Tác giả |
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 121 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 1:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
cuốn Tâm Lí Đạo đức (tác giả: Thầy Tỷ-Kheo Thích Chơn Quang), NXB Tôn Giáo xuất bản, sách dày, trang trọng.
trân trọng giới thiệu.
sách rất dày, khó giới thiệu hết trên mạng
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 122 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cũng tuỳ duyên mỗi người, có người có điều kiện t́m sách đọc, có người không. Tuy nhiên các bài viết đă đăng tải có sự cho phép của tỳ kheo Thích Chơn Quang.
Nhân tiện cũng xin giới thiệu, bạn nào muốn t́m mua cuốn sách TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC đă in đầy đủ có thể liên hệ:
-Tại Hà Nội: Cô Phương Nam: (04)8460072 hoặc cityphone: (04)9177828. V́ cô được sự uỷ quyền của tỳ kheo Thích Chơn Quang nên có thể mua với giá thấp nhất có thể.
-Tại TP HCM:
1/ Cô Tường Thanh
ĐC: 125/42/14A Bùi Đ́nh Tuư; P24; B Thạnh; tp.hcm
ĐT: 08-511 1177 - 0903 934754; Fax: 08-841 8637
Email: tuongthanh73@hcm.fpt.vn
2/ Chú Tánh Trí
ĐC: 201 Bùi Hữu Nghĩa; P1; B Thạnh; tp.hcm
ĐT: 08-841 8637
3/Cty VĂN HOÁ PHÁP QUANG
ĐC: 450S Bùi Đ́nh Tuư; P12; B Thạnh; tp.hcm
ĐT: 08-511 1177- 0903 934754
Giám Đốc: ths.kts. Lê Thị Ánh Nguyệt
Thân mến!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 123 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bài 6
NÓNG NẢY
1.NHẬN ĐỊNH :
Nóng nảy (Sân): Là trạng thái mất b́nh tĩnh do bực bội khó chịu gây nên và thường khiến chúng ta phải đưa ra những phản ứng mạnh.
Trạng thái mất b́nh tĩnh thường có nhiều loại. Khi gặp điều ǵ vui mừng, chúng ta cũng có thể rơi vào trạng thái mất b́nh tĩnh. Nhưng mất b́nh tĩnh ở đây không phải do bực bội khó chịu nên không thành vấn đề, không gọi là sân.
Ví dụ, chúng ta đang ở chùa tu hành. Dĩ nhiên, v́ mới tu nên ta chưa dứt được tâm luyến ái. Một hôm, nghe tin cha mẹ đến thăm, ta mừng quá, vội vàng chạy xuống, tay bắt mặt mừng. Đó cũng là trạng thái mất b́nh tĩnh, nhưng không phải do bực bội khó chịu nên không gọi là sân.
Hoặc do cố gắng học hành, rèn luyện, cuối năm ta được đánh giá cao, được khen thưởng. Nghe tin ấy, ta rất mừng và có những cử chỉ lúng túng, vụng về. Đó cũng là trạng thái mất b́nh tĩnh nhưng không gọi là sân.
Vậy, những tâm lư bực bội, khó chịu thường xảy ra khi nào?
Trước hết, tâm lư ấy xuất hiện khi chúng ta bị xúc phạm danh dự hay thân thể. Hay nói cách khác, khi ta bị đánh vào bản ngă. Nếu không đánh vào bản ngă, không xúc phạm tới bản ngă th́ chúng ta không nổi sân. Nhưng như thế nào gọi là chạm tới bản ngă? Tùy theo cái mà ta chấp. Hễ chúng ta chấp tới mức độ nào đó mà bị người khác chạm tới th́ lúc ấy gọi là bị chạm tới bản ngă và tự nhiên ta sẽ nổi sân.
Chẳng hạn, cái chấp căn bản của con người là chấp cái thân này là ta. Như vậy, ai xúc chạm tới cái thân này th́ sẽ có vấn đề, sẽ làm cho ḿnh nổi sân. Có nhiều trường hợp được coi là chạm tới cái thân này .
Ví dụ, mỗi ngày chúng ta đều soi gương hai ba lần và cảm thấy tự hào v́ ḿnh là hoa khôi của trường. Một hôm, bỗng dưng có người nh́n ta và cho rằng mặt ta trông hắc ám quá. Do chấp cái thân mỗi ngày như vậy nên khi nghe lời nhận xét, ta cảm thấy giận. Cái bực bội, khó chịu, cái cảm giác mất b́nh tĩnh cứ trào lên. Trạng thái ấy gọi là sân khi chúng ta bị lời nói xúc chạm đến thân ḿnh.
Hoặc trong một lần tranh luận, ta bị người khác tát một cái vào má. Cái cảm giác bị tát đau vào má cũng là cảm giác bị xúc chạm vào bản ngă làm cho ta nổi cơn giận dữ. Trạng thái nổi sân do bị xúc chạm vào thân thể là cái chấp thô thiển nhất, căn bản nhất mà ai cũng gặp phải.
Nếu mỗi ngày chúng ta không ngồi thiền điều thân để thấy thân này là vô thường, hư ảo th́ khi bị người khác xúc chạm, ta sẽ thấy khó chịu ngay. Ngược lại, nếu mỗi ngày chúng ta đều ngồi thiền điều thân, coi thân này là vô thường, hư ảo lâu ngày cho trở thành đạo lực, th́ chúng ta sẽ không chấp thân, trong ḥan cảnh nào cũng có thể b́nh thản được.
Có một cách chữa“nấc cục” theo kiểu dân gian rất hiệu quả. Đó là t́m cách làm cho người ta nổi giận, làm cho họ phản ứng mạnh, tự nhiên “nấc cục” sẽ biến mất. Có người áp dụng “mẹo” này để chữa “nấc cục” cho một Thầy trong chùa nhưng không có hiệu quả. V́ người tu hành không dễ dàng bị kích độïng. Có lẽ nhờ quá tŕnh điều thân nên họ không mất b́nh tĩnh, không giận dữ trong bất kỳ t́nh huống nào.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 124 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Phật thường dạy chúng ta ngồi quán tử thi để thấy cái thân này rồi sẽ chết, sẽ x́nh trương, mục tan chỉ c̣n lại xương không, rồi xương cũng thành tro, bay theo gió mất. Cái quán tưởng khi ngồi thiền là như vậy, chúng ta thấy rất rơ điều ấy nơi bản thân ḿnh. Nhưng với tuổi trẻ, điều ấy sẽ hơi khó được nhận ra v́ tuổi trẻ thường chấp thân. Người già hay bệnh hoạn ốm yếu dễ thấy cái thân này vô thường, tàn tạ; c̣n đang khoẻ mạnh, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy.
Chúng ta phải cố gắng bỏ chấp thân để rơi vào t́nh huống nào cũng giữ được thái độ b́nh tĩnh. Chẳng hạn, khi ra đường, nếu ai đó vô t́nh làm ta ngă xuống, ta vẫn b́nh thản, coi như không có việc ǵ xảy ra. Nếu thấy chúng ta đứng dậy, phủi bụi nhẹ nhàng và đi tiếp, người ta sẽ nể phục người tu ḿnh hơn. Như vậy, đạo tâm của họ cũng tăng trưởng.
Đó là về thân thể, c̣n về danh dự ? Danh dự là giá trị của con người. Thông thường, người ta có thể không chấp thân nhưng vẫn xem trọng giá trị, danh dự của ḿnh. Người ta có thể chấp nhận cái chết nhưng không chấp nhận để cho danh dự bị xúc phạm. Ngày xưa, ở Nhật có một giai cấp gọi là vơ sĩ đạo. Họ là những người rất trọng danh dự. Hễ danh dự không c̣n th́ họ tự tử ngay lập tức. Chẳng hạn, trong một trận thách đấu, ai thua, người đó sẽ tự tử ngay v́ họ cảm thấy nhục nhă khi danh dự không c̣n nữa. Có người kể rằng, vào những năm 60, tại Nhật có diễn ra một trận thi đấu bóng bàn trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng đưa vận dộng viên sang tham gia thi đấu. Sau khi thắng các nước khác, cầu thủ Việt Nam bắt đầu thi đấu với một cầu thủ người Nhật, người này vốn là vô địch thế giới về bóng bàn. Trận đấu diễn ra rất quyết liệt. Cuối cùng, đội Việt Nam thắng. Vận động viên người Nhật ấy đă tự mổ bụng chết ngay tại chỗ. Người Nhật trọng danh dự như vậy đó.
Vậy, người tu chúng ta có trọng danh dự không?
Trong đạo Phật có một hạnh là nhẫn nhục Ba-la-mật. Dù người ta có xâm phạm đến mức nào, chúng ta cũng không được giận. Có những trường hợp, không phải họ chỉ xúc phạm đến ta mà c̣n xúc phạm đến Thầy ta, đến cả Đức Phật nữa, chúng ta cũng phải nhẫn nhục. Nếu quá coi trọng danh dự, phản ứng một cách gay gắt khi bị xúc phạm th́ chúng ta là người không nhẫn nhục.
V́ vậy, chúng ta phải sống rất đàng hoàng, giữ ǵn giới luật, oai nghi tế hạnh; giữ ǵn đạo đức, tác phong nghiêm chỉnh. Mỗi khi ra đường, chúng ta đều mặc áo dài. Thậm chí, khi đi khất thực cũng đi với một phong thái ung dung, không van xin hay cầu cạnh. Nghĩa là chúng ta rất trọng danh dự, luôn giữ phong cách đàng hoàng, không để người khác khinh thường. Nhưng nếu bị người ta xúc phạm mà vẫn không giận, không phản ứng có phải là chúng ta không coi trọng danh dự, không có liêm sỉ không? Và như vậy, vấn đề trọng danh dự đối với người tu hành như chúng ta phải hiểu thế nào cho đúng?
Thật ra, đặt vấn đề trọng danh dự hay không trọng danh dự là chúng ta đă bị cái vị kỷ chi phối, chỉ nghĩ về ḿnh mà thôi. Nếu đứng trên lập trường vô ngă, chỉ v́ chúng sinh th́ chúng ta sẽ không đặt vấn đề trọng danh dự hay không. Như vậy, danh dự là một cái ǵ đó rất hăo huyền. Người tu chúng ta không nên đặt vấn đề danh dự. Chúng ta đă không chấp ngă th́ danh dự có nghĩa lư ǵ.
Tuy nhiên, dù không coi trọng danh dự nhưng chúng ta CŨNG cần phải giữ tư cách đạo đức nghiêm túc, chuẩn mực. Đó là v́ ḷng thương yêu tất cả chúng sinh, v́ sự tín tâm của mọi người. Chúng sinh cần có Phật pháp để nuơng tựa, cần có ánh sáng để đi trong bóng đêm. Nhưng Đức Phật đă nhập Niết bàn, giáo pháp chỉ là lư thuyết, chỉ có chúng ta, những người xuất gia mới có thể thắp lên được ánh sáng cho họ, mới có thể làm cho Phật Pháp sống động giữa cuộc đời này .
Cho nên, dù người đời có chửi mắng, có xúc phạm đến mức nào chúng ta cũng phải nhẫn nhục. Chúng ta phải giữ tư cách, đạo đức, giữ sự đường bệ của ḿnh ở mọi nơi, mọi lúc. Làm những điều ấy chúng ta ḥan ṭan không v́ chính ḿnh mà để chúng sinh có niềm tin với Đạo.
Bởi vậy, một khi không đặt mục tiêu hướng về chính ḿnh mà hướng về chúng sinh, chúng ta sẽ không bị mâu thuẫn giữa cái gọi là nhẫn nhục trước sự xúc phạm của người khác với lối sống nghiêm túc, giữ ǵn đạo hạnh.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 125 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trường hợp thứ hai, tâm lư bực bội khó chịu xuất hiện khi tài sản bị xâm phạm.
Tài sản là cái chấp rất nặng của con người. Tại sao như vậy? Chúng ta biết rằng, mọi người, nhất là người đời làm nên đồng tiền rất vất vả. Họ phải đổi bằng mồ hôi nước mắt, quần quật suốt ngày này qua tháng khác mới kiếm được đồng tiền. Cho nên, họ rất quư tài sản đă gây dựng được. Chỉ có những người làm ra đồng tiền quá dễ mới không coi trọng nó. Bởi vậy, người nào xâm phạm đến tài sản của người khác, nhất là những cái mà họ chăm chút, yêu thương, là chạm đến bản ngă của họ và sẽ khiến họ nổi giận.
Ví dụ, chúng ta có một cái ly rất đẹp và hằng ngày luôn nâng niu. Một hôm, có người đến chơi, sơ ư làm rơi xuống đất, vỡ toang. V́ đó là cái ta rất quí nên chắc chắn ta không tránh khỏi sự tức giận.
Chúng ta quư cái ǵ nghĩa là cái chấp của ta đến mức đó nên dễ dàng nổi giận khi bị người khác xâm phạm cái đó. Bởi vậy, đă là người tu hành, chúng ta phải biết buông xả, từ bản thân cho đến tài sản, để nếu có bị xúc phạm, chúng ta không cảm thấy nặng nề. Người làm được như vậy là người có tâm tu tốt.
Chẳng hạn, khi nghe cuộc tṛ chuyện của hai Ni cô, chúng ta sẽ đánh giá được mức độ tu tập của họ. Trong lúc nói chuyện, một người than phiền:
-Gà hàng xóm cứ qua bới hàng rào của tôi, thật là phiền toái.
Cô kia bảo:
-Nó bới hàng rào chứ nó có bới ǵ ḿnh đâu mà giận.
Qua phân tích lời nói của hai người, chúng ta thấy, cô thứ nhất chấp rằng tài sản của ḿnh trải rộng từ nhà cửa, sân vườn, cây cỏ đến hàng rào. Cho nên, khi ai chạm đến những tài sản ấy là chạm đến bản ngă của cô. C̣n cô thứ hai đă biết thoát ly dần dần tài sản nên cảm thấy việc đụng chạm đến hàng rào không liên quan đến ḿnh. Đó là người có tâm tu tốt, tiến bộ.
Tóm lại, trong ba cái chấp của người đời, chấp thân và chấp tài sản là cái chấp thô thiển, ở mức độ thấp. C̣n chấp danh dự là chấp ở mức độ cao hơn.
Người có liêm sỉ, có học thức thường coi trọng danh dự. Thậm chí có người trọng danh dự hơn cả mạng sống, hơn cả tài sản của ḿnh. Họ thà chấp nhận cuộc sống nghèo khổ chứ không bao giờ chịu xu nịnh, cầu cạnh người khác. Trái lại, người tầm thường không coi trọng đời sống tinh thần, nhiều khi không cần danh dự. Với họ, thân thể, tài sản là quí hơn tất cả. Đôi khi, v́ tiền bạc vật chất, họ sẵn sàng chấp nhận luồn cúi, bất chấp sự xúc phạm của người khác.
C̣n chúng ta, những người sống đời tu hành phải vượt lên ba điều chấp ấy. Mặc dù vẫn xác định rằng thân thể, tài sản không là ǵ đối với ta nhưng nếu không cẩn thận, không tu tập vững vàng, chúng ta cũng sẽ bị sự chấp thân và chấp tài sản ấy chi phối.
Ví dụ, đang đi trên đường bỗng dưng ta bị sụp chân một cái, ngă rất đau. Ta sẽ rất khó chịu và phiền trách những người làm đường không cẩn thận, không lấp những chỗ đă đào làm cho ta ngă đau khi đi trong đêm tối. Chỉ khó chịu, phiền trách như vậy thôi nhưng rơ ràng ta đă bị chấp thân chi phối.
C̣n về tài sản, nguời tu hành đương nhiên phải vượt qua. Nếu chúng ta không cẩn thận, không vượt qua được, th́ chấp ngă sẽ rất nặng. V́ trong đạo Phật, Đức Phật đă dạy chúng ta không được tích lũy tài sản, tập sống một cuộc đời vô sản. V́ vậy, chấp tài sản sẽ làm cho chúng ta trở nên phàm tục. Theo luật Nhân Quả, không chấp chừng nào, chúng ta lại có chừng ấy. Nếu có của cải, tài sản chúng ta đem bố thí cho người khác th́ khi cần, tự nhiên của cải lại đến với chúng ta. Đây là một điều rất lạ.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 126 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
Có chuyện kể rằng, bên Thiên Chúa giáo có một vị Thánh tên là Don Bosco. Ông theo một ḍng tu chuyên về giáo dục. Lúc ông đi tu, mẹ ông nói: Một ngày nào mà mẹ biết trong túi con có đến mười franc th́ mẹ không nh́n mặt con nữa.
Ông là người rất thương mẹ. V́ vậy, trong suốt thời gian tu hành, ông không bao giờ dám giữ tiền v́ sợ mẹ biết, mẹ sẽ từ bỏ. Khi có tiền, ông liền mang cho người khác. Vậy mà, tiền cứ mỗi lúc một phát sinh. Ông càng lớn lên, Đạo đức càng tăng trưởng. V́ một khi đă có hạnh bố thí th́ các công hạnh khác cứ thế mở ra.
Ông vốn chuyên về giáo dục nên thường đưa những đứa trẻ lang thang, hư hỏng về nuôi nấng, dạy dỗ. Công lao của ông rất lớn. Một lần, ông có ư định xây một ngôi trường lớn để những đứa trẻ ấy có chỗ học hành đàng ḥang. Tất nhiên, đó mới chỉ là ư định thôi v́ ông không có sẵn tiền. Điều ḱ lạ là ư định chỉ mới nảy sinh, ông đă được một người đưa đến cho một xe tiền. Đó chính là cái phước có được do sự tích cực bố thí của ông.
Cứ thế, suốt cả cuộc đời lo cho chúng sinh và giáo dục cho mọi người những điều tốt đẹp, ông đă được phát thần thông. Ông có trực giác có thể đoán trước được nhiều việc. Sau này, con chiên đến xưng tội chỉ quỳ trước ông, chưa cần nói điều ǵ, ông đă biết tất cả. Khi ông qua đời, ṭa Thánh Vatican đă phong Thánh cho ông, mở thành ḍng Don Bosco đến bây giờ. Như vậy, nhờ phước bố thí mà ông đă được thù thắng.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 127 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trường hợp thứ ba khiến tâm lư khó chịu, bực bội phát sinh là khi kẻ dưới không vâng lệnh.
Khi có chức quyền, chúng ta thường chấp địa vị của ḿnh. Chấp địa vị có nghĩa là chúng ta luôn nghĩ rằng ḿnh có quyền lực nên người dưới nhất thiết phải nghe theo, dù có khi người đó lớn tuổi hơn ḿnh. Nếu họ không vâng lời, chúng ta cảm thấy ḿnh bị xúc phạm v́ nghĩ họ không tôn trọng chức vụ mà ḿnh đang có. Trong khi đó, chúng ta đă xem chức vụ ấy là bản ngă của ḿnh. Do vậy, khi người dưới không vâng lời, chúng ta thường nảy sinh tâm lư khó chịu và có khi nổi sân .
Ví dụ, khi có việc phải ra ngoài, chúng ta dặn đệ tử làm một việc ǵ đó. Khi trở về, việc vẫn chưa được tiến hành. Lúc đó, với tư cách là một người thầy, chúng ta cảm thấy ḿnh bị xúc phạm và sẽ nổi giận. Đó là sự nổi giận do bị người khác xúc phạm đến địa vị, uy tín của ḿnh.
Nhưng cần lưu ư một điều, dù giận chúng ta cũng phải b́nh tĩnh. Nếu nóng nảy, trách mắng đệ tử hết lời th́ họ sẽ mất đi ḷng kính trọng đối với Thầy ḿnh. Chúng ta phải nêu gương tốt cho đệ tử. Nếu ḿnh c̣n sân quá, làm sao giữ được ḷng tôn trọng họ suốt cuộc đời. Như vậy, khi thấy một đệ tử làm điều sai trái hoặc không vâng lời, chúng ta phải xét lỗi đó từ tâm, phải b́nh tĩnh xét hỏi nguyên nhân gây nên lầm lỗi, đừng bao giờ chỉ dựa vào hành động mà trách mắng họ.
Đối với những trường hợp bướng bỉnh, không vâng lời hoặc thờ ơ không chú ư đến lời dặn của thầy, chúng ta phải coi đó là cái bệnh cần phải được sửa từ trong tâm. Đó là những người có đạo đức kém, sau này họ khó làm được việc lớn. Nghĩ như vậy, chúng ta mới tránh được sự nóng nảy, giận dữ. Người không biết tôn trọng vâng lời đă là sai, chúng ta giận dữ, nóng nảy lại càng sai, càng chứng tỏ là ta chấp chức quyền của ḿnh nặng quá. V́ vậy, trong quá tŕnh tu hành, nếu được giữ chức ǵ, chúng ta phải tác ư làm sao để khi gặp chuyện, chúng ta sẽ không chấp cái chức đó mà nổi sân.
Chẳng hạn, một người nào đó được bầu làm lớp trưởng, hay chúng trưởng. Người đó sẽ nghĩ rằng: ḿnh có thể bị chấp bởi cái chức này, và khi đă chấp, nếu ai đó xúc phạm, ḿnh sẽ bị sân. Hiểu như vậy, người ấy phải làm thế nào để đừng chấp?
Hăy nghĩ rằng, cái chức này là không có thật, cái thân này như cát bụi, cỏ rác. Đó là “câu thần chú” mà chúng ta nên luôn luôn tâm niệm. Khi đưa ra ư kiến, nếu gặp sự phản đối của người khác, chúng ta vẫn b́nh thản, từ tốn giải thích, thuyết phục họ. Dần dần rồi họ sẽ hiểu và lắng nghe ư kiến của ta. Nếu có ǵ nghiêm trọng, chúng ta lại thưa lên quư Thầy lớn. Đó là thái độ điềm tĩnh, đúng mực của kẻ tu hành.
Ngoài ba trường hợp ấy, c̣n có trường hợp khác cũng làm nảy sinh tâm lư bực bội, khó chịu. Đó là trường hợp bị người khác cướp ngang lời nói hoặc phủ nhận ư kiến.
Ưù nghĩ, tư tưởng là cái ta của mỗi người. Đa số chúng ta đều chấp như vậy. Cho nên, ai cướp ngang lời hoặc phủ nhận ư kiến là chạm đến bản ngă của ta. Lúc ấy, không phải đơn giản là ư kiến bị phủ nhận mà danh dự của ta cũng bị xúc phạm. Chính sự xúc phạm đă đó khiến ta nổi sân. Tục ngữ Việt Nam có câu “cướp lời cũng như cướp của” cũng chứng tỏ quan điểm này.
Tóm lại, khi nào bản ngă và những cái chấp thuộc về bản ngă (tức ngă sở )bị xâm phạm, bị xúc phạm th́ chúng ta sẽ nổi sân.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 128 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
2. THÁI ĐỘ VÀ PHÂN LOẠI:
a. Thái độ:
Người nổi giận thường có nét mặt dữ dằn, lời nói to, hành động thô bạo. Có khi quá giận, người ta c̣n nói tục, chửi thề. Các triết gia c̣n cho rằng, người nóng là người ngu, người điên v́ trong lúc nóng giận, họ thường có những quyết định sai lầm, những hành động liều lĩnh, không suy xét đúng sai. Sự giận dữ có thể làm mất tư cách của con người.
Kinh Phật có nói rằng: Người nào hay nổi sân th́ kiếp sau sẽ trở thành xấu xí. Câu nói của Đức Phật nghiệm ra thật chí lư. Bởi khi giận dữ, tất cả vẻ xấu xí của chúng ta đều hiện ra bên ngoài: mắt trợn, mặt nhăn, miệng gầm gừ…. khiến cho người khác kinh hăi. Kiếp sau điều ấy sẽ trở thành cố định, hay gọi là quả báo. Trong cuộc sống hiện tại, nh́n gương mặt ai xinh đẹp, chúng ta sẽ nghĩ đời trước người đó hiền lành, nhân hậu. C̣n những người có vẻ dữ dằn, xấu xí có thể là do đời trước họ hay nổi sân, ánh mắt giận dữ đă rớt tới đời này.
Nh́n thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm yếu ớt. V́ tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đă mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động.
Trong giao tiếp, chúng ta thấy người nào không biết giận, gặp việc ǵ cũng trầm tĩnh, người đó rất đáng sợ v́ bên trong họ tiềm tàng một năng lực tinh thần rất lớn. Những người ấy rất có bản lĩnh. Nếu là người tốt, họ có thể được ví với Thánh, nếu là người xấu, sự hiểm độc của họ thật khôn lường. Ngược lại, những người hay nổi nóng thường có vẻ ngoài dữ dằn nhưng không đáng sợ.
Người tu hành thường không có mưu mô, hiểm độc, nhưng cũng không được phép sân. V́ sân là biểu hiện của sự yếu đuối trong tâm hồn. V́ vậy, cần lưu ưmột điều, trong chúng nếu người nào c̣n sân, chúng ta không nên cho làm việc Đạo một ḿnh. V́ tâm hồn họ c̣n yếu đuối, nhu nhược, dễ xảy ra sai sót. Những người b́nh thản trước mọi việc, gặp chuyện không sân, gặp của không tham là người có thể làm việc Đạo một ḿnh mà không sợ xảy ra sai sót. Đây là kinh nghiệm quư báu rất cần trong việc dạy đệ tử sau này.
Người trầm tĩnh là người có thể tin tưởng được. Đó là lư do tại sao trong cuộc sống, người trầm tĩnh, không nóng giận luôn luôn được ngợi ca, quí mến.
Trong đạo Phật, sự b́nh thản không nổi nóng là dấu hiệu của một công phu tu hành chín chắn. Yêu cầu không nổi sân đối với người tu hành rất cao.V́ nổi sân là biểu hiện của sự tu tập không kỹ lưỡng, công phu không vững vàng. Nhưng vượt qua cái sân không phải là điều dễ dàng. Chúng ta phải vào được sơ thiền, phá được năm triền cái mới vượt qua được cái sân. Năm triền cái đó là ǵ ?
-Thứ nhất là tham ái, (hay là tham)
-Thứ hai là sân.
-Thứ ba là thùy miên.
-Thứ tư là trạo cử (hay là trạo hối).
-Thứ năm là nghi.
Khi học về Thiền, chúng ta sẽ phân tích kỹ từng vấn đề. Trong năm triền cái, chúng ta cần hiểu rơ hơn một chút về trạo cử. Trạo cử tách ra khỏi trạo hối nghĩa là hay máy động tay chân. Người không chững chạc, hay nhúc nhích cử động, hay hấp tấp gọi là trạo cử. Người tu thiền đến mức vào được sơ thiền sẽ thấy khoan thai, điềm tĩnh, thư thái ung dung, không c̣n trạo cử (hấp tấp) nữa.
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta cần hiểu thêm về sự hối hận. Hối hận thường có ba loại:
- Một, là hạng người phàm phu không biết hối hận. Đó là những người phàm phu, không biết tội phước nên khi đă lầm lỗi, vẫn không tỏ ra hối hận .
-Hai, là người biết tu tập, biết tội phước nhân quả, khi lầm lỗi họ biết hối hận về những ǵ ḿnh đă gây nên.
-Ba, là người tu có tiến bộ. Những người này dù biết rất rơ nhân quả tội phước nhưng khi lầm lỗi vẫn không hối hận. Đây là trường hợp của người đă vượt ra được cái trạo hối. Khi tâm đă vào được định sơ thiền, nếu phạm phải sai lầm, họ biết rất rơ điều đó và biết rơ nhân quả tội phước mà vẫn không hối hận. Không hối hận nhưng không bao giờ họ tái phạm. Quyết tâm không tái phạm lỗi lầm của họ rất mạnh. Điều đáng nói ở đây là những người này khi đă phạm phải sai lầm, tâm họ b́nh an, không bị ray rứt bởi lỗi lầm nhưng họ không bao giờ tái phạm. Đó là sự khác biệt giữa họ với hạng người phàm phu, không hối hận v́ không biết nhân quả tội phước, và cứ thế, tiếp tục mắc phải lỗi lầm.
Để chứng tỏ là người tu tốt, tu có tiến bộ, chúng ta không bao giờ nổi sân. Không nổi sân là kết quả của công phu Thiền định vững chắc. Nhưng đa phần, v́ không chú trọng đến công phu Thiền định, không quyết tâm phá được triền cái để vào được sơ thiền, chúng ta có thể bị nổi sân mỗi khi gặp chuyện trái ư. Người đă vào được sơ thiền, sân sẽ không c̣n nữay1gặp bất cứ chuyện ǵ, họ vẫn không hề nổi giận. Nói không hề nổi giận có nghĩa là không c̣n một chút bực bội nào nữa dẫu chỉ là một hạt bụi nhỏ. Khi đạt đến mức độ như vậy, họ thực sự đă vượt qua được cái sân. Hay nói cách khác, đây là cái không sân đă đạt đến mức lư tưởng của người có tu tập Thiền định.
Chúng ta cần phải hiểu rằng, giữa tứ thiền và tứ quả có sự khác nhau. Trong tứ thiền, chỉ cần vào đến sơ thiền, chúng ta đă vượt qua được sân. C̣n trong tứ quả của Sa môn, phải vào đến nhị quả, người tu hành mới bắt đầu bớt được sân, và đến tam quả mới dứt được sân. V́ vậy, ở mức độ ban đầu, tứ thiền cao hơn tứ quả và sơ thiền cao hơn sơ quả.
b. Phân loại:
Sân thường có nhiều loại. Chúng ta cần phân biệt bốn trạng thái tâm lư của sân : Nổi nóng, hung dữ, thù hận và giận hờn.
Những trạng thái này có những điểm tương đối giống nhau. Ngoài ra, chúng ta c̣n bắt gặp một trạng thái tâm lư nữa là ác độc. Nhưng ác độc không thuộc về sân nên chúng ta không đề cập ở bài này.
Trong bốn trạng thái trên, nổi nóng là trạng thái đơn giản nhất và rất dễ gặp. Đó là cái sân bất ngờ, là trạng thái mất b́nh tĩnh khi gặp chuyện trái ư, khiến ta nhất thời có những phản ứng vụng về.
Hung dữ là thái độ mạnh mẽ dễ xúc phạm người khác. Đó là trạng thái tâm lư tương tự như sân nhưng bản chất không phải là sân. Người hung dữ là người có cá tính mạnh, có tinh thần mạnh mẽ nên thường làm cho người khác phải sợ. Mỗi khi xảy ra chuyện, thần sắc của họ, cử chỉ, lời nói của họ tỏ ra hăm dọa, đè bẹp tinh thần và ư chí người khác, làm cho người ta phải sợ hăi. Người hung dữ cũng dễ tạo nên nghiệp. Có khi, v́ hung dữ, họ có những nhục h́nh đối với người khác.
Sự nóng nảy và hung dữ rất gần nhau. Cả hai đều là thái độ phản ứng mạnh. Nhưng hung dữ có kèm theo tâm ác độc, muốn hại người. Người hung dữ thường xúc phạm người khác bằng cách chửi mắng thậm tệ, có khi đánh đập, thậm chí có thể giết người nữa. Mặc dù bên ngoài, có khi người hung dữ rất b́nh thường, không biểu lộ cái sân, nhưng bản chất của họ vẫn là tàn nhẫn.
Một câu chuyện có thật xảy ra, đến nay vẫn c̣n làm nhiều người bàng hoàng mỗi khi nhắc lại. Đó là chuyện giết bạn của một thanh niên. Người thanh niên ấy là người Hải Pḥng. V́ có sự gây gổ, xích mích với một người bạn, anh ta vác dao đi t́m người đó để giết. Người kia biết được nên trốn biệt. T́m hoài không được, anh ta bực bội bỏ vào quán cà phê ngồi uống nước, t́nh cờ gặp một người bạn. Người này hỏi: Mày đi đâu vậy?
-Tao đi t́m thằng đó để đâm chết nó!
-Tướng mày mà đâm ai ! Tao đây mày có dám đâm không?
Người bạn nói vừa dứt lời , anh ta rút dao đâm ngay vào bụng bạn ḿnh.
Khi hành động giết người, rơ ràng anh ta không sân, cũng không giận hờn ǵ người kia cả. Nhưng vốn có bản chất hung dữ, nên anh ta dễ bị kích động, có thể hành động một cách tàn nhẫn.
Đối với những người tàn bạo, sự ác độc biểu hiện ngay ở việc dùng nhục h́nh với người khác. Nhiều khi sự ác độc, tàn nhẫn không bộc lộ ở thái độ bên ngoài nhưng lại gây nên đau khổ tột cùng cho người khác. Ví dụ như những lời vu khống hoặc nói xấu, chúng không hề đơn giản. Đó cũng là biểu hiện của sự tàn nhẫn, ác độc.
Thù hận cũng là giận ghét nhưng nuôi dưỡng lâu dài sự buồn bực và có ác tâm muốn trả thù. Tâm thù hận gây nên nghiệp rất lớn. Chúng ta biết rằng, tư tưởng đời này sẽ tạo ra nhân cách ở đời sau. Mỗi một ư nghĩ ở đời này đều tạo thành con người của chúng ta ở đời sau. Bởi vậy, trong hiện tại, nếu để tư tưởng thù hận kéo dài th́ đời sau, chúng ta sẽ trở thành một con người hay chấp, hay thù hận. Một khi đă có ḷng hận thù, chúng ta sẽ t́m mọi cách để hại người.
Trong cuộc sống, có những trường hợp xảy ra rất đơn giản. Nhưng nếu có bản chất thù hận, người ta sẽ nuôi dưỡng nó và chờ cơ hội trả thù. Cứ như vậy, oán thù sẽ chồng chất trên cuộc đời này. Điều đó thật nguy hiểm.V́ vậy, chúng ta không nên nuôi tâm thù hận. Với người tu hành, trái tim càng không có chỗ cho ḷng hận thù ngự trị.
Ở đây phải lưu ư một điều, thù hận khác với nổi nóng. Nổi nóng chỉ là trạng thái tâm lư xảy ra nhất thời, sau đó chúng ta không giận nữa. C̣n thù hận thường kéo dài nên mỗi khi nghĩ đến là chúng ta cảm thấy giận, thấy ghét. Nếu có ai hỏi về người mà chúng ta đang thù hận, chúng ta lại muốn nói xấu người đó, đó là dấu hiệu chắc chắn chúng ta đang nuôi một mối thù hận với họ. Sự giận ghét kéo dài quá lâu sẽ biến thành thù hận. Người đời có mối thù lớn, thường gây nên nghiệp lớn. Người tu hành không có tâm lư thù hận, nhưng ở mức độ nhẹ vẫn c̣n để buồn giận kéo dài. Chúng ta phải quan sát kỹ để tự hóa giải, không được nuôi dưỡng nó.
Giận hờn là sự buồn bực ở mức độ nhẹ, có khi kéo dài nếu người ḿnh có t́nh cảm không làm vừa ḷng ḿnh. Tâm lư giận hờn thường gặp ở phụ nữ. Đối với nam giới, giận hờn chỉ xuất hiện trong những mối quan hệ t́nh cảm sâu sắc hơn( t́nh yêu nam nữ chẳng hạn). V́ có liên quan đến t́nh cảm nên giận hờn không phải là vấn đề nghiêm trọng.
Như vậy, người phàm phu dễ bị cả bốn tâm trạng đó chi phối. Trong bốn tâm lư đó, người tu hành có thể c̣n bị nổi nóng và giận hờn. Tâm lư thù hận và hung dữ chúng ta rất ít gặp. Nhưng nếu không kiểm soát tâm kỹ, chúng ta vẫn bị nó chi phối. Tuy nổi nóng và giận hờn là hai mức độ nhẹ nhưng chúng ta cũng phải cố gắng vượt qua v́ những điều đó làm cho người tu hành bị giảm đạo lực và tổn phước. Bởi vậy, lúc nào chúng ta cũng phải trầm tĩnh, buông xả không giận hờn.
Trường hợp trong chúng có nhiều người, nhưng ta chỉ thương yêu đặc biệt một người. Nếu người đó làm điều ǵ không vừa ư ta là ta giận. T́nh cảm như vậy hẹp ḥi quá. T́nh cảm hẹp ḥi cũng làm ta dễ xao động giận hờn.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 129 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
3. NHÂN QUẢ:
Chúng ta thường nghe: Một chút lửa sân đốt tan cả rừng công đức. Trong cuộc sống, chúng ta làm phước rất nhiều, nhưng chỉ v́ một lúc nổi sân, làm một việc quá đáng, gây thành cái tội, bao nhiêu phước chúng ta đă làm cũng trở nên vô nghĩa.
Ví dụ, có một người không biết giận điều ǵ, châm lửa đốt nhà. Hậu quả là không chỉ nhà ông cháy mà mấy chục căn nhà bên cạnh cũng hóa thành tro bụi. Chỉ một chút nóng giận, người ấy đă gây nên nghiệp quá lớn. Bản thân kẻ đó không biết tạo phước, lại gánh thêm tội nặng v́ đă làm cho bao nhiêu người rơi vào cảnh màn trời, chiếu đất, họ phải trả nợ ấy cho đến kiếp nào mới xong? Sự giận dữ có thể gây nên hậu quả rất nghiêm trọng, bởi vậy, chúng ta phải hết sức cẩn thận, phải biết kiềm chế bản thân ḿnh.
Có khi chỉ một lời nói ác, chúng ta cũng làm mất hết công phu tu tập từ lâu. Đó là trường hợp buông những câu thề, những lời nguyền rủa xúc phạm đến người khác trong khi bực bội.
Có một người mới xuất gia, khi nói về lư tưởng tu hành của ḿnh, người ấy thề rằng: Vào chùa tu mà hoàn cảnh không đàng hoàng là quay về liền. Đúng ra, người ấy không nên nói như vậy mà phải thề rằng:
-Dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào, ḿnh cũng phải giữ vững ḷng tu.
Những người như vậy không tu được bao lâu. Đúng là sau đó người ấy đă hoàn tục theo lời thề không hay đó.
Có trường hợp, v́ giận hờn chúng ta bỏ ngang những công đức mà ḿnh đang theo đuổi, có nghĩa là quả báo lành ở vị lai cũng sẽ gảy ngang. Trong khi đó, trong đạo Phật của chúng ta, hạnh nguyện nào cũng phải đạt đến vô lượng, vô biên, đến tuyệt đối. Tu theo đạo Phật là chúng ta đi t́m cái tuyệt đối, đi t́m cái vô lượng vô biên ấy. Tích lũy phước cũng vậy. Chúng ta phải tích lũy đến khi không c̣n giới hạn nữa, phải đi t́m măi hết kiếp này sang kiếp khác, đừng bao giờ cho là đủ.
Nếu đang làm việc tốt, v́ một phút giây nóng nảy, giận dữ mà chúng ta không tiếp tục nữa là chúng ta đă ngừng lại công đức, đă không đi đúng con đường của Phật pháp. Phật được xưng tụng là lưỡng túc tôn, phước và huệ là vô biên. Đi trên con đường của Ngài, chúng ta cũng phải đi đến vô cùng, làm việc ǵ cũng phải làm đến viên măn, đến không c̣n giới hạn.
Ví dụ, có một người làm việc trong Hội từ thiện. Do bất đồng, gây gổ với các hội viên, người đó không làm nữa. Điều này cũng có Nhân quả ở kiếp sau. Ứng với thời gian làm việc từ thiện, người ấy được hưởng một đoạn đời vinh quang, sung sướng. Sau đó, tự nhiên tất cả sụp đổ, họ trở lại làm một người nghèo khổ b́nh thường. Điều này ứng với thời gian người ấy giận dữ, bỏ ngang không làm việc thiện nữa. Bởi khi bỏ việc giữa chừng, họ đă gây ra không ít khó khăn cho người khác. Những ǵ họ làm quen, mọi người phải vất vả làm lại từ đầu.
Có một Phật tử làm trong ban hộ tự cho một ngôi chùa nhỏ tại một vùng quê. Một lần, v́ căi cọ bất đồng với mọi người, anh ta không đến chùa, không lo cho chùa nữa. Thấy vậy, có người khuyên anh không nên xử sự như thế. V́ nếu anh sân, bỏ công việc của chùa th́ kiếp sau sự nghiệp của anh đang thành công nửa đường sẽ bị găy đổ. Người Phật tử phải biết nhẫn nhục để thực hiện trọn vẹn công đức của ḿnh.
Trong quá tŕnh làm phước, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi. Bởi vậy, người làm công đức phải bền tâm, kiên tŕ. Nhiều khi chúng ta muốn làm phước nhưng có rất nhiều khó khăn trở ngại. Trong đó có cả sự công kích chống đối, hạ nhục của người khác. Nhưng như đă xác định từ đầu, chúng ta không coi trọng danh dự bản thân mà chỉ coi trọng lợi ích của người khác. Do đó, dù gặp trở ngại, ta vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng, vượt qua để làm trọn vẹn công đức mà ḿnh đang theo đuổi.
Việc giảng pháp cũng vậy. Mặc dù những điều được giảng đều có ích cho người nghe, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi. Có khi chúng ta gặp sự chống đối quyết liệt của người khác. Thậm chí, có người c̣n t́m ra đủ âm mưu, kế hoạch để ngăn cản. Tất nhiên, cũng có người bênh vực, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải chịu đựng để tiếp tục giảng. Bởi chúng ta biết rằng, những người nghe giảng sẽ được lợi ích, sẽ tiến bộ. Trừ trường hợp cái duyên hoàn toàn không thuận lợi, chúng ta có thể tạm ngưng, đừng bao giờ v́ tự ái mà bỏ công việc nửa chừng.
Lúc nào cũng vậy, để theo đuổi công đức, chúng ta phải rất bền tâm, vững chí, không được yếu đuối. Nói rằng người hay nổi sân là người yếu đuối, chính là như vậy. Một khi đă yếu đuối, chúng ta sẽ không làm được công đức lâu dài.
Thật ra, mức độ nguy hiểm của việc nổi nóng không lớn. Nhưng về mặt nhân quả, sự nóng giận của chúng ta sẽ làm mất niềm tin nơi Phật tử, khiến họ bất măn. Có những Phật tử rất khắc khe trong việc đánh giá, luôn đ̣i hỏi chúng ta phải có đạo đức vững chắc. Nếu lúc nào đó, t́nh cờ nghe chúng ta nổi giận căi nhau, những Phật tử dễ dăi chỉ than phiền, nhưng những người khắc khe sẽ mất niềm tin và dần dần không đến chùa nữa.
Có một chuyện đơn giản thôi nhưng v́ không biết kiềm chế nên người tu chúng ta đă làm mất niềm tin và sự kính trọng của Phật tử. Đó là chuyện hai Thầy ở chung một cái cốc v́ một chuyện nhỏ đă nổi sân. Một người rất thích đọc sách, lúc rảnh rỗi thường mượn sách người kia đọc. Một hôm, phát hiện trong tủ, ngoài kinh Phật c̣n có một vài cuốn tiểu thuyết, nghĩ rằng người kia không đọc nên người này đă tự ư đem những cuốn sách ấy ra nhóm lửa. Người kia về giận dữ, người này cũng bực bội, nổi sân và gằn giọng: “ Tôi không đọc sách của thầy nữa”. Ngay lúc đó, một cư sĩ đứng gần chứng kiến được sự việc nên rất bất măn. Từ đó, ông không bao giờ đến cốc nữa.
Chính v́ vậy, v́ thương yêu chúng sinh, để giữ tín tâm và sự tinh tấn cho họ, chúng ta phải cố gắng giữ b́nh tĩnh, không được nổi sân dù trong bất kỳ t́nh huống nào
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 130 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
4. NGUYÊN NHÂN:
Có nhiều nguyên nhân làm nảy sinh tâm lư nóng nảy:
Nguyên nhân chính là do chấp ngă nặng. Cái ǵ chạm đến bản ngă của ta, đều làm ta khó chịu và dễ nổi sân.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là do tâm kiêu mạn. Kiêu mạn luôn luôn gây ra nóng nảy.
Nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là do nhiệt t́nh làm điều tốt, nhiệt t́nh bảo vệ điều thiện. Những người nhiệt t́nh làm điều tốt, bảo vệ điều thiện cũng dễ có thái độ nóng nảy.
Chẳng hạn, v́ nhiệt t́nh bảo vệ môi trường, ủng hộ việc bảo vệ rừng nên khi nghe tin có nạn phá rừng, chúng ta sẽ rất căm phẫn, căm phẫn những người đang tiêu diệt sự sống của trái đất. Hoặc nghe chuyện người ta đi săn cá voi, chúng ta cũng nổi giận. V́ cá voi là một loài linh vật, có trí tuệ rất ḱ diệu mà đúng ra con người phải bảo vệ.
Có lúc, chúng ta tỏ thái độ bất b́nh, khinh bỉ khi nh́n thấy những người giàu có, sang trọng ngồi trên xe hơi mà vứt rác bừa băi xuống đường một cách thiếu văn hóa… Đó là trạng thái sân xảy ra do nhiệt t́nh bảo vệ cái tốt.
Chúng ta phải có ư thức giữ văn hóa, văn minh tối thiểu khi ra đường: không vứt rác bừa băi; gặp đèn xanh, đèn đỏ, phải dừng lại nơi vạch trắng, không được vượt qua….Những người tu hành tỏ ra sốt ruột, đứng vượt qua vạch trắng trong khi chờ đèn đỏ hoặc vứt rác bừa băi khi ra đường sẽ khiến người ta nghi ngờ về Giới luật. Đó là người không giữ kỷ cương, nề nếp. Những việc đó tuy nhỏ nhưng thuộc về văn hoá, chúng ta phải luôn có ư thức giữ ǵn.
Một ví dụ khác, trong chùa, một người được phân công làm hương đăng, dọn dẹp chánh điện, lau quét tượng Phật. Để biểu lộ ḷng tôn kính Đức Phật, lúc nào người ấy cũng lau quét rất sạch sẽ; chăm hoa, thắp hương ,thắp đèn… cẩn thận. Nhưng một hôm, một Huynh đệ vô ư băng ngang qua chánh điện và để lại những vết chân bẩn. Dù có tâm rất tốt nhưng người ấy vẫn giận sôi lên. Đó cũng là trường hợp nổi nóng do nhiệt t́nh làm điều tốt.
Hoặc có khi chứng kiến cảnh người khác chửi mắng Thầy, chúng ta không chịu nổi liền phản ứng lại một cách gay gắt. Bởi Thầy là người có đạo hạnh, nuôi dạy chúng ta từng li từng tí. Đối với cuộc đời chúng ta, ngoài cha mẹ ra, Thầy là tất cả. V́ ḷng tôn kính Thầy, chúng ta làm như vậy để bảo vệ Thầy là việc làm đúng đắn. Nhưng không biết kiềm chế, để nổi giận là chúng ta đă bị sân chi phối.
Như vậy, người tu chúng ta cần phải khéo léo tách rời sân và sự nhiệt t́nh. Rất nhiệt t́nh làm điều thiện, rất nhiệt t́nh bảo vệ điều tốt nhưng chúng ta không được nổi sân. Đây là điều rất khó mà chúng ta phải cố gắng thực hiện cho bằng được.
Để làm được điều đó, chúng ta phải xác định cái sân ấy có nguồn gốc từ đâu. Phải chăng, nó xuất phát từ chỗ chúng ta ghét người ác, người xấu, người bất thiện? Hiểu được nguồn gốc gây nên sân, trong từng trường hợp chúng ta sẽ có những cách ứng xử đúng mực.
Chẳng hạn, v́ thiết tha trong việc bảo vệ rừng cho trái đất này nên chúng ta phạm một lỗi là căm ghét những người phá rừng. Ở đây, cần phải tách hai thái độ này ra. Nghĩa là chúng ta rất nhiệt t́nh bảo vệ rừng nhưng nguyện không c̣n ghét họ nữa. Nếu có dịp, chúng ta phải lên tiếng để bảo vệ rừng. Đối với những người si mê không biết tội phước, tiếp tục phá rừng th́ chúng ta xót thương cho họ, v́ họ đă làm điều lầm lỗi.
Vấn đề giết cá voi cũng vậy. Rất nhiệt t́nh bảo vệ loài cá voi, chúng ta lên tiếng nói, nhưng trong thâm tâm, chúng ta không giận, không ghét người giết cá voi mà thương xót cho họ…
Khi nh́n thấy người khác xả rác bừa băi ngoài đường phố, chúng ta nhiệt t́nh bảo vệ văn minh đường phố nhưng không giận ghét, cũng không tỏ ra khinh bỉ. Những thái độ khinh bỉ, hay giận ghét đều làm cho chúng ta rơi vào bất thiện pháp.
Truờng hợp lau dọn chánh điện mà Huynh đệ ḿnh để vài vết chân bẩn lên đó th́ chúng ta nên nhiệt t́nh, lấy khăn lau lại. Đối với những người xúc phạm đến Đức Phật, đến những bậc Thầy tôn kính, chúng ta nên nhớ một điều: Nếu Phật c̣n tại thế, người ta chửi trước mặt Ngài, Ngài cũng không giận. Thầy chúng ta cũng vậy, chắc chắn Người cũng không giận khi bị xúc phạm. Vậy tại sao chúng ta lại giận? Bởi vậy, chúng ta cũng không nên giận dữ, chỉ xót xa cho người không biết đă xúc phạm bậc tu hành chân chính mà thôi.
Có một Thầy trưởng chúng luôn theo công thức riêng của ông như hai với hai là bốn vậy. Ông quan niệm: “Hễ c̣n sân tức là c̣n si mê”. Mà với ông, si mê đồng nghĩa với tham ái. Bởi vậy, lúc nào ông cũng cảnh giác chúng về mặt này. Ông thường thử xem quư thầy c̣n nổi sân hay không bằng cách kích động, chửi mắng. Người nào bị ông kích động mà nổi sân là ông kết luận người ấy c̣n tham ái. Chuyện nghe có vẻ lạ nhưng đó cũng là cách để chúng ta cảnh giác, ai c̣n hay nổi sân phải cẩn thận.
Một nguyên nhân khác làm cho ḿnh nóng nảy là Nhân quả chê bai, chỉ trích người nóng tính. Trước đây, chúng ta tự hào ḿnh tu hành chững chạc, trầm tĩnh nên thường chê bai người nóng tính. Chúng ta biết rằng, theo Nhân quả, nếu chê bai, chỉ trích người, chúng ta sẽ bị quả báo phạm đúng những điều đó. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ trở thành người nóng nảy. Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta đừng bao giờ chỉ trích lỗi của người khác. Nếu biết người khác có lỗi, chúng ta chỉ nghĩ đến ḷng thương xót mà thôi. V́ những điều chúng ta chê bai, coi thường ấy sẽ trở lại với chính ḿnh.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 131 of 349: Đă gửi: 03 February 2005 lúc 8:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
5. TU TẬP:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự nóng nảy. Mỗi người chúng ta phải xem ḿnh rơi vào nguyên nhân nào để t́m cách khắc phục.
a.Trường hợp tâm dễ xao động, dễ mất b́nh tĩnh:
Chúng ta phải tập tọa thiền, kiểm soát tâm, giữ tâm yên tĩnh từng giây, từng phút.
Khi ngồi thiềøn, chúng ta tập kiểm soát tâm, lúc nào cũng theo dơi kiểm soát tâm ḿnh. Và khi bước vào giai đoạn kiểm soát tâm, trong cuộc sống, làm bất cứ việc ǵ chúng ta cũng chỉ biết có tâm thôi. Đó là thiền định. Đây là điều rất lạ, lúc ấy chúng ta không c̣n để ư tới công việc mà chỉ để ư tới tâm ḿnh, nhưng công việc lại tự nhiên suôn sẻ.
Khi phá được năm triền cái , sắp đạt được sơ thiền th́ sân sẽ mất. Như vậy, tâm chúng ta dễ nhẫn nhục, không c̣n nổi nóng nữa. Sau này, đến môn thực tập thiền quán, chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn vấn đề này.
b.Trường hợp tâm kiêu mạn:
Chúng ta phải tu tập hạnh khiêm hạ, lúc nào cũng xem ḿnh như cỏ rác, như cát bụi. Cần lưu ư nhất là khi chúng ta bắt đầu thành công, có quyền chức, địa vị, được nhiều người tôn kính. Đó chính là lúc tâm kiêu mạn xuất hiện, chúng ta dễ rơi vào bẫy nổi sân.
Thông thường, khi có nhiều người tôn trọng, nhiều người vâng lời, ca ngợi, chúng ta cảm thấy ḿnh là người quan trọng, lời nói của ḿnh là chân lư, và lúc đó ai nói ngược lại ư ḿnh, ḿnh sẽ nổi sân. Như vậy, chúng ta đă trở nên kiêu mạn. Thử nghĩ, chúng ta đang là biểu tượng của Đạo đức, của sự từ bi, nhẫn nhục, trầm tĩnh, bây giờ tự nhiên nổi sân, người ngoài sẽ đánh giá như thế nào. Đây là điều rất đáng lo sợ. Mỗi người chúng ta phải có ư thức tu tập tâm khiêm hạ để góp phần diệt trừ sân hận.
b. Trường hợp do nhiệt t́nh với điều thiện:
V́ nhiệt t́nh với điều thiện, chúng ta trở nên nóng nảy, nhưng dù nóng nảy, cũng phải tiếp tục làm điều thiện. Nhiều điều thiện sẽ tạo nên phước để chúng ta tăng trưởng đức hạnh. Điều quan trọng là phải cố gắng tách riêng nhiệt t́nh và nóng nảy . Rất năng nổ làm điều thiện, bảo vệ điều thiện, nhưng chúng ta phải trầm tĩnh khi công việc không dược suôn sẻ hoặc bị người khác chống đối, không ghét bỏ người làm điều lầm lỗi.
c. Trường hợp do nhân quả khen chê:
Khi đă cố gắng sửa đổi mà vẫn không hết nóng nảy, chúng ta phải nghĩ là đời trước ḿnh đă từng chê ai đó nóng nảy. Bây giờ, chúng ta phải làm ngược lại , nghĩa là phải biết khen ngợi những người trầm tĩnh.
Trong mười hạnh Phổ Hiền có câu: “Nhất giả lễ kính chư Phật, nhị giả xưng tán Như Lai”. Xưng tán Như Lai là ca ngợi Đức Phật, cũng có thể hiểu là ca ngợi các bậc Thánh. Khi ca ngợi tất cả ưu điểm của các Ngài, dần dần chúng ta sẽ có những ưu điểm đó. Nhân quả là vậy. Cho nên, chúng ta phải biết lợi dụng nhân quả để rèn luyện đức hạnh, vượt qua những sai lầm của ḿnh, ở đây là vượt qua cái sân.
Đối với những người nóng tính, chúng ta cũng không chê bai hay chỉ trích mà trong thâm sâu, chúng ta âm thầm cầu nguyện cho họ được trầm tĩnh lại. Khi chúng ta cầu nguyện như vậy, họ sẽ được tốt âm thầm trong tâm linh, và dần dần trầm tĩnh. Nhưng điều tuyệt vời là có khi người ta chưa trầm tĩnh, chúng ta đă đạt điều đó trước họ. Đó là Nhân quả. Khi muốn người khác làm điều tốt và cầu nguyện điều tốt cho người khác th́ tự nhiên chính chúng ta đă được hưởng điều tốt đó.
e. Trường hợp lỡ nổi sân, phải thành tâm sám hối trước đại chúng. Khi lỡ nổi nóng, chúng ta phải ra trước đại chúng mà sám hối. Có như vậy, chúng ta mới dừng lại được, không tiếp tục phạm lỗi nữa.
Có câu chuyện về một bậc chân tu mà chúng ta cần phải học hỏi. Người đó thật tuyệt vời, đức hạnh như một bậc Thánh. Quanh năm, suốt tháng người ta thấy ông chẳng bao giờ lầm lỗi hay phiền năo điều ǵ. Một lần, sau khi cùng làm việc với các Huynh đệ, buổi trưa ông y áo ra quả đường đảnh lễ đại chúng xin sám hối. Ai cũng ngạc nhiên không hiểu chuyện ǵ. Th́ ra, trong lúc làm việc có chuyện trái ư, trong ḷng ông nổi sân lên. Tất nhiên, không ai biết ông nổi sân, v́ không bao giờ ông lộ ra vẻ mặt bên ngoài. Như vậy, dù không nói điều ǵ nặng nề, không có cử chỉ ǵ không phải với ai, chỉ là cái sân tự ḿnh biết thôi nhưng ông vẫn xem là cái lỗi phải sám hối với đại chúng. Con người như vậy thật đáng khâm phục.
Nếu biết sám hối, biết đem lỗi của ḿnh ra phát lồ trước đại chúng, ta sẽ không phạm lỗi nữa. Như vậy chúng ta sẽ vượt qua được những tập khí, những cái nghiệp của ḿnh. Công đức phát lồ trước đại chúng là công đức rất lớn. Bởi vậy, chúng ta phải nhớ, mỗi khi nổi sân, chúng ta nên ra quả đường sám hối đại chúng. Nhờ vậy, chúng ta sẽ dứt được tập khí sân.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 132 of 349: Đă gửi: 04 February 2005 lúc 2:21am | Đă lưu IP
|
|
|
ông thật vất vả! ông ngồi gơ trên bàn fím à? thế công phu lắm. Hoằng dương Phật Pháp!
nhân tiện cho fép "hỏi ngang" ngocai: Thầy Chơn Quang tu chùa nào? anh ngocai điệp lâu chưa?
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 04 February 2005 lúc 5:15am
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 133 of 349: Đă gửi: 04 February 2005 lúc 5:34am | Đă lưu IP
|
|
|
Anh không định thử tôi đấy chứ!
Thầy Thích Chân Quang (hay Chơn Quang cũng được) ở tại Chùa Phật Quang- Vũng Tàu. Tôi c̣n giữ cả lá số của thầy, nếu anh thích tôi sẽ gửi tham khảo. Một lá số đặc biệt đấy!
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 134 of 349: Đă gửi: 04 February 2005 lúc 5:47am | Đă lưu IP
|
|
|
Anh cho tôi xin lá số của Thầy, tiếc Thầy ở Vũng Tàu, xa.
Thầy Chơn Quang trụ tŕ chùa Phật Quang Tự th́ tương ưng vô cùng (xin đừng cho tôi hỗn).
Chắc Thầy tuổi gần thanh niên mới xuất gia?
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 135 of 349: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 4:51am | Đă lưu IP
|
|
|
TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC 7
HẠNH CHÂN THẬT
1. ĐỊNH NGHĨA:
Chân thật là không nói dối. Trước khi hiểu v́ sao phải chân thật, chúng ta nên t́m hiểu qua việc nói dối.
Nói dối vốn là vấn đề liên quan đến giới. Khi thọ năm giới Cư sĩ, chúng ta được căn dặn không được nói dối. Sau đó, khi thọ Sa di mười giới, chúng ta cũng đuợc răn dạy không được nói dối. Đến lúc thọ Tỳ kheo, giới nói dối được chia làm hai: giới trọng và giới khinh.
Giới trọng là giới nói dối xưng ḿnh đă đắc đạo trong khi sự thật ḿnh chưa đắc đạo. Mặc dù người nói dối biết rất rơ điều đó nhưng họ vẫn cố ư. Đó là giới cực trọng và người phạm giới ấy sẽ mang tội cực ác, khi chết sẽ đoạ ác đạo. Đó c̣n gọi là giới Ba La Di.
Giới khinh là giới nói dối ở mức độ nhẹ hơn, tội không nặng lắm. Nhưng xét về Đạo đức, tâm thích nói dối là tâm bất thiện làm chúng ta khó tu, tâm không thể vào định được. Bởi vậy, nếu xét trên Giới luật, giới khinh được tính theo tội phước và là một sự ngăn cấm, nhưng về Đạo đức, đó cũng là một sự thương tổn nghiêm trọng.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 136 of 349: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 5:00am | Đă lưu IP
|
|
|
Trong bốn giới trọng của Tỳ Kheo, các giới tuy nặng nhưng không bằng giới nói dối xưng ḿnh đắc đạo. V́ khi chưa đắc đạo, kiến giải của chúng ta c̣n nông cạn, hiểu biết chân lư c̣n kém. Nếu có người v́ tin tưởng sự tuyên bố của chúng ta để theo học hỏi, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều đạo lư lư vi diệu mà chúng ta không hiểu, hoặc hiểu sai, hoặc hiểu không hết. Thế rồi chúng ta giải thích sai, hướng dẫn sai, đưa người đi vào nguy hiểm. Hậu quả thật là khôn lường.
Đó là chưa kể đến những người v́ tham vọng khát khao danh lợi phù ảo, muốn được mọi người tôn kính. Người đó biết rơ ḿnh không đắc đạo, nhưng vẫn nói dối, vẫn xưng ḿnh đắc đạo. Không thể chấp nhận người đi t́m vinh quang bản thân bằng cách đó. Mặt khác, khi nói dối, họ đă gieo rắc những tà kiến sai lầm cho người khác khi giải thích bừa băi nhiều vấn đề đạo lư. Những người có tham vọng như vậy thường không xứng đáng là người tu theo đạo Phật v́ người theo đạo Phật bao giờ cũng hướng đến sự giải thoát, từ bỏ tất cả những ham muốn riêng, ngay đến bản ngă của ḿnh.
Có lẽ chúng ta c̣n nhớ câu chuyện Ông già Chồn với ngài Bá Trượng. Chuyện kể rằng, có một ông già hay vào nghe ngài Bá Trượng giảng pháp ở pháp đường. Một lần, sau khi nghe giảng xong, ông già vẫn không chịu đi. Ngài Bá Trượng nghĩ đây là một người không b́nh thường, bèn hỏi: “Ông là ai”’? Ông già trả lời: “Bạch Hoà thượng, con không phải là người . Con là con chồn ở sau núi. Năm trăm đời trước, đời Đức Phật Ca Diếp, con là một vị tăng tu hành. Một hôm, có người hỏi con: “Người đă đắc đạo có c̣n bị luật Nhân Quả chi phối hay không?”. Con trả lời: “Không”. Thế là từ đó con bị đoạ làm thân chồn năm trăm kiếp mà không biết ḿnh phạm lỗi ǵ. Nay con mong Hoà thượng cho con một lời giải thích để con hiểu ra sự thật mà thoát được thân chồn này. Ngài Bá Trượng nói:“Ông hỏi lại ta”. Ông già trịnh trọng hỏi: “Bạch Hoà thượng, người đắc đạo có c̣n bị luật Nhân Quả chi phối không?”. Ngài Bá Trượng trả lời: “ Người đắc đạo không c̣n hiểu sai về luật Nhân Quả nữa (nghĩa là hiểu rất sâu sắc về nhân quả)”. Nghe vậy, ông già đại ngộ ngay. Ông nói với ngài Bá Trượng: “ Vậy là con thoát được thân chồn, xin Hoà Thượng lấy nghi thức dành cho Tăng mà tống táng cho con”. Nói xong, ông ǵa biến mất.
Trưa hôm đó, ngài Bá Trượng họp chúng lại để thông báo chuẩn bị làm lễ tang cho một vị Tăng. Mọi người rất ngạc nhiên v́ trong chùa không có ai vừa qua đời cả. Ngài bảo mọi người đi theo ḿnh. Ṿng ra sau núi, đến một cái hang, họ thấy một con chồn đang phơi xác, bèn mang về thiêu và tống táng đàng hoàng như một vị Tăng.
Chúng ta thấy, trong trường hợp này, ông già Chồn không phải là người nói dối, xưng ḿnh đắc đạo. Chỉ v́ hiểu sai, trả lời thiếu cân nhắc mà ông bị rơi vào tà kiến nặng và bị đọa làm thân chồn. Như vậy, nếu không phải là người đắc đạo mà tự xem ḿnh đă đắc đạo, giải thích giáo lư sai lệch, chắc chắn chúng ta sẽ đọa ác đạo nặng hơn. Người tu hành nếu để điều ấy xảy ra thật quá đau ḷng.
Ngày xưa, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn khỏang mấy trăm năm, có một vị Tỳ kheo tên là Mahadeva (Đại thiên) chỉ mới tu được một thời gian đă tuyên bố với mọi người rằng ông đă chứng A La Hán. Nghe vậy, nhiều người cũng tin. Nhưng những người gần gũi với ông nhận thấy ông c̣n nhiều sơ hở trong cuộc sống. Có người hỏi: “ Thưa thầy, tại sao bậc A La Hán c̣n có những sơ hở như vậy ?”( có 5 điều, ở đây không tiện tŕnh bày ). Ông trả lời: “Đúng, A La Hán vẫn c̣n năm điều sơ hở như vậy”. Thế là từ đó, theo cách trả lời của ông ta, trong giới tu sĩ xuất hiện một lối hiểu mới: A La Hán c̣n có những điều hạn chế, những sơ hở trong cuộc sống. Cũng v́ thế mà phát sinh lư luận Đại thừa. Lư luận này coi thường quả vị A La Hán, ca ngợi Bồ Tát đạo, tu để thành Phật. Về sau, quan điểm đó xuất hiện trong các kinh. Gần đây, khi học giáo lư của đạo Phật, chúng ta thấy có việc chia ra các Thừa. Trong đó, Thanh Văn thừa- A La Hán không được tôn trọng. Thời Đức Phật, A La Hán lại được tôn vinh ngang hàng với Phật. Như vậy, có những trường hợp do hiểu nông cạn, giải thích không đúng, một số người đă gây nên sự chia rẽ, hiểu sai về đạo Phật.
Thời gian gần đây, trong một số luận bản, chúng ta gặp nhiều giáo lư không được chuẩn nhưng lại được ngợi ca như là giáo lư cao siêu của đạo Phật. Thậm chí, có người hạ thấp giá trị chứng ngộ của Phật xuống mức ngang bằng một triết gia. Họ cho rằng, Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề chứng đạo chỉ là ngồi suy nghĩ. Hiểu về Đức Phật như vậy quả thật rất hời hợt. Cách hiểu này khiến cho nhiều người khi nghiên cứu về đạo Phật cũng nghĩ là đạo Phật nông cạn. Đó là những tà kiến thật tai hại. Hiểu sai như vậy, nếu không có những phước đức khác kiềm chế, chính bản thân họ phải chịu quả báo rất nặng và c̣n góp phần làm cho đạo Phật chóng suy tàn.
Trên thế giới, trường hợp nói dối xưng ḿnh đắc đạo không chỉ có một hay hai mà tồn tại rất nhiều. Trường hợp giáo chủ Sokohara bên Nhật lập ra đạo Om là một ví dụ. Ông tự xưng là người chứng ngộ trong đạo Phật, dựng lên một đạo lai giữa Thiền tông của đạo Phật với một thần đạo nào đó. Vậy mà vẫn có sức cuốn hút được rất nhiều tín đồ, kể cả những trí thức. Nhiều Tiến sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư…. đă theo đạo ấy. Sự thật, ông ta không phải là người tu hành chân chính. Tham vọng của ông là muốn chiếm quyền lực ở nước Nhật. Bởi vậy, ông ta đă tích luỹ vũ khí hoá học, sinh học, tích luỹ những hơi độc.... Khi bị phát hiện, ông ta đă rải hơi độc trong đường xe điện ngầm làm chết và bị thương rất nhiều người. Chúng ta đừng nghĩ những người học cao, hiểu rộng sẽ có trí tuệ phân biệt được đúng sai. Không hẳn là như vậy.
Qua trường hợp đó, chúng ta có thể rút ra một điều. Một khi con người cảm thấy thiếu những giá trị tinh thần, họ sẽ khát khao điều đó vô cùng. Bởi vậy, khi có đối tượng nào đáp ứng được nhu cầu của họ về mặt tinh thầnï, về tâm linh, người ta sẽ không ngần ngại mà đi theo. Xă hội Nhật văn minh, giàu có, vật chất thừa thải nhưng đạo Phật tại đó không đủ uy đức chỗ nương tựa cho quần chúng. V́ thế, khi ông ta lập ra một đạo mới nói về tâm linh, người dân dễ dàng bị thu hút. Họ không ngờ đó là tà đạo.
Ở phương Tây cũng vậy, không ít người đă nói dối xưng ḿnh là sứ giả, là con của Đức Chúa Trời vào lập ra những giáo phái mới. Họ cũng làm nhiều chuyện sai trái trong giáo phái của ḿnh. Họ đâu phải là một vị Thánh thật sự. Chúa Jêsus là người có bản lĩnh rất tuyệt vời nên Ngài tuyên bố xác quyết ḿnh là con của Đức Chúa Trời. Nhiều người không có bản lĩnh cũng xưng như vậy. Do đó, họ làm những chuyện sai trái trong giáo phái của ḿnh. Khi bị cảnh sát phát hiện, bao vây th́ trong nhà thờ, họ giết tất cả các tín đồ, rồi tự tử. Thật đau ḷng khi trong thực tế đă xảy ra những chuyện như vậy.
Có những giáo phái rất ḱ lạ như Cổng Thiên đường ở Texas. Họ dựa vào kiến thức khoa học về người ngoài hành tinh, rủ nhau mặc quần áo đàng hoàng rồi cùng tự tử để linh hồn được theo đĩa bay hay sao chổi nào đó về hành tinh khác sống một cuộc đời b́nh an hơn. Đó là những tư tưởng rất ḱ quái, thiếu cơ sở nhưng vẫn có rất nhiều người, kể cả những người có tŕnh độ tin theo. Như vậy, chúng ta nghiệm ra một điều rằng, học vấn ngoài đời không đủ sức giúp con người thoát khỏi tà kiến.V́ vậy, mặc dù rất cần kiến thức, vẫn phải học không ngừng, học cả tiếng Anh, tiếng Hoa cho thật giỏi, phải hiểu biết một số kiến thức về khoa học.v.v… nhưng chúng ta đừng bao giờ nghĩ những kiến thức ấy là chỗ dựa để ḿnh sống và tu hành. Chính Đạo đức, Thiền định, Nhân quả… mới là những yếu tố giúp chúng ta đứng vững trong chánh kiến.
Những người phạm vào giới đại vọng ngữ đó, tội rất nặng.V́ họ đă lợi dụng, đă hưởng thụ sự tôn kính của người khác trong khi ḿnh hoàn toàn không xứng đáng. Do đó, theo luật Nhân Quả, sau này họ sẽ ở vào những vị trí rất hèn hạ, ở dưới đáy địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 137 of 349: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 5:03am | Đă lưu IP
|
|
|
Giới khinh là giới nói dối nhẹ nhàng, b́nh thường hơn. Nhưng đó cũng là một biểu hiện của tâm bất thiện. Chúng ta biết rằng, muốn nhiếp tâm vào trong định, con người cần có nhiều yếu tố. Nó đ̣i hỏi phước quá khứ và cả một Đạo đức rất sâu dày. Những tâm từ bi, tâm khiêm hạ phải được huân tập thật vững chắc, pháp môn tu phải thật đúng, thật căn bản.
Tuy nhiên, ngoài những yếu tố đó, chúng ta phải chú ư đến một yếu tố quan trọng nữa là tâm chân thật. Người chân thật là người dám nh́n thẳng sự thật. Họ khách quan đi t́m sự thật nên dám nh́n nhận lỗi lầm của ḿnh. Từ đó, họ nh́n thẳng vào tâm ḿnh để phê phán đúng hay sai, động hay tĩnh một cách khách quan.
Người sống không chân thật thường có biểu hiện bênh vực ḿnh khi có lỗi. Chẳng hạn, khi nấu cơm, một người do sơ ư hoặc không có kinh nghiệm đă để cơm vừa sống, vừa cháy khét. Người đó đă biệân minh cho ḿnh bằng cách đổ lỗi cho khách quan: nào do nước, do gạo, do củi…. Những người ấy thường không dám nh́n nhận sự thật mà luôn bào chữa cho những sai lầm của ḿnh.
Có những trường hợp, trong tâm người ta đang bênh vực chính ḿnh, không nh́n nhận lỗi nhưng không biểu hiện ra bên ngoài. Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những người hay căi khi giận dữ. Nếu là người chân thật, họ sẽ nhận ra ḿnh đang bị sân và t́m cách vượt qua. Người không chân thật sẽ không bao giờ nhận ra điều đó mà luôn đổ lỗi cho người khác (cho rằng v́ người ta ngang bướng, người ta xúc phạm nên ḿnh nổi giận…). Người luôn biện minh cho ḿnh là người không chân thật. Người như vậy không thể tu lâu dài được.
Do dám nh́n sự thật, dám nhận lỗi của ḿnh, người chân thật dần dần kiểm soát được tâm ḿnh, tăng trưởng được đạo đức. Tâm chân thật và tâm thiện thường đi đôi với nhau. Người làm việc thiện không có điều ǵ phải che giấu hay dối trá. Họ làm ǵ việc ǵ cũng kiểm soát, cân nhắc phải trái, đúng sai.
Người chân thật thường làm việc đúng, việc thiện. Khi có lỗi, người ta biết lỗi của ḿnh và nếu được ai chỉ lỗi, họ thành thật nhận ngay. Người không nói dối cũng không bao giờ muốn làm điều ác. Cho nên, nói tâm chân thật và tâm thiện đi đôi với nhau là vậy.
Người nói dối là người không nói đúng sự thật. Nếu người nói thật, việc xảy ra như thế nào, họ tŕnh bày như thế ấy và luôn cảm thấy tâm thanh thản, th́ ngược lại, người nói dối phải tác ư, phải khởi tâm, dựng chuyện cho hợp lư và cố ghi nhớ để lần khác không nói sai đi. Chính v́ vậy, tâm của họ rất mệt mỏi. Đó cũng là lư do khiến tâm không vào định được. Tâm vào định là tâm không khởi vọng tưởng. Trong khi đó, người nói dối luôn phải đặt điều, phải khởi ư, tưởng tượng nên vọng tưởng sẽ khởi măi. Như vậy, con đường tu của người ấy không bền.
Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln, người đă đấu tranh xoá bỏ được chế độ nô lệ ở Mỹ từng nói một câu rất chí lí : Ta có thể lừa dối một người trong một lúc nào đó, ta có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người măi măi. Sở dĩ ông nói như vậy v́ ông quan niệm rằng: Chân lư có sức mạnh, sự thật có sức mạnh, cuối cùng rồi nó cũng phơi bày. V́ vậy, cái hay nhất của con người là sống trên đời biết làm việc lớn th́ đừng làm điều gian dối. Một vị Tổng thống mà hiểu được như vậy và lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hành động của ḿnh là điều rất quí. Con người ấy sẽ sống rất chân thật, làm chính trị mà không bao giờ sử dụng thủ đoạn.
Trong tiểu sử của Washington, vị Tổng thống Mỹ đầu tiên, có ghi một câu khiến nhiều người rất ngạc nhiên:“Ông suốt đời không hề nói dối”. Đối với chúng ta, những người tu hành hiểu đạo, việc không nói dối hay ít nói dối cũng là điều dễ hiểu. Nhưng là Tổng thống, lại là Tổng thống nổi tiếng của một cường quốc, luôn phải đối phó với những t́nh huống éo le trên chính trường phức tạp mà không hề nói dối là điều rất đáng ngạc nhiên và cảm phục. Những người ấy phải đạt đạo đức sâu dày đến mức nào mới có thể sống được như thế.
Chúng ta thấy rằng, những bậc vĩ nhân thường sống rất chất chân thật. Càng có vị trí cao trong xă hội, người ta càng ư thức trong việc giữ chữ tín. Tại sao như vậy? V́ họ hiểu rằng, sự thật có sức mạnh rất lạ kỳ. Dù bị che đậy, cuối cùng sự thật cũng vẫn là sự thật. Nếu v́ một chút lợi danh nào đó mà nói dối, khi bị người đời phanh phui ra ánh sáng, uy tín của họ sẽ không c̣n nữa. V́ vậy, tốt nhất là nên sống đời chân thật.
Vậy, người ta thường nói dối v́ mục đích ǵ ?
Phần lớn, người ta nói dối v́ hai mục đích: v́ lợi ích của ḿnh và vu khống để hại người.
Nói dối để làm lợi cho ḿnh thường có nhiều t́nh huống. Chẳng hạn, nói dối để che đậy tội lỗi của ḿnh (v́ không muốn người khác xem thường, hoặc để ḿnh không bị trừng phạt), nói dối để lừa gạt nhau, lấy tiền bạc, của cải, hoặc học tṛ nói dối thầy cô rằng ba mẹ ḿnh bị ốm để được nghỉ học …
Với những người tu hành, nói dối thường nhằm mục đích rất đơn giản: che đậy lỗi lầm của ḿnh. C̣n với người đời, sự nói dối phức tạp hơn, nguy hiểm hơn. Người ta nói dối chủ yếu v́ lợi cho ḿnh. Có trường hợp v́ ghét ai đó, họ nói xấu để người khác cùng ghét. Ông bà ta thường nói: Khi thương, thương hết cả nhà. Khi ghét lại mượn người ta ghét giùm là như vậy. Đây cũng là một loại nói dối để hại người khác. Có trường hợp nói dối c̣n nặng hơn nhiều. Đó là nói dối để vu khống hại người khiến cho người khác bị bắt, bị tù đày hoặc bị trả giá bằng cả mạng sống v.v… Như vậy, người nói dối là người có tâm rất ác độc.
Câu chuyện về một Sư cô quản chúng cũng đáng để chúng ta suy nghĩ. Trong chúng có ba mươi hai người. Một hôm, có một Phật tử đến xin cúng dường và hỏi cô trong chúng có bao nhiêu người để cúng cho đủ. Sư cô trả lời: “Ba mươi lăm người”. Khi người Phật tử về rồi, trong chúng có người hỏi: “Cô ơi ! Chúng ḿnh có ba mươi hai người sao cô nói đến ba mươi lăm?”. Sư cô giải thích:“Phương tiện mà, nói hơn ba phần, nếu có ai đến, ḿnh sẽ cho lại họ”.
Thực ra, Sư cô chẳng tham ǵ cho ḿnh, chỉ là lo xa mà thôi. Nhưng nói dối như vậy cũng làm tổn phước, không giữ được đạo đức. Nếu có khách Tăng đến, chúng ta chấp nhận san sẻ bớt phần trong chúng cho họ, không cần phải làm như thế. Từ đó, mỗi lần Sư cô lên ṭa giảng, chúng cứ nghi ngờ không biết cô nói đúng hay không. Chỉ một lần nói dối thôi, Sư cô đă làm mất niềm tin trong chúng. V́ vậy, tốt nhất là chúng ta nên sống một đời chân thật thênh thang.
Cũng có khi chúng ta nói dối để đem lại lợi ích cho người khác, nhưng trường hợp này rất hiếm. Ví dụ, có một người muốn xin vào học cơ bản Phật học. V́ thông cảm cho hoàn cảnh của họï, v́ nhiệt t́nh, chúng a2thưa với các Thầy trong Ban giám hiệu. Khi quư Thầy hỏi, chúng ta nói toàn những điều tốt về họ: nào là học giỏi, có chí, ḥan cảnh khó khăn vv…Trong khi đó, sự thật ḿnh chẳng biết rơ sức học của người ấy như thế nào. Như vậy, chúng ta đă nói dối nhưng với mục đích giúp đỡ người khác. Đó là trường hợp nói dối làm lợi cho người.
Sau này, khi dạy dỗ đệ tử hay Phật tử, chúng ta nên nhớ một nguyên tắc: Đừng v́ lợi ích của bản thân mà nói dối người khác. Chúng ta chấp nhận sự thiệt tḥi, nghiêm túc giữ ǵn uy tín, giữ đúng hạnh chân thật của người tu để cho Đạo được bền vững. Nếu sống quanh co, luồn lách, hay nói dối th́ chúng ta sẽ làm mất niềm tin nơi người khác. Người xưa có câu: Nhất sự bất tín, vạn sự bất tin. Một khi đă mất uy tín th́ ngàn việc sau dù nói đúng, người ta cũng không tin ḿnh nữa.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 138 of 349: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 5:07am | Đă lưu IP
|
|
|
2. PHÂN LỌAI :
Khi có người hỏi Phật : Bạch Thế Tôn, có phải là chúng ta luôn luôn phải nói đúng sự thật hay không? Đức Phật trả lời Không. Tại sao như vậy? Đức Phật phân ra bốn loại nói dối và nói thật.
-Một là nói thật đem lại thiện pháp cho người nghe.
-Hai là nói thật đem lại bất thiện pháp cho người nghe.
-Ba là nói dối đem lại thiện pháp cho người nghe.
-Bốn là nói dối đem lại bất thiện pháp cho người nghe.
Xét từng trường hợp, chúng ta sẽ thấy ḿnh nên nói thật và nói dối trong trường hợp nào.
Trường hợp thứ nhất: Nói thật đem lại thiện pháp cho người nghe.
Ví dụ, Chúng ta nói với mọi người rằng, trong cuộc sống có luật Nhân Quả. Đó là luật rất công b́nh, chi phối tất cả mọi suy nghĩ và hành động của ta. Người gieo Nhân nào sẽ được Quả đó. Ai bố thí sẽ được giàu sang, ai khiêm hạ sẽ được địa vị. Ai sống một đời vị tha, giàu đức hy sinh th́ sẽ được đắc đạo. Hoặc chúng ta nói với mọi người cuộc đời này là vô thường, là biến dịch, mỗi người nên sống thênh thang như lục b́nh trôi, đừng bám víu hay chạy theo danh lợi tầm thường. Nói những điều đó là chúng ta đă nói sự thật, làm cho người nghe được lợi ích, hấp thu được một đạo lư ở đời. Đó là sự nói thật mà đem lại thiện pháp.
Một ví dụ khác, Khi biết một vị Thầy, một Sư cô nào đó tu hành rất chân chính, sở đắc tâm linh, có giới hạnh nghiêm túc, chúng ta liền kể cho người khác nghe. Nếu cư sĩ được nghe những điều tốt đẹp về các vị ấy, họ sẽ tăng thêm tín tâm đối với Đạo. Đó là ta đă nói thật đem lại thiện pháp cho người nghe.
Trường hợp thứ hai: Nói thật đem lại bất thiện pháp cho người nghe. Ví du, Có hai người vốn không thích nhau. Người này nói xấu người kia, đôi khi nói rất nặng lời. Chúng ta nghe được, thật thà kể lại cho người kia nghe, không thêm bớt một lời. Người ấy giận quá, t́m gặp người kia. Hai bên nổi “xung thiên” khiến mọi người hoảng sợ. Như vậy, vô t́nh lời nói thật của chúng ta làm tăng sự chia rẽ, rạn nứt trong quan hệ giữa hai người. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm tăng sự chia rẽ, gây căm hận giữa con người với nhau trong cuộc đời. Đó là trường hợp chúng ta nói thật đem lại bất thiện pháp cho người nghe.
Thời Pháp thuộc có câu chuyện mà người ta thường kể cho nhau nghe để cười vui về sự ngây ngô, thật thà của con người. Nhưng thực ra, đó là bài học mà mọi người phải lưu ư trong việc ứng xử. Thời đó, thực dân Pháp khủng bố, lùng bắt những người theo kháng chiến rất dă man. Có người chạy vào trong nhà một người Thượng, vội vă nói : “Cho tôi trốn vào cái lu. Nếu bọn chúng tới khám xét, anh đừng có nói”. Lát sau, lính Pháp kéo đến hỏi: “Có đứa nào chạy vô đây trốn không?”. Người kia thật thà: “Không đâu! Nó trốn trong cái lu mà dặn tôi không nói ”. Lính Pháp giở nắp lu , lôi người kia ra bắn. Đó cũng là nói thật nhưng đem lại bất thiện pháp, đem lại tổn hại cho người.
Trường hợp thứ ba: Nói dối đem lại thiện pháp cho người nghe.
Ví dụ, Trong một buổi trưa, mọi người đang chỉ tịnh nằm ngủ, có một người Huynh đệ định trốn ra ngoài. Thấy vậy, chúng ta liền nói: Sư phụ đang ở ngoài đó, coi chừng bị Sư phụ phạt. Người kia sợ quá đành nằm xuống ngủ tiếp. Thực ra , chúng ta đă nói dối để người Huynh đệ của ḿnh đừng phạm thanh quy. Lời nói dối đó đem lại thiện pháp nhưng không bền. V́ trước sau Huynh ấy cũng biết sự thật và đâm ra ấm ức. Lần sau, nếu có dọa nữa, người ta cũng không sợ hoặc có khi nói thật họ cũng không tin.
C̣n nhiều trường hợp nữa cũng khiến ḿnh nói dối. Chẳng hạn, khi có người hỏi: Đạo Phật làm cho người ta đắc đạo, có thần thông, trí tuệ. Vậy đă có ai đắc đạo chưa?. V́ muốn người ta tin Đạo, theo Đạo, chúng ta không tiếc lời khi nói về đạo Phật, toàn những lời ngợi ca. Nghe chúng ta nói về đạo Phật hay quá, người kia liền quy y làm Phật tử. Sau đó, thấy những lời nói của chúng ta không hoàn toàn đúng sự thật, vẫn c̣n những người theo đạo Phật mà tham sân ganh tị, họ bất măn và bỏ đạo. Cho nên, nói dối đem lại thiện pháp thường không bền, chỉ mang tính nhất thời mà thôi.
Trong đạo Phật, những trường hợp như vậy tồn tại rất nhiều. Thời xưa, có vị phát hiện ra vài ư hay trong giáo lư, muốn phổ biến nhưng sợ không ai tin, bèn soạn thành những kinh nói là Phật thuyết. Khi viết, họ cũng bắt đầu: Như thị ngă văn nhất thời Phật tại Xá Vệ thành…. Đọc những kinh ấy, người ta cứ tưởng là Phật thuyết nên rất tin và chấp nhận giáo lư của họ. Xét về giáo lư, những lời kinh ấy cũng hay, cũng có lợi cho người tu hành. Nhưng xét về Đạo đức, nó hoàn toàn không có tính chân thật v́ không phải do Phật thuyết mà do người sau tạo ra. Trong đạo Phật, kinh điển không phải do Phật thuyết có rất nhiều. Ở đây, chúng ta không tiện nói rơ bài kinh nào, nhưng trong quá tŕnh học, mỗi người phải nhận ra điều đó.
Vừa qua, ở Mỹ có diễn ra một Hội nghị. Trong đó, có nhiều học giả nghiên cứu về Phật giáo nổi tiếng trên thế giới tham dự. Họ thảo luận về vấn đề cần xác định bài kinh nào là do Phật thuyết, bài kinh nào không phải Phật thuyết. Lần ấy, có cả Đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự. Họ dựa vào tư tưởng và ngôn ngữ để chứng minh rất chặt chẽ và có sức thuyết phục rằng các bài kinh này xuất hiện sau thời Đức Phật. Chẳng hạn, họ chọn trong bài kinh những từ ngữ mà thời Đức Phật chưa có để chứng minh rằng, bài kinh đó xuất hiện sau Phật thuyết rất xa.
Ví dụ, từ xă hội chủ nghĩa xuất hiện vào khỏang thế kỷ XIX- XX, từ thời Lênin. Nếu cuốn sách nào được khẳng định là ra đời từ thế kỷ thứ XIII mà trong đó có sử dụng từ ấy, chúng ta biết ngay là không đúng sự thật. Chắc chắn nó phải được viết sau thế kỷ thứ XX, không thể xuất hiện trước đó.
Hoặc một cụm từ khác, cụm từ bảo vệ môi trường sinh thái . Cụm từ này phải xuất hiện từ cuối thế kỷ XX. Nếu bây giờ, cuốn sách nào bàn về vấn đề môi trường sinh thái mà người ta cho là được viết từ thế kỷ thứ V th́ chúng ta biết là không có thật. Chắc chắn cuốn sách được ra đời từ thế kỷ XX trở về sau. Tương tự như vậy, có một số bài kinh ư cũng rất hay, nhưng các nhà nghiên cứu lại nhận ra một số từ vào thời Đức Phật chưa có. Từ đó, họ kết luận trong đạo Phật, có nhiều bài kinh do người đời sau viết. Những người ấy chứng minh vấn đề rất chặt chẽ, không ai có thể phủ nhận được. Cuối buổi Hội nghị, ngài Đạt Lai Lạt Ma đă phát biểu: Công tŕnh nghiên cứu của quư vị rất tốt, rất hợp lư nhưng tôi vẫn tin những bài kinh đó đều là Phật thuyết. Ông ta chỉ nói như vậy, chỉ nói bằng niềm tin chứ không bằng lư trí và lư luận. Ông chỉ tin thôi, không chứng minh ǵ cả. Do đó, bây giờ ai muốn tin cứ tin, ai muốn t́m sự thật cứ đi t́m sự thật.
Nếu chịu khó nghiên cứu, học hỏi, dần dần chúng ta sẽ hiểu điều đó. Sự thật là có những bài kinh không do Phật thuyết nhưng từ lâu chúng ta vẫn nghĩ là Phật thuyết nên măi tôn thờ. Tác giả những bài kinh ấy thường đề cao kinh của ḿnh, cho là vua trong các loại kinh. Đức Phật không bao giờ nói như vậy. Ngài chỉ nói đạo lư và tất cả được ghi chép lại, không hề ngợi ca kinh sách của ḿnh.
Trường hợp thứ tư: Nói dối đem lại bất thiện pháp.
Chính v́ nói dối, chúng ta đă gây nên hậu quả: chia rẽ mọi người , làm cho họ căm ghét nhau. Chuyện không có, chúng ta lại nói có, làm cho tất cả rối tung lên, hoặc đặt điều vu khống để hại người khác. Đó là điều không tốt.
Như vậy, trong bốn cách đó, người tu hành nên dùng cách thứ nhất (nói thật đem lại thiện pháp). Ngoài ra có những sự thật không nên nói. Chúng ta chỉ nói những sự thật mà ḿnh biết chắc là có lợi cho người. Những sự thật gây hoang mang, chia rẽ hoặc làm người ta thối tâm, chúng ta không nên nói.
Hai trường hợp cuối, người tu hành không nên dùng. Dù nói dối đem lại thiện pháp cho người, chúng ta cũng không nên. Đó không phải cách đem lại lợi ích lâu dài cho người khác. Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ mất uy tín v́ những lời nói dối đầy thiện chí ấy.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 139 of 349: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 5:09am | Đă lưu IP
|
|
|
3. YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGƯỜI XUẤT GIA:
Người xuất gia nên tránh nói dối trong mọi t́nh huống. V́ những lẽ sau:
a. Chân thật là biểu hiện của Đạo đức:
Người có Đạo đức mà nói dối sẽ làm mất niềm tin đối với Phật tử. Đôi khi, có những lời nói dối v́ những chuyện vặt vănh, chúng ta cứ nghĩ là vô hại nên không băn khoăn ǵ nhưng thực ra, hậu quả lại rất nặng nề.
Ví dụ, Khi có việc cần, chúng ta phải xin phép ra khỏi chùa. Vừa đến cổng, có người gặp và hỏi ta đi đâu. V́ không muốn lôi thôi, mất thời gian trong khi đang vội nên ta trả lời qua loa cho xong chuyện :“À, Thầy sai tôi đi mua thuốc một chút”. Chắc chắn nghe nói Thầy sai đi, không ai dám thắc mắc điều ǵ nữa. Sự thật, lúc đó chúng ta ra ngoài v́ việc riêng. Rơ ràng, sự nói dối ấy rất nhỏ nhặt và vô hại. Nhưng cứ nói dối như thế, lâu ngày sẽ thành một tật xấu rất khó sửa, khiến chúng ta không c̣n uy đức nữa.
Chúng ta biết rằng, uy đức của người tu được tạo nên bởi lời nói. Nếu sống một đời chân thật, không biết nói lời dối trá, chúng ta sẽ có uy đức rất lớn. Khi đó, mỗi lời chúng ta nói ra đều là những câu thần chú. Mỗi lời chúc của chúng ta đều đem lại cho người khác những điều tốt đẹp. Sở dĩ những người tụng thần chú thường rất linh nghiệm là do họ chú tâm, biết mượn uy lực của Phật. Đây là điều rất lạ, càng nghiệm ra chúng ta càng thấy đúng. Khi học về Thiền, chúng ta sẽ t́m hiểu kỹ hơn sự lợi, hại của câu chú. Câu chú có thần lực của nó. Người tu hành có đạo đức, sống chân thật th́ lời nói cũng sẽ có uy lực như thế.
Có một chuyện xảy ra tại một Tiểu bang ở nước Mỹ, cho đến bây giờ người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân. Tại một phiên toà, khi sắp xử một vụ trọng án th́ trời bất chợt đổ mưa. Mưa tầm tă, mưa dữ dội khiến phiên ṭa không sao tiến hành được, đành phải hơan lại để xử vào ngày hôm sau. Không ngờ hôm sau trời lại mưa tiếp, mưa quá lớn. Trong khi chờ đợi, Chánh án phiên ṭa, là một người da đen, viết lên tờ giấy một câu nửa đùa nửa thật :“ Trời không được mưa nữa” kư tên vào đó, rồi vứt sang một bên. Trời bỗng dưng ngừng mưa. Thế là, vụ án xử xong. Mọi việc tưởng sẽ ch́m vào quên lăng.
Nhưng có một điều lạ là sau đó trời ngừng mưa trong một thời gian dài. Hạn hán xảy ra khắp nơi. Cho đến một hôm, nhân viên thư kư sực nhớ lại chuyện xảy ra ở phiên ṭa lần trước, người ấy bỗng nghi ngại điều ǵ bèn thưa với ngài Chánh án: “Thưa Ngài, Ngài vui ḷng kư lại lệnh khác”. Ông Chánh án nh́n tờ giấy chợt nhớ ra điều ǵ liền viết : “Thôi ! Trời mưa trở lại !” và kư tên. Sau đó, quả thật trời đă mưa trở lại.
Đây là một chuyện lạ. Báo chí đă từng đưa tin, nhưng không sao giải thích được. Có vẻ như đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng sự việc diễn ra nhanh quá, linh nghiệm quá nên không ai dám kết luận điều ǵ. Thực ra, cũng có thể người ấy có uy lực động đến trời đất. Có được uy lực ấy là do họ có đức lớn, sống chân thật, phán đoán mọi chuyện chính xác. Như vậy, chúng ta có thể hiểu là trong thời gian làm việc, vị Chánh án kia rất công minh, không bao giờ kết tội oan cho người khác. Do đó, uy đức của ông ngày càng được nâng cao. Đến một lúc nào đó, tiếng nói của ông có thể làm động cả đất trời.
Chúng ta phải sống một cuộc đời thánh thiện, quang minh chính đại để không phải che giấu điều ǵ. Đến lúc đó, lời nói của chúng ta sẽ có uy lực, sẽ được linh nghiệm. Quan trọng hơn nữa là chúng ta đem lại được thiện pháp cho người khác. Đó là điều hạnh phúc nhất và cũng là Đạo đức nhất . Bởi vậy, tâm thiện và tâm chân thật luôn đi đôi với nhau.
Nhiều khi chúng ta chấp nhận thiệt tḥi một chút về ḿnh để đượïc nói thật, được sống thật. Đây là chỗ thử thách rất lớn đối với chúng ta. Nếu mỗi một lần phải chịu thiệt tḥi v́ nói thật mà chúng ta vẫn không ngại th́ sau này, đức của chúng ta sẽ rất lớn . Đức càng lớn, chúng càng dễ dàng cảm hóa được người khác.
b. Khi giảng kinh, thuyết pháp, chỉ nên dẫn những câu chuyện có thật để bài bài pháp có giá trị lâu dài.
Chúng ta đừng bao giờ kể những câu chuyện không có thật, chuyện bịa. Có nhiều câu chuyện cổ của Phật giáo rất khó sử dụng v́ tính chân thật không cao. Chúng ta đừng quá nhiệt t́nh khi kể những câu chuyện ấy để chứng minh rằng đạo lư của ḿnh là đúng. Bởi v́, dẫn những chuyện không có thật, chúng ta sẽ không đem lại giá trị lâu dài cho bài pháp. Nếu kể chuyện từ thời Đức Phật để minh họa cho bài giảng, chúng ta phải cân nhắc kĩ càng, phải đánh giá mức độ chân thực của nó.
Đọc Kinh Bách dụ, chúng ta sẽ gặp rất nhiều chuyện bịa, ṭan chuyện tưởng tượng. Trong kinh có câu chuyện hai đệ tử xoa bóp chân cho Thầy. Chuyện kể rằng, trong khi xoa bóp, v́ lư do nào đó, hai người gây nhau. Một người lấy cây đập vào cái chân của Thầy ḿnh mà người kia đang xoa bóp. Người kia tức quá cũng trả thù bằng cách lấy cây nện vào chân mà người này đang xoa bóp. Cứ thế, ông Thầy bị nện qua nện lại đến gần chết.
Thực ra, câu chuyện cũng có ư nghĩa riêng của nó. Qua việc làm của hai đệ tử, người ta muốn nói rằng: Trong đạo Phật, nếu cứ chia ra nhiều tông, nhiều phái công kích lẫn nhau, cuối cùng chính đạo Phật sẽ bị tổn thương nặng nề. Đạo lư rất hay nhưng chuyện kể lại hoàn toàn không có thật. Kinh Bách dụ là như vậy. Cho nên, những câu chuyện trong ấy chúng ta có thể kể để nghe cho vui, không nên kể như một dẫn chứng chứng minh cho đạo lư của ḿnh.
Hiện nay, những câu chuyện “cổ tích” như vậy c̣n lưu truyền rất nhiều. Nếu cứ dựa vào đó để chứng minh cho đạo lư của ḿnh th́ đạo lư ấy sẽ không vững chắc. Đây là điều chúng ta cần lưu ư. Xă hội ngày càng văn minh, con người càng có nhu cầu xét lại, kiểm nghiệm lại mọi điều. Họ chỉ muốn nghe và tin những điều đă được thể nghiệm.
V́ vậy, nếu nói về luật Nhân Quả, gieo Nhân nào gặt Quả đó mà chúng ta chỉ dẫn chứng minh họa bằng những câu chuyện cổ tích, có Bụt , Tiên hiện ra giúp đỡ người nghèo khổ, tốt bụng, trừng phạt những kẻ ác độc th́ chắc chắn chỉ thuyết phục được trẻ con mà thôi.
V́ những chuyện rút ra rừ đạo Phật không nhiều, lại có những chuyện không thật nên trong cuộc sống, chúng ta phải tích lũy những câu chuyện có thật về đạo lư ở đời để làm tư liệu cho những bài giảng pháp. Chẳng hạn, chuyện về một Sư cô được hưởng chính sách ưu đăi rất tuyệt vời khi sang Mỹ là câu chuyện đáng kể cho mọi người nghe khi giảng pháp. Khi c̣n ở Việt Nam, cô thường đi làm thuốc chữa bệnh cho người nghèo và xem đó là niềm vui trong cuộc đời dù phải chịu nhiều vất vả. Khi sang Mỹ, tự nhiên cô được xếp vào danh sách những người được hưởng chính sách ưu đăi, được chăm sóc y tế không phải đóng lệ phí. Trong khi đó, những người khác, thậm chí những người tàn tật, muốn được như vậy phải chạy lo thủ tục rất khó khăn. Kể chuyện của Sư cô, chúng ta nhằm mục đích chứng minh cho cái Quả mà cô có được do quá tŕnh làm phước khi c̣n ở Việt Nam. Những câu chuyện như thế có sức thuyết phục người nghe hơn. Sống trong thời đại văn minh, có tŕnh độ hiểu biết cao, người ta không thích nghe những câu chuyện tưởng tựơng.
Tuy nhiên, cũng có nhiều giai thoại về các bậc Thánh nghe có vẻ thần bí nhưng lại rất thật. Chúng ta cần phải kể để xác chứng giá trị tâm linh của đạo Phật.
Ví dụ, Chuyện Ngài Đặng Ẩn phóng bay lên hư không. Ngài vốn là người tu thiền đắc đạo, có thần thông. Một hôm, Ngài cùng các đệ tử đi qua một cánh đồng. Gặp cảnh binh lính đang đánh nhau dữ dội, Ngài nói : “ Ta phải cứu cái nạn nầy”. Nói rồi, Ngài bay lên hư không, cầm gậy chỉ xuống. Binh lính hai bên thấy vậy sợ quá, lui quân không đánh nhau nữa.
Câu chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại có thật. Nhiều học giả có thể không tin vào những chuyện như vậy. Nhưng là người trong đạo Phật, chúng ta biết giá trị tâm linh sâu sắc và cao siêu của đạo Phật nên rất tin. Những câu chuyện đó giúp chúng ta xác chứng lại một điều: Ngoài những đạo đức trong đời sống, đạo Phật c̣n có những giá trị tâm linh rất cao, nhất là khi người tu hành đạt đến một mức độ nào đó. Đây là những câu chuyện có thật, chúng ta phải sử dụng và phổ biến rộng răi, càng nhiều càng tốt.
Vào khoảng thập niên 80 của thế kỷ XX, khi hệ thống Xă hội chủ nghĩa chưa tan ră, ở Liên Xô, người ta bắt đầu nghiên cứu về sự thần thông, về các ngoại cảm, về năng lực tâm linh trong đạo Phật. Họ sang Việt Nam để thu thập những tài liệu có liên quan đến những người có năng lực thần thông đang được lưu trữ trong đạo Phật hoặc trong dân gian. Nhưng rất tiếc, Việt Nam chúng ta không tích góp những tài liệu đó nên không cung cấp được ǵ. Người ta nghiên cứu rất kỹ vấn đề này. Họ tin và khai thác tất cả những tư liệu, những lời đồn đại về phép thần thông của Phật giáo Việt Nam để nghiên cứu.
Trong khi đó, nhiều học giả của nước ta không tin là có những phép lạ, những chuyện thần thông ấy. Chẳng hạn, đọc những cuốn sách viết về đạo Phật của tác giả Nguyễn Hiến Lê, chúng ta sẽ rất buồn ḷng mặc dù ông là một nhà nghiên cứu có tên tuổi. Hay trừơng hợp vợ chồng ông Will Durant, người Anh chẳng hạn. Họ từng cho ra đời những cuốn sách nghiên cứu về lịch sử trên thế giới nhưng chỉ với tư cách là một học giả, không thừa nhận một sự thật là có những năng lực tâm linh hiện hữu. Bởi vậy, những vấn đề sâu sắc về tâm linh không được những người ấy đề cập. Nếu có, cũng chỉ là những nhận xét hời hợt, nông cạn không thể hiện được chân lư. V́ đó không phải là sự thật, vẫn c̣n là sự che đậy sự thật.
Nói những điều này, chúng ta không thể không liên hệ đến cái gọi là thế giới vô h́nh, thế giới của ma quỷ, của các vong linh vẫn đang hiện hữu mà mắt thường không nh́n thấy được. Có nhiều người chủ trương không nói đến thế giới vô h́nh v́ cho rằng điều này trái với khoa học. Như vậy, những người ấy đă tỏ ra khiếp sợ khoa học. Trong khi đó, khoa học chưa phải đă tiến đến mức cuối cùng, c̣n nhiều điều khoa học chưa biết, chưa giải thích được. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ sự thật, nói đúng sự thật. Sự tồn tại của thế giới vô h́nh, của những vong linh ma quỷ xung quanh ta là điều có thật. Nói như vậy, không phải là mê tín dị đoan mà là chúng ta nói sự thật. Một khi đă nói sự thật, chúng ta không có điều ǵ phải sợ hăi cả.
Trong cuộc sống, có những huyền thoại vô lư nhưng cũng có những huyền thoại là có thật. Điều quan trọng là chúng ta phải phân biệt được đâu là thật và đâu là không thật.
c.Nhân gỉa dối không thể đưa đến Qủa chân lư.
Chúng ta tu hành là đi t́m chân lư, đi t́m sự thật, t́m lẽ phải, nhưng nếu tâm bị khuynh hướng gian dối che phủ th́ chúng ta sẽ không có Trí tuệ để nh́n thấy lẽ phải.
Ví dụ, khi nghe kể một câu chuyện, chúng ta không nhận định được đâu là đúng, đâu là sai. Hoặc khi trong chúng có chuyện bất ḥa, tranh căi với nhau, đúng ra chúng ta phải phân định ai đúng ai sai để giảng ḥa nhưng chúng ta lại không nhận ra. Sở dĩ như vậy là do trước kia chúng ta hay nói dối nên bị quả báo, bây giờ không hiểu được sự thật. Đó là Nhân Quả.
Sâu xa hơn, người hay nói dối sẽ không có phước giác ngộ chân lư.
Ví dụ: Phật nói vô ngă, cái ta là không có thật. Nghe điều này, nếu sống chân thật, chúng ta sẽ hiểu rằng Phật nói đúng. Tuy lúc đầu, chúng ta có cảm giác là ḿnh có một cái ta khác với mọi người, nhưng đó chỉ là ảo giác. Khi tu đến một mức độ nào đó, ảo giác sẽ tan biến, sự thật là chúng ta đă chứng được vô ngă. Sở dĩ tin lời Phật dạy là do chúng ta biết sống một đời chân thật, biết tạo nên cái phước để hiểu được chân lư, hiểu được đạo lư cao siêu. Nhưng nếu là người sống không chân thật, luôn giả dối, khi nghe Phật nói như vậy, họ không thể nào hiểu được. Họ không có phước để cảm nhận được điều đó.
Tương tự như vậy, người có phước do sống đời chân thật nên hiểu rằng, cuộc đời này là vô thường hư ảo, chẳng có ǵ tồn tại măi. Hiểu như vậy, bản thân họ sẽ không tham đắm và không mong cầu điều ǵ. C̣n người giả dối không thấy được sự thật là do họ không có phước. Như vậy, hiểu được đạo lư là điều hoàn toàn không đơn giản.
Có trường hợp, người tu hành phát được trực giác, biết được những chuyện ḱ lạ cũng do hạnh chân thật đem lại. Trước họ, nếu trong tâm có điều ǵ khuất lấp, gian dối chúng ta sẽ không che giấu được. V́ một khi họ đă gieo Nhân chân thật, không sự thật nào có thể qua mắt họ được.
Người hay nói dối c̣n chịu quả báo nữa là hiểu sai về Nhân Quả nên hay làm nhầm qua việc bất thiện
Trong Thiền Lâm bảo huấn, có câu chuyện như sau : Có lần, một Thiền sư đang ngồi thiền. Trong cơn nhập định, Ngài chợt thấy một hồn ma đang bị đeo gông hiện ra, ḿnh mẩy bị lửa đốt, đứng tựa nơi cửa. Ngài hỏi :“Ông là ai, tại sao lại rơi vào t́nh cảnh này?”. Hồn ma trả lời: “ Thưa Thầy, lúc trước tôi là Tri sự của chùa này. Khi người ta cúng dường tiền bạc cho chúng Tăng, tôi đem tiền đó cất Tăng đường. Tôi làm sai luật nên đă bị quả báo phải xuống địa ngục. Bây giờ, xin thầy lấy số tiền bằng số tiền cất Tăng đường cúng dường lại cho chúng Tăng để cầu siêu giùm tôi”. Nói xong, hồn ma biến mất. Vị Thiền sư ấy làm đúng như vậy, lấy tiền quỹ đúng bằng số tiền xây cất Tăng đường, thiết trai tăng cúng dường cho người y áo, vật phẩm đủ cả. Ngay đêm đó, Ngài lại thấy hồn ma hiện ra nhưng với một gương mặt khá đẹp và nói: “ Nhờ công đức của Ngài, tôi đă được sinh lên cơi trời, ba đời sau tôi sẽ xuống làm Tăng trở lại”.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy ông Tri sự là người lo cho chúng chứ không nghĩ ǵ cho riêng ḿnh. Nhưng tiền người ta cúng dường cho Tăng mà đem làm Tăng đường là không đúng. Nếu hiểu sai hoặc hiểu không hết về Nhân Quả, chúng ta sẽ dễ làm sai, làm nhầm qua việc bất thiện và phải chịu quả báo như vậy. Cho nên, chúng ta phải lưu ư hiểu Nhân Quả chính xác để không làm sai, không làm điều bất thiện. Nhiều khi chúng ta cứ tưởng ḿnh làm điều thiện nhưng thực ra đă làm điều bất thiện (như trường hợp của ngài Tri sự kia) cũng chính v́ không hiểu đúng luật Nhân Quả.
Người có tật hay nói dối c̣n bị quả báo là không nh́n thấy sự cao cả của các bậc Thánh nên không thể khởi tâm cung kính. Đó cũng là một thiệt tḥi lớn. Muốn chứng Thánh, chúng ta phải cung kính các bậc Thánh. Đó là Nhân Quả rất rơ ràng và vững chắc, Nhân Quả không thể phủ nhận được. Ngày xưa, khi có vị nào đắc đạo, Đức Phật luôn cho họ biết Nhân Quả, nghĩa là cho biết họ đă từng cung kính, cúng dường Phật hay một vị A La Hán nào, từ kiếp nào để bây giờ được đắc đạo.
Tích luỹ phước cung kính các bậc Thánh là điều rất quan trọng. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà chúng ta cho rằng, nền tảng đầu tiên của mọi tâm hạnh Đạo đức là ḷng tôn kính Phật.
Người có Nhân giả dối thường không hiểu hết Phật. Cho nên, ḷng tôn kính Phật của họ rất hời hợt. Kết quả là họ không đủ phước, tư cách của họ sẽ không tăng trưởng. Nếu tu hành suốt đời họ cũng chỉ là một vị Tăng tầm thường. Những người có ḷng tôn kính Phật thật vô lượng, vô biên sẽ trở thành một bậc cao Tăng, uy đức ngời sáng, mọi người đều kính nể.
Nhiều khi, xung quanh chúng ta có những vị Thánh ẩn thân, sống gỉan dị. Nếu không biết, sinh tâm coi thường các vị đó th́ chúng ta cũng không được lợi ích. Ngược lại, nếu hiểu được và kính trọng họ, chúng ta sẽ có phước.
Một điều nữa cần lưu ư là người giả dối không đánh giá đúng t́nh trạng tâm của ḿnh nên không thể làm chủ được tâm. Và như vậy, họ không thể đạt Thiền định.
V́ không đánh giá được tâm ḿnh nên người nói dối thường hay biện minh, bênh vực, che đậy lỗi lầm của ḿnh. Đó là tự dối ḿnh. Những người tự dối ḿnh sẽ không có ư thức sửa tâm, không làm chủ được tâm. Một khi đă không làm chủ được tâm th́ không thể đạt được Thiền định.
Đó là Nhân Quả của việc nói dối. Khi nói dối, chúng ta sẽ bị nhiễm vào tâm và chịu rất nhiều thiệt tḥi : Không có trí tuệ để nh́n thấy sự thật, không nh́n thấy được tâm ḿnh; không có phước để phán đoán hoàn cảnh bên ngoài… và nhiều khi c̣n làm những điều bất thiện. Người sống một đời chân thật, những điều đó không xảy ra.
Có lẽ chúng ta c̣n nhớ câu chuyện về vị Tỳ kheo và con ngỗng nuốt chiếc nhẫn. Câu chuyện là một tấm gương sáng về Hạnh chân thật. Một lần, vị Tỳ kheo nghiêm trang, đàng hoàng đi khất thực buổi sáng. Khi đến một gia đ́nh giàu có, ông được chủ nhà cung kính mang vật thực ra cho vào trong bát. Trong lúc sớt vào bát, chiếc nhẫn của bà ta lỏng quá, rơi xuống đất. Thấy vậy, vị Tỳ kheo nghĩ thong thả sẽ chỉ cho chủ nhà biết . V́ vốn ít nói, lại giữ oai nghi khi đi khất thực nên ông không nói vội. Không ngờ, một con ngỗng từ đâu chạy lại, nuốt mất chiếc nhẫn. Ông không biết làm thế nào. Khi chủ nhà đă quay vào, ông vẫn c̣n đứng đó. Chủ nhà rất ngạc nhiên. Lúc này, bà ta mới phát hiện ra ḿnh mất chiếc nhẫn trên tay. Bà vội vàng chạy ra và hỏi :“ Thưa thầy, Thầy có thấy chiếc nhẫn của con không ?”. Vị Tỳ kheo im lặng, không trả lời. V́ ông sợ nói thật th́ con ngỗng sẽ bị giết. Ông lại là người sống rất chân thật, không nói dối bao giờ.
Ông đứng đó, không biết giải quyết bằng cách nào. Bà chủ nhà tiếp tục hỏi: “ Thầy có thấy không, chiếc nhẫn con mới rơi ở đây thôi, khi con sớt bát cho Thầy”. Dù bị nghi là lấy chiếc nhẫn, ông cũng im lặng. Bà chủ nhà giận dữ, túm áo ông nói : “ Ông lấy chứ c̣n ai vào đây. Năy giờ chỉ có thầy với tui thôi”. Bà nặng lời chưa đủ c̣n đánh vị Tỳ kheo bầm cả mặt mày. Lúc ấy, có lẽ nghiệp của ông cũng vừa hết nên con ngỗng tự nhiên vật vă rồi ngă lăn ra chết. Lúc này, ông mới thều thào :“ Tôi thấy con ngỗng nó nuốt…”. Bà chủ nhà hỏang hồn la lên :“ Trời ơi! Sao Thầy không nói cho con nghe”. Ông Thầy trả lời:“ Nói rồi cô giết con ngỗng th́ sao?”
Câu chuyện kết thúc. Không biết sự thật như thế nào, nhưng chúng ta tin đó là câu chuyện có thực. Trên đời này, những người cương quyết không nói dối, thà bị đánh cũng không nói dối và cũng không nỡ nói thật để hại người, hại vật như vậy không phải là không có. Đó là hạnh chân thật của người tu hành. Họ không nói thật v́ nói thật sẽ hại người khác, phạm vào ḷng từ bi, nhưng cũng không muốn mất hạnh chân thật nên im lặng chịu đựng.
Trong cuộc đời, nhiều khi chúng ta cũng rơi vào những t́nh huống như vậy. Có lúc chúng ta bị người khác hiểu lầm, hiểu sai mà phải chịu đựng, chấp nhận thiệt tḥi để không phải nói dối điều ǵ. Có thể lúc ấy, nếu giải bày sự thật, chúng ta sẽ lấy lại được sự trong sạch, nhưng người khác sẽ bị tổn hại. Hăy tin rằng, chính sự chịu đựng, chấp nhận thiệt tḥi đó sẽ làm phước đức của chúng ta tăng trưởng gấp bội lần. V́ Nhân Quả và phước báo không phải tự nhiên mà có. Con người phải trải qua những thử thách, gian nan, những cay đắng trong cuộc đời mới có được.
d. Chuộng sự thật là tinh thần của các nhà khoa học.
Các nhà khoa học v́ chuộng sự thật, đi t́m sự thật, đă khám phá không biết bao nhiêu quy luật của thế giới, của tự nhiên, của lịch sử xă hội và con người. Họ không chấp nhận những lời giải thích, những kết luận vô căn cứ cũng như không bao giờ chấp nhận sự lạc hậu. Nhờ vậy, ngày nay chúng ta được hưởng những thành tựu khoa học kỹ thuật của họ, được sống trong một xă hội đầy đủ tiệân nghi.
Ngày xưa, ông cha ta giải thích nạn lũ lụt hằng năm bằng câu chuyện thần thoại rất hấp dẫn: Sơn Tinh, Thủy Tinh. Và một thời, người ta tin đó là sự thật. Nhưng ngày nay, có những người không tin, không chấp nhận lối giải thích đó nên cố công đi t́m sự thật. Nhờ đó, họ đă t́m ra được nguyên nhân và giải thích một cách rất khoa học.
Trong lịch sử, họ cũng t́m ra được nhiều sự thật bị che đậy hay bóp méo. Những nhà khảo cổ, nhà sử học đă t́m được những sự thật bị che phủ bởi lớp bụi thời gian trong lịch sử Ai-cập cổ đại mà chúng ta không thể biết .
Tuy nhiên, cũng có một số tôn giáo mâu thuẫn với khoa học v́ thiếu tinh thần chuộng sự thật. Họ thích tưởng tượng, thêu dệt nên những chuyện hoang đường, thần thánh để giải thích mọi việc một cách hời hợt. Ví dụ, trong kinh Cựu ước, người ta cho rằng Chúa tạo ra trời đất trong sáu ngày và nghỉ một ngày. Do đó, ngày nay chúng ta có một ngày nghỉ trong tuần vào ngày Chủ nhật. Đến bây giờ, nhân loại mới khám phá ra điều nêu trong kinh là chuyện không có thật. Người ta biết chắc rằng không có Thượng đế nào tạo ra trời đất trong sáu ngày cả. Hoặc chuyện Chúa tạo ra trời đất , tạo ra muôn loài hoàn toàn là chuyện trẻ con, vậy mà cả một thời gian dài hàng mấy ngàn năm người ta đă tin điều đó là thật. Làm ǵ có chuyện Chúa tạo ra trời đất, muôn vật, tạo ra mặt trời quay quanh trái đất và thắp những hàng nến đẹp trên bầu trời vào ban đêm . Sau đó, Chúa lấy đất nặn h́nh người rồi thổi hơi vào đó để tạo nên con người làm chủ các loài vật. Chúa tạo nên ông Adam. Người đàn ông ấy sống cô đơn, buồn quá đă rút ba xương sườn của ḿnh để tạo nên bà Eva v..v..
Có thể coi Chúa Giê su là một vị “Bồ Tát thị hiện”, qua Do thái để cải cách đạo Do thái từ kinh Cựu ước sai lầm. Lúc bấy giờ, một số người Thiên Chúa giáo cũng chống Chúa Giê su nên ông mới bị họ bắt và đóng đinh trên cây thập giá. Nếu tách riêng những lời dạy của Chúa Giê su, chúng ta sẽ thấy những lời ấy rất giống đạo Phật. Nhưng Vatican không hiểu nên nhập chung kinh Cựu ước đầy những điều vô lư với những lời dạy trong kinh Phúc âm của chúa Giê su, tạo nên đạo Thiên Chúa như bây giờ. Kinh Cựu ước có rất nhiều điều vô lư. Bây giờ, giới trí thức tiến bộ không ít người đă thừa nhận kinh Cựu ước sai từ trong căn bản.
Đạo Phật có tính khoa học, thể hiện ở chỗ chuộng sự thật. Cho nên, không những có nhiều điều phù hợp với khoa học mà đạo Phật c̣n gợi ư cho khoa học. Chẳng hạn, đạo Phật cho rằng, vũ trụ đất trời do nhiều nhân duyên mà có, do nhiều yếu tố hợp thành, trong đó có nghiệp thiện ác của chúng sanh tác động vào.
Như vậy, điều đạo Phật nói không sai với khoa học. Và theo khoa học, cái ǵ trên đời này cũng có nguyên nhân, cũng do nhiều yếu tố hợp thành. Tuy nhiên, có một điều khoa học chưa thấy được là, trong các nguyên nhân đó, nghiệp chúng sanh tác động vào rất lớn. Đây là điểm Phật giáo gợi ư cho khoa học, trong đó có cả vấn đề về Nhân Quả.
Sỡ dĩ gần đây trên thế giới liên tiếp xảy ra những vụ ném bom khủng bố của những người Hồi giáo là do theo giáo lư của họ, giết người không có tội. Họ làm như vậy là để bênh vực cho Thánh Alah, Thượng đế của họ. Đây là một giáo lư cực kỳ nguy hiểm. Bởi vậy, chúng ta không thể vô tư tu hành, phải biết lo lắng về vấn đề này. Trách nhiệm của chúng ta là phải lưu tâm bảo vệ Phật pháp, không để cho Hồi giáo xâm chiếm tràn lan, đè bẹp chúng ta bằng bạo lực, bằng một giáo lư phi chân lư.
Trong nghề nghiệp, người cư sĩ phải biết tôn trọng sự thật. Nhất là người làm nghề Luật sư, đừng bao giờ v́ quyền lợi của ḿnh mà bóp méo sự thật, bênh vực thân chủ một cách quá đáng. Chúng ta phải dạy cư sĩ điều đó.
Một điều cần lưu ư, đạo Phật chúng ta cũng nên xét lại một số các tư liệu lịch sử, xuất xứ của một số giáo lư.
Ví dụ: Sử 33 vị Tổ. Theo các nhà sử học, trước ngài Thần Hội không có tư liệu nào nói về các vị Tổ, Bạt Tu Mật Đa- Bát Nhă Đa cũng không có, chỉ từ ngài Thần Hội mới có tư liệu. Từ đó, họ kết luận sử 33 vị Tổ là do ngài Thần Hội soạn ra.
Hoặc việc ngài Trí Khải nói về 5 thời phán giáo chẳng hạn. Ông cho rằng, 12 năm đầu, Đức Phật giảng A Hàm, 9 năm sau Phương Đẳng, 21 năm Bát Nhă, 6 năm Pháp Hoa-Niết Bàn. Điều này, các nhà sử học cũng phủ nhận. V́ họ cho rằng, trong các kinh A Hàm, có những bài kinh Phật giảng lúc về già, có những bài Đức Phật giảng lúc gần nhập Niết Bàn. Như vậy, làm sao khẳng định Phật giảng các A Hàm là trong khỏang 12 năm đầu. Thực ra, phải hiểu rằng, Đức Phật giảng A Hàm trong suốt cả cuộc đời ḿnh.
Như vậy, những điều nghi vấn trong lịch sử Phật giáo, chúng ta cần phải xét lại. Hoặc những điều người xưa truyền lại không đúng sự thật, chúng ta phải có trách nhiệm sửa lại cho đúng, phải mạnh dạn làm điều đó mà không sợ ḿnh phạm thượng, xúc phạm Tổ sư.
Trong quá tŕnh đi t́m sự thật, đôi khi các nhà sử học không cảm nhận được các điều mầu nhiệm nên đă bỏ qua. Bởi vậy, dù rất chuộng sự thật nhưng chúng ta không nên quá tin vào các nhà sử học mà phải nghiên cứu, t́m ṭi và phải biết phân biệt đâu là sự thật.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranngocai Hội viên

Đă tham gia: 06 October 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 140 of 349: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 5:10am | Đă lưu IP
|
|
|
Tóm lại, nói dối có hậu quả rất nghiêm trọng. Không những nó ảnh hưởng đến việc tu tập của ḿnh mà c̣n ảnh hưởng đến uy tín của Đạo và lợi ích của chúng sanh. V́ thế, chúng ta phải chuộng sự thật, cố gắng tu tập và truyền Đạo đến với tất cả mọi người để đạo Phật ngày càng hưng thịnh hơn trong tương lai.
__________________ Nhân quả là gốc của số mệnh!
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|