui qua, nếu không hắn sẽ giết. Hàn Tín suy nghĩ một lát rồi chui qua. Người kia cười đắc chí. Hắn cho rằng, như vậy không phải anh hùng. Nếu thực sự là anh hùng th́ thà chết chứ không chịu nhục. Hắn không biết rằng Hàn Tín là con người nuôi chí lớn. Con người ấy sẵn sàng nhịn nhục để bảo toàn thân ḿnh, tránh rắc rối với những việc trước mắt, dấu diếm khả năng vơ nghệ siêu phàm của ḿnh để sau này c̣n làm được việc lớn trong thiên hạ. Sau này, được làm tướng, chẳng những không giận, ông c̣n thưởng cho người kia. Ông muốn cho thiên hạ biết ḿnh không phải là kẻ tiểu nhân. Đây là trường hợp người có chí lớn nên nhịn được những điều nhỏ nhặt.
Trường hợp Mạc Đĩnh Chi của nước ta cũng là tấm gương về nhẫn nhục. Ông sinh ra trong một gia đ́nh rất nghèo, cha chết sớm, bản thân lại xấu xí. Tuy vậy, ông vẫn cố gắng học hành và đỗ Trạng nguyên. Khi đi sứ bên Tàu, ông được vua nước ấy nể phục và phong làm Trạng nguyên. Như vậy, ông được làm Trạng nguyên cả hai nước . Sự chịu đựng gian khổ để học thành tài của Mạc Đĩnh Chi tuy c̣n v́ mục đích cầu sự nghiệp, nhưng tâm ông tốt, không làm điều ǵ ác nên vẫn gần với nhẫn nhục của đạo Phật.
Người tu theo đạo Phật luôn nhẫn nhịn được mọi điều, từ điều nhỏ đến điều lớn. Chúng ta nhẫn nhục không phải để cầu mong sự nghiệp, mong danh dự. V́ chúng ta quan niệm cái ta này không có thật nên nhẫn nhục của đạo Phật vẫn khác so với nhẫn nhục của người đời. Nhưng nếu nghĩ sâu hơn, chúng ta có chí lớn là cầu thành Phật th́ những chuyện khác là nhỏ nhặt, cần bỏ qua.
Trong Thoát ṿng tục lụy có câu chuyện về Ngọc Lâm Quốc Sư. Một lần, bị vu cáo là giết người, bị bắt giam vào ngục nhưng ông vẫn không biện minh. Đối với người tu hành, bị vu khống giết người là tội rất nặng. Sau đó, Sư huynh Ngọc Lam đă minh oan cho ông.
Tại sao bị hàm oan mà ông không căi, lại rất b́nh an? Lư do rất đơn giản. Với ông, danh dự chỉ là cái hăo huyền nên ông không cần. Người tu hành chúng ta cũng không cần. Điều đem lại b́nh an cho chúng ta chính là sự vô tội, sự trong sạch của ḿnh. Khi thực sự trong sạch, chúng ta sẽ b́nh an, mọi chuyện khác chỉ là Nhân quả, Nghiệp duyên. Điều đáng ngại là lúc trả nghiệp chúng ta lại tạo tội, làm cho tâm bất an. Nếu lúc trả nghiệp, bị người ta vu khống nhưng thật sự trong thâm sâu ḿnh không có tội, hoàn toàn trong sạch th́ tâm chúng ta sẽ rất b́nh an. Như vậy, sống một đời trong sạch, không tội lỗi là chỗ dựa để người tu chúng ta được b́nh an trong cuộc sống này.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 152 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:24am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

BÀI 10 : CUỘC SỐNG VỊ THA

1. KHÁI NIỆM:
Vị tha là v́ người khác.(Tha là tha nhân, là người khác ).

Cuộc sống vị tha là một cuộc sống mà chúng ta sống để làm lợi ích cho người khác, không c̣n sống cho ḿnh nữa.

Đây là một cuộc sống tốt đẹp mà xưa nay tất cả các bậc Thánh đều mơ ước và phấn đấu để đạt được.

Mỗi tôn giáo đều có những tiêu chuẩn nhất định để đánh giá tín đồ của tôn giáo ḿnh. Đạo Thiên Chúa thường làm lễ phong Thánh cho những tín đồ, những tu sĩ có công hạnh đặc biệt theo tiêu chuẩn của họ. Đạo Phật cũng có cách đánh giá những vị tu hành để tôn lên bậc Thánh. Đó là những người chứng ngộ tâm linh, có đời sống đạo hạnh, hay nhờ tu thiền, niệm Phật, họ có được những điều vi diệu trong cuộc sống, có những thần thông, phép lạ, có trí tuệ… làm lợi ích cho mọi người.

Theo tiêu chuẩn của tôn giáo ḿnh, mỗi tôn giáo có rất nhiều vị được xem là những bậc Thánh. Đạo Phật có vô số Thiền sư, những bậc Alahán, những vị Thánh chứng quả, những vị Tổ, những vị Đại Sư… Có những vị không nổi tiếng lắm, nhưng khi tịch, thiêu ra có Xá lợi, cũng được xem như ï đă chứng Thánh. Ở các tôn giáo khác, tùy theo ḷng mộ đạo, công trạng đối với đạo mà một người cũng được xem là Thánh.

Trên thế giới, những nhà khoa học, những nhà xă hội học với tâm t́nh của những người không tôn giáo, có cách đánh giá một bậc Thánh ở những góc độ khác. V́ vậy, những người được phong Thánh theo tiêu chuẩn xă hội th́ không nhiều. Chúng ta thấy, thế giới có những Danh nhân, có những Vĩ nhân và chỉ có một vài vị Thánh nhân. Đến nay, những vị Thánh nổi tiếng được cả thế giới công nhận là Thánh Gandhi. Đây là trường hợp rất hiếm hoi. Đức Phật cũng được thế giới coi là một vị Thánh. Chúa Jésu cũng được thế giới xem là vị Thánh. Hoặc Khổng Tử, nhà triết học nổi tiếng cũng được xem như là một vị Thánh. Nghĩa là số người được coi như một vị Thánh rất ít ỏi.
Chúng ta học bài Cuộc sống vị tha là để t́m ra một mẫu số chung về tư cách hay tiêu chuẩn của một vị Thánh trong đạo Phật cũng như trong tâm t́nh của con người trên thế giới

Cuộc sống vị tha là tiêu chuẩn chung khi đánh giá một vị Thánh, được đạo Phật ca ngợi mà thế giới cũng ngợi ca. Không cần biết người đó theo tôn giáo ǵ, không cần biết người đó giữ chức vụ ǵ, chỉ cần thấy họ sống rất từ ái, rất vị tha so với tất cả mọi người, có năng lực lớn để làm được nhiều việc cho cuộc đời, có sức ảnh hưởng rất lớn đến con người và luôn luôn v́ con người, v́ nhân loại… người ta đă ca ngợi họ là một bậc Thánh.
Dựa vào tŕnh độ tâm linh của đạo Phật, một vị Thiền Sư có thể có sở đắc tâm linh, một đời đi thuyết pháp trong đạo Phật, trong lănh vực tôn giáo cũng có khi chúng ta gọi là Thánh nhưng thế giới không công nhận. Trong đạo Phật, có vô vàn các Thiền sư, người chứng Đạo. Có thể chúng ta ca ngợi, coi đó là những vị Thánh, nhưng người ngoài đạo Phật chỉ thấy đó là những tu sĩ b́nh thường. Tiêu chuẩn đánh giá con người khác nhau như vậy.
Gạt ra ngoài vấn đề tiêu chuẩn đánh giá con người, chúng ta thấy cuộc sống vị tha là một cuộc sống đẹp. Người thực hiện được cuộc sống này, có thể thuyết phục được không chỉ đối với người trong tôn giáo mà c̣n với cả người ngoài tôn giáo. Có thể đời này chúng ta thực hiện cuộc sống vị tha ít, nhưng trên căn bản mỗi người phải sống vị tha. Biết đâu ở những đời sau, chúng ta có năng lực lớn hơn, có cuộc sống vị tha ảnh hưởng nhiều hơn, làm lợi ích lớn lao hơn cho nhân loại.
Vậy, tại sao cuộc sống vị tha là một cuộc sống đẹp mà ai cũng ca ngợi? Bởi v́ từ lâu, do bản năng chấp ngă mănh liệt, chúng ta bị khuynh hướng vị kỷ tồn tại chi phối mọi ư nghĩ, lời nói, việc làm. Từ đó, trong cuộc sống, chúng ta chỉ biết sống cho ḿnh, làm bất cứ điều ǵ cũng v́ lợi ích của ḿnh trước. Khi c̣n bé, chúng ta tranh giành miếng ăn, miếng uống, t́nh thương đối với anh em. Lớn lên, có thể dùng mọi thủ đoạn để tranh giành tiền tài, quyền lực cho ḿnh. Thế giới này đầy ắp khổ đau là v́ cuộc sống vị kỷ. Trong Tứ Diệu Đế, khổ được coi là một thực tế, một thực tại của cuộc sống mà nguyên nhân của khổ là do ḷng ích kỷ. Cho nên, cuộc sống vị tha là một cuộc sống giúp người ta thoát được đau khổ. Chưa cần tu tập những pháp cao siêu, chỉ cần sống một cuộc sống vị tha, chúng ta đă đem lại cho tâm ḿnh sự an lạc.
Trong cuộc sống này, chúng ta không thiếu những điều phiền muộn, những ray rứt khổ đau, những ưu tư trăn trở. Khi ấy, t́m đến một vị Thầy, chúng ta sẽ được Thầy dạy một cách quán để đối trị đau khổ.
Ví dụ: Khi có chuyện buồn trong gia đ́nh, chúng ta t́m đến một vị Thầy để t́m sự thanh thản. Thầy sẽ dạy ta hăy quán thế gian này là vô thường, thân này là bất tịnh, rồi cũng chôn sâu trong ba tấc đất… Quán như vậy, chúng ta sẽ bớt đi những khổ đau, phiền muộn. Khi than phiền về bệnh tật, Thầy sẽ dạy ta quán thân này là vô thường, hư ảo, ngày nào đó thân rồi cũng mất, chẳng có ǵ phải phiền muộn, âu lo. Khi tâm sự, trong cuộc sống hay bị người ta ganh tỵ, tranh giành quyền lợi, chúng ta sẽ được quán là hăy xem cuộc đời này như một giấc mộng, phù du, hư ảo…Và khi thực hành, nhờ quán các pháp đều là hư ảo, chúng ta cũng có được đôi chút yên tâm, có được phần nào thanh thản. Nhưng sự thật, những phép quán đối trị phiền năo ấy chỉ trị trên ngọn mà không trị được gốc, chẳng khác nào người bệnh uống thuốc tây, hết bệnh này sẽ sinh ra bệnh khác.

Chẳng hạn, khi đối diện với cuộc sống, chúng ta cảm thấy có nhiều điều không như ư, nhiều việc không thành công, nhiều những ganh tỵ oán hờn làm ḿnh mệt mỏi. Nếu ngồi quán thế giới này như một giấc mơ, vô thường không đáng để cho ḿnh đắm luyến, chúng ta thấy ḷng cũng bớt đi sầu năo. Nhưng thực chất lại xuất hiện một bệnh khác. Đó là tâm trạng thờ ơ lănh đạm với cuộc đời, dần dần giết chết tâm từ bi của ḿnh. Đây lại là một hệ quả phụ rất nguy hiểm.

Bởi vậy, khi học Bát Nhă, chúng ta phải cẩn thận. Pháp Bát Nhă được ca ngợi là cao tột. Trong lục độ, Bát Nhă nằm ở giai đoạn cuối cùng. Khi học Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy quan niệm cho rằng Kinh Pháp Hoa thù thắng hơn tất cả các pháp khác, trừ Bát Nhă Ba La Mật. Nghĩa là ai cũng ca ngợi pháp môn Bát Nhă, pháp môn mà theo đó người tu thấy cuộc đời này là hư ảo, là rỗng không. Tuy nhiên, không phải pháp môn Bát Nhă là tuyệt đối ưu điểm. Nó làm cho chúng ta có vẻ tự tại với cuộc sống này khi nh́n tất cả là hư ảo, nhưng nó vẫn c̣n phản ứng phụ, phát sinh một bệnh phụ là làm cho chúng ta mất tâm từ bi, thờ ơ lănh đạm với cuộc sống này.

Người hiểu Bát Nhă sâu, tâm có thể vào định được. Nếu thường xuyên quán thân này là giả, tâm này là giả, cảnh vật chung quanh đều là giả, chúng ta cũng có thể vào định được. Nhưng đó là cái quán cạn của Bát Nhă. Nếu quán sâu hơn nữa, pháp môn Bát Nhă c̣n nhiều điều vi diệu hơn. Chúng ta có thể đạt được lư thậm thâm Bát Nhă, lư Bát Nhă rất sâu. Người hiểu lư Bát Nhă cực kỳ sâu tự nhiên tâm sẽ vào định, có thể viết thành sáu trăm quyển Bát Nhă khác nhờ những kiến giải vi diệu như vậy.
Bộ Kinh Bát Nhă để lại trong kinh tạng hiện nay là sáu trăm quyển. Một vài vị Ḥa Thượng đă dịch ra tiếng Việt Nam nhưng v́ văn c̣n xưa quá nên không được nhiều người hưởng ứng. Bát Nhă có đến sáu trăm quyển, nghĩa là không có Kinh bộ nào dài bằng bộ Kinh Bát Nhă. Người ta nói hoài không hết ư, nói hoài không chán. Chỉ một chữ “không” thôi nhưng nói đi, nói lại , mở rồi đóng cũng không hết ư. Nếu một người ngộ được lư Bát Nhă, có thể tiếp tục viết sáu trăm quyển khác, và tâm tự nhiên vào định. Lư Bát Nhă vi diệu như vậy.

Không một pháp môn nào có đầy đủ tất cả những ưu điểm, sẽ có mặt hay và cũng có những điểm chưa hay. Pháp môn Bát Nhă cũng vậy. Dù được thuyết pháp sáu trăm quyển, ai cũng ca ngợi là cao tột, nhưng Bát Nhă vẫn có những khuyết điểm. Điều quan trọng là chúng ta hiểu và vận dụng như thế nào cho đúng.

Nếu nói quán tất cả là hư ảo, nghĩa là chúng ta chỉ trị bệnh ở ngọn th́ thế nào là trị bệnh tận gốc ? Chúng ta cần hiểu một điều, nguyên nhân của mọi đau khổ đều do vị kỷ. Đây là một nguyên lư, một chân lư mà Phật đă nói. Nếu cảm thấy có phiền muộn trong cuộc sống, chúng ta đừng chữa trên ngọn, hăy chữa ngay tại gốc của nó. Đó là chữa tâm vị kỷ của ḿnh. Tất nhiên, chữa từ gốc là điều không đơn giản.

Nếu để xoa dịu nỗi buồn, chúng ta có thể quán cuộc đời là vô thường. Nhưng để thật sự nhổ được cái gốc đau khổ, chỉ có một cách là trị dứt tâm vị kỷ của ḿnh. Để làm được điều này, chúng ta phải có công phu rèn luyện một thời gian dài. Trong thời gian đó, chúng ta sẽ có một cuộc sống vị tha để trị được tâm vị kỷ của ḿnh. Lúc ấy, đau khổ sẽ thật sự vắng bóng.

Cho dù cuộc đời ḿnh đầy bất hạnh, là một người tật nguyền, một người bệnh hoạn hay là một người nghèo khổ, ít học…, nhưng nếu sống một đời thật sự vị tha, không vị kỷ th́ những mặc cảm, những nỗi buồn ấy sẽ tan biến trong tâm hồn chúng ta. V́ đời sống vị tha sẽ đối trị, sẽ diệt được vị kỷ. Đó là chân lư mà từ ngày xưa, Phật đă nêu ra trong Tứ Diệu Đế. Bởi vậy, cuộc sống vị tha là cuộc sống cực kỳ đẹp, luôn đem lại lợi ích cho những người xung quanh v́ lúc nào chúng ta cũng sống v́ họ.
Ở phạm vi nhỏ, xung quanh được hiểu là trong một ngôi chùa, trong lớp học, trong một gia đ́nh, láng giềng, ḍng họ, … Ở phạm vi rộng, đó là cả một cộng đồng xă hội, một thế giới. Tùy năng lực mà tâm vị tha, đời sống vị tha của ḿnh ảnh hưởng đến mức độ nào. Như vậy, khi đă có một đời sống vị tha, trước hết những người chung quanh ḿnh đựơc lợi ích, và chính bản thân ḿnh cũng xoá sạch mọi đau khổ.

V́ khuynh hướng vị kỷ chi phối quá mạnh nên chúng ta luôn t́m sự thỏa măn cho ḿnh những ước vọng từ thấp đến cao. Thấp nhất là ăn được ngon, mặc được đẹp, ở được sang. Cao hơn nữa là thỏa măn những giá trị tinh thần: được mọi người nể trọng, cung phụng. Cao hơn nữa là được danh tiếng, được quyền uy… Những người trong Đạo th́ cầu mong được đắc đạo. Nghĩa là lúc nào cũng muốn “thêm” và “được”: được thành Phật, được đắc đạo, được chứng ngộ, được giác ngộ v…v...

Đó là do trong tận thâm tâm chúng ta vẫn c̣n tham vi tế. Chúng ta luôn muốn đem lại cho ḿnh lợi ích chứ không muốn mất đi. Nếu nói tu là mất đi, là bỏ đi bớt, thậm chí đánh mất luôn chính ḿnh, chúng ta cảm thấy kinh sợ, v́ nó chạm đến ḷng tham của ḿnh mạnh quá. Học về pháp Ba La Mật, chúng ta sẽ thấy có hai trường hợp. Có người cho rằng, tu để được đắc đạo, được giác ngộ, được thành Phật.v.v… và đó cũng là lư tưởng của người tu hành. Có người lại hiểu rằng, tu là để mất, mất hết, mất luôn cả chính ḿnh. Trường hợp thứ nhất là người có căn cơ thấp. Trường hợp thứ hai là người có căn cơ cao. Họ có chánh kiến, ḷng tham mỏng nhạt, ḷng vị kỷ ít và có trí tuệ từ kiếp nào nên khi nghe tu không cần phải thêm mà được bớt đi, họ cảm thấy thích thú.

Như vậy, những cái tham và sự ích kỷ vẫn tiếp tục tồn tại chi phối chúng ta, làm cho chúng ta tiếp tục đau khổ. Ngoài đời, chúng ta đau khổ v́ những tham vọng của thế gian, như được tiền bạc, giàu sang, danh vọng, t́nh cảm. Khi vào Đạo, chúng ta sẽ đau khổ v́ những mục tiêu của Đạo: muốn có bằng cấp cao, muốn trở thành Thượng Tọa, Ni Sư, muốn có chùa to, có nhiều đệ tử…Những mục tiêu ấy sẽ làm ḿnh đau khổ. Ngay cả những mục tiêu thuộc về tâm linh, mong ḿnh được đắc Đạo, được giác ngộ, nếu không cẩn thận cũng sẽ làm ḿnh đau khổ. Nói không cẩn thận v́ nếu hiểu hai từ giác ngộ, đắc đạo là không thật, chúng ta sẽ không đau khổ. Nếu hiểu đó là thật th́ sẽ đau khổ v́ nó.

Trong thực tế có những trường hợp như vậy. Trong sử có câu chuyện về sáu vị Tổ ở Trung Hoa. Nơi pháp hội của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có thượng tọa Thần Tú là bậc lănh đạo đại chúng và ai cũng mong rằng Ngài được Ngũ Tổ truyền Y bát. Y bát biểu tượng cho tâm linh, chỉ có người đă đắc đạo, đă giác ngộ mới xứng đáng được truyền y bát. Khi nghe tin Ngài Huệ Năng đă lănh được Y bát đó, trong Tăng chúng xảy ra một cuộc chống đối dữ dội. Như vậy, chúng ta thấy gọi là giác ngộ hay đắc đạo, cuối cùng cũng chỉ là một tham vọng trá h́nh, và làm cho người ta tiếp tục đau khổ.

Thế giới này đầy ắp những đau khổ là do người ta chỉ biết sống cho ḿnh, hướng về ḿnh. Bởi vậy, vị tha là một cuộc sống cao cả, đẹp đẽ mà xưa nay tất cả các bậc Thánh đều ca ngợi, đều tán thán. Tâm vị tha đi ngược lại bản năng chấp ngă, ngược lại khuynh hướng vị kỷ, và làm cho cuộc đời này vơi đi đau khổ. Cuộc sống vị tha có thể chữa được nhiều bệnh tâm lư, nhiều phiền năo của chúng ta, và làm cho cuộc sống này hạnh phúc hơn. Trong cuộc sống, có người mang những mặc cảm buồn bă, nếu biết làm nhiều việc từ thiện, vị tha họ sẽ vượt qua được những đau khổ. C̣n những pháp Quán đối trị phiền năo chỉ là tạm thời.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 153 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:30am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. NGƯỜI XUẤT GIA PHẢI THỰC HIỆN BẰNG ĐƯỢC CUỘC SỐNG VỊ THA.
Người xuất gia không thể sống vị kỷ. Hiện nay, t́nh trạng đạo đức của Tăng Ni bị suy thoái cũng do lối sống vị kỷ chi phối. Khi khoác áo tu hành, bước vào Đạo, chúng ta mang hy vọng đi t́m một đời sống giải thoát. Nếu vẫn sống vị kỷ, chúng ta không xứng đáng sống đời tu hành. Người xuất gia phải sống đời sống vị tha. Lư tưởng giải thoát và cuộc sống vị tha là một v́ chung một tính cách vô ngă. Giải thoát là vượt khỏi ngă chấp, đời sống vị tha cũng vượt khỏi ngă chấp. Nếu thiết tha đi t́m đời sống giải thoát, chúng ta phải thực hiện bằng được đời sống vị tha. Dù chưa tu tập được nhiều nhưng từng giờ, từng phút trong cuộc sống này, chúng ta đều sống cho huynh đệ, sống cho mọi người. Sống như vậy là chúng ta đang đi dần trên con đường giải thoát, ngă chấp của chúng ta cũng đang bị đánh phá dữ dội.
Muốn được giải thoát phải vượt qua chấp ngă. Có nhiều con đường để chúng ta vượt qua chấp ngă. Con đường cuối cùng là đi bằng định và tuệ. Nhưng trước khi đi bằng con đường ấy, chúng ta phải có đời sống hết sức vị tha. Nghĩa là luôn luôn sống v́ người khác, không c̣n sống cho riêng ḿnh. Đời sống vị tha cũng chính là kết tinh của một đời sống Đạo đức. Chúng ta đă học rất nhiều về Đạo đức. Dù học b́nh đẳng, chân thật, học cách góp ư chỉ lỗi, hay học khiêm hạ…và sau này có thể học thêm nhiều nữa, chúng ta cũng nhằm mục đích thành tựu được một điều duy nhất, cuộc sống vị tha.
Đó là một cuộc sống đẹp nhất của con người, cũng là lư tưởng mà người xuất gia phải theo đuổi. Chúng ta phải sống v́ mọi người, từ việc rất nhỏ nhặt cho đến những việc rất lớn lao. Dù đang theo đuổi một công tŕnh lớn lao: đem Phật pháp đến cho con người, hoặc cất nhà dưỡng lăo, cất trại mồ côi…nhưng chúng ta vẫn nhớ không được bỏ qua những việc rất lặt vặt trong đời sống khi việc đó có lợi cho người xung quanh.
Tận sâu trong tâm hồn ḿnh, chúng ta ghi nhớ điều ấy. Nghĩa là không sợ gian khó cực khổ, không tiếc công, tiếc sức, không cần biết cuộc sống ḿnh an vui hay đau khổ, chỉ cần cho người khác mà thôi. Chúng ta chấm dứt tất cả mục tiêu trong cuộc sống của để từ đây chỉ c̣n một mục tiêu duy nhất là làm lợi, đem lại an vui cho người khác. Người như vậy sẽ không bao giờ c̣n đau khổ nữa dù sự vất vả tất bật có thể tăng lên bội phần.
Nếu cho rằng, tu là để đạt sự tự tại, an vui, giải thoát là chúng ta đă bị lừa mị bởi những ngôn từ hoa mĩ ấy. V́ như vậy là chúng ta đang đi t́m cái ǵ đó cho riêng ḿnh. Người chỉ biết tu để sống một đời an vui tự tại là người đi ngược với đạo Phật. Có những người suốt cuộc đời không hề đi t́m điều ǵ cho ḿnh, chỉ vất vả lo cho người khác, nhưng chính họ mới thực sự là người đang an vui .
Những người nhập thất phải cẩn thận. V́ khi chưa phải là một người đạt được cuộc sống vị tha, đang bị vị kỷ chi phối, tâm từ bi chưa thật sự rộng mở mà bước vào thất tinh tấn tu hành, đối diện với ḿnh, họ dễ bị vị kỷ, chấp ngă chi phối. Mỗi ngày, chấp ngă cứ lớn dần lên, công đức bị hao tổn mà họ không hay biết. Chỉ có những người công đức quá khứ rất lớn, tâm vị tha rộng mở, đời sống hết sức từ ái, khi vào thất mới thật sự yên tâm. Họ sẽ không phát triển bản ngă hay vị kỷ.
Tục ngữ có câu: “Kính thầy mới được làm thầy”. Muốn có cuộc sống vị tha, chúng ta phải t́m đọc những tấm gương đời sống vị tha của các bậc Thánh trong đạo Phật và trên thế giới để phát khởi ḷng ngưỡng mộ, làm Nhân ban đầu cho ḿnh. Nếu chưa bao giờ biết ngưỡng mộ ai về đời sống vị tha, chúng ta sẽ không t́m được đời sống vị tha cho ḿnh. V́ đây là Nhân Quả. Hăy nhớ rằng, kính ai điều ǵ, chúng ta sẽ thành tựu được điều đó.
Trước hết, chúng ta phải biết ngưỡng mộ Đức Phật. Từ vô lượng kiếp, Ngài đă sống cuộc sống vị tha. Đến bây giờ, tâm Phật vẫn bao phủ và gia hộ cho tất cả những ai có tâm thành. Trong kiếp cuối cùng, Ngài đi tu cũng là thực hiện lư tưởng v́ chúng sanh. Cha Ngài là vua Tịnh Phạn đă sợ Ngài sẽ từ bỏ cung điện đi tu nên đă cho Ngài đầy đủ các cuộc vui. Nhưng những cuộc vui xao động của thế gian cuối cùng cũng trở nên nhàm chán. Đức Phật cũng không c̣n vui khi Ngài hiểu được cuộc sống bên ngoài vô cùng phức tạp và đầy đau khổ. Chúng ta thường nghe kể lại điều này ở câu chuyện ngụ ngôn Đức Phật đi qua bốn cửa thành nh́n thấy sinh, lăo, bệnh, tử và trong ḷng cảm thấy bất an. Do có phước, Ngài được sống trong Hoàng cung đầy đủ tiện nghi, được mọi người ch́u chuộng. Khi bước ra ngoài, Ngài mới thấu hiểu nỗi vất vả, khổ nhọc của người dân. Ngài luôn băn khoăn, phải làm điều ǵ cho con người đừng đau khổ nữa?
Chính động cơ vị tha đă thúc đẩy Ngài rời bỏ Hoàng cung làm người xuất gia. Không phải bây giờ mà trong vô lượng kiếp trước, tất cả cuộc sống của Ngài cũng chỉ v́ chúng sinh. Nếu có Đạo nhăn, chúng ta sẽ nh́n thấy được những kiếp xưa của Đức Phật và ḷng ngưỡng mộ của chúng ta sẽ không c̣n biên giới. Ngài có thể bỏ thân mạng ḿnh cho người khác một cách dễ dàng, có thể hy sinh cả một đời để v́ mọi người mà không bao giờ tiếc nuối. Công hạnh tích lũy ḷng thương yêu con người với đời sống vị tha của Ngài là vô lượng, vô biên. Đức Phật quả là một tấm gương lớn về đời sống vị tha mà chúng ta phải chiêm nghiệm, phải suy ngẫm, phải tán thán, phải ngưỡng mộ.
Ngay cả các vị Alahán nhiều khi bị hiểu lầm là trầm không trệ tịch, là thụ động sống cho ḿnh cũng là những người có cuộc sống vị tha. Chúng ta thấy ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên sống rất cực khổ, rất vất vả cũng v́ lo cho chúng Tăng, cũng v́ bảo vệ Tăng đoàn. Ngài chứng Alahán nhưng không hề tiêu cực hay thụ động.
Một lần, Đức Phật gặp ba tôn giả Alahán sống trong khu rừng, sống rất lặng lẽ, Ngài đă khen ba tôn giả sống chỉ v́ an lạc, hạnh phúc của Chư Thiên và loài người. Trong khi đời sống các vị rất lặng lẽ, ban ngày đi khất thực, đêm về tọa Thiền bất động, rồi cuối cùng cũng sẽ nhập Niết Bàn. Sống tĩnh lặng như vậy nhưng Đức Phật vẫn khen là sống v́ ḷng thương yêu đối với chúng sanh. Đây cũng là điều vi diệu mà chúng ta không thể hiểu được. Có lẽ do tâm từ của một vị Alahán lan tỏa rộng lớn nên ngay cả khi Ngài không làm ǵ nhưng trong thế giới vô h́nh, biết bao nhiêu chúng sinh vẫn được lợi ích.
Ngài Anan có một cuộc sống vị tha thật là tuyệt vời. Ngài theo hầu Phật một cách nghiêm túc, tôn kính và chu đáo. Chính được Ngài Anan lo toan chu đáo nên Phật không bận tâm nhiều, được tiện nghi trong đời sống để đi thuyết pháp. Như vậy, qua việc hầu Phật, Ngài Anan đă làm lợi ích thật nhiều cho chúng sinh. Khi tiếp xúc với người khác, từng lời nói của Ngài đều đem lại lợi ích cho họ. Lúc chưa chứng Alahán, Ngài đă thuyết pháp làm cho người khác chứng được Alahán. Công đức của Ngài thật lớn lao. Ngài từng xin đức Phật cho người nữ được xuất gia. Đây cũng là một công đức lớn đối với chúng sinh. V́ theo quan niệm của người Á Đông, người nữ nặng nghiệp hơn người nam. Vậy, phải tạo cơ hội cho họ tu hành để hết nghiệp. Nếu không, họ sẽ không có cơ hội để tăng trưởng được phước duyên.
Sau khi Phật tịch, Ngài Anan đă chứng Alahán và được vào hang Tất Bát La để trùng tuyên lại Kinh điển. Sau này, ngài Hư Vân một lần nhập định lên cơi trời Đẩu Suất đă trông thấy ngài A Nan đang theo hầu Bồ Tát Di Lặc, ủng hộ cho Bồ Tát Di Lặc làm việc Phật pháp. Như vậy, Ngài đâu phải bỏ đi, vẫn làm v́ lợi ích của chúng sinh.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 154 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:31am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Gần đây, có hai vợ chồng một gia đ́nh Phật tử đến chùa quy y. Sau đó, người mẹ theo đạo Thiên Chúa sống ở Mỹ cũng về xin quy y. Hỏi nguyên nhân v́ sao người đó nói rằng, cha anh ta chết từ năm sáu mươi tám, không hiểu sao hiện về nói bên tai đứa cháu gái tất cả mọi điều. Ông nói chuyện thế gian, chuyện âm phủ, rất rành mạch. Từ đó, bà mẹ chứng kiến và có niềm tin với đạo Phật nên xin quy y . Họ nhờ Thầy Trụ tŕ làm lễ cầu siêu, lễ quy y cho những người trong gia đ́nh. Người ta kể lại rằng, sau khi làm lễ cầu siêu, người ấy lại trở về, cũng nói bên tai đứa cháu gái lời cám ơn đối với người đă làm lễ trang trọng cho ḿnh. Ông ta c̣n nói những hương linh chung quanh cũng rất vui mừng, họ cũng đến chúc mừng ông. Từ bây giờ, họ không bao giờ về nhà nữa mà sẽ theo Thầy, nghe giảng đạo để mong khởi được tâm thương yêu tất cả chúng sinh. Chúng ta không có Đạo nhăn để nh́n thấy điều ấy và cũng không biết thực hư ra sao chỉ biết rằng, có người tin và theo Phật để làm lợi ích cho người khác là điều rất quư.
Từ câu chuyện của gia đ́nh người Phật tử trên, chúng ta thấy rằng, các thầy Trụ tŕ cũng chỉ là người b́nh thường, nhưng do thành tâm nên nghi lễ cầu siêu đă được linh nghiệm. V́ vậy, chuyện Phật khen ba vị tôn giả Alahán cũng là điều dễ hiểu. Cái tâm từ của một vị chứng ngộ sẽ lan tỏa đem lại lợi ích vô cùng cho chúng sinh, nhất là thế giới vô h́nh. Thế giới vô h́nh cảm nhận tâm đó mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Có khi sống gần một vị Thánh chúng ta không biết rơ, nhưng những người chung quanh trong thế giới vô h́nh lại cảm nhận được điều đó rất mạnh. Nhờ vậy, họ được lợi ích rất nhiều. Ta phải hiểu rằng có khi bên ngoài lặng lẽ, ít làm việc, nhưng kỳ thực các vị Alahán có một cuộc sống rất vị tha.
Gần đây, người ta thường ngợi ca Mẹ Theresa, một nữ tu sĩ Công giáo. Cả một đời, Mẹ sống cho người nghèo, cho người bệnh và tấm gương của bà lan tỏa, ảnh hưởng đến mọi người. Rất nhiều người đă đi tu theo bà,và cũng một đời xả thân để xoa dịu nỗi đau khổ cho cuộc đời. Đó là một tấm gương rất đẹp, rất đáng trân trọng. Khi học theo bà sống đời vị tha, nhiều người cũng chấm dứt được đau khổ. V́ vậy, những nữ tu sĩ theo Mẹ Theresa chắc chắn cũng là những con người rất hạnh phúc, rất an vui. V́ họ không lo ǵ cho ḿnh, chỉ lo cho người bệnh, người nghèo. Khi bà chết, cả thế giới đều xưng tụng, ngợi ca, có những quốc gia c̣n để cờ tang.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 155 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:32am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Tuy nhiên, chúng ta đă biết, cái gốc của đau khổ là do ích kỷ, do kém Đạo đức. Muốn nhổ được gốc đau khổ cho cuộc đời, phải làm sao cho người ta có Đạo đức. Bởi vậy, theo quan điểm của đạo Phật, việc bà làm tuy rất đẹp nhưng chưa thực sự “bứng” được cái gốc đau khổ. V́ bà không đặt nặng vấn đề Đạo đức. Trong đạo Phật chúng ta có Ḥa Thượng Hư Vân suốt đời v́ Phật pháp, không ở chùa đă hoàn thành, không sở hữu tài sản. Ngài Hư Vân là một tấm gương vị tha vĩ đại. Đời sống của Ngài vô cùng đơn giản. Với những manh áo tầm thường, vài con dao cạo tóc…, Ngài đă đi hết nơi này đến nơi khác làm việc Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Khi thấy dân chúng khổ, Ngài t́m cách ra tay giúp đỡ. Khi thấy hai bên đánh nhau, Ngài khuyên người ta dừng lại binh đao. Những nơi Tổ Đ́nh hoang phế, Ngài t́m cách phục hồi, trùng tu, xây dựng lại Tăng chúng, giữ lại kỷ cương, giữ lại giới luật mà giáo hoá.. .Ngài chẳng bao giờ đến chùa to mà ở. Khi giáo hóa, ngài cũng không phân biệt pháp môn. Gặp người niệm Phật, Ngài dạy niệm Phật. Gặp người thoại đầu, Ngài dạy thoại đầu. Cả một đời, Ngài cứ sống như thế. Và Ngài thọ đến hơn một trăm hai mươi tuổi mới viên tịch.
Khi Trung Hoa lục địa được Đảng cộng sản Trung Quốc giải phóng, Ngài đang ở Hương Cảng (Hồng Kông). Lúc bấy giờ ai cũng lo sợ cho Ngài v́ nghĩ rằng người cộng sản Trung Hoa không tin tôn giáo, họ sẽ chống báng và làm khó dễ Ngài. Mọi người khuyên Ngài nên ở lại Hương Cảng. Nhưng Ngài không chịu v́ lúc đó ở lục địa chỉ có Ngài là bậc tôn túc. Nếu Ngài không về, Tăng Ni không có chỗ dựa và sẽ tan tác. Mặc dù biết sẽ gặp rất nhiều khó khăn nhưng Ngài vẫn từ giă Hương Cảng, trở về Trung Hoa lục địa. Quả thật, trong thời gian đầu, v́ chưa hiểu, chưa thông cảm, chính quyền đă làm khổ Ngài vô cùng. Họ cho lính đến xét chùa, bắt giam các Thầy, đánh đập rất tàn nhẫn đến nỗi có vài người không chịu được đă chết. Họ cũng giam và đánh đập Ngài, đánh đến gần chết. Hết đánh bằng cây gỗ, họ đập bằng cây sắt. Đánh Ngài từ trên giường rơi xuống đất vẫn chưa thỏa măn, năm bảy tên lính mang giày đinh giẫm lên người Ngài. Ḿnh mẩy Ngài bê bết máu, trông rất thê thảm. Vậy mà Ngài vẫn thản nhiên, ḷng không chút sợ hăi hay oán hờn. Sau khi Ngài lành bệnh, chính quyền ở Bắc Kinh mới hiểu và mời Ngài thành lập Giáo hội Phật giáo. Tuy không giữ chức vụ ǵ quan trọng nhưng Ngài đứng đó làm chỗ dựa tinh thần cho Tăng Ni. Nhờ vậy, người ta vững tâm tu hành, giữ được giềng mối của Đạo. Ngài có thần thông, biết trước được những thảm nạn khi về Trung Hoa lục địa, nhưng vẫn không sợ. Ngài chấp nhận để giữ được chỗ dựa tinh thần cho Tăng Ni, từ đó tạo điều kiện phát triển Phật pháp. Tấm gương vị tha của Ngài Hư Vân thật quá vĩ đại. Là người xuất gia, chúng ta phải phấn đấu để đạt được đời sống vị tha tuyệt vời như vậy.
Để đạt được cuộc sống vị tha, mỗi khi làm việc ǵ chúng ta hăy đặt lại câu hỏi. Xuất gia để làm ǵ? ? Lễ Phật để làm ǵ? Ăn cơm, uống nước, nghỉ ngơi để làm ǵ? Đi học để làm ǵ? Nh́n thấy huynh đệ tự hỏi ḿnh phải làm ǵ? vv…
Hỏi như vậy và tự trả lời, chúng ta sẽ kiểm soát được ḿnh. Cũng làm những công việc như mọi người nhưng chúng ta đừng nghĩ làm cho ḿnh mà phải nghĩ là làm lợi ích nhiều cho chúng sinh sau này. Chúng ta ăn cơm, uống nước cũng nghĩ rằng để có sức mà lo làm Phật sự. Khi mệt nằm nghỉ, chúng ta dừng nghĩ để cho ḿnh khoẻ mà sức khoẻ này là để cúng dường Tam Bảo, để lợi ích nhiều cho cuộc đời này. Những lư tưởng cao siêu có thể chúng ta chưa làm được, nhưng trong ư nghĩ của ḿnh, chúng ta luôn luôn nghĩ những điều rất thánh thiện, rất vị tha.
Khi nh́n thấy chúng sinh, nghĩ đến thế giới, chúng ta tự hỏi ḿnh phải làm ǵ ? Chẳng hạn, thấy đạo Phật đang suy thoái, chúng ta phải băn khoăn. Phải nhận ra rằng, chính lối sống của Tăng Ni làm cho đạo Phật yếu đuối. Tăng Ni phải chủ động, phải có sức mạnh để chống đỡ khi có khó khăn trở ngại. Sở dĩ trong thực tế, Hồi Giáo đi đến đâu, đạo Phật suy yếu đến đó là do sức sống của đạo Phật yếu. Nguyên nhân chính là do từng người chúng ta không có tâm vị tha mạnh mẽ. Chúng ta c̣n sống cho ḿnh nhiều quá. Chẳng hạn, ở Inđônêxia, cộng đồng người Hoa theo đạo Phật khá đông. Nhờ có họ mà đạo Phật hiện diện tại nước này. Vậy mà, ngày nay nhóm Hồi Giáo khủng bố và đuổi hết người Hoa ra khỏi Inđônêxia. Trong tương lai, Inđônêxia sẽ không c̣n Phật giáo. Trước t́nh trạng đó, chúng ta sẽ làm ǵ ? Phải thường xuyên đặt những câu hỏi như thế.
Hoặc nh́n thế giới cứ xung đột, xâu xé lẫn nhau, luôn đem lại sự bất an, chúng ta làm được điều ǵ ? Nếu không bao giờ ray rứt về những điều đó, chúng ta là người sống vị kỷ. Người có cuộc sống vị tha không bao giờ b́nh yên, thanh thản được. Họ luôn cảm thấy ưu tư và thấy ḿnh phải có bổn phận, có trách nhiệm đối với cuộc đời này. Đó mới đúng là người Phật tử chân chính.
Chúng ta hăy thành thật tự trách ḿnh mỗi khi thấy tâm ḿnh xuất hiện những tư tưởng ích kỷ. Việc xây dựng tâm hồn vị tha, đời sống vị tha là việc rất khó khăn, phải trải qua một thời gian dài. V́ vậy, chúng ta phải cố gắng tu tập từng ngày.
Chẳng hạn, đối với người tu, ích kỷ thường biểu hiện ở sự ham muốn ḿnh có được nhiều tiền, có chùa to, có danh tiếng…Hoặc khi nh́n thấy những người xung quanh rơi vào hoàn cảnh khó khăn mà chúng ta làm lơ, tự nhiên tâm vị kỷ sẽ lớn lên. Khi có chuyện không hay xảy ra, chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, đó cũng là biểu hiện của một đời sống vị kỷ. Hăy cứ nhận lỗi về ḿnh, chúng ta sẽ có một đời sống vị tha.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 156 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 3:54am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. CẨN THẬN GIỮA LƯ TƯỞNG VÀ THAM VỌNG.
Về lư tưởng và tham vọng, chúng ta đă được học ở những bài trước. Ở đây, chúng ta chỉ t́m hiểu mối quan hệ giữa lư tưởng và tham vọng với cuộc sống vị tha.
Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước chưa hẳn là vị tha. V́ đằng sau việc làm phước ấy có thể c̣n tâm niệm cầu phước. Mà cầu phước là thái độ hoàn toàn vị kỷ. Đôi khi, nh́n bề ngoài, việc làm phước có vẻ như vị tha, nhưng thật sự vị kỷ đang lớn dần lên trong tâm chúng ta. Có nhiều người rất năng đi chùa lạy Phật, nhưng chỉ để cầu cho ḿnh bao nhiêu điều tốt đẹp. V́ vậy, càng đi chùa nhiều càng tăng trưởng vị kỷ.
Chúng ta cần phân biệt giữa lư tưởng và tham vọng. Người có lư tưởng và tham vọng đều có chung một điểm là họ đều có hoài băo lớn, mục tiêu lớn, dự định lớn. Đó có thể là dự định sẽ cất một ngôi chùa rất lớn, xây một trường Đại học Phật giáo bề thế nhất Đông Nam Á, hoặc đó là ước mơ mở được một trại mồ côi để tập trung được vài trăm ngàn trẻ mồ côi về nuôi dưỡng vv…. Nhưng trong những hoài băo, những dự định lớn lao đó, đâu là lư tưởng, đâu là tham vọng? Chúng ta phải hiểu rằng, nếu thật sự v́ Phật pháp, v́ chúng sinh, người có những mơ ước , hoăi băo như vậy là người sống có lư tưởng. Nhưng nếu làm để cầu mong một điều ǵ đó cho ḿnh, danh tiếng, lợi lộc chẳng hạn, th́ đó là tham vọng. Nói cách khác, cả hai có những điểm rất giống nhau nhưng hễ v́ ḿnh là tham vọng, v́ người là lư tưởng. Bởi vậy, khi có những mơ ước, những dự định lớn, chúng ta phải cẩn thận xét kĩ tâm ḿnh,   xem đó là v́ ḿnh hay v́ chúng sanh, v́ Phật pháp.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 157 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 4:12am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4. QUAN ĐIỂM ĐỐI VỚI HẠNH PHÚC.
Chúng ta sống là để đi t́m hạnh phúc. V́ sống mà không có hy vọng, không có hạnh phúc là một cuộc sống vô nghĩa. Nhưng hạnh phúc vốn rất mong manh và không dễ dàng t́m được. Chúng ta phải luôn luôn hy vọng rằng, ḿnh sẽ t́m thấy hạnh phúc trên cuộc đời này. Hy vọng như vậy để chúng ta cố gắng sống, cố gắng vượt qua những khó khăn gian khổ, vượt qua những thử thách nghiệt ngă của cuộc đời. Chừng nào con người không c̣n hy vọng, chừng đó họ sẽ bị cuộc đời làm cho ngă gục.
Khi c̣n nhỏ sống trong ṿng tay cha mẹ, chúng ta hy vọng lớn lên sẽ thành đạt, có cuộc sống giàu sang, danh vọng….Càng lớn lên, con người càng hy vọng điều đó. Hôm nay c̣n khó khăn, người ta hy vọng vài năm nữa rồi cuộc sống sẽ khá hơn, sung sướng hơn. Đến khi gần đất xa trời, không c̣n hy vọng được nữa, họ lại hy vọng vào kiếp sau. V́ niềm hy vọng về cuộc sống hạnh phúc phía trước mà chúng ta vượt qua tất cả. Nghĩa là chúng ta sống để đi t́m hạnh phúc. Đó là mục đích, là khát vọng lớn lao, mănh liệt của con người. Ngay cả những người bất hạnh, sống lang thang lê lết bên lề đường xin ăn, họ vẫn yêu vô cùng sự sống và hy vọng vào ngày mai tươi sáng vẫn không lụi tắt trong ḷng họ. Nếu đă hoàn toàn tuyệt vọng, họ sẽ không kéo dài cuộc sống của ḿnh trong khổ đau như vậy.
Là đệ tử Phật, chúng ta phải có một quan điểm rơ ràng về hạnh phúc. Chúng ta thừa nhận sống để đi t́m hạnh phúc. Nhưng với người tu hành, hạnh phúc là ǵ? Chúng ta sẽ đi t́m hạnh phúc cho chính ḿnh, hay sẽ dành cuộc đời này đi t́m hạnh phúc cho người khác? Đặt lại câu hỏi đó một lần nữa, chúng ta suy nghĩ cho thấu đáo để sống một cuộc đời đúng nghĩa.
Rơ ràng, người đệ tử Phật phải sống cuộc sống vị tha, sống là để đi t́m hạnh phúc cho người khác chứ không phải cho bản thân ḿnh. Có thể trước đây, cuộc sống của chúng ta c̣n nhiều đau khổ, c̣n những nỗi bất an và chúng ta cũng đă từng hy vọng một ngày nào đó, ḿnh được sống một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng bây giờ, chúng ta không c̣n hy vọng điều đó nữa. Với người tu hành chúng ta, hạnh phúc lớn nhất là đem lại được hạnh phúc cho người khác.
Như vậy, điều quan trọng là để đem lại hạnh phúc cho người khác, chúng ta phải làm ǵ ? Trước hết, chúng ta phải hiểu điều này, hạnh phúc là do tâm vị tha chứ không phải do phước. Nói như vậy có vẻ hơi mâu thuẫn, nhưng nghĩ một cách sâu sắc, điều đó hoàn toàn đúng. Chẳng hạn, có những người trước kia hay bố thí, làm phước nên họ được nhiều phước và đời này họ có được cuộc sống giàu sang. Nhưng giàu sang không hẳn là hạnh phúc. Chúng ta đă đọc được điều này rất nhiều trong những cuốn sách viết về Nhân Quả. Có tiền nhiều và có hạnh phúc là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nhiều người sống trên đống vàng nhưng vô cùng đau khổ. Họ chỉ hơn những người nghèo là có cuộc sống vật chất thoải mái, c̣n hạnh phúc vẫn thuộc về lĩnh vực của tâm.
Một người nghèo về vật chất nhưng sống một đời vị tha vẫn an vui, hạnh phúc, và họ cũng tạo được phước cho đời sau. Như vậy, người có phước do tâm vị tha, đời này sẽ an vui. C̣n người có phước do tâm cầu phước ở đời trước, đời này có thể giàu sang nhưng lại sống bất an. V́ tâm cầu phước là tâm vị kỷ. Chúng ta cần phân biệt được điều đó. Hạnh phúc thật sự vẫn là do tâm vị tha đem lại. Có thể chúng ta chưa làm được điều ǵ lớn lao, chỉ cần sống vị tha thôi, chúng ta đă thấy ḿnh rất hạnh phúc v́ đi đúng nguyên lư Tứ Diệu Đế của Phật.
V́ vậy, chúng ta đừng mất th́ giờ tự ám thị ḿnh là người hạnh phúc, luôn mang vẻ mặt an lạc, thoả măn. V́ hạnh phúc không phải do ám thị mà có, hạnh phúc là do đời sống vị tha đem lại. Nhiều khi chúng ta được dạy, là đệ tử Phật, phải tự tại an vui, đi đứng đoan trang, lúc nào cũng nở nụ cười trên môi, gương mặt phải thanh thản…Thực ra, đó là lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ về ḿnh. Chúng ta đừng bận tâm về điều đó, đừng tự ám thị ḿnh là người hạnh phúc. Hăy bận tâm đăm chiêu đi t́m hạnh phúc cho phúc cho mọi người. Có thể lúc nào chúng ta cũng tất bật, vội vă nhưng v́ tâm măi lo cho người khác nên không bao giờ đau khổ đến được với tâm ḿnh. Hai chữ tự tại có vẻ thanh thoát, nhưng nếu chỉ đi t́m cái đó cho ḿnh, chúng ta vẫn bị vị kỷ chi phối. Mà vị kỷ có mặt th́ sẽ kéo theo những đau khổ, bất an.
Với cuộc sống vị tha, hạnh phúc dần dần tràn ngập mà chúng ta không ngờ được. Suốt cuộc đời lo cho người khác, đến một lúc nào đó tự nhiên chúng ta thấy cuộc đời ḿnh tràn ngập niềm vui. Nhưng đừng bao giờ dừng lại đó để hưởng thụ, hăy tiếp tục bận tâm lo cho mọi người. Nếu tự măn với hạnh phúc mà ḿnh đang có nghĩa là chúng ta bắt đầu lui bước. Nếu chỉ biết hưởng thụ hạnh phúc, niềm vui dù niềm vui đó do đời sống vị tha lúc trước tạo nên, là chúng ta bắt đầu rơi trở lại lối sống vị kỷ. Như vậy, chúng ta sẽ không đi tới được đời sống vị tha vô lượng, vô biên. Đây là điểm rất khó, rất tinh tế trong tâm mà chúng ta phải tỉnh táo để thoát ra. Sở dĩ một vị Phật thành được Phật quả là do các công hạnh của Ngài vô hạn, vô biên. Ngài làm phước măi, sống vị tha măi, không bao giờ dừng lại để hưởng niềm vui .
Người tu theo hạnh Bồ Tát Ba La Mật vô lượng vô biên không bao giờ biết dừng lại để hưởng thụ. Chúng ta cũng vậy, nếu sống đời sống vị tha th́ tâm ḿnh tự nhiên xuất hiện niềm vui nhưng đừng bao giờ dừng lại để hưởng niềm vui trong tâm đó, hăy cứ tiếp tục bận tâm để lo cho người khác.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 158 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 4:19am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT KHI THẤY THẾ GIỚI NÀY CHƯA BIẾT ĐƯỢC CHÁNH PHÁP.
Trên thế giới này, người biết Đạo không nhiều. Bên cạnh đó, c̣n không ít người rơi vào tà kiến. Họ chưa tin vào Nhân quả, chưa tin luân hồi, cũng không tin rằng có Niết Bàn tuyệt đối, là nơi giải thoát thật sự. Rất nhiều người trên thế giới chưa biết được điều đó. Bởi vậy, người đệ tử Phật không bao giờ được nghỉ ngơi khi thấy thế gian này chưa hiểu được Chánh pháp. Đây cũng là lời nguyện khi quy y. Một ngày nào đó, quỳ trước tượng Phật, nhận ḿnh là đệ tử Phật, xin nương tựa Phật, tôn thờ Phật, chúng ta phải phát nguyện là sẽ đem Phật pháp đến với mọi người, từ gia đ́nh đến xă hội.

Khi quư Phật tử quy y, ngoài việc thọ tŕ Tam quy, Ngũ giới, cần phải thọ thêm Thất nguyện (Bảy điều nguyện). Bảy điều nguyện này có thể chúng ta đă được nghe, nhưng phải được xác quyết lại trong buổi lễ quy y. Bảy điều nguyện đó được sắp xếp từ thấp đến cao :


Thứ nhất: Phật tử tập ăn chay dần dần, từ ít ngày lên
nhiều ngày.

Thứ hai: Phật tử phát nguyện học hỏi giáo pháp không biết mệt mỏi. Có thể học hỏi trực tiếp từ những vị Thầy, Cô tu hành chân chính, hoặc học từ băng hay, sách hay, không bao giờ biết mệt mỏi.

Thứ ba: Phật tử phải phát nguyện lễ Phật, tọa Thiền, v́ đó là sự thực hiện tu hành tâm linh.

Thứ tư: Phật tử phải phát nguyện suốt đời siêng năng làm việc từ thiện.

Thứ năm: Phật tử phát nguyện phải Phật hóa gia đ́nh, làm cho tất cả những người thân trong gia đ́nh, họ hàng ḿnh đều biết Phật pháp, nhất là đối với trẻ em.

Thứ sáu: Phật tử phát nguyện sẽ đem Chánh pháp đến với những người chưa biết, để cho họ t́m được an vui trong cuộc sống này.

Thứ bảy: Phật tử phát nguyện phải kiên cường giữ Đạo trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn gian khổ nào.
Đây là bảy lời nguyện khi quy y chúng ta phải thọ tŕ. Không chỉ là những lời nguyện mà chúng ta phải thực hiện cho bằng được. Người Phật tử ngày đầu tiên đến làm đệ tử Phật nhận được bảy điều nguyện này, sẽ là những người rất năng nổ, tích cực, chân chính. Và nếu tất cả Phật tử đều được như vậy, chúng ta sẽ thấy Phật giáo có nhiều đổi thay, đạo Phật sẽ tích cực hơn, năng động hơn, làm lợi ích cho thế giới nhiều hơn.



Sửa lại bởi QuangQuy : 17 March 2005 lúc 8:01pm
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 159 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 8:02pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Có người cho rằng, người có ḷng từ sẽ bận tâm về sự thiếu thốn của những người chung quanh. Như thế, trong lúc ngồi Thiền, sự bận tâm cứ quanh quẩn trong tâm trí, làm sao vào định được. Thực ra, khi ngồi Thiền, chúng ta phải lo nhiếp tâm. Lúc đó, nếu c̣n bận tâm làm sao có kinh nghiệm Thiền định để dạy cho người khác. Trong đời sống, chúng ta bận tâm rất nhiều chuyện, nhưng khi ngồi Thiền chúng ta chỉ nghĩ đến việc thực hành cho có kinh nghiệm dạy lại cho người khác. Nghĩ về người khác, đó cũng là từ bi, và cái này phải chi phối chúng ta mạnh hơn nên chúng ta sẽ không c̣n bận tâm đến những chuyện lặt vặt nữa.

Thiền tức là không suy nghĩ. Trong đời sống, chúng ta c̣n phải lo bao nhiêu việc. Đó cũng là điều khiến chúng ta động tâm. Nếu động tâm vị kỷ, chúng ta sẽ càng lúc càng không vào định được. C̣n nếu động tâm trong đời sống là động tâm vị tha, khi ngồi Thiền chúng ta sẽ vào định dễ hơn. Đời sống vị tha sẽ làm cho ḿnh tăng trưởng được Thiền định.

Nói đến cuộc sống vị tha, có người băn khoăn làm sao Phật tử tại gia hiểu rơ, làm phước hữu lậu và phước vô lậu. Hữu lậu là vẫn c̣n dấu vết của luân hồi, vô lậu là đi ra khỏi luân hồi. Ví dụ, khi bố thí cúng dường, khi làm mọi việc tốt lành cho người mà trong tâm chúng ta c̣n mong được hưởng phước, là chúng ta chưa ra khỏi luân hồi, vẫn c̣n dấu vết luân hồi trong việc làm phước đó. C̣n nếu luôn làm phước, luôn hy sinh v́ cuộc sống của mọi người, mong cho mọi người được giác ngộ, giải thoát mà không cầu phước cho ḿnh là chúng ta đă gieo phước vô lậu. Khi ấy, dấu vết luân hồi không c̣n vương lại trong việc làm phước của chúng ta.

Chúng ta thường thấy bên tượng Đức Phật Thích Ca có hai vị Phổ Hiền và Văn Thù đứng hai bên, c̣n tượng Di Đà có Quan Âm và Thế Chí đứng hai bên. Phổ Hiền tượng trưng cho Hạnh và Văn Thù tượng trưng cho Trí. Hạnh tức là Đạo đức và Trí là Trí tuệ. Trí tuệ soi sáng cho Đạo đức và ngược lại, Đạo đức nâng cao Trí tuệ.

Một người đi trên đường giác ngộ phải có Trí tuệ và Giới hạnh. Ngài Văn Thù tượng trưng cho sự soi sáng, c̣n Ngài Phổ Hiền tượng trưng cho hành động. Muốn hành động phải có trí tuệ soi sáng. Có hành động, có kinh nghiệm lại giúp cho việc soi sáng rơ hơn. C̣n Quan Âm tượng trưng cho ḷng Đại Bi, Thế Chí tượng trưng cho Đại Lực, cho sự dơng mănh. Nghĩa là, muốn thực hiện được ư nguyện độ sinh, muốn cứu khổ cho con người, chúng ta phải có sức mạnh. Nếu không có gan dơng mănh làm sao chúng ta có thể xông pha trong luân hồi để cứu độ chúng sanh?
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 160 of 349: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 8:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy


Trong cuộc sống, có khi chúng ta rất siêng năng, rất muốn giúp người nhưng v́ thể lực yếu đuối, bản tính nhút nhát nên không thực hiện được. Bởi vậy, muốn làm việc cứu khổ chúng sanh, chúng ta cần phải mạnh mẽ hơn, bản lĩnh hơn.

Có người cho rằng, phải buông tất cả những lo toan để niệm Phật v́ nếu cứ lo cho mọi người, tâm sẽ tán loạn vọng tưởng, không thanh tịnh được. Chúng ta đừng nghĩ như vậy. Cứ lo cho người khác, cứ tán loạn vọng tưởng, chúng ta sẽ nhiếp tâm được v́ chúng ta đă sống một cuộc sống vị tha. Chúng ta phải hiểu rằng, nhiếp tâm được hay không là do phước. Nếu quan niệm sống buông hết để tu cho thanh tịnh, không cẩn thận, chúng ta sẽ rơi vào lối sống vị kỷ, sẽ không nhiếp tâm được.

Đạo Phật tiến bộ là một đạo Phật rất tinh tấn tu Thiền, nhưng rất siêng năng đem lại lợi ích cho mọi người . Cả hai đều rất quan trọng. Là một đệ tử của Phật, chúng ta phải rất siêng năng tu tập Thiền định và cũng rất siêng năng làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu muốn tu Thiền định có kết quả, chúng ta phải yên tâm làm phước, yên tâm sống v́ mọi người. Phước là Nhân quả “giấu mặt”, có sự chi phối rất bí mật đến đời sống của chúng ta. Chính phước bí mật đó giúp tâm chúng ta vào định. Đây cũng là một điều bí mật, không giải thích được, nhưng lại là một nguyên lư rất đúng, tuyệt đối đúng.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

<< Trước Trang of 18 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.0977 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO