Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 180 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC hay những bài học về ĐẠO ĐỨC! Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 241 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:02am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

BÀI 19: HỐI HẬN





1. ĐỊNH NGHĨA.

Hối hận là nỗi buồn khi nhận ra ḿnh đă làm nên chuyện sai lầm về mặt Đạo đức.

Trong cuộc đời, chỉ có hai hạng người không biết hối hận. Đó là những vị Thánh đă giải thoát, không c̣n lỗi lầm và những người cực kỳ ác độc, không hề biết tội phước là ǵ. Ngoài hai hạng người trên, những người b́nh thường sở dĩ không hối hận là do họ không biết lỗi. Nếu biết lỗi của ḿnh, trong ḷng ai cũng đều có sự hối hận thầm kín. Nh́n lại bản thân ḿnh, chúng ta sẽ thấy không ít lần trong đời, chúng ta đă buồn và hối hận thật sự về những sai lầm ḿnh đă gây nên.

Tùy mức độ lỗi lầm lớn hay nhỏ mà sự hối hận của chúng ta sẽ nhiều hay ít. Có khi đó là những lỗi lầm của thuở c̣n thơ. Khi theo chúng bạn đi chơi, bạn xúi ḿnh làm điều không tốt ( hái trộm quả chín trong vườn người ta hay bắt trộm gà về làm thịt…), chúng ta cũng làm theo. Chuyện đă trôi qua trong dĩ văng. Cho đến ngày biết Phật pháp, tin được luật Nhân Quả, chúng ta mới hiểu rằng việc làm thuở nhỏ của ḿnh là sai lầm. V́ không những phạm tội trộm cắp, chúng ta c̣n phạm tội sát sinh. Cả hai tội đều nặng. Khi đă hiểu được đó là một điều xấu, ḷng chúng ta cứ ray rứt, hối hận, buồn phiền v́ chúng ta biết đó là tội và sẽ có quả báo về sau.

Hối hận của buồn phiền hoàn toàn khác với tâm tiếc rẻ v́ không đạt được mục tiêu bất kỳ trong cuộc sống, nhất là những hành vi bất thiện. Thực tế, có những người luôn tỏ ra buồn phiền sau một việc làm bất thiện nào đó nhưng không phải là buồn v́ hối hận mà buồn v́ không thực hiện được mục đích của ḿnh. Ví dụ, một người nọ có tính tham lam, hay lấy cắp của người khác. Một lần v́ không lấy cắp được món đồ quư của ai đó nên người ấy cứ tiếc măi trong ḷng. Tâm lư đó gọi là tâm tiếc rẻ.

Trường hợp thứ hai chúng ta cũng thường gặp là hối tiếc v́ đă đánh mất một cơ hội để đạt được lợi ích cho bản thân ḿnh. Chẳng hạn, khi đi trên đường, bất ngờ thấy người ta đánh rơi một gói tiền, chúng ta vội vă chạy nhanh đến để nhặt nhưng không ngờ người khác nhanh chân hơn đă chộp mất. Về đến nhà, chúng ta vẫn c̣n hối tiếc v́ lỡ mất cơ hội làm giàu. Sự hối tiếc đó cũng không phải là hối hận.

Như vậy, chúng ta cần phân biệt rơ ba loại tâm lư ấy. Trong đó, sự hối tiếc do tâm muốn làm việc bất thiện mà không làm được thuộc về tâm ác độc. Sự hối tiếc do đánh mất đi cơ hội cho cá nhân th́ thuộc về người sống không thanh thản, tâm c̣n bị ràng buộc. C̣n trường hợp hối hận, ray rứt, buồn phiền v́ biết ḿnh đă phạm phải lầm lỗi thuộc về người có Đạo đức.



Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 242 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:04am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. TÂM HỐI HẬN LÀ DẤU HIỆU CỦA ĐẠO ĐỨC.

Chúng ta là những người có nhiều thiện căn nên tuổi đời vừa lớn đă vào chùa xuất gia. Dựa vào điều đó có thể đánh giá lúc c̣n nhỏ chúng ta không từng làm việc ǵ quá đáng để đến nỗi hối hận nhiều. Và cũng chính v́ thế, chúng ta không nh́n rơ được tâm hối hận. Nhưng trong cuộc sống, trong quá tŕnh tu hành từ nay cho đến măi về sau, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ hội tạo lầm lỗi. Nếu không cẩn thận giữ ḿnh, sẽ có lúc chúng ta gây nên những tội lỗi lớn để phải thấm thía thế nào là hối hận.

Tâm hối hận là dấu hiệu của Đạo đức. V́ thế, khi đă mắc phải lỗi lầm, chúng ta phải chân thành nhận thấy điều đó để hối hận và sửa chữa. Chúng ta biết rằng, khả năng tự biết lỗi là căn bản của Trí tuệ. Người tự biết lỗi của ḿnh phải là người có Trí tuệ. Khi tu đến mức độ cao, chúng ta có thể biết nhiều điều nhờ có Trí tuệ, nhưng điều quan trọng là phải biết được lỗi của ḿnh. Tâm vừa khởi nhẹ một niệm tiện hay ác là chúng ta phải thấy ngay, phải đánh giá chính xác ngay về ư niệm đó liền.

Trong cuộc sống, con người thường có chung một nhược điểm là hay tự biện hộ, tự bênh vực cho ḿnh khi làm điều ǵ sai trái. Ở đây, chúng ta không tự biện hộ mà phải tự trách ḿnh, tự biết lỗi của ḿnh. V́ thế, chúng ta nói rằng, hối hận là dấu hiệu của Đạo đức, cũng là chỗ căn bản của Trí tuệ.

Như vậy, phải tự nhận lỗi rồi mới hối hận, mới có nỗi buồn. Tiến tŕnh ấy bắt đầu từ việc chân thành nhận lỗi nhưng tất cả đều xuất phát từ chỗ có Trí tuệ. Có thể c̣n một chuỗi tâm lư xuất phát tiếp theo rất vi tế mà chỉ có chúng ta mới nhận ra được. Chẳng hạn, khi trao đổi với huynh đệ về đạo lư Thiền, chúng ta cảm thấy không vừa ư nên phủ nhận ư kiến của huynh đệ và khẳng định những ư kiến của ḿnh là đúng. Người ngoài nh́n vào chỉ thấy đó là một cuộc đàm đạo b́nh thường giữa hai tu sĩ với nhau về vấn đề Thiền học, nhưng nh́n sâu vào ḷng, chúng ta chợt nhận ra ḿnh đă phô trương kiến thức, tỏ ra hơn thua với huynh đệ. Tâm tỏ ra khoe khoang, hơn thua ấy không ai nh́n thấy, chỉ tự chúng ta nhận thấy. Khi biết ḿnh vừa phạm lỗi khoe khoang, vừa phạm lỗi hơn thua- dấu hiệu của sự sa sút Đạo đức- chúng ta cảm thấy hối hận ngay.

Như vậy, chúng ta phải nhận ra được lỗi của ḿnh chứ không chờ dư luận bên ngoài đánh giá. Người ngoài có thể không thấy lỗi của ḿnh hoặc có khi lại đánh giá quá đáng, thiếu chính xác. Thử lấy một ví dụ rất đơn giản, chúng ta sẽ thấy rơ điều này. Một lần, v́ cảm thấy mệt mỏi, chúng ta vào bếp xin một ly nước chanh. Nhưng lúc ấy nhà bếp không có ai nên chúng ta tự pha lấy. Vậy mà, có người để ư và nói với mọi người là ngày nào chúng ta cũng xuống bếp lục đồ ăn. Tự chúng ta biết là ḿnh không có lỗi ấy nhưng người ta đă nói quá cho ḿnh. Ở đây, chúng ta chỉ có lỗi là không nói qua với người có trách nhiệm một tiếng để có người làm chứng là ḿnh đă không tự ư. Nhưng thực ra, lỗi đó cũng không đáng kể.

Như vậy, trong việc đánh giá lỗi lầm, chúng ta không bỏ qua dư luận v́ có khi người ta gợi ư hoặc chỉ ra lỗi ḿnh rất hay nhưng cũng không quá coi trọng dư luận. Tốt nhất là chúng ta tự biết lỗi ḿnh để hối hận và vượt qua.

Một khi đă xuất hiện nỗi buồn hối hận về một lỗi lầm ḿnh đă gây nên, chúng ta sẽ tâm niệm, ước ao rằng ḿnh đă không làm điều sai lầm đó. Thậm chí, chúng ta c̣n ước ao thời gian quay lại để ḿnh không làm việc sai lầm đó nữa. Đây chính là Nhân lành để về sau chúng ta không bao giờ lặp lại lỗi lầm cũ. Chúng ta không thể quay ngược thời gian, trở về quá khứ để làm lại từ đầu, nhưng nếu tâm vẫn hướng về quá khứ và ước ḿnh chưa bao giờ làm chuyện không hay đó th́ tâm niệm ấy sẽ thành Nhân tốt cho vị lai và chắc chắn chúng ta sẽ không phạm lỗi lầm ấy nữa.

Ví dụ, khi c̣n nhỏ, chúng ta đă từng nói dối cha mẹ xin tiền mua sách vở nhưng lại mang tiền đi chơi, ăn uống với bạn bè. Khi lớn lên, biết Phật pháp, nghĩ lại chúng ta thấy thương cha, thương mẹ vô cùng. Từ chỗ hối hận, chúng ta ước ao giá như lúc đó ḿnh đừng nói dối, giá như lúc ấy ḿnh lo học nhiều hơn, thương cha mẹ nhiều hơn… Chính ư nghĩ về quá khứ đó đă biến thành cái Nhân của vị lai. Qua kiếp sau, chắc chắn chúng ta sẽ trở thành một người con ngoan, một người con hiếu thảo.

Có những người sống một đời mà chưa từng hối hận. Đó thường là những người ác độc. V́ sao như vậy ? V́ chỉ có những bậc Thánh, những người đă giải thoát mới không có lỗi lầm để không hối hận. C̣n tất cả chúng ta, sống trên cuộc đời này không ai không từng có lầm lỗi. Chỉ có những người có tâm ác độc mới không biết được phải trái, đúng sai, không biết tội phước nên chưa bao giờ hối hận.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 243 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:05am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. GIÁC NGỘ ĐƯỢC ĐẠO LƯ MỚI CÓ THỂ HỐI HẬN LẦM LỖI CŨ

Sở dĩ có thể hối hận được lầm lỗi cũ là do chúng ta giác ngộ được đạo lư. Chẳng hạn, trước đây, khi chưa biết được tội phước, chúng ta có thể phạm tội sát sanh khá nặng ( sẵn sàng giết heo, giết ḅ phục vụ cho đám cưới, đám tang… khi có người nhờ đến ). Khi học được đạo lư, chúng ta mới thấy rằng muôn loài đều cần sự sống và cũng hiểu được nỗi đau đớn của con vật khi bị giết. V́ thế, chúng ta cứ hối hận không nguôi.

Như vậy, nhờ biết được đạo lư, biết được nhân quả mà chúng ta biết hối hận. Khi hiểu được đạo lư, chúng ta sẽ biết so sánh cái thiện của đạo lư đă học với cái bất thiện ḿnh đă phạm phải. V́ thế, mỗi khi học được những điều hay, lẽ phải, chúng ta thường xuất hiện tâm hối hận. Không ít người trong chúng ta khi bắt đầu biết Phật pháp cứ buồn phiền, hối hận măi v́ trước đây đă có sự đối xử không đúng với mọi người; với cha mẹ, anh chị em trong gia đ́nh... Khi đă đi tu, mỗi ngày trôi qua, khám phá ra được một đạo lư, chúng ta quay nh́n lại quá khứ, càng hối hận hơn v́ những lầm lỗi cũ. Cứ thế, trong suốt cuộc đời dài dặc này, con người đă vấp không biết bao nhiêu lầm lỗi nên cứ phải hối hận hoài.

Chúng ta c̣n nhớ trường hợp vua Asoka ( vua A Dục ) v́ tin sự cao cả của Phật pháp đă biết hối hận và tạo nên công đức. Trước kia, ông là một Hoàng tử ác độc. Vua cha có nhiều Hoàng tử nhưng trong đó Asoka là người hung dữ nhất. Nghĩ rằng Asoka là người hung dữ sau này sẽ làm loạn hại những người anh em khi ông qua đời nên nhà vua đă sai Hoàng tử cầm quân ra ngoài trấn biên giới. Nghe lời vua cha, Asoka lên đường. Khi trấn quân biên giới, với tính t́nh nóng nảy, ác độc, ông đă muốn đem quân xâm chiếm nước người. Nhưng v́ chưa có lệnh vua cha, hơn nữa, đạo quân vua cha giao cho cũng không đủ mạnh nên Asoka không dám làm loạn. Đó cũng là dụng ư của nhà vua. Đưa Asoka ra biên giới, vua cha cũng đă tính kỹ mọi đường. Khi ông nằm xuống, Asoka sẽ không về kịp, Hoàng tử được chọn kế vị ngôi vua sẽ đăng quang kịp thời. Khi về đến nơi, mọi việc đă đâu vào đó, Asoka sẽ không dám làm loạn. Vua cha tính toán thật chu đáo nhưng không ngờ Asoka c̣n nhanh hơn ông tưởng. Nghe tin cấp báo vua cha hấp hối, ông ta kéo quân về ngay lập tức. Về tới kinh thành, ông giết sạch các anh em của ḿnh một cách dă man và lên làm vua.

Một ông vua lên ngôi bằng hành động độc ác như vậy chắc chắn không thể “trị quốc, b́nh thiên hạ” được v́ người dân nghĩ rằng ông ta lên làm vua được là nhờ giết bao nhiêu anh em ḿnh. Như vậy, để cuộc đời sung sướng, họ cũng phải giành giật với người này, phải giết hại người kia. V́ thế, khắp nơi trong nước, dân chúng đă nổi loạn. Cuối cùng, vua Asoka đă tỉnh ngộ và quay về với Phật pháp. Có hai thuyết nói về sự tỉnh ngộ của ông.

Thuyết thứ nhất kể rằng: V́ ông là con người có hành động nổi tiếng tàn bạo nên trong nước dân cứ nổi loạn liên tục. Nơi này trộm cướp nổi lên, nơi kia xảy ra lừa đảo, giết người… Ông bèn xây một nhà ngục giao cho một tay chủ ngục ác độc có nhiều thuộc hạ hành h́nh tội nhân cai quản. Hồi đó, xă hội không có sự công bằng. Người phạm tội ǵ cũng bị quăng vào ngục hành hạ cho đến chết. Ông cho chủ ngục quyền sinh, quyền sát. Tay chủ ngục cũng là kẻ độc ác nên ai đă vào ngục, không mong ngày được trở ra. Trong khi đó, nhà vua chỉ lo đem quân đi xâm lược các nước láng giềng. Ông cất quân đánh nước này, thôn tính nước kia, mở rộng đế quốc Ấn Độ. Lúc bấy giờ, lục địa Ấn Độ trở thành một vương quốc thống nhất là nhờ tài cầm quân, nhờ sự tàn bạo của vua Asoka.

Một lần, có một Sa môn - một nhà sư Phật giáo- không hiểu thế nào lại vào thẳng trong ngục. Tên cai ngục tưởng là tội nhân mới được bên ngoài gởi vào để trừng phạt. Nhưng khi được hỏi đến, ông ta ngơ ngẩn không biết cách trả lời, hắn bực ḿnh ném ông vào chảo dầu đang sôi. Trong chảo dầu, ông vẫn giặt giũ, tắm rửa, kỳ cọ thoải mái. Tên chủ ngục kinh ngạc đứng nh́n. Hắn thấy nhà sư thỉnh thoảng bay lên không trung rồi lại hụp xuống tiếp tục tắm. Cai ngục chạy vào báo cho vua Asoka biết chuyện kỳ lạ và mời nhà vua ra xem. Vua A Dục vội vàng chạy đến xem và vô cùng ngạc nhiên khi thấy vị Tỳ kheo nghiêm trang cất ḿnh giữa hư không. Lúc đó, tâm hồn ông bỗng nhiên bị lay động. Từ trước đến nay, ông không tin trong cuộc đời này có những chuyện thần thánh nên đă đối xử tàn bạo với mọi người. Hành động tàn bạo đầu tiên là giết anh em ḿnh để giành ngôi vua, sau đó là đem quân xâm lược khắp nơi, chém giết con người một cách tàn bạo để giành đất đai. Hôm nay, chứng kiến sự kiện lạ ấy, ông tin rằng cuộc đời có chuyện thần thánh và cảm thấy ḷng ḿnh xao động. Ngay lúc đó, vị Tỳ kheo đă thuyết pháp cho ông. Nhà vua bừng tỉnh, thấy được lỗi lầm của ḿnh và quỳ xuống xin sám hối. Vị Tỳ kheo khuyên nhà vua nên dùng đạo đức để cai trị dân, không nên dùng những h́nh phạt nghiêm khắc, tàn bạo như vậy. Vua thỉnh vị Tỳ kheo về cung điện và dần dần ra lệnh sửa đổi luật pháp cho khoan thư hơn.

Khi thấy vua cùng vị Tỳ kheo đi khỏi ngục, tay chủ ngục níu vị Tỳ kheo lại và nói:

-           ; Tâu Đại Vương, Đại Vương có luật là ai vào đây là không thể ra.

Vua Asoka nói:

-           ; “Đúng. Và ngươi phải là người như vậy.

Nói xong, ông túm lấy tay chủ ngục quăng vào chảo dầu. Đó là hành động độc ác cuối cùng của ông khi bắt đầu gặp được Phật pháp. Sau đó, ông thỉnh vị Tỳ kheo về cung để học hỏi Phật pháp. Đây cũng là duyên may cho đạo Phật v́ Asoka truyền bá Phật pháp mạnh mẽ sau khi ông đă dùng bạo lực đánh chiếm các nước khác và xây dựng một đất nước thống nhất. Bởi vậy, cả lục địa Ấn Độ thời đó đều theo Phật. Có thể nói, bạo lực đi trước, Phật pháp đi sau. Dựa vào uy lực của vua mà đạo Phật tràn lan khắp Ấn Độ và người đạo Phật cũng tùy hỷ trước việc ông xâm lăng cũng như trước những chiến công của ông. Và quả báo cũng đă tới. Vào thế kỷ thứ XIII, quân Hồi vào giết hết người theo đạo Phật tại Ấn Độ. Nhà sư bị giết, đền đài bị đập phá nên đạo Phật biến mất. Chỉ c̣n những nước lân cận như Tây Tạng, Tích Lan, Hồi giáo không đặt chân tới được nên Phật pháp c̣n tồn tại. Đó cũng là Nhân quả v́ người ta đă truyền bá đạo Phật bằng con đường bạo lực mà người theo đạo Phật vẫn tùy hỷ.

Thuyết thứ hai nói về Kalinga. Sau một trận chiến khủng khiếp, xác người chết đầy đồng, đàn bà trẻ con chết đầy đường…, chợt có đội quân cưỡi ngựa đến báo tin cho nhà vua biết Hoàng hậu ở nhà hạ sinh được một Hoàng tử. Nghe tin báo, ông vui mừng khôn xiết. T́nh cha con trỗi dậy đă làm cho những t́nh cảm khác sống dậy trong ông. Nh́n những đứa trẻ chết trên băi chiến trường cùng với những người mẹ của nó, rồi những cụ già chết la liệt trong chiến tranh, ông hối hận và kéo quân về. Trên đường về, ông gặp một vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo đă thuyết pháp, giáo hóa cho ông. Từ đó, ông hồi đầu về với Phật pháp. Thuyết này không có sức thuyết phục lắm nhưng cũng cho chúng ta biết vào thời đó đă có một vị Thánh nhân, một vị Tỳ kheo chứng Đạo đủ sức cảm hoá một ông vua bách chiến, bách thắng như vua A Dục để ông ta trở về với đạo Phật.

Như vậy, khi tin được sự cao cả của Phật pháp, chúng ta mới biết hối hận. Nếu không cúi đầu trước sự cao cả của Phật pháp, chúng ta sẽ không thấy được những lỗi lầm ḿnh đă phạm trước đây.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 244 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:05am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Đọc lại một câu chuyện trong Góp nhặt cát đá, chúng ta sẽ thấy hối hận c̣n xuất phát từ đâu. Chuyện kể rằng, một vị Thiền Sư đang tụng kinh th́ một tên cướp xông vào. Hắn gí dao vào cổ Thiền Sư và bảo ông đưa tiền. Ông cũng b́nh tĩnh tụng kinh, không nhúc nhích ǵ và chỉ cho tên cướp biết tiền để trong tủ. Sau đó, ông vẫn tiếp tục tụng kinh. Khi tên cướp lấy tiền xong quay đi, ông mới ngừng tụng kinh và nói: “Nhận tiền xong phải cám ơn”. Hắn nói :“Cám ơn”, rồi đi thẳng. Ông vẫn tiếp tục tụng như không có ǵ xảy ra. Sau khi cướp tiền của vị Thiền Sư, tên cướp lại đến cướp thêm ở nơi khác và bị công an bắt. Hắn cũng hối hận và thật ḷng khai ra những vụ trộm cướp hắn đă thực hiện, trong đó có vụ cướp tiền của vị Thiền Sư. Công an giải hắn đến chùa và hỏi vị Sư : “Thưa Ngài, có phải là tên này đă vào đây chỉa dao vào cổ Ngài và lấy tiền của Ngài không?”. Vị Thiền Sư trả lời: “Không. Tôi có cho và nó có cám ơn”. Nhờ câu nói ấy nên tên cướp được giảm án v́ người ta nghĩ hắn chưa đến độ táng tận lương tâm dám vào chùa cướp của. Khi ra tù, hắn đă đến chùa xin xuất gia, làm đệ tử vị Thiền Sư ấy.

Trong trường hợp này, điều ǵ đă làm cho tên cướp hối hận ? Đó chính là ḷng từ bi, cao thượng của vị Thiền Sư. Trong cuộc đời, có những người làm việc ác v́ họ chưa từng gặp điều cao cả, cao thượng, chưa gặp được t́nh thương yêu. Họ thấy xung quanh ḿnh luôn tồn tại những điều ác độc, con người chỉ biết tranh giành nhau mà sống; kẻ mạnh, lắm mưu mô xảo quyệt sẽ thắng kẻ yếu đuối, lành hiền. Họ không tin có nhân quả. Sống như vậy cho đến khi bắt gặp t́nh thương yêu, sự cao thượng từ người khác, họ cảm thấy hạnh phúc và chợt nhận ra thế gian này đâu chỉ toàn là điều ác độc, quanh họ vẫn c̣n đầy t́nh thương yêu. Sống trong t́nh thương yêu của con người, họ hối hận và muốn măi măi được tắm trong t́nh thương yêu đó.

Trong cuộc sống, có thể chúng ta sẽ gặp rất nhiều người xấu. Qua câu chuyện này, chúng ta hiểu được họ vẫn có thể c̣n biết khởi tâm hối hận và cố gắng dùng t́nh thương để cảm hóa họ. Lúc nào chúng ta cũng phải giữ tâm thương yêu. Chỉ có tâm thương yêu, không ganh ghét đố kỵ, không hơn thua kiêu kỳ mới có thể cảm hoá được người xấu. Chính ḷng thương yêu của chúng ta sẽ làm cho họ có niềm tin vào cuộc sống, con người và biết hối hận để quay về với nẻo thiện. Để làm được điều đó, chúng ta phải huân tập tâm Từ bi thật sâu đậm. Ngoài những lời nói, trong tâm chúng ta phải thật sự có t́nh thương yêu. Chúng ta phải hiểu rằng, cho người khác niềm tin vào sự cao cả, niềm tin ở điều thiện, niềm tin vào t́nh thương yêu để họ biết hối hận, là một công đức lớn.

Một điều rất hay nữa là hối hận có thể rửa được tội. Có Thầy kể rằng, khi c̣n nhỏ chưa biết Phật pháp, đọc sách của ông Krisnamurti - người Ấn Độ từng đi giảng khắp Tây Phương- người ấy không hiểu ǵ cả nên tỏ ra không thích. Sự không hiểu ấy một phần do người viết, một phần do người dịch chuyển ngữ không thích hợp với văn Việt nên câu văn tối nghĩa. Sau này, khi lên Đại học, học qua lư thuyết dịch, Thầy mới hiểu ra điều ấy. Nghĩa là người dịch phải dịch nghĩa chứ không phải dịch chữ. Chẳng hạn, I go to school ( dịch theo chữ là Tôi đi tới trường ) nhưng nghĩa lại là Tôi đi học. Một câu văn theo nguyên văn có khi dài ḍng, phức tạp, người dịch phải t́m ra nghĩa rồi chuyển sang câu văn tiếng Việt cho dễ hiểu. Đó cũng là lư do khiến Thầy không hiểu và không thích ông Krisnamurti. Khi nói chuyện trao đổi đạo lư với mọi người, Thầy đă bài bác ông ta. Cho đến khi gặp được Phật pháp, học được Thiền, Thầy mới chợt tỉnh là ḿnh đă bài bác nhầm một bậc Thánh. Ông quả thật là một bậc Đạo Sư đă giác ngộ. Khi hiểu ra điều đó, vị Thầy ấy cứ hối hận, ray rứt măi. Khoảng được nửa năm, một đêm trong giấc mơ, Thầy thấy ông hiện ra, gương mặt sáng như ánh trăng rằm nh́n ḿnh cười tha thứ rồi biến mất. Khi thức giấc dậy, sự hối hận giày ṿ Thầy suốt nửa năm qua đă tan biến. Thầy hiểu rằng, tâm hối hận của ḿnh đă được chứng minh và Thầy đă rửa được tâm bất thiện trong quá khứ.

Như vậy, Hối hận là một tâm niệm vô cùng quư giá. Nếu sống mà không biết hối hận, chúng ta không bao giờ rửa được sự bất thiện ḿnh đă gây ra trong quá khứ.

Cách đây không lâu, trong một tài liệu giảng về Phật giáo Nam Tông, một vị Sư Nam Tông đă cho rằng : Tâm hối hận là tâm bất thiện. Và ông đă kể ra một câu chuyện để chứng minh điều đó. Thời Đức Phật, có một vị Tỳ kheo v́ mến mộ Phật pháp nên đă xuất gia. Vị Tỳ kheo này là con một, xuất thân từ một gia đ́nh giàu có, đă có vợ nhưng chưa có con. Khi gặp Phật, người ấy đă theo Phật đi tu. Một hôm, khi trở về thăm lại gia đ́nh, cha mẹ ông nói cho ông biết tài sản của gia đ́nh rất lớn. Ông là con một, nếu đi tu mà không để lại một đứa con nào nghĩa là gia đ́nh coi như tuyệt tự. Theo luật pháp Ấn Độ thời bấy giờ, khi cha mẹ ông chết, tài sản của gia đ́nh sẽ bị sung vào công quỹ nếu như ông không để lại đứa con nối dơi. Cha mẹ ông muốn ông phải để lại một đứa con. Thương cha mẹ và bị thuyết phục quá, vị Tỳ kheo xiêu ḷng ăn ở lại với vợ được một đứa con rồi ra đi.

Thời đó Phật chưa có chế giới, chỉ có người đi tu tự biết làm Sa môn là phải giữ phạm hạnh. Người tu phải sống theo lương tâm ḿnh. Bởi vậy, khi để lại một đứa con, vị Tỳ kheo không thấy ḿnh phạm quy. Nhưng thẳm sâu trong lương tâm, ông biết ḿnh đă phạm sai lầm nên vô cùng hối hận. Nỗi buồn phiền ấy day dứt măi trong ḷng ông lúc trở lại Tăng đoàn. Sau đó, ông lâm bệnh rất nặng. Nghe tin ông bệnh, Đức Phật đến thăm và hỏi rơ sự t́nh (thực ra, Ngài đă biết hết mọi điều). Vị Tỳ kheo thành thật tŕnh bày sự việc và sám hối. Lúc bấy giờ, Đức Phật thuyết một bài pháp để vị Tỳ kheo hiểu được lỗi lầm và ca ngợi đời sống phạm hạnh. Sau đó, Đức Phật cũng chế ra giới luật. Nhờ Phật thuyết pháp, an ủi nên tâm hối hận của vị Tỳ kheo biến mất. Ông trở lại tiến tu và về sau cũng chứng Đạo.

Kể chuyện này, vị Sư Nam Tông muốn kết luận: Tâm hối hận là tâm bất thiện. Chúng ta biết rằng, Phật giáo Nam Tông vốn có truyền thống bảo thủ, người trước nói sao, người sau nói vậy, nếu nói trái sẽ bị phê b́nh là ngoại đạo. V́ vậy, bên Nam Tông Nguyên thủy nh́n các thầy Đại Thừa như là người ngoại đạo Bà La Môn, không phải đạo Phật, mặc dù họ vẫn thờ Phật. Cho nên, có thể câu kết luận tâm hối hận là tâm bất thiện ấy không phải của vị Sư kia mà của một vị Sư trước đó. Vị Sư này nghe người trước ḿnh nói như vậy nên nói lại. Cũng có nghĩa là điều đó đă được truyền qua mấy ngàn năm rồi. Điều đáng ngạc nhiên là câu kết luận sai lầm này đă được giữ cho đến ngày hôm nay.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 245 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:28am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Thật ra, đạo Phật có nhiều Tông phái. Tông phái nào cũng cho ḿnh là chân lư, là đúng đạo Phật. Đây là điều mà chúng ta phải tỉnh táo xét lại. Dù đi theo bất cứ Tông phái nào( Nam Tông, Bắc Tông Đại thừa hay Khất Sĩ…), chúng ta cũng không bao giờ được tin một cách mù quáng. Chẳng hạn, dù Bắc Tông Đại thừa không sử dụng cuốn Chân lư của Đức Minh Đăng Quang bên Khất Sĩ v́ có nhiều điểm không hợp với Tam Tạng Kinh điển, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, đạo hạnh của Đức Minh Đăng Quang rất tuyệt vời và cuốn Chân lư cũng có nhiều điểm hay. Thời đó, Ngài không có dịp tham khảo hết Tam Tạng Kinh điển nên có những điều Ngài đoán giảng theo suy nghĩ của ḿnh, không phù hợp với Tam Tạng Kinh điển. Hơn nữa, lúc bấy giờ đạo Phật chưa chấn hưng nên sách chưa nhiều, ai hiểu thế nào cứ giải thích thế ấy nên có khi không phù hợp với Giáo điển. Đó cũng là điều dễ hiểu.

Ở đây, chúng ta xem nỗi buồn là một hệ quả, nỗi buồn của hối hận là nỗi buồn vô cùng cao đẹp. Nếu nỗi buồn do ích kỷ là sự xao động tầm thường, th́ nỗi buồn v́ lỗi lầm là nỗi buồn có khả năng thanh lọc, làm sáng tâm ḿnh và rửa được những tội lỗi. Chúng ta phải hiểu rằng, trong con người vốn có nhiều t́nh cảm. Nếu t́nh cảm được sử dụng đúng chỗ sẽ làm tăng trưởng được thiện pháp, giúp con người đi dần về phía giải thoát. Ngược lại, những t́nh cảm được đặt không đúng chỗ sẽ đưa chúng ta đi dần về phía ràng buộc.

Ví dụ, tâm xót xa vốn thuộc trạng thái động. Khi thấy một người nào đó khổ, chúng ta khởi tâm xót xa th́ sự xót xa đó gọi là bi, là thương xót trước nỗi khổ của người khác. Đây là một t́nh cảm động, nhưng ḷng bi ấy cho thấy thiện pháp trong chúng ta đang tăng trưởng, tâm hồn chúng ta trở nên cao thượng và đang đi dần về phía giải thoát. Trong trường hợp này, nếu giữ tâm cho tịnh, chúng ta lại rơi vào tâm ích kỷ. C̣n trường hợp xót xa cho chính bản thân ḿnh (như than thân trách phận) là t́nh cảm động nhưng khiến ta đi về phía ràng buộc luân hồi, v́ đó là cái động của sự ích kỷ.

Hoặc t́nh thương yêu cũng là t́nh cảm “động”. Nếu vướng vào t́nh yêu đôi lứa, chúng ta sẽ bị ràng buộc, phiền năo rồi đi về phía sinh tử luân hồi. Nhưng cũng t́nh thương yêu ấy nếu đem ra chan rải khắp thế gian, thương yêu tất cả chúng sinh, chúng ta sẽ đi về phía giải thoát. Bởi vậy, nếu được sử dụng đúng chỗ, t́nh cảm sẽ giúp cho tâm hồn thăng hoa, cao thượng hơn. Chúng ta đừng sợ những t́nh cảm ấy làm tâm ḿnh xao động. Không phải lúc nào cũng giữ tâm ḿnh phẳng lặng, yên tĩnh như cát, như đá là chúng ta đă tu tốt. Thấy người khác khổ mà không xót xa, nh́n thấy chúng sinh mà không khởi ḷng thương yêu, đó không phải là người tu theo đạo Phật. Chúng ta dám khẳng định chắc chắn như vậy.

Tương tự như thế, người tu hành phải sống hiền lành, không bao giờ được hung dữ nhưng sự hung dữ nếu sử dụng đúng chỗ cũng là một điều hay. Nếu có duyên, chúng ta sẽ t́m hiểu chữ “dữ” này và như thế nào là “dữ” đúng chỗ trong Phật pháp.

Khi biết so sánh đạo lư cao xa với việc làm sai lầm của ḿnh, chúng ta sẽ xuất hiện tâm hối hận. Cứ mỗi ngày t́m ra được điều ǵ mới, chúng ta càng hối hận v́ trước đây ḿnh đă không biết được điều này, đă ứng xử sai lầm. Khi đă hối hận, ngoài việc xảy ra tâm niệm ước ao ḿnh đừng làm điều ấy trong quá khứ, chúng ta c̣n phát sinh một tâm lư khác là muốn tạo công đức. Hối hận lỗi cũ có thể giúp chúng ta tạo nên công đức mới như một sự chuộc lỗi.

Nói đến điều này, chúng ta không thể không nhắc đến câu chuyện người kiếm sĩ đào con đường hầm trong Góp nhặt cát đá. V́ đây là câu chuyện tiêu biểu cho việc muốn tạo công đức để chuộc lại lỗi lầm sau khi hối hận của con người. Chuyện kể về một kiếm sĩ theo tinh thần vơ sĩ đạo của Nhật. V́ phải ḷng người vợ của một viên quan, ông ta đă giết viên quan đó và mang người vợ đi. Khi sống gần nhau, ông mới phát hiện ra người đàn bà mà ông thương yêu bấy lâu để phải làm nên tội lỗi ấy lại là một người đàn bà tầm thường, tham lam và ích kỷ. Ông đă từ bỏ người đàn bà đó và ra đi trong nỗi hối hận khôn nguôi. Đểø chuộc lại tội lỗi của ḿnh, ông đă phát tâm đục một con đường hầm đi xuyên qua núi để người dân địa phương qua lại không phải bỏ mạng trên đường đèo.

Người con trai của viên quan nọ sau một thời gian học kiếm thuật đă t́m đến ông để trả thù. Cuối cùng, người thanh niên gặp được người đàn ông ấy trong lúc ông ta đang ngồi đục đá trong hang núi. Người con trai của viên quan nói: “Ngươi hăy quay lại cầm kiếm đấu với ta, ta không muốn giết kẻ thù từ phía sau lưng”. Người học kiếm thuật thường quân tử như vậy. Họ không muốn làm việc hèn hạ. Ông già vẫn tiếp tục ngồi đục đá, không quay lại mà trả lời: “Cậu hăy đợi tôi đục xong con đường hầm này, tôi sẽ dâng mạng sống của tôi cho cậu”. Người kia không biết làm sao v́ giết người ta sau lưng th́ không phải là người quân tử. Hơn nữa, việc đục con đường hầm này cho mọi người đi của ông ta cũng là điều tốt, không nên ngăn cản. Anh ta cầm gươm ngồi chờ ông già đục xong con đường. Ban ngày, ông đi xin ăn, chiều tối lại về đục. Người thanh niên cứ lẽo đẽo cầm gươm đi theo. Thời gian trôi qua, cảm thấy ngồi chờ ông già đục đường như thế cũng buồn, người thanh niên bèn làm phụ ông. Hai người cứ sống với nhau như vậy suốt bao nhiêu năm. Khi đường hầm được hoàn thành, người kiếm sĩ già cầm cây gươm đưa cho người thanh niên và nói: “Đầu tôi đây, cậu hăy cắt đi !”. Người kia quỳ xuống: “Làm sao con có thể cắt đầu Thầy được”. Câu chuyện đă kết thúc một cách rất cảm động.

Như vậy, nhờ tâm hối hận, qua bao nhiêu năm làm phước, ông đă tẩy sạch hết tội lỗi, tẩy sạch hết tâm bất thiện của ḿnh trong quá khứ khiến người từng coi ông là kẻ thù đă nhận ông làm Thầy.

Chúng ta biết rằng, tội lỗi được cấu thành phải có hai yếu tố: Bên ngoài là tội làm tổn hại chúng sinh, bên trong là tâm bất thiện. Cái hay của tâm hối hận là vừa xóa được sự bất thiện trong tâm vừa xóa được phần tội bên ngoài. Trường hợp ông kiếm sĩ già trong câu chuyện này là một ví dụ tiêu biểu. Bao nhiêu năm trời hối hận, lại tạo được phước nên sự bất thiện trong tâm ông đă bị xóa sạch và tội bên ngoài, tội giết viên quan ngày xưa cũng được xoá đi phần lớn. Người con trai viên quan kia không giết ông để trả thù đă chứng minh điều đó. Có thể kiếp sau ông sẽ bị trả quả báo nhưng chắc chắn sẽ trả một cách nhẹ nhàng.

Tin Nhân Quả cũng giúp cho chúng ta biết hối hận, nhất là khi thấy ḿnh gặp nghiệp quả không may. V́ tin Nhân Quả, khi gieo Nhân, chúng ta suy luận được quả báo nên biết hối hận, biết nhận ra được lỗi của ḿnh. Do đó, trong suốt cuộc đời làm việc đạo, chúng ta cố gắng truyền cho người khác niềm tin về Nhân Quả. Đó cũng là cách làm cho đạo đức tăng trưởng trong cuộc đời này và làm cho mọi người được lợi ích.

Trường hợp nhận quả báo, chúng ta suy luận ngược lại cái Nhân ḿnh đă gieo và cũng phát sinh tâm hối hận. Ví dụ, một người nọ không may gặp tai nạn phải mất một cánh tay. Khi ngồi suy luận Nhân Quả, người ấy nghĩ đời trước chắc ḿnh đă làm điều ǵ ác với người khác nên đời này mới gặp quả báo như vậy. V́ tin Nhân Quả nên bây giờ người ấy hối hận và chắc chắn suốt quăng đời c̣n lại, họ không dám làm điều ác nữa.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 246 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:43am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4. NHỮNG CÁCH CHUỘC LỖI.

Thông thường, người ta có ba cách chuộc lỗi:

Thứ nhất là chuộc lỗi với đối tượng mà ḿnh đă phạm. Chẳng hạn, khi lỡ nặng lời với người nào đó, chúng ta đến gặp họ để xin lỗi. Hoặc một lần nào đó không kiềm được ḷng tham, lỡ lấy cắp của người ta một vật ǵ đó, chúng ta hối hận t́m đến họ xin lỗi. Như vậy, chúng ta đă chuộc lỗi với đối tượng mà ḿnh đă phạm. Khi chuộc lỗi với họ, lỗi trong tâm chúng ta sẽ hết.

Trong cuộc đời có rất nhiều t́nh huống để chúng ta phạm lỗi. Có những trường hợp đối tượng ḿnh đă phạm không c̣n nữa để mà xin lỗi. Lúc ấy, chúng ta cũng có thể chuộc lỗi bằng cách phát lồ trước Đại chúng. Đây là một nghi thức rất hay trong đạo Phật. Khi có lầm lỗi, chúng ta ra trước Đại chúng nói lên lỗi của ḿnh, tâm bất thiện về lỗi đó sẽ không c̣n nữa. Phát lồ với Đại chúng là biểu hiện rất cao ḷng can đảm của người phạm lỗi.

Cách thứ ba là chuộc lỗi bằng cách lễ Phật. Có những lỗi lầm không tiện nói với người ḿnh đă phạm lỗi, cũng không có cơ hội để phát lồ với Đại chúng, chúng ta chỉ có thể thiết tha tŕnh bày lỗi và ăn năn sám hối với đấng tối cao là Đức Phật. Ví dụ, khi phát hiện ra trong ḿnh c̣n tồn tại tính tham lam, chúng ta không biết thổ lộ, sám hối cùng ai. Những tâm niệm rất tế đó, chúng ta chỉ có thể quỳ lạy trước Phật mà sám hối. V́ Đức Phật là đấng tuyệt đối hoàn hảo về công đức, trí tuệ, từ bi… Ḷng tôn kính Phật, công đức lạy Phật sẽ làm phước của chúng ta tăng trưởng và tội lỗi của chúng ta vơi đi rất nhiều. Khi lễ lạy Phật, chúng ta luôn hướng về tội lỗi của ḿnh, lỗi sẽ được xóa đi rất nhanh. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biết đúng lỗi, có tác ư đúng lỗi và hướng về lỗi đó mà ân hận. Có như vậy, chúng ta mới vượt qua được lỗi lầm.

Ngoài ra, trong đạo Phật c̣n có nghi thức sám hối định kỳ, mỗi tháng sám hối hai lần. Đây cũng là nghi thức rất có ư nghĩa. V́ không ai sống mà không có lầm lỗi. Mỗi ngày trôi qua, chúng ta đều có thể phạm lỗi lầm. Nếu cứ nửa tháng được sám hối một lần, tâm hồn ta sẽ trở nên thanh thản. Nhưng vấn đề là sử dụng nghi thức sám hối như thế nào. Hiện nay, có nhiều nghi thức sám hối : Hồng Danh, Lương Hoàng sám, Thủy sám… Ở một số chùa, các vị Thầy lớn cũng đặt thêm những nghi thức sám hối khác.

Nh́n chung, nghi thức sám hối đều có hai ư nghĩa: kể lỗi và lạy Phật. Hai việc làm này rất đúng trong việc sám hối nên hầu hết các vị Tổ đặt ra các bài sám đều dựa trên hai ư nghĩa này. Trong đó, bài tụng Lương Hoàng sám rất hay. Khi tụng, người sám hối phải kể tội từng li, từng tí. Như vậy, họ sẽ nh́n lỗi ḿnh kỹ lưỡng hơn. Ví dụ, xung quanh việc ăn cắp, chúng ta phải thấy rơ: ăn cắp là môt cái tội, xúi người ta ăn cắp cũng là một cái tội, thấy người ta ăn cắp mà ḿnh tùy hỷ cũng là một cái tội… Trong tâm, chúng ta phải nh́n thấy từng lỗi như vậy để sám hối, lạy Phật rất nhiều.

Nghi thức chung đang sử dụng hiện nay chỉ sám hối lỗi tổng quát rồi lạy Phật. (sám hối Hồng Danh, người sám hối phải lạy 89 lạy, c̣n phần kể tội, kể lỗi không nhiều). Hơn nữa, văn kinh bài sám hối lại bằng chữ Nho nên rất khó hiểu. Sở dĩ nghi thức sám hối này được phổ biến v́ không quá dài như những bài sám khác, vừa đủ thời gian cho Phật tử tụng. Trong cuốn Những bài kinh tụng do chùa Phật Quang ấn hành có soạn một bài sám hối ngắn để Phật tử có thời gian tụng. Trước hết, bài sám hối ca ngợi Đức Phật. Mỗi đoạn ca ngợi một đức tính của Phật trong sáu câu (như trí tuệ, từ bi, sự thanh tịnh… ). Sau mỗi đoạn ca ngợi Phật, người tụng lạy Phật một lạy. Cứ thế, khi ca ngợi Phật xong, chúng ta đối chiếu lại lỗi của ḿnh, kể lỗi ḿnh và tiếp tục lạy Phật. Ví dụ,

             Từ chấp ngă ban đầu

             Biến thành tâm ích kỷ

             Chỉ nghĩ lợi phần ḿnh

             Mà quên đi tất cả

             Bây giờ con ăn năn

             Xin nguyện chừa lỗi trước.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lạy)

Như vậy, suốt bài kinh, chúng ta lạy khoảng mười lăm lạy. Bài sám hối vừa gọn vừa dễ hiểu, dễ tụng lại được phước.

Nói tóm lại, có nhiều cách chuộc lỗi. Nhưng áp dụng nghi thức phát lồ hàng tháng cho từng người sẽ hiệu quả hơn. V́ khi Đại chúng tập trung, từng người có lỗi lên phát lồ sám hối, họ sẽ có dịp nh́n thẳng vào lỗi của ḿnh.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 247 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:49am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5. TÂM HỐI HẬN TẠO NÊN CÔNG ĐỨC.

Trong chúng ta, không ai vừa hối hận lại vừa kiêu mạn. V́ hối hận chỉ phát sinh khi chúng ta đă phạm lỗi lầm. Bởi vậy, tâm hối hận sẽ giúp chúng ta phát khởi tâm khiêm hạ. Ngoài việc xóa lỗi, hối hận c̣n tạo nền tảng đạo đức cho tâm khiêm hạ. Đây là một lợi ích lớn của tâm hối hận.

Ví dụ, một người tài giỏi dễ phát sinh tâm kiêu mạn. Hệ quả tất yếu của tâm kiêu mạn là ô nhiễm. Do tâm bị ô nhiễm nên chúng ta tạo ra lỗi lầm. Khi đă phạm lỗi lầm và thấy được lỗi lầm, chúng ta sẽ hối hận. Khi đă biết hối hận, trong chúng ta sẽ xuất hiện tâm khiêm hạ. Đó là quá tŕnh tất yếu. Nhưng từ tâm kiêu mạn, một người tài giỏi học được tâm khiêm hạ phải trải qua quá tŕnh gần cả một đời người. Trong suốt quá tŕnh đó, đôi khi chúng ta phải trả bằng sự đau khổ, tan vỡ, phải trả bằng những giá rất đắt mới học được sự khiêm hạ. Đôi khi thấy người tài giỏi mà kiêu mạn, chư Phật, chư Bồ Tát đẩy họ vào lầm lỗi để họ học được đức khiêm hạ. Đây là điều rất đáng sợ. Bởi vậy, ngay từ đầu chúng ta phải cẩn thận kiểm soát tâm ḿnh, đừng để kiêu mạn phát sinh. Đó cũng là lư do v́ sao khi học môn Tâm lư Đạo đức, chúng ta lại bắt đầu bằng bài Khiêm hạ.

Những người kiêu mạn sau này thường bị phạm phải lỗi lầm. Nhờ có lỗi lầm, họ biết hối hận và nhờ hối hận, họ học được hạnh khiêm hạ. Đó là điều đáng quư. Lỗi lầm có thể nặng, có thể làm chúng ta đau khổ, ray rứt nhưng điều quan trọng là cuối cùng chúng ta đă học được hạnh khiêm hạ từ lầm lỗi ấy. Chúng ta biết rằng, với con người, kết quả đạt được sau khi đă trải qua bao đắng cay, chấp nhận bao nhiêu điều mất mát là điều quư giá nhất. Bởi vậy, đôi khi chúng ta cũng nên “cảm ơn lầm lỗi”.

Khi chưa có lỗi lớn, chúng ta phải biết sám hối những lỗi nhỏ để ngăn ngừa dần. Lỗi nhỏ mà không được nh́n ra, không hối hận, không sám hối sẽ đưa chúng ta đến lỗi lớn. Như vậy, cách tốt nhất để tránh lỗi lớn là biết cẩn thận sám hối từng lỗi nhỏ.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 248 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 7:51am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

6. BẤT HỐI.

Bất hối là không c̣n hối hận. Khi Thiền định, sắp vào sơ thiền, phá được năm triền cái ( tham ái, sân hận, thùy miên, trạo hối, nghi ngờ), chúng ta sẽ không c̣n bị tâm hối hận giày ṿ nữa v́ lúc này, tâm được thanh tịnh. Như vậy, tâm bất hối có được là do Thiền định. Mặt khác, người không lầm lỗi cũng sẽ không c̣n hối hận. Vậy, Thiền định đưa đến bất hối và không có lỗi cũng đưa đến bất hối. Ở đây, chúng ta phải hiểu một điều là Thiền định có nghĩa là không c̣n lỗi. Người muốn đạt được Thiền định phải là người có đạo đức rất chuẩn mực, không có lỗi lầm. Chính đời sống trong sạch như băng tuyết mới giúp chúng ta đạt được Thiền định. Lâu nay, nhiều người lầm tưởng cứ ca ngợi một pháp môn nào đó, thực hiện được pháp môn nào đó sẽ đạt được Thiền định. Thực ra, muốn có được Thiền định, chúng ta phải bắt đầu bằng đạo đức.

Thiền định đưa đến bất hối. Chính Đức Phật đă nói điều này. Phá được năm triền cái để vào Sơ thiền, chúng ta sẽ đạt được bất hối. Khi phạm lỗi lầm, chúng ta liền biết lỗi và không tái phạm nhưng trong tâm không có hối hận. Ngay bây giờ, khi chưa chứng được nội tâm vắng lặng, chúng ta phải cố gắng tẩy sạch lỗi. Trong việc tẩy sạch lỗi có một điều quan trọng là chúng ta phải sống một đời hết sức vị tha, không v́ bản thân ḿnh.

Trong cuộc đời, không ai thật sự đă hết lỗi, trừ những vị Thánh giải thoát. V́ vậy, chúng ta nên khéo giữ ǵn tâm hối hận để giữ được Đạo đức. Điều ấy mới nghe qua tưởng chừng vô lư nhưng đó là sự thật. V́ hối hận là một nỗi buồn, nhưng là một nỗi buồn rất đẹp và cao cả. Chúng ta đừng nghĩ ḿnh học Đạo, sống trong môi trường Đạo th́ không có lỗi. Hăy nh́n sâu vào tâm ḿnh, chúng ta sẽ nh́n thấy tất cả những vô minh trong đó. Đó chính là lỗi. Khi hiểu rằng lỗi ḿnh chưa hết, chúng ta phải cố gắng giữ tâm hối hận để giữ được Đạo đức. Giữ tâm hối hận cũng như giữ một pháp môn Thiền định: giữ một câu niệm Phật, giữ phương pháp điều ḥa hơi thở… Lúc nào chúng ta cũng xét lỗi ḿnh để hối hận. Hễ lỗi này tan rồi, chúng ta t́m lỗi khác để tiếp tục hối hận. Cứ như thế cho đến khi tội lỗi tan ra, tan ra, chúng ta sẽ đạt được cái bất hối của Thiền định. Như vậy, hối hận cũng có thể được xem là một pháp môn để chúng ta nhập được vào định.

Những lỗi lớn, tâm hối hận dễ thấy. Nhưng những lỗi vi tế, tâm hối hận khó thấy hơn. Tuy nhiên, chúng ta cố gắng giữ tâm hối hận v́ tham, sân, si, mạn chưa bao giờ thật sự đă được nhỗ sạch gốc. Trong chúng ta, không ai dám khẳng định là ḿnh đă chấm dứt được tham, sân, si. Khi tin rằng ḿnh c̣n tham, sân, si, mạn, chúng ta luôn luôn hối hận về bốn điều này để dần dần tẩy rửa chúng. Chúng ta biết rằng, lỗi chỉ tiếp tục tồn tại và phát triển khi chúng ta không hối hận về nó. Một khi đă biết lỗi và hối hận, lỗi sẽ không phát triển được nữa. Đó cũng là một cách để xóa được tội.

Chúng ta đă từng nghe bài kệ: “Tánh tội vốn không do tâm tạo, tâm nếu diệt rồi tội sạch trong, tội trong tâm diệt cũng là không, như thế mới là chân sám hối”. Bài kệ c̣n nhiều điểm phải bàn. Trước hết, nói “tánh tội không do tâm tạo” cũng có thể chấp nhận được. Thực ra, tội làm ra bên ngoài không có thật nhưng do tâm bất thiện khởi lên nên mới tạo tội ra bên ngoài. Nhưng cho rằng: “tâm nếu diệt rồi tội sạch trong”- diệt cái bất thiện bên trong rồi th́ cái tội bên ngoài mất- là điều cần phải xem lại. Có khi tâm bất thiện đă rửa được nhưng tác hại đă gây ra cho người khác vẫn c̣n nguyên vẹn. Người tạo tội vẫn phải chịu trả quả báo. Chúng ta phải hiểu tội làm bên ngoài và tâm bất thiện có sự khác nhau. Tâm thanh tịnh nghĩa là cái bất thiện bên trong không c̣n nữa nhưng tội ḿnh đă gây ra cho chúng sinh bên ngoài vẫn c̣n đó, quả báo vẫn c̣n chờ đó. Bởi vậy, câu nói : “Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong” là không chính xác. Người viết câu này muốn đi t́m chân sám hối bằng cách giữ tâm thanh thản. Sợ hối hận là cái “động”, không phù hợp với Đạo nên họ đưa ra một bài kệ giúp người học đi t́m tâm thanh thản mà không t́m tâm hối hận. Thực ra, đi t́m tâm thanh thản sớm quá mà bỏ qua hối hận, buồn phiền là một điều tai hại. Nếu không có hối hận, tội của chúng ta sẽ không bao giờ hết. Chừng nào trả xong quả báo, chừng đó tội tác hại chúng sinh bên ngoài mới hết. Vậy, không có con đường nào làm hết tâm bất thiện bằng con đường hối hận. Phải nh́n thấy lỗi và hối hận v́ ḿnh đă gây ra lỗi ấy th́ bất thiện sẽ không c̣n.

Như vậy, đừng bao giờ chủ quan tin mọi điều ḿnh đă học là đúng. Chúng ta phải cảnh giác với điều bài kệ đă nêu, đừng vội t́m sự thanh thản khi tâm bất thiện chưa thật sự hết. Trong cuộc đời tu hành, chúng ta cứ mạnh dạn đi t́m sự buồn phiền của hối hận. V́ đó là một nỗi buồn rất đẹp, nỗi buồn làm sáng lên nhân cách của ḿnh, làm cho tâm ḿnh trở nên cao thượng hơn. Nhờ vậy mà chúng ta sẽ được giải thoát. Có nhiều pháp môn dạy chúng ta vội vàng đi t́m sự thanh thản, bỏ qua việc tẩy trừ tâm bất thiện. Đó là điều nguy hiểm. Chúng ta phải ghi nhớ một điều: Cái tội của tâm được xem là hết khi sự hối hận được cố ư giữ ǵn cho đến khi tự tan biến. Nhưng quả báo vẫn phải trả.

Ví dụ, khi đă lỡ tay tát huynh đệ một cái, chúng ta biết ḿnh sân và hối hận hết ngày này sang ngày khác. Nỗi hối hận cứ giày ṿ ḿnh măi, không lúc nào buông. Đến một ngày nào đó, chúng ta cố gắng giữ mà không giữ được nữa. Đó là lúc hối hận đă tự tan biến, cũng là lúc tội ḿnh đă hết. Cái bất thiện đă tan, cái tội đối với huynh đệ bên ngoài cũng xóa được một nửa. Tâm hối hận rất hay. V́ thế, khi có lỗi, chúng ta cố gắng giữ tâm hối hận cho kỹ, đừng buông, đừng quên nó. Đến khi không giữ được nữa nghĩa là tội đă tan và chúng ta đă thành công.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 249 of 349: Đă gửi: 12 April 2005 lúc 8:10am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

7. KHI CHỈ LỖI CHO NGƯỜI.

Sau này khi lớn lên, chúng ta sẽ có sư đệ hoặc đệ tử. Khi thấy họ phạm lỗi lầm, chúng ta phải chỉ dạy. Chừng nào nhận thấy người có lỗi thật sự khởi lên niềm hối hận, chừng đó chúng ta mới tin họ đă nhận lỗi. Để nhận biết điều này, chúng ta phải dựa vào kinh nghiệm. Khi chỉ lỗi, phân tích lỗi cho đệ tử, nh́n trên nét mặt họ thấy nỗi buồn của hối hận hiện lên, chúng ta biết ngay người ấy đă nhận ra lỗi. Ngược lại, khi phân tích lỗi cho đệ tử nghe, họ chỉ vâng dạ và chắp tay cung kính nhưng nét mặt vẫn tỉnh, không có vẻ ǵ buồn bă hay xúc động, chúng ta biết rằng người ấy chưa nhận ra lỗi, chỉ giả vờ cho qua chuyện.

Khi phân tích lỗi rất kỹ, rất khéo mà người có lỗi vẫn không nhận ra lỗi, không hối hận, chúng ta phải xem lại. Một là do thiện căn của người có lỗi ít quá. Nếu có thiện căn lớn, họ sẽ nhận lỗi rất nhanh. Ngược lại, nếu thiện căn ít, họ khó nhận ra lỗi của ḿnh. Hai là do cách chỉ lỗi hoặc do đức độ, trí tuệ của ḿnh. Nếu có đức lớn, chúng ta sẽ giúp người ta nhận ra lỗi nhanh hơn. Nếu đức độ và trí tuệ kém, sự chỉ lỗi của ḿnh không những không thuyết phục được người có lỗi thậm chí c̣n gây cho họ sự chán nản, bất b́nh.

Bởi vậy, khi chỉ lỗi cho người mà không đem lại kết quả, chúng ta phải xét lại hai nguyên nhân để khắc phục. Nếu đức độ, trí tuệ của ḿnh c̣n kém, chúng ta phải tu tập thêm tâm từ bi, phải lạy Phật thật nhiều để tăng đức độ. Nếu cảm thấy ḿnh đă có đủ những điều kiện ấy nhưng người có lỗi vẫn không chịu hối hận, chúng ta biết họ thiện căn thấp quá nên khó tu. Với những người như vậy, chúng ta khoan độ cho xuất gia, giữ họ tu tại gia thêm. Nói tóm lại, sự cảm hoá lệ thụôc vào thiện tâm của người có lỗi và đức độ của người chỉ lỗi.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 250 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:25am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bài tiếp theo: Bài 12- CAN ĐẢM
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 251 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:25am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bài 20: CAN ĐẢM




1. ĐINH NGHĨA.

Xét trên khía cạnh Đạo đức, can đảm là dám đương đầu với nguy hiểm để làm điều tốt. Trong đạo Phật, đó là Hùng lực hay Dũng trong Bi- Trí -Dũng.

Can đảm khác với táo tợn, liều lĩnh khi làm điều không chính đáng. V́ vậy, hành động cướp giật của một tên cướp không phải là hành động can đảm mà là táo tợn, liều lĩnh mặc dù phải rất có gan hắn mới làm được điều đó. Ở đây, chữ can đảm bao hàm ư nghĩa Đạo đức.

Trong đạo Phật, một vị Thánh hay một người đệ tử Phật chỉ xứng đáng được ca ngợi khi phải hội đủ ba đức tính là Bi- Trí - Dũng. Bi là ḷng thương yêu chúng sinh. Trí là trí tuệ, hiểu rơ mọi điều. Nhưng Bi, Trí chưa đủ, phải có Dũng-sự gan dạ, can đảm- mới có thể làm được những điều tốt. V́ không phải mọi điều tốt trên đời này đều dễ dàng thực hiện. Có rất nhiều điều tốt nằm trong hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn. Nếu không đủ hùng lực, dũng cảm, chúng ta sẽ không thực hiện được.



Sửa lại bởi QuangQuy : 15 April 2005 lúc 3:28am
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 252 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:28am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong cuộc sống, khi muốn làm việc thiện, chúng ta có thể đối diện với vô vàn những nguy hiểm, khó khăn. Trong đó, nguy hiểm nhất là cái chết. Có khi để làm được một việc thiện, chúng ta phải đánh đổi bằng cả sinh mạng của ḿnh. Nếu dám hy sinh như vậy, chúng ta được coi là người rất dũng cảm. Nguy hiểm đứng thứ hai sau cái chết là sự thương tật. Khi cứu người khác, chúng ta có thể sẽ bị thương tật, phải chịu đựng những đau đớn. Ngoài ra, những nguy hiểm chúng ta có thể gặp là bị tù đày, có khi phải hứng chịu sự căm ghét, sự phỉ báng của người khác… Quả thật, làm việc thiện không phải lúc nào cũng đơn giản. Nhưng bù lại những nguy hiểm, khó khăn ấy, chúng ta có thể làm được vô số những điều tốt. Đó là cứu người khi lâm nguy, dấn thân trên chiến trường để bảo vệ đất nước, lên tiếng bày tỏ sự thật mặc dù sự thật đó làm cho mọi người bất b́nh, căm ghét hay vạch trần sự bất công, chống lại tội ác - nhất là những tội ác được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi….

Như vậy, khái niệm Can đảm chỉ được dùng cho những hành động hướng về điều thiện. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta phải đối diện với những nguy hiểm, và trong những trường hợp đó, can đảm là yếu tố cần thiết giúp chúng ta vượt lên hoàn cảnh và sống tốt hơn. Cuộc đời vốn không b́nh yên, phẳng lặng như mặt hồ thu mà luôn chứa đựng những bất trắc, những nghịch cảnh éo le, những nguy hiểm. Chúng ta, những đệ tử Phật phải xác định được điều đó và sẵn sàng vượt qua bằng ḷng can đảm của ḿnh.

Trong quá tŕnh làm việc Đạo, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi, dễ dàng. Ngay cả những việc thiện đơn giản trong đời sống cũng đ̣i hỏi ḷng can đảm. Chẳng hạn, khi có một món tiền lớn, chúng ta có thể sẵn sàng bớt ra giúp đỡ người khác một trăm ngàn mà không cần băn khoăn, tính toán. V́ số tiền nhỏ đó không ảnh hưởng đến cuộc sống của ḿnh. Nhưng nếu chỉ có trong tay năm chục ngàn, người khác lại rơi vào hoàn cảnh cấp bách cần cả số tiền đó, liệu chúng ta dám nhịn ăn để cho họ hay không? Đây chính là lúc đ̣i hỏi chúng ta phải có đức hy sinh, ḷng can đảm. Tất nhiên, điều này cũng không khó bằng việc phải nhảy vào đám lửa để cứu người v́ khi nhảy vào đám lửa có thể chúng ta phải đánh đổi cả sinh mạng của ḿnh. Phải có một quyết tâm rất cao, phải có ḷng can đảm, chúng ta mới làm được điều đó.

Chúng ta biết rằng, cái phước có được ở kiếp sau của con người được tính bằng một công thức. Công thức phước ấy được tính bằng tích số giữa việc làm lợi ích cho người khác với sự cố gắng của chính bản thân ḿnh. Ví dụ, khi có trong túi một triệu đồng, chúng ta cho người khác một trăm ngàn th́ sự cố gắng không có bao nhiêu. Và phước chúng ta có được sẽ không lớn. Nhưng nếu chỉ có năm chục ngàn đồng, người ta cần, chúng ta cho sẵn sàng tất cả th́ lúc này sự cố gắng rất cao. Như vậy, số tiền tuy ít nhưng nhân với hệ số cố gắng lớn, phước của chúng ta sẽ lớn hơn.

Từ ví dụ đơn giản ấy, chúng ta thấy hành động nhảy vào lửa để cứu người đ̣i hỏi một sự cố gắng vượt bậc. V́ lúc đó, người nhảy vào lửa biết ḿnh có thể bị phỏng, bị nguy hiểm đến tính mạng mà vẫn cố gắng làm. V́ vậy, cái phước có được sẽ rất lớn.

Chúng ta nhớ lại câu chuyện kể về tiền thân Đức Phật. Trong một kiếp, Đức Phật là một vị Sa Môn tu hành. Một lần, Ngài thấy một con chim Cắt, loài chim ăn thịt các con vật khác, đang rượt đuổi một con chim Bồ Câu. Chim Bồ Câu sợ quá bay núp vào người Ngài. Chim Cắt nói rằng, đây là bữa ăn của nó. Nếu Ngài cứu con chim Bồ Câu th́ nó sẽ đói. Đây là sự công bằng của cuộc sống. Nó đi săn được mồi để sống, Ngài giành con mồi của nó chắc chắn nó không chịu. Nghe vậy, Ngài đành phải cắt một miếng thịt của ḿnh cho chim Cắt ăn, thay cho mạng sống của chim Bồ Câu. Như vậy, Ngài sẵn sàng chịu thương tật đau đớn để cứu mạng chú chim Bồ Câu tội nghiệp. Đó là một thái độ, một hành động rất dũng cảm, người thường không làm được. Câu chuyện thực ra mang tính ngụ ngôn hơn là có thật, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu được tấm gương sáng về ḷng can đảm, đức hy sinh cứu người của Đức Phật. Sau này, nhiều chùa đă vẽ biểu tượng ấy lên tường với ư nghĩa Đức Phật đă từng cắt thịt cho chim Cắt ăn để cứu mạng chim Bồ Câu.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 253 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:29am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong thực tế, chúng ta cũng gặp không ít những gương hy sinh cứu người rất cảm động. Không chỉ người lớn mà trẻ em cũng làm được điều đó. Báo chí đă từng đưa tin về một bé gái dám hy sinh thân ḿnh để cứu bạn. Khi cùng với bốn người bạn đi chơi ngoài bờ đê, ḍng nước chảy xiết đă làm bốn người bạn rơi xuống đê. Trong t́nh huống nguy cấp đó, đứa bé đă nhảy xuống lần lượt kéo từng bạn vào bờ. Nó vốn bơi giỏi nhưng kéo được người thứ ba th́ sức gần như cạn kiệt. Biết c̣n người bạn nữa đang cần sự giúp đỡ của ḿnh, đứa bé lại nhảy xuống tiếp tục cứu. Khi đưa được người thứ tư vào bờ th́ nó kiệt sức và bị ḍng nước cuốn đi mất. Như vậy, trong lúc quá mệt nhưng nghĩ đến người bạn đang sắp chết đuối ngoài kia, đứa bé đă hết sức cố gắng. Đó là sự cố gắng vượt bậc. Khi vớt được xác đứa bé, người ta đă an táng đàng hoàng và mọi người đến viếng với ḷng quư trọng, tiếc thương vô hạn. Với sự cố gắng đánh đổi cả sinh mạng của ḿnh để cứu người, công đức của cô bé vô cùng lớn và chắc chắn cô sẽ được lên cơi trời sau khi chết.

Hoặc câu chuyện sẵn sàng chịu tù đày thay bạn của một người trong giới xă hội đen cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Người ta kể rằng, một lần nọ do nóng giận, người này đă đánh người kia đến chết. Khi Công an ập tới bắt thủ phạm đánh chết người, một người khác, bạn của anh ta đứng ra nhận ḿnh là thủ phạm v́ vợ của người kia có mang gần đến ngày sinh nở. Người này đă chấp nhận ở tù cực khổ để bạn ḿnh ở lại nuôi vợ con. Thái độ ấy tưởng đơn giản nhưng thực ra rất can đảm. Dù không đồng t́nh, thậm chí c̣n lên án những hành động làm ăn phi pháp, giết người tàn bạo của bọn giang hồ trong giới xă hội đen nhưng chúng ta cũng thừa nhận rằng, họ sống rất hào hiệp, rất t́nh nghĩa, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nhau.

Hành động dấn thân ngoài mặt trận, sẵn sàng đối diện với cái chết của những người chiến sĩ cũng là hành động can đảm v́ điều tốt. Nếu là một người lính chiến đấu trong cuộc chiến tranh phi nghĩa th́ tội sẽ rất nặng v́ họ cầm súng giết người, vừa phạm tội sát sanh vừa mang tội cướp nước. Nhưng người lính chiến đấu chống xâm lăng, bảo vệ đất nước th́ phước của họ rất lớn. Khi đối diện với cái chết, trong tâm họ vẫn nghĩ đến sự b́nh yên cho đất nước, nghĩ đến hạnh phúc của nhân dân. Chính v́ thế, không ít những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ… đă viết lời ngợi ca họ: “Một ba lô cây súng trên vai. Người chiến sĩ quen với gian lao. Đường dài đêm thâu, bóng tối quân thù trước mặt . Nặng t́nh quê hương anh dâng trọn tuổi đời thanh xuân. Cho em thơ ngủ ngon, và vui bước sớm hôm đến trường…”

Những người dám đứng ra bảo vệ sự thật, vạch trần sự bất công, chống lại tội ác đều là những người can đảm. V́ họ dám đương đầu với nguy hiểm để làm điều tốt. Đó có thể là những kư giả ở một số nước tham gia đấu tranh chống tiêu cực. Trong những năm qua, người ta thống kê trên thế giới có khoảng ba đến bốn ngàn kư giả bị bắt, bị giết, bị tù đày v́ họ dám nói lên sự thật để chống lại những bất công đang tồn tại trong xă hội. Khi sự thật được phơi bày, điều xấu sẽ bị khống chế. Nếu sợ hăi, không dám lên tiếng bảo vệ sự thật th́ cái xấu sẽ tồn tại và tiếp tục phát triển. Bởi vậy, nói điều đúng, nói điều có lợi cũng sẽ tạo nên công đức lớn.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 254 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:32am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. SỰ TẠO THÀNH

Tâm can đảm được tạo thành bởi hai điều: Một là tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. Hai là sự thúc đẩy của Thiện tâm.

Tinh thần mạnh mẽ là cái không thể định nghĩa được. Nó cũng giống như t́nh thương yêu, ḷng từ bi vậy. Trong bài Tâm từ, chúng ta đă hiểu t́nh thương yêu không thể định nghĩa được bằng lời. Chúng ta chỉ nh́n thấy biểu hiện của nó và biết rằng lúc ấy t́nh thương đang hiện diện. Tinh thần mạnh mẽ cũng vậy. Chúng ta chỉ hiểu, chỉ cảm nhận được tinh thần ấy trong những trường hợp bị thử thách mà vẫn quyết đoán, vẫn bền gan, vững chí. Đó chính là những biểu hiện của tinh thần mạnh mẽ.

Một chuyện rất đơn giản là đi qua cầu khỉ của người miền Tây cũng đ̣i hỏi ở chúng ta ḷng can đảm. Những người chưa đi quen sẽ rất sợ hăi khi nh́n chiếc cầu bắc qua ḍng nước đang cuộn trôi chỉ là một thân cây trơ trọi. Nếu lần đầu tiên về miền Tây và tập đi cầu khỉ, chúng ta phải hết sức can đảm, tinh thần phải vững vàng, không dao động. Lúc bấy giờ , nếu sợ hăi, chúng ta sẽ bị ngă xuống sông. Khi qua rồi, chúng ta sẽ thấy ḿnh làm được điều đó là nhờ có một ḷng can đảm, một quyết tâm rất cao.

Hoặc chuyện kể về những người dẫm chân đi trên than hồng thật khó tin nhưng đó là điều có thật. Lửa than cháy đỏ rừng rực, họ dẫm chân lên, miệng tụng những câu thần chú bí hiểm. Thực ra, đó không phải là điều ǵ mầu nhiệm. Những câu thần chú ấy sẽ làm cho họ vững tâm hơn, có niềm tin hơn. Khi đă vững tâm, họ bước đi một cách tự nhiên mà chân không hề bị bỏng.

Người ta kể rằng, có một ông Thầy dạy đệ tử ḿnh đi trên than hồng. Thầy rải than và bắt đệ tử đi trên đám lửa cháy đỏ rực. Trước khi thực hành, Thầy đi qua một lần cho họ xem nhưng những đệ tử vẫn không dám đi. Lúc ấy, Sư phụ yêu cầu họ lấy mỗi người một tờ giấy và viết lên đó nỗi sợ hăi của ḿnh. Tất cả đều viết:     “Bước lên sợ nóng chân, sợ phỏng chân”. Sư phụ cầm những tờ giấy đứng niệm điều ǵ đó một lát. Niệm xong, ông đốt đi và nói : “Thầy đă đốt hết những sợ hăi. Bây giờ các con không c̣n sợ hăi nữa, hăy dẫm lên mà đi, chân sẽ không bị cháy”. Nghe lời Thầy, họ vững tin đứng lên than và đi được một cách dễ dàng.

Hoặc có người biểu diễn cho người khác xem bằng cách cầm cái chai đập vào đầu, nhưng chai vỡ mà đầu không vỡ. Người ta cho rằng đó là kết quả của việc rèn luyện ư chí chứ không có ǵ đặc biệt. Khi cầm cái chai, họ cứ chí nguyện quyết đập vỡ cái chai mà đầu không vỡ. Khi ḷng tin đă vững, họ đập mạnh một cái, chai sẽ vỡ mà đầu không hề ǵ.

Tinh thần, ư chí của con người có sức mạnh ghê gớm như vậy. Sức mạnh đó luôn tiềm ẩn trong tâm mỗi người mà chúng ta chưa phát huy được. Chính tinh thần mạnh mẽ, vững vàng ấy làm cho con người gan dạ, can đảm hơn khi đối diện với nguy hiểm. Trước cái chết, trước những hoạn nạn, khó khăn, họ vẫn vượt qua được.

Can đảm c̣n được tạo thành bởi sự thúc đẩy của Thiện tâm - tâm thương người, v́ người. Chẳng hạn, khi thấy một đứa bé rơi xuống sông đang loi ngoi vật lộn với cái chết trong khi nước sông lại sâu, ḷng sông lại rộng, sức ḿnh bơi không nổi nhưng v́ t́nh thương trỗi dậy, chúng ta liều nhảy xuống để cứu nó. Thấy vậy, những người khác tiếp tục quăng phao xuống cứu và cả hai thoát chết. Thực ra, b́nh thường chúng ta không phải là người can đảm nhưng v́ t́nh thương đối với đứa bé mà ḿnh trở nên can đảm và làm được việc tốt.

Ngày xưa, vào thời nhà Trần, quân Mông - Nguyên đă ba lần đem quân sang xâm lược nước ta. Chúng đi tới đâu, chém giết tới đó, cỏ cây cũng không mọc nổi dưới vó ngựa của chúng. Triều đ́nh phải tổ chức tiêu thổ kháng chiến. Nghĩa là người dân bồng bế, dắt díu nhau mang theo lương thực vào rừng ẩn náu. Sau đó, quân đội tổ chức chiến đấu. Có những người do căm phẫn tột độ trước sự độc ác của quân thù đă tham gia vào quân đội để chiến đấu. Ḷng căm phẫn ấy xuất phát từ t́nh yêu đối với quê hương, đất nước, đối với nhân dân. Chính t́nh yêu thương đă tạo cho họ ḷng can đảm, thúc đẩy họ làm những điều tốt, sẵn sàng xả thân v́ đất nước : “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, ngh́n xác này gói trong da ngựa”, họ vẫn cam ḷng.

Người không có khả năng, trí tuệ, sức khỏe, thế lực… khó có một tinh thần mạnh mẽ. Thậy vậy, khi không đủ trí tuệ để phán đoán, nhận định một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta thường cảm thấy bất an khi đối diện với nó. Chẳng hạn, chúng ta hay nghe người đời nhắc đến ma. Khi c̣n nhỏ, nhiều người rất sợ ma và khi đă trở thành người lớn, không ít người vẫn c̣n sợ. Ngay trong một ngôi chùa, khi nghe có người kể là đă nh́n thấy ma, ai đi lại ban đêm cũng sợ. Có lần vào lúc nửa đêm, nghe chó sủa quá, một Thầy sợ ăn trộm vào chùa nên thức dậy xem. Khi đi từ nhà tăng qua nhà khách, Thầy thấy một người không rơ nam hay nữ cầm một vật rất sáng, theo sau là một đám trẻ con, nhưng tất cả đều bước đi rất nhẹ, chân không chạm đất. Khi qua chiếc cầu bắc ngang con suối nhỏ, cả đoàn nhảy lên cây sộp và biến mất. Lúc ấy, Thầy vẫn c̣n nghe léo nhéo tiếng trẻ con nói: “Cho ăn ǵ, đói quá!”. Có lẽ mấy ngày Tết v́ quá mệt, chùa cúng thí thực không đàng hoàng nên thế giới siêu h́nh ăn không được no. Sau khi nghe kể chuyện, chùa đă bày một mâm cơm ngon lành cúng cho họ. Nhưng cũng từ đó, nhiều người không dám qua cầu ban đêm nữa v́ tin ở đó có ma.

Như vậy, v́ sao trong nhiều trường hợp, người ta tin và sợ ma ? Có lẽ người ta sợ ma v́ không biết rơ về nó. V́ là “hồn ma bóng quế” nên chúng thoắt ẩn, thoắt hiện, lúc vô h́nh khiến người ta sợ hăi . Nếu biết rơ ma ở đâu, đi lại ra sao, gương mặt như thế nào, có lẽ con người không c̣n sợ chúng nữa. Trong cuộc sống cũng vậy, những điều làm chúng ta sợ hăi thường do chúng ta không biết rơ về nó. Hay nói đúng hơn là do chúng ta không có trí tuệ để nhận định.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 255 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:34am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trường hợp người ta hay đồn về những ông thầy bùa cũng vậy. Ông ta có thể yểm, có thể thư người khác được. Nếu ghét người nào, ông chuốc bùa người đó bệnh rồi chết. Nghe đồn như vậy, đa phần ai cũng sợ thầy bùa. Sở dĩ chúng ta sợ v́ chúng ta không biết rơ bùa là ǵ . Nếu biết rơ về nó, về lực của bùa chú, chúng ta sẽ không sợ. Thực ra, bùa cũng có tác dụng nhất định. Bùa có tác dụng của tâm linh, của niềm tin nhờ sự luyện tập lâu ngày và nhờ định lực của thầy bùa. Nhưng tác dụng bùa chú c̣n lệ thuộc vào nghiệp. Ví dụ, một cái đánh của người khác tác động lên cơ thể làm chúng ta đau, nhưng nó lệ thuộc vào nghiệp. Nếu không bị cái nghiệp nào đó th́ người ta không đánh ḿnh được. Bùa cũng vậy. Nếu không mắc cái nghiệp ǵ đó th́ người ta không đánh bùa ḿnh được. Nó không phải là cái ǵ quá huyền bí, quá siêu nhiên mà con người không thể biết được. Khi hiểu về nó, chúng ta sẽ không c̣n sợ hăi nữa.

Nói đến bùa chú, chúng ta không thể không liên hệ đến chuyện ngài A Nan với Ma Đăng Già. V́ ngài A Nan rất đẹp nên cô Ma Đăng Ǵa gặp vài lần đă đem ḷng thương nhớ rồi lâm bệnh. Người mẹ t́m hiểu và cô đă kể thật mọi điều. Thương con nhưng bà mẹ không biết làm cách nào cho con khỏi bệnh. Nghe lời mách, bà đến nhờ một thầy bùa. Thầy bùa làm phép và cô gái đă tỉnh ra. Đợi ngài A Nan khất thực đi ngang, cô gái bước ra chào để cúng dường. Do sự thúc đẩy vô h́nh không ngờ được trong tâm ḿnh, ngài A Nan tự nhiên đi theo cô gái vào nhà. Khi Ngài đi vào, cô Ma Đăng Già nói lời yêu thương tha thiết. Tâm đạo Ngài rất vững nhưng bị bùa khống chế nên bị lung lay. Lúc ấy, Phật biết chuyện nên dùng thần thông hóa độ cho Ngài thoát ra. Sau đó, Phật cũng độ cho cô Ma Đăng Già xuất gia luôn.

Qua câu chuyện, chúng ta thấy tác dụng của bùa chú thật ghê gớm. Ngài A Nan là người đă tu tập đàng hoàng vậy mà vẫn bị năng lực của bùa chú tác động. Sự thật, điều này c̣n do nghiệp quá khứ. Trong quá khứ, ngài A Nan và Ma Lăng Già đă từng có duyên vợ chồng với nhau, đă từng thương yêu nhau thắm thiết nên bây giờ gặp nhau, duyên xưa trỗi dậy. Cả hai yếu tố hợp lại khiến tâm Ngài bị lung lay chứ không hoàn toàn do bùa chú.

Cũng có trường hợp nhiều người đi trên xe bị người ta đánh bùa, lấy sạch đồ đạc. Điều này không chỉ do bùa mà c̣n do nghiệp của người ấy trong quá khứ. Có thể trước kia, họ cũng đă làm điều ǵ đó nên bây giờ đến lúc phải trả nghiệp. Khi hiểu được điều này, hiểu nhân quả chi phối, chúng ta sẽ không sợ hăi thế lực siêu nhiên nữa. Nếu ai nói ông thầy bùa này ghê gớm, cao tay ấn, chúng ta cũng không sợ. Chỉ cần giữ được đạo đức, giữ ḷng tôn kính Phật và siêng năng làm việc thiện, chúng ta sẽ không sợ bất cứ thế lực nào, kể cả những thế lực siêu nhiên.

Như vậy, can đảm cũng do trí tuệ mà có. Nếu đă có Trí, có Bi, chúng ta cũng dễ dàng có được cái Dũng.

Tinh thần mạnh mẽ khiến chúng ta trở nên gan dạ, có thể đối diện với hiểm nguy c̣n được tạo nên nhờ sức khỏe. Một người không có sức khỏe, cơ thể yếu đuối, thường có tinh thần bạc nhược. Khi có sức khỏe, chúng ta cảm thấy xốc vác trong công việc, dám làm mọi việc dù rất khó khăn, vất vả. Cũng nhờ có sức khỏe, tinh thần chúng ta vững vàng hơn và dám làm được những điều mà người khác e ngại. ( Tất nhiên, trừ một số trường hợp ngoại lệ ). Nếu chùa có việc gấp, dù giữa trưa nắng chang chang hay giữa lúc mưa tầm tă, chúng ta cũng sẵn sàng nhận lănh.

Chúng ta cũng gặp không ít trường hợp người có thể chất yếu đuối nhưng tinh thần vô cùng mạnh mẽ. Có được điều đó là nhờ họ có phước. Chính phước cũng tạo nên tinh thần mạnh mẽ cho con người.   

Những người có khả năng, giỏi giang sẽ có sự tự tin, tinh thần cũng vững vàng và làm được nhiều việc. Gặp bất cứ việc ǵ họ cũng có thể làm được. Ngược lại, những người không có khả năng dễ mất tự tin, tinh thần cũng yếu đuối, không mạnh dạn bắt tay vào việc. Ai nhờ làm việc ǵ, họ cũng ngại không dám nhận lời. Bởi vậy, sự vụng về, thiếu khả năng cũng làm cho con người ta xuống tinh thần, luôn mang mặc cảm và khó thành công.

Người có tiền bạc, có địa vị, có thế lực thường là người có tinh thần mạnh mẽ. Nếu có một cơ sở vật chất vững chắc, khi ngoại giao hay trao đổi làm ăn với ai, chúng ta cảm thấy ḿnh có một tư thế vững vàng. Nếu quá nghèo khó, tiếp xúc với người khác, chúng ta thường rụt rè, không đủ tự tin. Hoặc một người có quyền hành trong tay thường quyết định mọi việc một cách dễ dàng. Những người này tinh thần cũng mạnh mẽ. Trong khi đó, những người không có quyền hành ǵ, thường là dân đen, chỉ biết nghe theo lời người khác. Tinh thần họ cũng trở nên yếu đuối.

Như vậy, người có trí tuệ, có khả năng, có sức khỏe, có tiền bạc, có địa vị… thường là những người có tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. Tất cả những điều ấy có được đều do phước. Hay nói cách khác, người có phước sẽ có tinh thần mạnh mẽ. Dựa vào đó, chúng ta có thể đánh giá được những người sống quanh ḿnh. Nh́n người nào có tinh thần mạnh mẽ, chúng ta biết người đó có phước bên trong. Những người tinh thần bạc nhược, yếu đuối, lúc nào cũng rụt rè sợ sệt, muốn nói mà không dám nói, muốn làm cũng không dám làm thường là người thiếu phước.

Trên cơ sở đó, chúng ta cũng có thể đánh giá được cái phước có được nơi bản thân ḿnh. Nếu từ trước đến nay, bản thân là người xốc vác, dám nói, dám làm, chúng ta biết ḿnh là người có phước. Hiểu như vậy, chúng ta cố gắng nuôi dưỡng, giữ ǵn. C̣n nhận ra bản thân ḿnh lúc nào cũng sợ sệt, rụt rè, chúng ta biết ḿnh thiếu phước, phải cố gắng làm phước nhiều hơn. Mỗi ngày, chúng ta nên giúp đỡ mọi người, làm lợi ích cho Phật pháp. Dần dần, tinh thần chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Nếu chịu khó quan sát chúng ta sẽ thấy điều này rất hiệu nghiệm. Nhiều người khi mới vào chùa trông hiền lành, thậm chí c̣n khờ khạo, ai nói ǵ cũng nhịn, ai sai ǵ cũng làm nhưng lại cặm cụi lo công quả, tu tập. Sau này, người đó rất có uy đức, trở thành cột trụ của Phật pháp.

Một điều chúng ta cần nhớ là khi đă có phước, tinh thần, cá tính được mạnh mẽ, chúng ta không nên lấn át người khác v́ nếu sử dụng không đúng chỗ, phước dần dần sẽ hết. Khi đó, tinh thần của chúng ta lại trở nên yếu đuối. Thói thường, những người được nhiều người khen, được nhiều người cung kính hay xuất hiện tâm tự hào. Một khi tâm tự hào xuất hiện, họ bắt đầu chấp v́ danh lợi và coi thường người khác. Bởi vậy, khi tu có tiến bộ, có những kết quả, được người khác sùng bái, khen ngợi, chúng ta phải cẩn thận, phải chuẩn bị một đạo lư, một công phu ǵ đó để làm cho nó trở nên vô hiệu.

Sự tham lam ích kỷ, thù hận có thể thúc đẩy con người dám làm những điều nguy hiểm. Ví dụ, những tên cướp dám hành động giữa ban ngày hoặc những tên trộm, ban đêm dám leo tường vào cạy cửa nhà người ta để trộm tiền bạc, của cải đều là những người có “gan to”. Nhưng cái gan của họ có được không phải do tinh thần mạnh mẽ, do sự thúc đẩy của Thiện tâm hoặc do trí tuệ mà do ḷng tham. Chính ḷng tham đă thúc đẩy họ dám làm những việc khó khăn, nguy hiểm ấy.

Ở nông thôn, có nhiều người ăn trộm rất liều. Họ thường lẻn vào nhà người khác lúc xâm xẩm tối, khi chủ nhà chưa đóng cửa và chui xuống gầm giường nằm im ở đó. Khi gia đ́nh người ta đă tắt đèn đi ngủ, người ăn trộm từ từ ḅ ra lấy đồ đạc và mở cửa tẩu thoát. Họ ăn trộm một cách nhẹ nhàng mà táo bạo như vậy. Tất nhiên, sự gan dạ ấy có được là do họ c̣n phước. Khi hết phước, họ sẽ rơi vào trạng thái yếu đuối, sợ hăi. Trường hợp “Phước tám ngón” là một ví dụ. Đây là một tên cướp nổi tiếng, từng cướp của, giết người không gớm tay, dám đưa ngón tay ḿnh ra chặt trước mặt mọi người, Công an phải truy nă bao nhiêu năm mới bắt được. Nhưng khi vào tù, phước hết nên tinh thần cũng xuống. Ngày bị đem ra pháp trường xử bắn, anh ta run sợ, chân không bước nổi nữa. Sở dĩ phước của những tên cướp như “Phước tám ngón” không c̣n khiến tinh thần bị sa sút trầm trọng v́ trước kia họ đă gây nên quá nhiều lầm lỗi.

Ngược lại, những người thật sự có Thiện tâm, tinh thần sẽ mạnh dần đến lúc chết. Lịch sử c̣n ghi lại những tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu, hy sinh v́ quê hương đất nước của những chiến sĩ cách mạng. Họ chiến đấu dũng cảm, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời ḿnh, tinh thần họ vẫn vững vàng. Liệt sĩ Nguyễn Thái Học, lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, khi bị đưa lên đoạn đầu đài vẫn hiên ngang, không hề run sợ. Trước lúc chết, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn c̣n hô lớn: “Việt Nam muôn năm !” Sở dĩ tinh thần của những chiến sĩ mạnh mẽ cho đến phút cuối cùng v́ họ có phước lớn. Họ đă sống và chiến đấu v́ quê hương đất nước, v́ tâm thiện.

Trong cuộc sống, nh́n vào tinh thần của những người già, chúng ta cũng sẽ biết trong suốt cuộc đời, họ có làm nhiều điều thiện hay không. Những người lớn tuổi mà đầu óc vẫn minh mẫn sáng suốt, tinh thần vẫn vững vàng, mạnh mẽ là những người suốt cả một đời chất chứa điều thiện. Ngược lại, những người già có tinh thần yếu đuối, hiu hắt như ngọn đèn trước gió thường là những người không làm được bao nhiêu điều thiện trong cuộc đời ḿnh.

Nếu nh́n thấy những người thân của ḿnh có một tinh thần yếu đuối, các Phật tử hăy khuyên họ làm phước. Chúng ta biết rằng, người sắp ĺa khỏi cuộc đời mà tinh thần yếu đuối th́ khi chết sẽ không được đi về cơi siêu thoát. Ngược lại, những người đến lúc chết vẫn vững vàng sáng suốt, hiền lành, tỉnh táo th́ khi chết sẽ được đi về nơi sang quư, về cơi trời. Đặc biệt, những người c̣n trong độ tuổi thanh xuân thường có sức khỏe tốt nên tinh thần mạnh mẽ. Nếu ở vào tuổi này mà cảm thấy tinh thần yếu đuối, chúng ta phải lo làm phước, sống một đời hy sinh cho người khác.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 256 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:38am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. MỘT VÀI TẤM GƯƠNG.

T́m hiểu một vài tấm gương của người xưa, chúng ta sẽ có thêm những bài học quư trong việc rèn luyện tinh thần, ư chí. Ngày xưa, vào thời Đức Phật, trong những khu rừng Ấn Độ có rất nhiều thú dữ, nhất là cọp, beo, sư tử, măng xà… sinh sống. Vậy mà, có những lúc Phật chấp nhận sống một ḿnh cô đơn trong rừng sâu để tu tập, nhất là trong 49 ngày Ngài ngồi thiền nhập định, trước khi thành tựu Phật quả. Đó là một thử thách ghê gớm đ̣i hỏi phải có một ḷng can đảm đặc biệt. Khi nhập được định vào khoảng Nhị thiền, những ảo ảnh Ma Vương hiện ra quấy phá Ngài. Trong những cảnh quấy phá ấy có cảnh Ma Vương muốn làm cho Ngài phải khiếp sợ, phải di động cơ thể để mất Thiền định. Muôn ngàn Ma quân cầm gươm dao chém tới tấp vào Ngài. Cảnh hiện ra trông như thật chứ không phải là ảo ảnh. Chỉ cần cơ thể nhúc nhích, tâm dao động là Ngài sẽ mất ngay Thiền định. Nhưng lúc ấy, Ngài vẫn không nhúc nhích. V́ trước khi bắt chân lên ngồi, Ngài đă phát lời đại nguyện : “Nếu không thành tựu vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta thà tan xương, nát thịt chớ không rời khỏi ṭa này” - một lời thề thật quyết liệt. V́ vậy, khi muôn cảnh hiện ra với những người cầm dao chém tới tấp, Ngài coi như ḿnh đă chết, ngồi yên không cử động. Nhưng tất cả vẫn không chém được Ngài bởi đó chỉ là ảo ảnh. Một lần khác, khi Ma quân cầm cung tên bắn vào người Ngài, Ngài vẫn ngồi đó, chấp nhận chết, quyết không nhúc nhích cơ thể. Nhưng kỳ lạ thay, những mũi tên ấy bay tới biến thành những đóa hoa rơi lả tả quanh Ngài.

Đây là một câu chuyện đẹp và lăng mạn ca ngợi tinh thần dũng cảm, ḷng can đảm, cái đại hùng đại lực của một người trên đường đi t́m sự giác ngộ v́ con đường đi đến giác ngộ không phải là con đường đơn giản.

Hoặc chuyện ngài Quy Sơn Linh Hựu đối diện với cọp trên núi cũng là một gương sáng về ḷng can đảm. Một thầy Địa lư đă nói cho ngài Bá Trượng, ngài Quy Sơn một thắng cảnh tốt có thể quy tụ cả một ngàn năm trăm người. Ngài Quy Sơn xin đi về vùng núi đó. Khi đến nơi, Ngài chỉ cất một cốc nhỏ, một am tranh để ở và tu. Trên đường đi, có khi Ngài phải lượm trái rừng mà ăn, có khi c̣n gặp cọp, beo… nhưng Ngài vẫn không sợ. Chúng ta biết, cọp là loài vật hung dữ, có tướng đi vững chắc, oai vệ, đôi mắt sáng rực, tiếng gầm vang cả núi rừng. Người yếu đuối đứng trước mặt một con cọp sẽ bủn rủn tay chân, có khi ngất xỉu v́ quá sợ hăi trước thần lực của nó. Muông thú trong rừng đều sợ họ nhà cọp. Nhiều con vật khi đă gặp nó, không đủ sức chạy nữa v́ sức thôi miên của nó. Nhưng tinh thần ngài Quy Sơn Linh Hựu vẫn vững vàng. Thấy con cọp chặn đường, Ngài nói : “Nếu ta có duyên với núi này, ngươi tránh qua bên; c̣n nếu ta không có duyên, ngươi cứ ăn thịt”. Nói rồi, Ngài xăm xăm đi tới. Nhưng con cọp đă tránh qua một bên. Thần lực của Ngài rất vững vàng, tinh thần của Ngài rất mạnh mẽ đến cọp cũng phải nể.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 257 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:43am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Chuyện cọp vào quy y với ngài Hư Vân cũng thật kỳ lạ. Ḥa thượng Hư Vân là người rất đặc biệt. Khi Ngài giảng Kinh trong chùa, một con cọp trên núi cũng xuống vào chùa xin quy y. Gần đây nhất là câu chuyện ngài Hư Vân dám đi thẳng vào quân trại gặp thống binh Lư Căn Nguyên để ngăn chặn việc phá chùa, bắt Tăng ở Trung Hoa. Khi Cách mạng Tân Hợi thành công (1911) đánh đổ được triều đại nhà Măn Thanh, chấm dứt triều đại phong kiến tồn tại hàng mấy ngàn năm và thành lập nước Trung Hoa Dân quốc, Tôn Văn ( là Tôn Dật Tiên ) lên làm Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa. Ông là người theo Tây học và có theo đạo Thiên Chúa. V́ vậy, chính quyền của ông rất có ác cảm với đạo Phật và ra lệnh đập phá chùa chiền, bắt Tăng sĩ. Trong đó, thống binh Lư Căn Nguyên là người cực đoan, chống lại đạo Phật rất quyết liệt. Ông đem quân tràn xuống miền Vân Nam, nơi ngài Hư Vân đang ở, bắt Tăng sĩ giam vào tù, phá dỡ hết chùa chiền. Nghe nói ngài Hư Vân rất nổi tiếng, là người thuộc hàng lănh đạo của Phật giáo, ông ta có ư định sẽ đến đó bắt giam luôn Ngài. Ông đưa quân về đó lập doanh trại nên Tăng chúng trong các chùa đều xin đi nơi khác, không ai dám ở lại. Ai cũng lo sợ, khuyên Ngài hăy đi lánh nạn nhưng Ngài nói: “Các vi muốn đi th́ cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo th́ lẩn trốn có ích chi. Ta sẵn sàng đem thân mạng ḿnh hy sinh cho Phật pháp”. Rồi Ngài đích thân một ḿnh đi đến doanh trại xin gặp ông thống binh. Khi tới cổng trại, những người lính biết Ngài là bậc chân tu đă khuyên Ngài nên trốn đi, nếu không tai họa sẽ ập đến. Nhưng Ngài nói : “Không, cho tôi vào gặp thống binh” và đi thẳng vào doanh trại. Vốn không có cảm t́nh ǵ lại thấy Ngài dám vào nói chuyện với ḿnh, thống binh Lư Căn Nguyên sắc mặt nóng giận hỏi Ḥa thượng:

- Phật giáo dùng để làm ǵ, có ích lợi chi ?

Ḥa thượng Hư Vân đáp:

- Ân đức giáo hóa của Thánh nhân thật vô lượng.… Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lư lẽ thâm sâu đều v́ tạo việc lành, dẹp trừ điều ác… Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Nếu gốc chân chính th́ muôn việc đều b́nh an, trời đất luôn thái b́nh.

Nghe Ḥa thượng trả lời như vậy, ông ta hỏi tiếp:

- Vậy chứ c̣n tượng đồng, tượng gỗ để làm ǵ vậy, chỉ tốn hao tiền của dân chúng thôi chứ ích lợi ǵ ?

……

- Nếu thế, tại sao các tăng sĩ không làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xă hội ?

…….

Khi nói chuyện, ông ta công kích đạo Phật rất dữ dội. Tất nhiên, trước sự công kích của người khác, chúng ta phải suy nghĩ lại. Chúng ta phải nghĩ xem trong thời đó, quư Thầy đă làm ǵ để người ta kết luận sự hiện diện của đạo Phật không đem lại ích lợi cho cuộc đời này mà đem lại sự tốn kém; c̣n các Tăng sĩ như những kẻ phế thải trong xă hội ? Suy nghĩ về lời phê phán nặng nề của người khác một cách sâu sắc, chúng ta sẽ thấy được lỗi của ḿnh. Trong trường hợp này, ngài Hư Vân đă b́nh tĩnh trả lời từng câu hỏi của ông thống binh bằng đạo lực và uy đức của ḿnh. Nhờ vậy, từ một con người công kích đạo Phật rất nặng, bắt hết Tăng sĩ, dọa bắt luôn ngài Hư Vân, vị thống đốc kia trở nên có cảm t́nh với Ngài và cảm t́nh với đạo Phật. Ông ta đă nhận ra Phật pháp thật cao siêu . Sau này, vị tướng họ Lư vào chùa xin quy y, nguyện xin làm đệ tử của Ḥa thượng và thỉnh Ngài làm tổng trụ tŕ toàn núi Kê Túc.

Câu chuyện cho thấy tấm gương can đảm của ngài Hư Vân. Nếu không do đức tu hành khổ hạnh và ḷng can đảm, làm sao Ḥa thượng có thể chuyển tâm được viên tướng Lư Căn Nguyên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế? Chuyện ngợi ca những gương can đảm trong đạo Phật như vậy rất nhiều. Chúng ta chỉ nêu một vài chuyện tiêu biểu để làm gương.

Trong chiến tranh, có biết bao tướng sĩ dũng cảm xông pha vào chỗ chết để chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Chúng ta từng nghe sử sách kể về tấm gương can đảm của ông Trần B́nh Trọng. Vào thời nhà Trần, quân Mông Cổ đem quân xâm lược nước ta. Bọn chúng là những kẻ hiếu sát và khát máu. Gặp quân ta, chúng giết ngay chứ không cần bắt làm tù binh. Nhưng khi bắt được Trần B́nh Trọng, bọn chúng không giết mà yêu cầu ông hợp tác và hứa nếu ông đồng ư, chúng sẽ phong Vương cho ông. Trần B́nh Trọng trả lời một cách khảng khái : “ Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Câu trả lời nổi tiếng của ông đă đi vào sử sách và tên tuổi của ông đă được lưu danh muôn thuở.

Tuy sự nghiệp của Trần B́nh Trọng không được sử sách viết nhiều nhưng là người tu học, chúng ta phải suy luận xem ông có uy đức ǵ khiến những tên lính khát máu đó phải nể phục ? Có thể nói, Trần B́nh Trọng có một thần thái phi thường, phát ra bên ngoài ở sự cương nghị, ở phong thái đĩnh đạc và tư thế hiên ngang, bất khuất. Nếu không bị bắt, không bị giết chết, có lẽ ông sẽ có nhiều cống hiến lớn lao hơn cho đất nước. Con người ấy rất phi thường mà chúng ta không thể nào khai thác hết được.

Hoặc chuyện kể về Nguyễn Biểu cũng được lịch sử ghi lại như một tấm gương sáng về ḷng can đảm. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, ông đại diện cho Lê Lợi đến thương lượng với giặc. Một ḿnh ông dám đi vào doanh trại của giặc trong khi bọn chúng đang t́m cách tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn. Khi tiếp kiến, bọn giặc đă chặt đầu một tù binh đem hấp, mắt c̣n mở trừng trừng và đặt lên bàn để đăi ông. Nhưng ông vẫn b́nh tĩnh lấy đũa gắp hai con mắt bỏ vào miệng nhai nuốt trước sự ngạc nhiên của bọn giặc. Con người ấy quả thật có một ḷng can đảm, một tinh thần mạnh mẽ, vững vàng.

Lật lại từng trang lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ xưa đến nay, chúng ta c̣n thấy lấp lánh biết bao tấm gương khác về ḷng can đảm, về tinh thần dũng cảm, không khuất phục trước kẻ thù. Chúng ta rất tự hào khi tổ tiên ḿnh có những con người phi thường như thế…

Hiện nay, trên thế giới vẫn đang tồn tại những tổ chức tội ác rất tinh vi như: Mafia ở Âu Châu hay Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông… Bọn Mafia hoạt động có tổ chức rất chặt chẽ và có một quy định gần như thành luật, luật bất thành văn gọi là luật im lặng. Nghĩa là thấy chúng giết người hay làm bất cứ việc ǵ ở đâu, mọi người đều phải im lặng. Nếu không, chúng sẽ trừng trị thẳng tay, không tha thứ. V́ vậy, suốt một thời gian dài, không ai dám tố cáo bọn tội phạm đó. Chúng vẫn lộng hành nhưng cảnh sát không thể nào điều tra được. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, toàn dân Ư đă đứng lên chống lại. Họ chấp nhận chết, quyết không chịu im lặng. Nhờ phá vỡ luật im lặng ấy mà tổ chức tội phạm Mafia dần dần bị tiêu diệt. Trong cuộc chiến đấu chống lại bọn tội phạm ấy, có những vị quan ṭa đă phải trả giá bằng cả sinh mạng của ḿnh. Tiêu biểu cho những con người kiên quyết chống lại bọn Mafia ấy là Falcon. Ông chiến đấu chống bọn tội phạm rất có hiệu quả. Nhưng cuối cùng, bọn chúng điều tra và nắm được lộ tŕnh của ông. Một lần trên đường đi về từ sân bay, xe ông bị chúng đặt bom làm nổ tan tành. Ông đă phải trả giá bằng cả sinh mạng của ḿnh. Những người sau vẫn kế tục sự nghiệp chống bọn tội phạm của ông một cách gan dạI, kiên tŕ, không mệt mỏi.

Trong cuộc đời, nếu nhiều người dám chống lại tội ác, không hề sợ hăi, tội ác sẽ dần dần bị đẩy lùi. Nếu chúng ta lúc nào cũng dè dặt, sợ hăi, tội ác sẽ lan tràn măi, lan tràn măi như cỏ dại gặp mùa xuân.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 258 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 3:45am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4. CÔNG ĐỨC.

Chúng ta biết rằng, tạo phước trong điều kiện dễ dàng, phước sẽ không nhiều. Chính sự cố gắng quá độ mới đem lại cho chúng ta phước lớn. Nếu tạo phước trong điều kiện nguy hiểm th́ công đức vô cùng lớn. Đây là điều chúng ta cần khẳng định lại.

Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, Phật pháp c̣n gặp rất nhiều khó khăn. Nếu nghĩ rằng Phật pháp hiện nay đang phát triển trong hoàn cảnh thuận tiện, chúng ta sẽ mất đi ư thức phấn đấu để giáo hóa chúng sinh, để xây dựng Phật pháp. Sở dĩ đạo Phật gặp nhiều khó khăn là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết, bên cạnh những cán bộ có thiện cảm, giúp đỡ cho đạo Phật phát triển, vẫn có nhiều viên chức Nhà nước c̣n ác cảm với đạo Phật, luôn gây khó khăn, cản trở những người làm Phật sự. Đây là một sự thật. V́ vậy, hoạt động Phật pháp trong hoàn cảnh có nơi chính quyền có thiện cảm với đạo Phật, có nơi không có thiện cảm, chúng ta sẽ rất vất vả. Nhiều cán bộ c̣n ảnh hưởng tư tưởng cho rằng đạo Phật, tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng theo tín ngưỡng cũng đồng nghĩa với mê tín. V́ thế, họ luôn luôn gây khó khăn cho chúng ta. Nhiều khi họ c̣n nghi kỵ những người về vùng hẻo lánh mang Phật pháp, đạo đức đến cho con người. Họ cho rằng những người ấy có liên quan đến chính trị và luôn theo dơi, ŕnh rập. Những lúc như vậy, nếu sợ hăi, không dám đương đầu với nguy hiểm, chúng ta sẽ không làm được việc cho Phật pháp. Mỗi người phải can đảm, cứ tiếp tục làm việc Phật pháp để giáo hóa chúng sanh. Chính những việc làm tốt của chúng ta, chính nhân cách đạo đức của chúng ta sẽ giúp họ hiểu ra sự thật.

Bên cạnh đó, c̣n có không ít những quần chúng c̣n chỉ trích tu sĩ. Đó là những người không có tín ngưỡng, không có niềm tin vào Phật pháp. Nhiều khi nh́n thấy người tu, họ c̣n xem thường, thậm chí công kích. Tất nhiên, người xuất gia chúng ta cũng cần xem lại nhân cách, tư cách đạo đức của ḿnh. Có thể có trường hợp “một con sâu làm rầu nồi canh”, khiến họ “vơ đũa cả nắm” và có ác cảm với người tu. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng, phấn đấu rèn luyện tư cách đạo đức của ḿnh để làm gương cho những người đi sau. Chúng ta làm sao cho tất cả những người tu đều có đạo đức tốt, đều có ḷng thương yêu chúng sanh, có lư tưởng thiết tha hướng về sự giác ngộ giải thoát. Có như vậy, cuộc đời này sẽ bớt đi người xấu và quần chúng bên ngoài bớt đi sự công kích. Đó cũng là cách để chúng ta đền ơn Phật. Chúng ta quyết không để v́ một người xấu mà ảnh hưởng đến uy tín của đạo Phật.

Ngoài những nguyên nhân trên, các cuộc cạnh tranh tôn giáo cũng gây khó khăn cho sự phát triển của đạo Phật. Đạo Phật vốn rất hiền lành, thậm chí nhu nhược trong khi các tôn giáo khác luôn âm thầm có những kế hoạch lôi kéo tín đồ. Chẳng hạn, một người trong đạo lấy chồng hay lấy vợ đều phải chọn người theo đạo hoặc buộc người khác phải theo đạo của họ. Hoặc con cái sinh ra phải theo đạo của cha mẹ. Trong khi đó, đạo Phật không quan tâm đến điều này. Nhiều người theo đạo Phật nhưng khi lấy chồng, lấy vợ lại bỏ đạo để theo đạo của chồng hoặc vợ ḿnh. Có khi, cha mẹ theo đạo Phật nhưng lại không hướng cho con cái theo đạo Phật, cứ quan niệm khi lớn lên, tùy con cái lựa chọn tín ngưỡng cho ḿnh… Đó là thái độ vô trách nhiệm của Phật tử hiện nay mà người tu chúng ta cần phải lưu ư.

Không chỉ đơn giản là giành tín đồ, một số tôn giáo c̣n có những kế hoạch phá đạo Phật rất thâm hiểm. Chúng ta biết rất rơ điều đó. Mặc dù ḷng vẫn từ bi, không thù ghét nhưng chúng ta cũng phải hiểu đây là một sự đe dọa lớn đến việc phát triển đạo Phật.


Đối với đạo Thiên Chúa, việc truyền bá đạo cũng nằm trong khuôn khổ luật pháp nên không gây nhiều khó khăn cho các tôn giáo khác. Nhưng Hồi giáo là một trong những đạo tranh giành tín đồ, tranh giành đất đai bằng súng đạn. Tại những vùng đạo Hồi phát triển, thân phận người theo đạo Phật rất nguy hiểm. Có những vùng trước kia là đạo Phật, bây giờ trở thành đạo Hồi cũng bằng con đường bạo lực, bằng sự mạnh mẽ, cuồng tín của họ. I-ran, Ba Tư ngày xưa được coi là những nước có đạo Phật phát triển mạnh, bây giờ trở thành một nước chỉ có đạo Hồi ngự trị. Hay một đất nước Ấn Độ rộng mênh mông, trước kia đạo Phật chiếm lĩnh, bây giờ thành đất nước của Hồi giáo, của Ấn Độ giáo. Những vùng như Indonesia, Mă Lai cũng là nơi đạo Phật phát triển bây giờ đă thành vùng đất của Hồi giáo. Hay ở Thái Lan, Phật giáo vốn là Quốc giáo, bây giờ miền Nam Thái Lan đang dần dần trở thành đất của Hồi giáo….

Hiện nay, tại Việt Nam, một số đền thờ Hồi giáo đă xuất hiện. Họ cũng đang ngấm ngầm nhận được sự tài trợ để truyền bá đạo của ḿnh. Nếu chúng ta cứ thờ ơ, không nh́n xa, nh́n rộng, không thấy được trách nhiệm của ḿnh đối với đạo Phật th́ tiền đồ của Phật pháp sẽ không thể nào tươi sáng. Ngay từ đầu, chúng ta đă xác định là không có hành động tranh giành tín đồ nhưng mỗi người phải có trách nhiệm đem Phật pháp giáo hóa rộng răi khắp nơi để mọi người biết được luật Nhân Quả. Không biết luật Nhân Quả là một thiệt tḥi lớn cho chúng sinh. V́ vậy, chúng ta phải truyền bá Phật pháp để truyền được luật Nhân Quả, đem ánh sáng trí tuệ đến cho con người. Nếu chúng sinh tin được luật Nhân Quả, họ sẽ có chánh kiến vững chắc để đi trong luân hồi bớt đau khổ. Đồng thời, họ được soi ḿnh trong ánh sáng của Phật pháp.

Trong đạo Phật c̣n có lư tưởng, có con đường đưa đến sự giải thoát giác ngộ. Đó là nơi hạnh phúc, an vui thật sự tuyệt đối mà các đạo khác không có. Chính v́ vậy, chúng ta luôn luôn cố gắng đem Phật pháp truyền bá cho mọi người. Tuy nhiên, lư tưởng thật cao đẹp nhưng do tinh thần yếu đuối, nhu nhược nên cuối cùng chúng ta đă để biết bao nhiêu chúng sinh rơi vào tà kiến của các tôn giáo khác. Đó là một nhược điểm mà chúng ta phải khắc phục.

Hiện nay, ngay trong nội bộ đạo Phật cũng chưa có sự đoàn kết, vẫn c̣n những phần tử kết bè phái để mưu hại người tốt. Đây là điều đau ḷng nhất trong Phật pháp. Không ít người tuy mang h́nh thức Tăng sĩ nhưng sự thật là người không tốt. Có những người do quen biết, có thế đứng trong Giáo hội, nắm được thế lực nhưng lại dùng thế lực ấy để hà hiếp người khác, vơ vét quyền lợi cho ḿnh, không lo lắng ǵ cho Phật pháp. Sống trong những môi trường như vậy, chúng ta cũng phải can đảm, không ngần ngại khi nói ra sự thật này. Có những lúc không đấu tranh được, chúng ta phải biết chịu đựng nhưng cũng chịu đựng với một thái độ gan dạ.

Một điều nữa chúng ta cũng cần phải quan tâm. Đó là những cách thức có tính hủ bại trong sinh hoạt của Tăng sĩ. Ở đây chúng ta không tiện phân tích kỹ nhưng sự thật có nhiều chuyện rất đau ḷng, cần phải được chấn chỉnh. Nói ra điều này, chấn chỉnh điều này chắc chắn chúng ta sẽ gặp những phản ứng gay gắt, thậm chí c̣n bị nhiều người thù ghét, công kích và t́m cách mưu hại. Trong hoàn cảnh hiện nay, sự căm ghét, mưu hại cũng là một trong những mối nguy hiểm mà chúng ta phải đối phó trong quá tŕnh sinh hoạt Phật giáo. Khi bước ra làm việc đạo, chúng ta phải xác định rằng ḿnh phải đi trong chông gai, trong sóng gió, biết bao hiểm nguy đang ŕnh rập. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải trang bị cho ḿnh ḷng can đảm cao độ để có thể vượt qua những khó khăn, nguy hiểm để có thể làm được nhiều điều lợi ích cho chúng sinh, góp phần xây dựng Phật pháp. Và quan trọng hơn nữa là để chúng ta đền ơn chư Phật, chư Thánh, đền ơn những vị Tôn túc đă đi trước dẫn dắt chúng ta. Được sống trong môi trường yên ả, thanh b́nh để tu học, chúng ta hoàn toàn nhờ vào công lao của những bậc Tôn túc đi trước, gần nhất là quư Thầy trong Ban Giám hiệu, xa hơn nữa là bao nhiêu vị Ḥa thượng chân tu đă tiếp nối giáo hóa Phật pháp. Chính các vị đă giáo hóa rất nhiều Phật tử cho những thế hệ đi sau ḿnh. Chúng ta phải hiểu rằng, việc hộ đạo luôn luôn là việc của cư sĩ. Không có họ, chúng ta khó có thể duy tŕ được Phật pháp. Nghĩ đến điều đó, chúng ta phải tiếp tục giáo hóa để Phật tử về sau lại tiếp tục hộ đạo, duy tŕ Phật pháp, nuôi dưỡng chư Tăng ở thế hệ sau. Đó cũng là trách nhiệm vô cùng thiêng liêng của mỗi chúng ta.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 259 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 4:39am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5. NHỮNG PHẢN ỨNG PHỤ.

Tâm can đảm cũng có những phản ứng phụ. Trước hết, sự can đảm dễ trở thành sự kiêu mạn; người can đảm cũng dễ là một người kiêu mạn. V́ qua một lần sử dụng sức mạnh của tinh thần, tự nhiên bản ngă được kích động và lớn dần lên.

Ví dụ, một lần nọ, mấy tay du côn ở đâu kéo đến chùa, tấn công mọi người. Trong chùa, có một Thầy biết vơ, gan dạ đứng ra đánh lại bọn chúng bảo vệ chùa, bảo vệ Tăng đoàn, Tăng chúng. Sự can đảm, chiến thắng những kẻ du côn hung bạo đó đă làm cho người ấy kiêu mạn, tự hào. Đó là tâm lư rất dễ xuất hiện trong mỗi người. Bởi vậy, chúng ta phải xác định, đi t́m sự giải thoát phải vừa can đảm, vừa khiêm hạ. Dũng là một đức tính rất cần thiết của người tu nhưng trong gian nguy, làm được điều ǵ cho Phật pháp, chúng ta cũng phải thấy ḿnh chỉ là cỏ rác, cát bụi mà thôi. Có như vậy, tâm kiêu mạn mới không có dịp khởi lên.

Sự can đảm cũng dễ tạo thành tính nóng nảy. Thông thường, những người có tinh thần mạnh mẽ, xốc vác, dám xông pha vào những nôi khó khăn cũng là người dễ nổi sân. V́ kiêu mạn nổi lên th́ sân sẽ đi theo. Do đó, chúng ta phải lưu ư điều này. Chúng ta rất gan dạ, rất can đảm nhưng cũng rất hiền lành, điềm đạm. Đó là tính cách đặc biệt của người theo đạo Phật.

Đọc những câu chuyện viết về cuộc đời ngài Hư Vân, chúng ta thấy con người này có phong thái ung dung, tính t́nh vô cùng hiền lành nhưng khi gặp nguy hiểm lại can đảm đối diện, không hề sợ hăi. Chúng ta phải học theo tinh thần ấy của Ngài. Nếu gặp khó khăn nguy hiểm, chúng ta sẵn sàng gánh vác cho mọi người nhưng lúc nào cũng giữ thái độ khiêm tốn, phong thái hiền lành, nhẹ nhàng.

Một điều chúng ta cũng thường thấy là sau một khó khăn, nguy hiểm để hồn thành công việc tốt, người ta dễ sinh tâm niệm cậy công. Đó là sự kể công, là nhớ công lao của ḿnh. Ví dụ, một người rất can đảm, từng xông xáo trong đám lửa cháy rừng rực để cứu của, cứu người thốt nạn nhưng sau đó cứ nhớ măi việc làm của ḿnh. Thỉnh thoảng, người ấy nhắc lại với một niềm tự hào, một chút cậy công theo kiểu: “Nếu không nhờ tôi, tất cả bây giờ đă trở thành tro bụi …”.

Tâm niệm cậy công cũng là một điều làm chướng đạo. Chúng ta phải tránh tâm niệm ấy. Trong hiểm nguy, gian khó, nếu đă quyết tâm làm được điều ǵ tốt th́ chúng ta phải để công lao đó bay theo mây, theo gió, đừng bao giờ nhớ đến nữa, cũng đừng mong ai phải nhớ điều đó nữa. Thử liên hệ đến truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, chúng ta sẽ thấy không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta ngày xưa đă để cho câu chuyện “Thánh Dóng” kết thúc một cách hoang đường kỳ lạ như vậy. Người anh hùng làng Dóng sau khi đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cơi nước nhà đă phi ngựa lên núi Sóc Sôn, cởi nón sắt, giáp sắt bỏ lại, một ḿnh một ngựa bay thẳng lên trời biến mất. Đó cũng là biểu hiện của tấm ḷng v́ nước, v́ dân, sẵn sàng chiến đấu nhưng không cần người đời ghi nhớ và biết ôn.

Tâm can đảm c̣n có một phản ứng phụ khác. Đó là sau khi đối diện với hiểm nguy, chết chóc trở về, con người dễ trở thành những người tàn nhẫn. Thực tế đă chứng minh điều đó. Nhiều người lính từng có những năm tháng gian khổ, cận kề với cái chết từ chiến trường trở về đă có những biểu hiện rất tàn nhẫn. Họ ra đi chiến đấu v́ chính nghĩa là điều hoàn toàn đúng. Nhưng khi đối diện với nguy hiểm, ḷng can đảm, sự gan dạ sẽ tăng lên. Rồi bản ngă, sự tàn nhẫn v́ thế cũng tăng lên theo. Khi trở về hậu phương, nếu không biết tu sửa, kiềm chế, họ dễ có những hành động thô bạo. Nhiều khi chỉ cần người khác nói điều ǵ không vừa ư, họ có thể đánh đập một cách tàn nhẫn.

Hiểu được những phản ứng phụ đi theo tâm can đảm như vậy, chúng ta phải rất cẩn thận. Một mặt, chúng ta phải can đảm gan dạ, đối diện với nguy hiểm nhưng mặt khác lại hết sức từ bi, thương yêu con người. Đó là lư do v́ sao Phật đưa yếu tố Bi lên trước Trí và Dũng.

Là đệ tử Phật, chúng ta phải tu tập tâm từ thuần thục, ngày đêm quán từ bi cho thật kỹ để làm nền tảng cho tính can đảm ( Hùng lực). Quán từ bi là việc rất quan trọng nên chúng ta phải huân tập lâu dài. Khi quán được tâm từ bi, chúng ta sẽ thấy mọi việc trong cuộc sống dần dần thay đổi và thái độ của chúng ta đối với con người cũng thay đổi. Được như vậy, sau này chúng ta sẽ làm được nhiều việc tốt cho Phật pháp nhưng vẫn giữ được đức khiêm tốn, vẫn thương yêu con người, vẫn không xem ḿnh là quan trọng.


Khi c̣n là Tăng sinh, dù được quư Thầy che chở , được sống trong môi trường b́nh yên, nhưng biết can đảm, dũng lực, là một đức tính quan trọng của người tu Phật, chúng ta phải tập dấn thân vào nguy hiểm, khó khăn để rèn luyện đức tính ấy. Khi có việc khó khăn, cực nhọc hoặc nguy hiểm, chúng ta không ngần ngại giành lấy về ḿnh, không được tránh né hay tỏ ra sợ hăi. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tích lũy phước từng chút để tinh thần được mạnh mẽ. Chính tinh thần mạnh mẽ là yếu tố cô bản để tạo nên tính can đảm về sau. Nếu tinh thần yếu đuối, khi gặp chuyện nguy hiểm, chúng ta sẽ không dám đương đầu.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 260 of 349: Đă gửi: 15 April 2005 lúc 4:40am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bài tiếp theo: Bài 21- BIẾT ƠN
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

<< Trước Trang of 18 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.9863 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO