Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 197 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC hay những bài học về ĐẠO ĐỨC! Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 221 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:28pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

BÀI 17: KÍN ĐÁO





1.KÍN ĐÁO LÀ KHÔNG NÓI VỀ BẢN THÂN M̀NH CHO NGƯỜI KHÁC BIẾT.

Thông thường, sự kín đáo không nói về bản thân ḿnh cho người khác biết được xét trên hai phương diện: một là Đạo đức, hai là sự khôn ngoan. Đang học về Tâm lư Đạo đức cho nên chúng ta chỉ t́m hiểu sự Kín đáo như một hạnh đẹp của Đạo đức.

Là một người tu hành, dù là cư sĩ hay người xuất gia, v́ Đạo đức, chúng ta ít nói về bản thân ḿnh. Ngay cả khi có những điều hay, chúng ta cũng không nói cho người khác biết. Trong khi đó, theo tâm lư thường t́nh của con người, khi thấy ḿnh có những điều hay, người ta dễ bộc lộ ra bên ngoài hoặc kể lại cho người khác nghe. Có chút tài năng ǵ, có một tài sản ǵ, họ cũng nói ra. Hoặc làm được một việc phước lành, họ cũng kể cho người khác biết. Hay nói cách khác, những ǵ làm cho ḿnh có giá trị trước mắt mọi người, họ đều thích kể cho nhiều người biết.

Thích nói ra những cái hay, cái tốt của ḿnh cho người khác biết, đó là tâm lư thường t́nh của con người. V́ người ta nghĩ rằng, những điều đó làm cho họ tăng thêm giá trị và khiến người khác phải nể phục. Tâm lư thèm khát sự cảm phục của người khác là tâm lư rất mănh liệt của con người. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, Kín đáo- không kể những điều tốt của ḿnh cho người khác biết là một biểu hiện của Đạo đức. V́ trong thâm sâu, chúng ta không thấy ḿnh là người quan trọng, không cần sự nể phục của người khác nên cũng không cần phải kể những chuyện tốt của ḿnh. Đây là Tâm của một người có chấp ngă tương đối nhẹ. Thường những người ấy đă đạt được Thiền định rất tốt sẽ không thấy ḿnh là quan trọng. Thực ra, họ không muốn kể cho ai nghe về ḿnh chứ không phải giấu giếm điều ǵ về ḿnh. Chúng ta phải phân biệt được hai trường hợp như vậy. V́ có những người vẫn thấy ḿnh quan trọng nhưng muốn giấu người khác nên không nói ra. Tâm của những người này chưa thật sự hợp với Đạo.

Ví dụ, một người thấy ḿnh có một món tiền kha khá nên rất tự hào v́ nghĩ ḿnh có giá trị hơn mọi người nhưng họ vẫn giấu, không nói ra v́ sợ phải giúp đỡ những người khác. Rơ ràng, trường hợp này cũng giấu, cũng kín đáo không nói về bản thân ḿnh nhưng không phải là biểu hiện của Đạo đức. Điều này hoàn toàn khác với người biết ḿnh có nhiều tiền hơn người khác nhưng cho rằng như vậy không có ǵ quan trọng. Trên thực tế, số tiền ấy cũng chưa cần phải giúp ai nên họ không cần nói ra. Bởi thấy những ǵ thuộc về ḿnh không quan trọng nên khong cần phải bày tỏ cho người khác biết. Đây là yếu chỉ căn bản nhất của hạnh Kín đáo.

Khi nói ra những cái hay của ḿnh nghĩa là chúng ta đang khoe khoang, trong tâm chúng ta đang ngầm có sự kiêu mạn về điều hay, điều tốt đó của ḿnh. Đây là sự tổn thất trong Đạo đức, chúng ta phải cẩn thận. Khi lớn lên, càng tu hành, càng giữ giới, càng làm được nhiều việc thiện, chúng ta càng có công đức với Phật pháp và phước cũng tăng lên. Sự ngưỡng mộ của người khác cũng dần dần xuất hiện. Lúc đó, chúng ta dễ chấp vào nó và sinh tâm kiêu mạn. Chính kiêu mạn là cái gốc làm nên sự khoe khoang.





Sửa lại bởi QuangQuy : 01 April 2005 lúc 11:30pm
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 222 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong bài Khiêm hạ, chúng ta đă nói rất nhiều về kiêu mạn, kiêu mạn ở trong tâm. Bây giờ, sự kiêu mạn dễ nh́n thấy hơn khi đă thốt lên thành lời khoe khoang. Thật vậy, có những lỗi trong tâm ḿnh, chúng ta không dễ dàng nh́n thấy, trong đó có sự kiêu mạn. Nhưng khi buột miệng nói ra lời khoe khoang, tự nhiên chúng ta sẽ sực tỉnh: “Th́ ra ḿnh vừa mới khoe khoang, ḿnh đă có sự kiêu mạn”. Như vậy, trường hợp không đủ trí tuệ để nh́n thẳng vào tâm, để thấy kiêu mạn trong tâm ḿnh, chúng ta sẽ nhờ lời nói để biết được lầm lỗi tiềm tàng trong tâm ḿnh.

Chúng ta biết rằng, tâm của con người rất phức tạp, thường có 2 phần: ư thức và vô thức. Ư thức là phần tâm ḿnh thấy được. Vô thức là những hoạt động của tâm mà ḿnh không tự thấy được. Ví dụ, những suy nghĩ, h́nh ảnh mà chúng ta có thể tưởng tượng, h́nh dung được, biết được đều thuộc về ư thức. Hoặc một người nào đó nói một câu nặng làm ḿnh buồn. Cái buồn đó chúng ta có thể thấy được, cảm được nên thuộc về ư thức. Ngoài ra, trong con người c̣n có nhiều tâm phức tạp của vô thức. Hoạt động của vô thức rất nhiều, rất bí mật, chúng ta không thể nh́n thấy được. Muốn thấy được hoạt động của vô thức, chúng ta phải vào trong Định rất sâu. B́nh thường, ranh giới giữa ư thức và vô thức trong con người chúng ta không rơ ràng. Điều này tùy thuộc vào trí tuệ bẩm sinh của mỗi người. Có người, sự ư thức rất hạn chế, nghĩa là tâm nào rất thô mới nh́n thấy, c̣n tâm hơi tế một chút, họ sẽ không nh́n thấy được. Trong khi đó, có người trí tuệ rất sáng, ư thức rất sâu nên có thể thấy được nhiều tâm bí mật trong ḷng họ. Người ta gọi đây là người có trí tuệ. Những người này, khi phạm lỗi, họ sẽ thấy ngay hoặc chỉ cần người khác nhắc nhẹ là họ nhận ra ngay lỗi của ḿnh. V́ họ nh́n rất sâu vào trong tâm họ, những lỗi lầm tiềm ẩn họ đều nh́n thấy. Đây là người có căn cơ tu hành. Ngược lại, những người kém trí tuệ, chỉ nh́n thấy tâm thô, thường khó nh́n thấy lỗi ḿnh. Những người này căn cơ thấp, rất khó tu.

Có khi kiêu mạn phát ra thành hành động. Trong mỗi trường hợp, hành động phát ra sẽ khác nhau. Nhờ hành động, chúng ta sẽ biết ḿnh đă bị kiêu mạn chi phối. Ví dụ, một người mới vào chùa để làm điệu tu hành. Trong chùa có một ông già vốn là trí thức nhưng thất cơ, lỡ vận phải vào nương chùa ở để sống qua ngày. Cứ một, hai ngày, đứa con gái của ông ta lại vào thăm cha và tiện thể nhờ cha giảng bài cho. Một hôm, chú tiểu đang nằm vơng ở nhà kho xem kinh, ông già đến hỏi một bài Hoá học (có lẽ cô con gái lại vào nhờ cha giảng giúp bài vở). Chú tiểu thấy bài quá dễ nên vẫn nằm trên vơng, tay cầm lấy cuốn vở của ông già và giải thích cho ông ta. Khi hiểu ra được, ông rất vui, vội cầm vở chạy về pḥng ḿnh để giảng lại cho con gái. Sau đó, một Thầy lớn thấy vậy đă nhắc chú tiểu rằng hành động của chú đă sai. V́ chú là người mới tu, c̣n nhỏ nhưng khi nói chuyện với một người lớn tuổi như thế vẫn nằm trên vơng. Rơ ràng, trong tâm người ấy có sự kiêu mạn tiềm tàng và đă bộc lộ bằng hành động. Điều ấy không chối căi được. Nhờ bộc lộ bằng hành động và được người khác nhắc nhở mà người ấy biết rằng ḿnh đă kiêu mạn mà bản thân không nh́n thấy được.

Trong cuộc sống có nhiều trường hợp tương tự như vậy. Điều quan trọng là khi được nhắc nhở, chúng ta phải chân thành nhận lỗi và phải sám hối ngay, tuyệt đối không được chối căi. V́ đây chính là chỗ mà chúng ta không đủ trí tuệ để nh́n thấy chính ḿnh. Một khi đă nhận ra được lỗi và cố gắng sửa, có tâm nguyện sửa, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được.

Người hiếu danh thường khoe khoang về ḿnh. Bởi vậy, không nói về ḿnh cho người khác biết nghĩa là chúng ta không hiếu danh, không mong muốn được kính trọng. Chữ danh ngoài nghĩa là tên c̣n có nghĩa là tiếng khen, là danh dựï, là sự cảm phục trong ḷng người khác. Thói thường, con người chúng ta hay mắc một bệnh, bệnh thèm khát sự cảm phục của người khác. Nhiều khi v́ sự thèm khát ấy trỗi dậy quá mănh liệt, người ta đă giả mạo, đă bịa đặt bao nhiêu chuyện để lừa dối mọi người. Sự cảm phục về người này chỉ xuất hiện trong tâm người kia nhưng có thể làm cho họ sung sướng khi biết người khác cảm phục ḿnh. Đều này có sức mạnh thật ghê gớm. Trong cuộc đời, người ta theo đuổi rất nhiều thứ: tiền bạc, t́nh yêu, danh lợi…Trong đó, thèm muốn sự cảm phục của người khác cũng là điều khiến con người đuổi theo một cách dữ dội. Đây cũng có thể xem là nhu cầu của con người, một nhu cầu rất tai hại.

Chúng ta từng nghe người ta nói với nhau về công án của ngài Động Sơn. Ngài nói: “Ta có tiếng tăm ở đời, ai có thể v́ ta trừ dẹp nó”. Một vị Tăng trả lời bằng cách xoè tay ra:“ Ḥa Thượng cho con đi”. Ngài Động Sơn nói:“ Vậy là tiếng tăm ta đă hết”. Nghĩa là vị Tăng kia thấy được sự cảm phục của người khác nằm trong tâm của người ta chỉ là một cái ǵ đó giả dối, không cầm, không nắm được. Vậy mà, con người cứ chấp nó là có thật để rồi vui buồn theo nó. Khi được người ta cảm phục th́ vui. Khi bị người ta khinh ghét lại buồn. X̣e bàn tay ra xin Ḥa Thượng cho tiếng tăm là vị Tăng muốn nói cái đó không có thật, không cụ thể như cơm ăn áo mặc, vô h́nh, giả dối. Bởi vậy, ngài Động Sơn đă nói : “Tiếng tăm của ta đă hết”. Thực ra, đó là một lời khen, khen vị Tăng kia đă hiểu được bản chất vấn đề.

Khi c̣n nhỏ, trong chúng ta không ít người được người lớn khen vài lần. Nếu từng được người khác khen ngợi và tỏ ra cảm phục, chúng ta sẽ rất khó quên cảm giác sung sướng ấy. Đó là cảm giác rất mạnh, rất rơ mà chính chúng ta cũng không sao hiểu nổi. Như vậy, được người khác cảm phục cũng là một hạnh phúc và điều ấy luôn được người ta đeo đuổi, thèm khát. Cũng chính nó đă gây nên biết bao nhiêu thảm cảnh, bao nhiêu oan trái trong cuộc đời này.

Chúng ta phải nh́n thấy tâm thèm khát sự cảm phục của người khác là điều rất nguy hiểm, là một ảo tưởng, ảo vọng, giả dối và phải vượt qua được điều đó. Chúng ta nên chấp nhận sống một đời thanh bai, kín đáo, không cần ai biết đến ḿnh. Có thể trong cuộc đời, chúng ta sẽ làm được nhiều việc tốt cho Đạo, được nhiều người biết đến và nể phục. Những lúc ấy, chúng ta càng cần phải cẩn thận, đừng rơi vào trạng thái thèm khát sự cảm phục của người khác.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 223 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. KÍN ĐÁO KHÁC VỚI THÂM HIỂM.

Kín đáo trong Đạo là không mong sự cảm phục của người khác, v́ chúng ta không muốn sinh tâm kiêu mạn, không muốn thấy ḿnh là quan trọng trước mắt moi người. Như vậy, xét trên khía cạnh Đạo đức, chúng ta cần phải sống kín đáo, không khoe khoang về ḿnh. Nhưng trong thế gian, không phải bao giờ người kín đáo cũng là người tốt. Có những người kín đáo v́ thâm hiểm. Thâm nghĩa là sâu. Hiểm là hiểm độc. Người thâm hiểm thường giấu kín ư định xấu của ḿnh để thừa cơ hội ra tay thực hiện. Những ư định xấu đó là mưu hại người, làm những điều ác độc với cuộc đời. Bề ngoài, lúc nào cũng thấy họ ít nói, chỉ im lặng hoặc mỉm cười nhưng bên trong họ là người thâm hiểm, sẵn sàng làm bất cứ điều ǵ để hại người khác.

Trong cuộc sống, chúng ta gặp nhiều người rất ít nói. Có người ít nói v́ hiền lành. Tâm họ rỗng rang, thanh thản, không bận tâm nên không có ǵ để nói. Theo khoa học, đó là người có vùng năo của ngôn ngữ không hoạt động nhiều nên ít nói. Những người như vậy là người có căn tu, hiền lành, hợp với Đạo. Nhưng có trường hợp ít nói không phải là hiền lành. Họ vẫn có thể là người độc ác hoặc cộc cằn. Chúng ta phải cẩn thận khi đánh giá hai loại đối tượng này để tránh nhầm lẫn. Muốn biết một người ít nói là hiền lành, hợp với Đạo hay thâm hiểm, chúng ta nên nh́n vào đôi mắt của họ. Người ta nói :“Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Quả thật như vậy. Nếu nh́n đôi mắt họ từ ái, thong dong, thư thả, chúng ta biết đó là người hiền lành. C̣n nh́n vào đôi mắt sâu hiểm, chúng ta biết ngay con người ấy cộc cằn và ác độc.

Không ít người từng rơi vào ḥan cảnh thất điên bất đảo cũng v́ những con người có bề ngoài tưởng như hiền lành ấy. Một Thầy kể rằng, khi được Thầy lớn giao về Trụ tŕ một ngôi chùa trong làng để giữ khu đất mới khai khẩn, các Phật tử họp bàn, đồng ư và Thầy đă về nhận chùa. Khi về, chùa đă có sẵn một người giữ chùa, gọi là chủ chùa. Nhờ các Phật tử thuyết phục, ông ta đồng ư cho Thầy ấy về Trụ tŕ. Ở đấy, ai cũng bảo rằng ông ta hiền. Ông ta rất ít nói nhưng khi đă tiếp xúc, mới biết đây là con người rất thâm hiểm và ác độc. Được một tuần, vào lúc trời vừa rạng sáng, thừa lúc chùa không có ai, ông ta vào chùa và yêu cầu vị Trụ tŕ mới phải rời chùa ra đi. Th́ ra, bao nhiêu Thầy, bao nhiêu Ni cô đến đây đều phải ra đi v́ bị ông ta đuổi đi một cách bí mật. Những người ấy cũng ngại điều ǵ đó nên không nói cho ai biết, lặng lẽ xách gói ra đi. Riêng vị Trụ tŕ này không chấp nhận yêu cầu của ông ta, cũng không tự ái nên đă đề nghị hỏi ư kiến Phật tử. Tối hôm đó, Phật tử và cả mặt trận chính quyền họp lại. Tất cả đều ủng hộ vị Trụ tŕ đó. Cuối cùng, chính ông ta đă bỏ đi khỏi chùa. Sau đó, ông ta vẫn nuôi hận trong ḷng và mưu hại vị Trụ tŕ kia thật thê thảm. Con người được mọi người cho là hiền lành, ít nói ấy thực chất là như vậy.

Cũng có những trường hợp, người ta giấu sở trường, giấu tài sản, giấu ưu thế, giấu thực lực… của ḿnh. Đây là loại người có bản lĩnh. Chúng ta chưa nói như vậy là xấu hay tốt nhưng phải thừa nhận rằng họ là người có bản lĩnh. Có khi chúng ta cũng phải biết áp dụng cái bản lĩnh ấy trong cuộc sống. Không nói ra thực lực, sở trường của ḿnh trước hết là v́ Đạo đức, sau nữa là v́ khôn ngoan. Người khôn ngoan thường không nói ra những ǵ ḿnh có được, nhất là về tiền bạc. Trong thế gian, những người hay khoe cái ḿnh có thường là người không có bản lĩnh. Trường hợp người không có tiền của cũng cố gắng chạy vạy mua sắm cho bằng thiên hạ càng cạn cợt hơn nữa. Những người như vậy rất khó làm nên việc lớn.

Những người có dịp tiếp xúc với giới xă hội đen đều cho rằng, những tay trùm, những tay anh chị thường là những người tỏ ra hiền lành, nói năng lịch sự, khác hẳn với bọn đàn em luôn tỏ ra dao búa, gặp đâu gây đó, nói năng thô tục. Đó là những người có bản lĩnh, biết giấu thực lực của họ để không bị người khác nḥm ngó. Trong giới kinh doanh cũng vậy, những người làm ăn lớn thường không cho người khác biết thực lực của ḿnh v́ sợ bị cạnh tranh. Hiện nay, việc “ăn cắp” kỹ thuật trong sản xuất để cạnh tranh là một trong những vấn đề bức xúc nhất trên thế giới. Bởi vậy, người ta thường giấu những bí mật về công nghệ, về kỹ thuật. Ngày xưa, người Việt Nam ta và người Trung Hoa thường có hiện tượng “giấu nghề”, nhất là những nghề gia truyền. Cho nên, có nhiều nghề dần dần bị mai một đi và thất truyền, bây giờ không c̣n nữa.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 224 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong khi đó, ở phương Tây, khi phát minh ra những lư thuyết về khoa học, người ta thường công bố cho mọi người cùng biết. Ví dụ, một nhà khoa học người Anh phát minh ra một kỹ thuật hiện đại trong chế tạo máy hơi nước. Sau đó, nhà khoa học người Đức lại tiếp tục nghiên cứu và phát minh ra kỹ thuật khác hiện đại hơn. Nền văn minh của họ v́ thế mà tiến bộ vượt bậc. Hiện nay, về khoa học - kỹ thuật, chúng ta phải học theo phương Tây rất nhiều. Có thể nói, họ gần như cho không nhân loại về công nghệ kỹ thuật. Tuy nhiên, khi xă hội có sự canh tranh gay gắt về kinh tế, người ta cũng bắt đầu giấu sở trường, giấu những cái hay, sự tiến bộ của ḿnh. Bởi vậy, luật bảo vệ tác quyền của con người ra đời. Tất cả những sáng chế, phát minh đều được đăng kư bảo vệ. Nếu ai bắt chước, tác giả có thể nhờ luâït pháp can thiệp. Nhưng sau 50 năm, những sở hữu trí tuệ đó đều trở thành của chung nhân loại, ai cũng có quyền sử dụng. Nhờ vậy mà nhân loại ngày càng tiến bộ.

Như vậy, người có bản lĩnh, khôn ngoan, thường giấu sở trường của ḿnh. Nhưng không phải bao giờ người khoe khoang cũng là người cạn cợt, không đáng sợ, không làm được việc lớn. Có trường hợp, khoe khoang mà vẫn khôn ngoan, thủ đoạn. Đó là trường hợp khoe khoang để lừa đảo. Chúng ta thường gặp đối tượng này trên hai lĩnh vực : tôn giáo và kinh tế.

Trong tôn giáo, những người này thường bắt chước Phật và Chúa. Khi Phật đắc đạo, Ngài tuyên bố là Ngài thành Phật, thành đấng Giác Ngộ. Chúa cũng nói Ngài là con của Đức Chúa Trời. Nhưng cuộc sống của các Ngài đă chứng minh những lời nói đó là thật. Chúng ta phải thừa nhận rằng, những giáo pháp mà Đức Phật để lại thật tuyệt vời. Trước Ngài, không ai nói được như vậy. Và sau Ngài, cũng không ai có thể nói hay hơn. Ngày nay, người ta nói rất nhiều, sách viết về Phật c̣n nhiều hơn Phật thuyết. Nhưng tất cả đều phải dựa vào những điều Phật đă nói. Cuộc sống của Phật là cả một bức tranh Đạo đức tuyệt vời, không ai có thể sánh bằng. Bởi vậy, những điều Ngài nói về Giác ngộ đă được Ngài chứng tỏ trong suốt cuộc sống rất Thần thông, Trí tuệ và rất Đạo đức của Ngài. Chúa cũng chỉ đi giảng đạo 3 năm rồi mất nhưng Ngài đă thể hiện được thần thông, phép lạ, Trí tuệ và Đạo đức của ḿnh.

Về sau, nhiều tôn giáo đă được thành lập bởi những giáo chủ cũng lớn tiếng khoe khoang, quảng cáo về ḿnh. Họ tự xưng ḿnh là Thần, là Thánh và mười người nghe được cũng có đến hai, ba người tin. Bởi vậy, gặp những đối tượng nói như đinh đóng cột là đă chứng đạo, chúng ta phải cẩn thận, không khéo họ thuộc về trường hợp này. Ví dụ, giáo chủ của đạo Aum Shrykyu cũng từng tuyên bố là ḿnh đă đắc đạo. Nhiều người nghe hấp dẫn quá đă tin theo và cúng cho ông ta bao nhiêu là tiền bạc. Ông ta cho xây dựng những trung tâm chế tạo vũ khí, chế tạo chất hoá học với mục đích chiếm và cai trị luôn nước Nhật. Cuối cùng, việc đă không thành, ông ta và các tín đồ đă bị bắt.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 225 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Ở miền Tây nước ta, trước kia có một người tên là Nguyễn Long Châu cũng tự xưng là Thần, Thánh. Ai chống lại sẽ bị ông ta bí mật cho người hạ thủ ngay. Hoặc có một thời, người ta truyền cho nhau nghe cuộn băng thu giọng nói của một người đàn bà tự xưng là được Thượng đế nhập để giảng đạo. Những điều bà ta nói không có ǵ sâu sắc, giọng nói cũng không có vẻ ǵ thần lực. Nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn lạy lục để bà ta ban phép…

Người đời cũng lắm kẻ dễ tin. Cho nên, lợi dụng ḷng tin của con người, nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng đă được thành lập. Mục đích của những tôn giáo ấy là lừa bịp để thỏa măn những tham vọng cá nhân. Trong đạo Phật của chúng ta cũng có người cố làm ra vẻ ḿnh là người đă đắc đạo để t́m sự ngưỡng mộ của Phật tử. Tuy trường hợp này trong đạo Phật không nhiều v́ có giới cấm, nhưng chúng ta phải cẩn thận.

Ở những quốc gia cho tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, nhiều người đă lập nên nhiều đạo kỳ quái, truyền bá những tư tưởng sai lầm, đem lại tà kiến cho con người. Tất nhiên, sau khi chết, những kẻ ấy phải đoạ địa ngục để trả lại những điều dối trá mà họ đă gây nên. Nhưng trong cuộc sống hiện tại, bước đầu họ đă đạt được tham vọng, chiếm được sự quy phục, ngưỡng mộ của một số người dễ tin.

Trên lĩnh vực kinh tế, có nhiều trường hợp khoe khoang về thực lực của ḿnh để lừa người khác. Thực tế đă cho thấy, không ít người tan cửa nát nhà v́ tin vào sự giàu có của người khác. Tiền bạc họ dành dụm được từng đồng đă góp cho các chủ hụi để rồi trắng tay, chỉ c̣n cách ngửa mặt kêu trời. Nhiều vụ án động trời xảy ra gần đây phần lớn đều có liên quan đến vấn đề kinh doanh của những công ty lớn. Các vị Giám đốc không ngần ngại phô trương tài sản của ḿnh để vay thế chấp Ngân hàng và lao vào ṿng quay nghiệt ngă của nền kinh tế thị trường. Cuối cùng, khi mọi việc vỡ lỡ, người ta mới biết rằng đó cũng là một cách lừa đảo vay chỗ này, thế chấp chỗ kia. Đây là trường hợp khoe khoang nhưng hoàn toàn không phải do cạn cợt mà là thủ đoạn.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 226 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:40pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. TRONG SỰ TU HÀNH, HẠNH KÍN ĐÁO LÀ QUAN TRỌNG

Đó là vấn đề kín đáo, khoe khoang đối với người đời. Trong sự tu hành, hạnh Kín đáo là điều quan trọng. V́ khi nói cho người khác biết về cái hay của ḿnh th́ điều không hay sẽ xuất hiện. Đó cũng là lư do tại sao cuộc sống của chúng ta lại lắm thăng trầm. Thăng v́ đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm v́ chúng ta c̣n mắc bệnh khoe khoang.

Ví dụ, một người thấy ḿnh có nhiều ưu điểm: giỏi giang, siêng năng, lanh lợi, làm việc chu đáo, liền đem khoe với người khác, sau đó điều không hay đă xảy ra ngay. Họ làm việc ǵ cũng gặp điều xui xẻo, không thành công. Không chỉ riêng người tu hành, các Phật tử cũng thường mắc phải điều này. Nếu để ư chúng ta sẽ thấy, hễ cái ǵ ḿnh tự cho là hay, cái không hay đó sẽ đến ngay.

Về công phu tu tập mỗi ngày, chúng ta cũng phải kín đáo. Nếu nói ra cho người khác biết, chúng ta sẽ gặp trở ngại, không thực hành được nữa. Ví dụ, một người ngồi Thiền rất siêng năng, mỗi ngày ngồi ba thời đều đặn. Một hôm, trong lúc nói chuyện với người khác, người ấy bộc lộ: “Một ngày tôi ngồi Thiền được ba lần”. Bỗng dưng qua ngày sau, người ấy không ngồi Thiền được nữa. Đến giờ ngồi Thiền, chuyện không đâu tự nhiên kéo đến: khi bệnh hoạn, ốm đau, khi trở ngại công việc... Cứ thế, có khi họ phải bỏ luôn cả tháng trời không ngồi Thiền được.

Hoặc một người tu pháp môn niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi…họ đều niệm Phật. Nếu chỉ niệm trong tâm th́ không ai biết. Nhưng v́ muốn khuyến khích Phật tử tu hành, người ấy đă nói cho Phật tử biết: “Thầy lúc nào cũng vậy, đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật”. Sau đó, người ấy gặp nhiều khó khăn trở ngại trong việc niệm Phật. Nhiều khi cũng niệm Phật nhưng Thầy toàn nghĩ đến những chuyện đâu đâu. Câu niệm Phật v́ thế cũng biến đâu mất.

Nói chung, chúng ta không được lộ công phu thực hành ra cho người khác biết. Ngay cả lúc ngồi Thiền, chúng ta cũng phải t́m chỗ kín đáo, không được ngồi chỗ trống trải nhiều người biết, trừ khi ngồi Thiền tập thể ở trong chúng. Nếu ở gia đ́nh, quư Phật tử tập ngồi Thiền cũng cần phải kín đáo. Đến giờ ngồi Thiền, mỗi người nên vào pḥng đóng cửa lại, không cho ai biết. Có như vậy, việc ngồi Thiền của chúng ta mới được lâu bền. Đó chính là công phu tu tập của chúng ta.

Có một vị Sư từng khoe là ḿnh tu Thiền rất tốt. Một lần, ông ta đắp y, mặc áo vàng, ngồi Thiền trên một tảng đá. Vị trí ngồi Thiền của vị Sư ấy rất trống trải, ai qua lại cũng nh́n thấy. Ngồi được ngày thứ nhất, ngày thứ hai, rồi sau đó ông chẳng bao giờ ngồi Thiền được nữa. Lư do thứ nhất là vị Sư ấy đă khoe khoang công phu của ḿnh bằng lời nói, sau đó là khoe khoang về hành động. Ngồi Thiền nhưng ông đă chọn vị trí mà những Phật tử đi qua đi lại đều nh́n thấy. Công phu của ông v́ thế mà mất hết.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 227 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Như vậy, một lời nói có khi làm mất công phu của ḿnh đến hàng tháng, có khi vài ba năm hoặc vài ba kiếp. Nhiều khi đă nh́n thấy lỗi, chúng ta phải sám hối đến mấy tháng sau mới lấy được công phu trở lại. Có những trường hợp, v́ lỡ một lời mà vài ba năm hoặc vài chục năm sau, có khi vài ba kiếp sau, chúng ta mới lấy lại được. Bởi vậy, chúng ta phải cẩn thận trong lời nói, đừng bao giờ khoe khoang.

Chúng ta cũng không nên nói về kết quả đạt được v́ sẽ bị thối thất. Trong cuốn Luận về Nhân Quả, tác giả có dẫn câu chuyện về ngài Trí Khải và một vị Tăng trong Tùng Lâm tuyển tập. Khi ngài Trí Khải đến gặp vị Tăng, ông ta không thèm ngồi dậy chào mà chỉ nói về Định mà ḿnh có được. Ông cho rằng, ḿnh đă được Định. Nhờ Định này, khi nghe trong núi có một chấn động, hướng tâm về đó, ông ta biết có một vị Tăng đang quán lư Vô thường và quán rất đắc lực. Cho nên, khi thần lực đó phát ra, ở đây nhờ có Định, ông ta nhận được điều đó. Vị Tăng hỏi ngài Trí Khải: “Đó là định ǵ ?”. Ngài Trí Khải trả lời: “Đó là biên Định, chưa sâu, mới chỉ bên ngoài nhưng v́ nói ra nên mất”. Nghe nói, ông ta giật ḿnh, đứng lên và nói: “Mất rồi”. Ông vừa nói xong, tự nhiên Định đang có trong Tâm mấy tháng nay, mấy năm nay đă biến mất. Muốn lấy lại Định đó không phải là chuyện đơn giản, có khi phải mất hai ba chục năm sau. V́ nguy hiểm như vậy nên chúng ta phải cẩn thận, không nói về những kết quả tốt mà ḿnh đạt được.

Ví dụ, khi tu Thiền đă nhiếp tâm được vào trong Định, chúng ta sẽ cảm thấy an lạc, hạnh phúc. Cảm giác sung sướng, hạnh phúc, an lạc ấy không thể diễn tả được bằng lời. Đôi khi không kiềm chế được, chúng ta bộc lộ cho người khác biết. Như vậy, chúng ta sẽ mất ngay cái Định đó. Nhưng v́ sao chúng ta lại nói ra cái hay của ḿnh ? Quá tŕnh này thường trải qua hai giai đoạn. Trước hết, trong tâm chúng ta tự công nhận ḿnh có cái hay và sau đó là nói ra cái hay đó.

Ví dụ, chúng ta là người tu hạnh Nhẫn nhục, tùy thuận ở trong chúng. Nghĩa là trong chúng ai nói nặng nhẹ điều ǵ, chúng ta cũng hoan hỷ, không giận hờn ai. Đây là điều tốt mà chúng ta có được trong nhiều năm nay. Một hôm, thấy người này người kia hay căi nhau, hay sân với nhau, chúng ta bỗng so sánh và chợt nhận ra ḿnh là người nhẫn nhục. Nghĩa là trong tâm ta đă tự công nhận ḿnh là người nhẫn nhục trước. Khi đă thừa nhận điều này, một lúc nào đó, khi nói chuyện với người khác, chúng ta bỗng nói : “Tôi là người rất nhẫn nhục”. Nói như vậy, tưởng không có ǵ quan trọng nhưng sau đó chuyện bực ḿnh đă liên tiếp xảy ra khiến chúng ta nổi giận. Nghĩa là sự nhẫn nhục không c̣n nữa.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 228 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Đó là những chuyện nhỏ. Trong quá tŕnh tu tập, có những chuyện lớn hơn, quan trọng hơn nhất là công phu tu tập, những Trí tuệ đạt được, những Định đạt được…, chúng ta phải hết sức kín đáo. Khi có điều ǵ hay và chúng ta đă tự công nhận th́ phải nhớ tâm niệm: “ Điều ấy chưa chắc chắn đâu”. Nếu nói ra, tất cả điều tốt ấy sẽ mất hết, sẽ tan vỡ hết. Chúng ta phải luôn ư thức rằng, v́ chưa thật sự chứng Thánh nên hạnh mà ḿnh có được, điều hay ḿnh có được chưa chắc chắn. Hoặc tuy có hạnh tốt ngày hôm nay nhưng có thể chưa qua thử thách, khi gặp khó khăn, trở ngại chưa chắc ḿnh giữ được vv…Hễ vừa phát hiện ra điều tốt của ḿnh, chúng ta phải tự nhủ điều ấy. Vượt qua giai đoạn thứ nhất, chắc chắn chúng ta không vấp phải sai lầm ở giai đoạn thứ hai là nói lời khoe khoang.

Có những điều hay mất đi chỉ vài tháng sau chúng ta có thể lấy lại, nhưng cũng có những cái trầm trọng đến vài ba kiếp sau mới lấy lại được. Nói như vậy hoàn toàn không cường điệu. Có vị tu Thiền đắc đạo, phát ra được trí tuệ, bát nhă, thong dong, tự tại, đối đáp Thiền ngữ như mây, như gió. Trong những bài giảng pháp, vị này nói rằng chỉ một cái tâm này là Phật, cái tâm rỗng rang như không, cái tâm trùm khắp pháp giới. Nghĩa là, người ấy diễn tả cái tâm ḿnh chứng được và nói tâm đó là Phật, nghĩ ḿnh là triệt ngộ bằng Phật, không cần t́m đâu nữa. Đến khi chết, ông ta ngồi kiết già tịch đàng hoàng. Đến mức độ như vậy, chúng ta cũng nghĩ rằng chưa chắc chắn. V́ sao? V́ qua kiếp sau, tùy phước, có khi ông ta lên làm vua. Qua một kiếp làm vua như vậy, nhân ái dục đă gieo sẽ kéo dài đến bao nhiêu kiếp mới có thể lấy lại được. Có khi đi qua hai ba chục kiếp dần dần vị ấy mới hiểu được lỗi của ḿnh và cố gắng lấy lại công phu trong kiếp ḿnh chứng được. Chúng ta biết rằng, công phu ngồi kiết già tịch phải mất hai chục kiếp sau mới có thể lấy lại đúng tŕnh độ đó.

Chúng ta ít nhiều đều biết đến Tô Đông Pha ( Trung Quốc ), con người có tâm hồn phóng khoáng nhưng lại lận đận trong chốn quan trường. Người ta kể rằng, kiếp trước ông ta là Sư Giới, tu ở chùa Ngũ Tổ. Vị Thiền sư Sư Giới này có sức ngộ rất khủng khiếp. Bao nhiêu người dùng Thiền Ngữ đối đáp với ông đều thất bại. V́ sắc bén như vậy nên ông được các Thiền sư khác khen ngợi. Khi chết, ông đầu thai thành Tô Đông Pha. Vậy, tại sao người ta biết Tô Đông Pha là hậu thân của Ngũ Tổ Sư Giới ? Chuyện kể rằng, một lần, nhân có công việc ǵ đó, ông Tô Đông Pha đă đi đến vùng nọ. Trong khi đó, có ba người, kể cả hai vị sư nữa cũng đi đến đó. Khi đến nơi, ba người cùng kể là đêm qua ḿnh nằm mơ thấy Ngũ Tổ Sư Giới. Họ không hiểu tại sao hôm nay người ḿnh gặp chính là Tô Đông Pha. Lúc ấy, ông Tô Đông Pha mới nhớ ra rằng, khi c̣n nhỏ (khoảng bảy, tám tuổi ), ông thường nằm mộng thấy ḿnh là một vị Tăng ở ngôi chùa mà kiếp xưa có ông Ngũ Tổ Sư Giới tu tại đó. Từ những câu chuyện như vậy mà người ta cho rằng ông Tô Đông Pha là hậu thân của Ngũ Tổ Sư Giới. Cả cuộc đời, ông Tô Đông Pha chịu biết bao long đong, lận đận, bị đày lên, đày xuống trong chốn quan trường. Trong khi đó, đời trước ông từng là một vị Tăng xuất sắc.

Như vậy, có những trường hợp chỉ lỡ một lời hay có sự hiểu sai về một điều ǵ đó, con người phải chịu biết bao gian truân, và những công phu, những điều hay có được bị mất đi đến hai, ba kiếp hoặc có khi hai, ba chục kiếp sau mới lấy lại được. Bởi vậy, chúng ta phải luôn có câu “thần chú” ǵ đó để hộ mạng ḿnh, để giữ miệng ḿnh không bật ra lời nói khoe khoang.

Trong cuộc sống, có những kế hoạch làm việc, đôi khi chúng ta cũng không nên nói sớm. Những người hay nói trước điều ḿnh định làm thường hay gặp trở ngại trong công việc. Quả thật, sống lâu ở ngoài đời, chúng ta sẽ thấy điều này rất đúng. Dân gian ta có câu: “Nói trước bước không tới”. C̣n ngạn ngữ phương Tây cho rằng: “ Một trong những bí quyết giúp con người thành công là phải giữ bí mật đến cùng”. Để rút ra những kinh nghiệm như vậy, chắc chắn người xưa phải trải qua những thất bại cay đắng lắm.

V́ vậy, có những công việc, thường là dự định việc ǵ, chúng ta chỉ bàn với những người có bổn phận, có trách nhiệm và với những người có quyết tâm, không nên nói rộng răi cho người khác biết. Khi đă nói ra dự định, chúng ta có cảm giác như ḿnh đă làm rồi, đă hưởng được danh dự rồi và v́ thế mà không làm được nữa. Điều này nghe có vẻ ḱ lạ, không giải thích được nhưng lại là điều có thật, chúng ta cần phải lưu ư.

Ví dụ, có người gặp ai cũng luôn miệng nói : “ Mai mốt, chắc chắn tôi đi tu, tôi sẽ làm Phật”. Thực tế cho thấy, người ấy không bao giờ đi tu được nữa, đừng nói là được làm Phật. Có một Thầy kể rằng, khi chưa xuất gia, Thầy cùng với một người bạn ước hẹn với nhau là sẽ đi tu và chỉ có hai người biết điều này thôi. Nhưng mấy hôm sau, không ngờ những người bạn khác cũng biết chuyện đó, biết chuyện người bạn định đi tu. Rồi ư định của hai người không thực hiện được v́ không hiểu sao hoàn cảnh lúc ấy rất khó khăn, duyên h́nh như cũng chưa đến. Cho đến khi bất ngờ, duyên hiện ra, người này không nói với ai hết và vào chùa luôn. Sau này, người ấy mới biết anh bạn cùng ước hẹn với ḿnh khi xưa đă lập gia đ́nh, không bước chân vào con đường tu hành.

Không chỉ riêng trong việc tu hành, việc ngoài đời cũng vậy. Những kế hoạch làm việc, nếu nói sớm quá, người thế gian cũng khó thành công. Bởi vậy, làm bất cứ việc ǵ, chúng ta cũng nên âm thầm, lặng lẽ, lặng lẽ một cách khiêm tốn, không khoe khoang, chắc chắn chúng ta sẽ thành công.



Sửa lại bởi QuangQuy : 01 April 2005 lúc 11:49pm
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 229 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4. NHỮNG TRƯỜNG HỢP CÓ THỂ KỂ VỀ ƯU ĐIỂM CỦA M̀NH.

Tuy nhiên, trong cuộc sống cũng có những trường hợp có thể kể về những ưu điểm của ḿnh. Đó là những người có sự hiểu biết uyên thâm, có được nhiều điều hay. Khi tự biết ḿnh được mười, người ấy có thể kể một hoặc hai khi cần khuyến khích người khác. Ví dụ, khi thấy một người vào chùa tu hành nhưng ít lạy Phật, chúng ta khuyên người ấy nên cố gắng lạy Phật. Để có sức thuyết phục, chúng ta có thể kể những điều ḿnh có được khi siêng năng lạy Phật. Nhưng phải lưu ư một điều, những cái đạt được có thể rất đặc biệt, chúng ta chỉ nói rất ít thôi. Chẳng hạn, nhờ siêng năng lạy Phật, tự nhiên chúng ta có được trực giác, có thể biết chuyện này, chuyện kia. Hoặc khi lạy Phật nhiều, đi đến nơi nào, chúng ta cũng đem may mắn đến cho người khác. Hoặc ai đối xử tốt với ḿnh, hôm sau họ sẽ gặp may mắn vv…Tất cả những điều ấy, chúng ta phải giấu, không nên nói ra. Khi khuyên người khác lạy Phật, chúng ta chỉ kể một chút rất nhỏ để khuyến khích họ. Chúng ta có thể nói cho họ biết, nhờ lạy Phật mà đạo tâm ḿnh vững hơn, lỗi lầm ḿnh bớt phạm hơn.

Một ví dụ khác, khi thấy một người vào chùa mà không siêng năng công quả, chúng ta biết người ấy sẽ không có phước. Người đă xuất gia phải sống một đời hết sức vị tha, lo cho Tam Bảo, cho Phật pháp; lo cho huynh đệ, cho chúng sinh, lo cho tất cả mọi người, không bao giờ chỉ lo cho bản thân ḿnh hay đi t́m sự nhàn nhă. Có như vậy, phước mới dần dần tăng trưởng. Có thể người ấy hiểu Đạo chưa sâu nên lười công quả. Chúng ta phải khuyên người ấy cố gắng công quả, siêng năng làm việc, coi như lấy công quả để cúng dường Tam Bảo. Chúng ta có thể nói, nhờ siêng năng công quả mà ḿnh cảm thấy đời sống được dễ chịu, khi cần cái ǵ tự nhiên không bao lâu sẽ lại có được… Kể về những điều có được của bản thân ḿnh cho huynh đệ biết là để khuyến khích, sách tấn họ. Sự thật, kết quả đạt được do công quả gấp mười lần như vậy nhưng chúng ta không nói. Khi siêng năng công quả, tâm Vị tha sẽ phát triển. Rồi tâm Vị tha sẽ là nguồn sức mạnh ủng hộ cho Thiền định rất hiệu quả. Siêng năng công quả sẽ tạo nên Phước, Phước đi sâu vào trong đầu, Trí tuệ được mở ra, bỗng nhiên chúng ta học rất sáng, học rất giỏi, có thể thuyết Pháp rất sâu…Những điều hay do công quả chúng ta không nói hết, chỉ nói những cái phước nhỏ để khuyên huynh đệ ḿnh. Đây là trường hợp được mười mà chỉ kể một, hai.

Trường hợp thứ hai có thể nói chuyện ḿnh đó là người đă tu đến chỗ không thấy ḿnh nữa. Tuy kể chuyện ḿnh mà người ấy vẫn thấy như chuyện của người khác. V́ thấy rằng, đó là quy luật tất nhiên phải xảy ra.

Ví dụ, khi gặp một Phật tử, chúng ta nói: “Đường sá trong làng hay hư, quư Phật tử cố gắng làm, đắp đường có phước lắm. Tôi rất siêng đắp đường. Ở đâu có đường hư là vác cuốc đi làm, t́m đắp những ổ gà, có chút tiền là thuê người phụ làm đường. Sau này, khá hơn một chút, lại làm những con đường lớn hơn. Nhờ vậy mà bây giờ tôi có xe hơi đi”. Cách nói như vậy không hay lắm. Hăy kể giống như vậy, nhưng giả định câu chuyện đó thuộc về một người khác: “Ngày xưa có một người hay siêng năng đắp đường….”. Kể chuyện của chính ḿnh nhưng chúng ta làm như kể chuyện của người khác, không xem ḿnh là quan trọng nữa.

Trường hợp thứ ba, chúng ta có thể kể về ḿnh là khi kể một ưu điểm th́ tự kể thêm vài khuyết điểm. Ví dụ, khi khuyên Phật tử cố gắng tu hạnh Khiêm hạ, chúng ta lỡ lời, tự khoe ḿnh Khiêm hạ, lúc nào cũng thấy ḿnh như cát bụi, nhờ vậy trong đời sống luôn được huynh đệ thương và mọi chuyện dễ thành công vv… Sau đó, chúng ta phải kể thêm vài lỗi của ḿnh để bù lại. Trong cuộc sống, có nhiều người làm chúng ta phải ngạc nhiên v́ họ không bao giờ kể những thành công hay những điều tốt của ḿnh mà toàn kể chuyện xấu, chuyện thất bại. Những người ấy đáng để cho chúng ta học hỏi.

Trường hợp thứ tư, chúng ta có thể kể chuyện ḿnh khi tâm hiếu danh không c̣n nữa. Chúng ta không có tâm thèm khát sự cảm phục của người khác, không muốn được kính trọng, chỉ kể để sách tấn hoặc giúp người khác một kinh nghiệm tu hành. Tất nhiên, chúng ta phải diệt tận gốc tâm hiếu danh, tâm thèm khát được người khác kính trọng. Khi nói chuyện của ḿnh, chúng ta cũng sẽ bị tổn phước, bị mất công phu nhưng đôi khi v́ kinh nghiệm đó cần thiết, chúng ta cũng phải nói để người khác biết mà tu hành, nhất là những lắc léo trong Thiền định.

Riêng trường hợp Phật hay các vị Alahán tuyên bố quả vị ḿnh v́ tâm của các Ngài đă hoàn toàn Vô ngă. Phật tuyên bố v́ Ngài hoàn toàn Vô ngă, không c̣n tâm hiếu danh. Đây cũng là sự cần thiết để xác định danh nghĩa. Cũng như các vị Alahán khi chứng xong, cái ngă tan biến, các Ngài cũng tuyên bố:

Ba minh ta chứng được

Lời Phật dạy làm xong.

Ngài nói một cách vinh quang, rống lên tiếng rống của con sư tử bởi v́ Ngài không c̣n ngă. Ngài nói câu đó không phải v́ tâm tự hào, hiếu danh nữa. C̣n chúng ta không nên nói v́ chưa có cái Vô ngă nên nói ra dễ bị lỗi, dễ bị bản ngă lừa gạt.

Những vị Bồ Tát thị hiện cũng ít khi bộc lộ thân phận. Các Ngài thường giấu kín thân phận ḿnh. Phật và các vị Alahán c̣n nói về ḿnh, các vị Bồ Tát thị hiện bao giờ cũng giấu. Có khi thị hiện vào trong cuộc đời, các Ngài giả vờ làm vài lầm lỗi để chúng sinh đừng nghĩ các Ngài là cao siêu. Khi mọi người nghĩ các Ngài cũng b́nh thường như bao người khác, các Ngài dễ gần gũi và giáo hoá họ hơn. Và nếu không có lầm lỗi, nếu đặc biệt quá, người ta sẽ nghi ngờ, sẽ dè dặt, cẩn thận, các Ngài không làm được những chương tŕnh mà ḿnh đă vạch ra.

Chúng ta hay kể câu chuyện ngài Hư Vân đi triều sơn, về Ngũ Đài Sơn, đi lễ Bồ Tát Văn Thù, cứ 3 bước lạy 1 lạy. Ngài đi qua mùa đông tuyết phủ và bị bệnh, Bồ Tát Văn Thù hiện ra làm ông già tên là Văn Cát cứu chữa cho Ngài. Lúc đi, Ngài thấy ông già đi ngược đường lại. Khi Ngài bệnh, ông ta săn sóc cho cho Ngài xong rồi đi luôn. Lúc bệnh phải nằm lại, Ngài lại thấy ông ta. Ông nói: “Tôi vừa mới đi về trở lại”. Cứu chữa cho Ngài xong, ông ta vác hành lư giúp Ngài Hư Vân để Ngài lạy Bồ Tát. Thấy vậy, ông già nói: “Thôi, lạy đủ rồi, đừng lạy nữa”. Ngài Hư Vân đâu biết ông là Bồ Tát Văn Thù nên nói một cách kiên quyết: “Tâm tôi đă quyết, tôi thà sinh mạng bỏ chứ phải lễ Bồ Tát”. Thấy tội nghiệp quá, ông già bảo: “Thôi, Thầy đưa hành lư tôi xách cho để Thầy lạy cho khoẻ ”. Thế là ông già, vị Bồ Tát mà Ngài Hư Vân lạy, xách túi đi đằng sau, c̣n Ngài cứ đi 3 bước lạy 1 lạy về phía trước. Khi Ngài hỏi: “Tiên sinh tên ǵ?” Ông già trả lời : “Tôi tên là Văn Cát”. “Tiên sinh ở đâu?” “Tôi ở núi Ngũ Đài Sơn. Thầy đến Ngũ Đài Sơn hỏi tôi, ai cũng biết”. Ngài Hư Vân cứ tưởng ông già hay đi chơi ḷng ṿng mấy chùa nên ai cũng biết, đâu có ngờ chùa nào ở Ngũ Đài Sơn lại không thờ Bồ Tát Văn Thù. Sau khi đến nơi, Ngài đi hết chùa này đến chùa kia và hỏi: “Ở đây có tiên sinh Văn Cát không?”. Không ai biết cả. Sau đó, khi gặp một Thượng tọïa, Ngài kể lại câu chuyện gặp ông già Văn Cát trên đường đi triều sơn, Thượng toạ giật ḿnh : “Thôi chết rồi, Bồ Tát Văn Thù đó”. Câu chuyện nghe rất thấm thía nhưng đó cũng là cách chứng minh các vị Bồ Tát thị hiện thường giấu kín thân phận.

Đôi khi, bên cạnh chúng ta cũng có một Bồ Tát thị hiện mà chúng ta không nhận ra v́ vẻ ngoài rất b́nh thường, thậm chí c̣n rất ngu ngơ, c̣n mắc phải những lỗi lầm. Chúng ta phải cẩn thận, không nên coi thường những người như vậy.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 230 of 349: Đă gửi: 01 April 2005 lúc 11:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5. NHỮNG ĐIỀU TRONG TĂNG CHÚNG, KHÔNG NÊN NÓI RA NGOÀI.

Trong Tăng chúng, có những điều chúng ta phải kín đáo, không nên nói ra ngoài. Ví dụ, chúng ta không được nói vấn đề tài chính của chùa. Chùa giàu hay nghèo, chỉ những người trong chùa biết mà thôi. V́ nếu nghèo, chúng ta nói ra ngoài, người ta sẽ cho là ḿnh tham, cầu cúng dường. Nếu nói rằng chùa giàu, người ta không hiểu sẽ cho là ḿnh khoe khoang. Điều này rất nguy hiểm.

Hơn nữa, chúng ta không hiểu hết những dự định của Thầy ḿnh. Đôi khi, Thầy cần tích lũy một số tiền để trùng tu lại chùa hay làm một việc ǵ đó nhưng Thầy kín đáo, không nói ra. Nếu đi đâu cũng khoe về nguồn tài chính tích lũy được của chùa, vô t́nh chúng ta đă hại Thầy ḿnh, khiến Thầy không làm được Phật sự lớn như ư nguyện nữa. Bởi vậy, tốt nhất là chúng ta không nên nói về vấn đề tài chính của chùa cho ai biết.

Đối với những lỗi lầm của huynh đệ, của Tăng Ni, chúng ta cũng không nên nói ra ngoài. Ai sống mà không phạm lỗi lầm. Hơn nữa, lỗi lầm đâu phải là cái cố định, không sửa được. Nhiều khi, hôm trước chúng ta thấy huynh đệ phạm lỗi đó nhưng hôm sau họ đă sửa rồi. Người xưa thường nói : “ Nhất ngôn kư xuất, tứ mă nan truy”. Nếu lỡ nói ra ngoài về lỗi lầm của họ, chúng ta sẽ không thu hồi lại được và người ta sẽ tiếp tục nghĩ xấu cho huynh đệ ḿnh. V́ vậy, chúng ta đừng nói lỗi lầm của huynh đệ ra bên ngoài mà cố gắng t́m cách chỉ lỗi để huynh đệ sửa chữa.

Khi lớn lên, đi làm Phật sự bên ngoài, tiếp xúc với nhiều người, chúng ta sẽ nghe nhiều chuyện động trời về những lỗi lầm của người tu có thể khiến ḿnh choáng váng. Có những trường hợp, nghe xong chúng ta bàng hoàng, không hiểu tại sao có thể xảy ra như vậy. Nhưng rồi, chúng ta vẫn phải im lặng. Im lặng v́ chúng ta biết được nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của họ cũng như tin rằng lỗi ấy không cố định, một ngày nào đó, người ấy sẽ vượt qua được lỗi lầm của ḿnh. Nếu bây giờ, ai cũng nói lỗi ấy rộng răi ra ngoài, đến khi người ta sửa được rồi, tiếng xấu vẫn c̣n. Do đó, trước lỗi lầm của người khác, chúng ta phải b́nh tĩnh. Nghĩa là vẫn hi vọng, vẫn chờ đợi sự sửa đổi, vẫn tin vào những điều tốt đẹp của con người, không nên nghĩ rằng những lỗi họ phạm là vĩnh viễn.

Có những dự định đặc biệt của chùa mà điều kiện chưa đủ để thực hiện, chúng ta cũng không nên nói. Nhiều khi nói ra sớm quá, mọi việc sẽ không tiến hành được suôn sẻ.

Chúng ta cũng không được khoe khoang uy tín của Thầy ḿnh, của tông phái ḿnh. Có thể Thầy ḿnh là người tài giỏi, có đức độ, giáo hoá được nhiều nhưng chúng ta cũng không nên khoe. Thực ra, nói những điều hay cho người ta quy hướng cũng tốt, nhưng không cẩn thận dễ lẫn bản ngă trong đó. V́ khoe Thầy cũng có nghĩa là trong đó có bản thân ḿnh. Cho nên, tốt nhất là chúng ta nên im lặng.

Một điều nữa chúng ta cũng cần phải bàn là lợi ích về giáo lư và hệ quả của nó - sự ngưỡng mộ. Ví dụ, sau này khi ta đi giáo hoá, được nhiều Phật tử hay Tăng Ni lắng nghe, hiểu được, tu được và sinh ḷng ngưỡng mộ. Đó là một hệ quả rất tự nhiên, nhưng ta không nên bận tâm về hệ quả đó. Mục đích của chúng ta là đi giảng dạy, đem lợi ích về giáo lư đến cho mọi người, làm sao cho người khác nghe, hiểu và tu được. Khi đi giáo hoá, chúng ta chỉ phát nguyện một điều là đem giáo lư, đem ánh sáng Phật Pháp để khai mở cho mọi người. Chỉ có vậy thôi. Bởi vậy, khi có hệ quả phát sinh là sự ngưỡng mộ của Phật tử hay của những người khác, ta phải cắt ngay, tuyệt đối không để vướng phải điều này. Chúng ta không cần người ta biết tới ḿnh, ngưỡng mộ, kính phục ḿnh mà chỉ cần họ hiểu được Phật pháp và tu được. Đây là điều rất quan trọng, người tu phải ghi nhớ. Có thể ban đầu mới đi giảng, người ta chưa ngưỡng mộ nhiều, chúng ta không bị đắm vào đó. Nhưng một thời gian dài, xuất hiện ḷng ngưỡng mộ, chúng ta rất dễ bị đắm vào sự khát khao ngưỡng mộ ấy. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta bắt đầu sai lầm. Cho nên, mỗi người phải giữ tâm này cho thật kỹ.

6. MỘT CHÚT Ư NGHĨA VỀ ÂM DƯƠNG.

Trong bài Hơi thở và xả Thiền, chúng ta có t́m hiểu qua về Âm Dương. Âm là phần khuất kín bên trong, Dương là phần bộc lộ bên ngoài. Trong một cấu thể, phần khuất kín là phần quan trọng, phần bộc lộ ra ngoài là phần dành đề sử dụng. Theo vua Văn Vương (Trung Quốc), tỷ lệ thể hiện sự khôn ngoan là 5/ 1. (5 âm th́ 1 dương). Nếu thực lực bên trong của ḿnh có 5, chúng ta để lộ ra bên ngoài cho người ta biết chỉ có 1 mà thôi. Hay nói cách khác, làm được 5 phần, chúng ta chỉ bộc lộ 1 phần, không nên để cho người ta biết nhiều. Những cái hay ḿnh có được, không nên bộc lộ tất cả ra ngoài. Chỉ có những người sống gần gũi lâu ngày với ḿnh mới biết được cái hay của ḿnh mà thôi. Có như vậy, những cái hay, cái tốt của ḿnh mới giữ được bền lâu.

Trong một ngôi chùa, h́nh thức ngôi chùa thuộc về dương và nội dung tu hành trong tâm của Tăng Ni thuộc về âm. Như vậy, nội dung tu hành phải gấp 5 lần h́nh thức của ngôi chùa. Nếu chùa nào đạt được tỉ lệ này, chùa ấy sẽ phát triển, sẽ vững bền. Ngược lại, những ngôi chùa rất đồ sộ, bên ngoài hào nhoáng, đẹp đẽ nhưng bên trong Tăng chúng ít tu, chỉ sau một thời gian, chùa đó sẽ suy tàn. Cho nên, khi đánh giá một ngôi chùa, chúng ta cần xem sức tu tập của Tăng chúng như thế nào. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, h́nh thức bên ngoài thường phá nội dung tu hành. Chúng ta phải cẩn thận, luôn luôn chú trọng tâm linh hơn h́nh thức. Có thể chùa không đẹp, không lớn nhưng chúng ta tu tốt vẫn có giá trị hơn là sống trong ngôi chùa đẹp quá, lại khó tu.

H́nh thức của y phục cũng vậy. Khi phủi tóc, mặc áo cà sa đi ra đường, chúng ta đă tự khoe khoang rồi. V́ h́nh thức ấy đă ngầm nói với mọi người chúng ta là Thầy tu, là người có Đạo đức. Bởi vậy, chúng ta phải tu nhiều hơn người ta nghĩ về ḿnh. Nếu người ta nghĩ chúng ta từ bi, độ lượng, chúng ta càng phải từ bi, độ lượng nhiều hơn, gấp 5 lần điều người ta nghĩ để bù lại h́nh thức mà ḿnh đă lỡ khoe khoang ra ngoài. Chưa kể, nếu đeo thêm một sợi dây chuỗi, đội thêm cái măo T́ Lư, đắp y, mang giầy trịnh trọng nữa, chúng ta phải tu rất nhiều mới bù lại nổi. H́nh thức nhiều bao nhiêu, chúng ta phải cần nội dung lấp đầy h́nh thức đó nhiều bấy nhiêu. Ví dụ, khi thấy chúng ta đeo xâu chuỗi thường xuyên bên ḿnh, người ta sẽ nghĩ chắc là chúng ta siêng năng niệm Phật, tu chắc cao siêu lắm. Nếu người ta nghĩ ḿnh một ngày niệm cả trăm xâu chuỗi, chúng ta phải niệm năm trăm xâu chuỗi mới đủ. Nếu chỉ đeo xâu chuỗi, đi đâu cũng lần tràng hạt, đầu cứ đội măo T́ Lư mà bên trong không tu th́ một thời gian, chúng ta sẽ hết phước và phải hoàn tục v́ trong chúng ta, nội dung không bằng h́nh thức. Hiểu như vậy, chúng ta phải biết giấu h́nh thức, cho nội dung thật nhiều để cuộc đời tu hành của ḿnh được bền bỉ. Đây là điều rất khó, chúng ta phải cố gắng mới làm được.

Khi làm từ thiện, những đoàn Phật giáo cũng nên kín đáo, không nên quay phim, chụp ảnh nhiều để phô trương danh tiếng. Nếu ít khoe khoang th́ mọi cái sẽ được bền lâu.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 231 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 6:59am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

BÀI 18: LÀM CHỦ LỜI NÓI





I. CÔNG DỤNG CỦA LỜI NÓI.

Lời nói thường có hai công dụng:

-   Lời nói biểu hiện nội tâm

-           ; Lời nói là phương tiện để giao tiếp.

1. Lời nói biểu hiện nội tâm.

Khi nghe một người thốt lên lời nói, chúng ta có thể biết được quan điểm, đạo đức, cá tính, sở thích cũng như tŕnh độ, trí tuệ…của họ. Nhưng t́m hiểu lời nói dưới góc độ Tâm lư Đạo đức không phải chỉ để chúng ta nhận xét, đánh giá người khác mà c̣n để đánh giá được chính ḿnh.

Trước hết, qua lời nói, cách nói, chúng ta có thể hiểu đựơc quan điểm của người đối diện. Chẳng hạn, khi chúng ta nói chuyện với họ về tôn giáo, về tâm linh, về Nhân quả, họ tỏ ra không quan tâm lắm, cũng không tranh căi điều ǵ. Nhưng khi có dịp, họ chỉ nói toàn những vấn đề về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, chúng ta biết ngay người này không có khuynh hướng về tín ngưỡng, về tâm linh.

Hoặc qua lời nói, chúng ta có thể đánh giá được Đạo đức của người khác. Thông thường, khi đă tu dưỡng Đạo đức được một thời gian dài, chúng ta trở nên sắc bén hơn trong việc nh́n nhận và đánh giá người khác. V́ đă trải qua không ít những sai lầm trong cuộc sống và biết quá rơ về ḿnh nên chỉ cần người khác có những biểu hiện rất nhỏ, chúng ta cũng có thể biết ngay họ là người như thế nào. Nhưng chúng ta phải hiểu, không phải biết để phê phán mà để thương yêu và thông cảm. Nếu có điều kiện, có duyên, chúng ta c̣n giúp họ vượt qua những lỗi lầm mà họ phạm phải. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, khi bước ra làm việc Đạo, chúng ta rất cần dựa vào lời nói để đánh giá người khác. Trong quá tŕnh giao tiếp, nhờ vào lời nói, chúng ta có thể nhận xét được người khác và công việc sẽ dễ dàng hơn. Đó là vấn đề thuộc về bản lĩnh làm việc và chúng ta sẽ khai thác trong một dịp khác. Bây giờ, chúng ta chỉ t́m hiểu lời nói trong việc tự đánh giá chính ḿnh. Trong cuộc sống, có những điều khi đă buột miệng nói ra, chúng ta mới giật ḿnh nhận ra đó là lời nói sai và tự trách ḿnh sao lại nói những điều sai lầm như vậy. Rơ ràng, nhờ vào lời nói, chúng ta có thể kiểm soát được tâm ḿnh, ngăn chặn được nghiệp bất thiện và tăng trưởng được Tâm thiện.

Ví dụ, khi nghe người đối diện thốt lên lời thô tục, thiếu văn hoá, có thể chúng ta sẽ xuất hiện hai cách phản ứng: nguyền rủa người ấy hoặc cảm thấy tội nghiệp họ. Nếu trong tâm ta phát ra lời nguyền rủa người ấy, chúng ta là người không có Đạo đức, không có tâm Từ bi. Chúng ta phải hiểu rằng, tâm Từ bi không chỉ dành để thương yêu con người khi họ lâm vào cảnh khổ mà phải thương ngay cả lúc họ gieo nhân xấu. Trước lỗi lầm của người khác, chúng ta sinh tâm bực bội quá đáng, thậm chí ghét bỏ nguyền rủa họ là chúng ta thiếu Từ bi, gây nên ác nghiệp. Khi đă lỡ lời, chúng ta phải ăn năn, sám hối để chuộc lại tội lỗi của ḿnh. Nếu khi nh́n vào Nhân xấu rồi nghĩ đến Quả báo xấu của một người và thấy thương họ hơn v́ sống mà không biết nhân quả, tội phước, đó là chúng ta có tâm Từ bi. Như vậy, qua một lời nói trước một vấn đề, chúng ta có thể đánh giá được Đạo đức, đánh giá được Tâm của con người. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ không nói những lời ác độc.

Những cá tính, sở thích hay những thói xấu, ḷng ham muốn…c̣n đang tiềm ẩn trong con người cũng dễ được bộc lộ ra qua lời nói. Trong lúc nói chuyện, nhiều khi vô t́nh, chúng ta đă để lộ ra những điều xấu c̣n tiềm ẩn trong tâm ḿnh. Chính nhờ vào những lời nói vô t́nh đó, chúng ta có thể phát hiện và loại bỏ những thói xấu, những ham muốn tầm thường mà trước kia ta chưa biết.




Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 232 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:00am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Lời nói cũng thể hiện được trí tuệ của con người. Nhờ lời nói, chúng ta biết được tŕnh độ, trí tuệ của người đối diện. Ví dụ, khi trở thành Thầy, làm Giáo thọ, Giảng sư hay Trụ tŕ, có người đến chùa hỏi: “ Tại sao tôi tu lâu mà không tiến bộ?”, chúng ta phải trả lời như thế nào? Mỗi người có thể trả lời một cách theo quan điểm của ḿnh nhưng câu trả lời có trí tuệ là: “ Do thiếu Công Đức”. V́ đây là câu trả lời có thể giúp đỡ người khác hiểu được vấn đề và biết tu như thế nào cho đúng.

Công Đức bao gồm Đạo đức và Phước. Nếu Công Đức chưa đủ, người tu phải tạo thêm Công Đức bằng cách cố gắng tu dưỡng Đạo đức và làm việc Phước. Tuy nhiên, trả lời như vậy vẫn chưa sâu sắc v́ mỗi người đều có nghiệp riêng. Chúng ta phải chỉ rơ được nghiệp của họ: đố kỵ, ích kỷ, khoe khoang, kiêu mạn hay giải đăi… Có người tu không tiến bộ v́ họ ít bố thí quá, sống hẹp ḥi quá. Với những người như vậy, chúng ta khuyên họ phải biết buông xả, đừng chấp giữ vật chất v́ vật chất là vô thường. Bố thí giúp đỡ người khác sẽ tạo thành Phước trong tâm. Có người thiếu công đức lễ Phật nên tu không tiến bộ. Chúng ta khuyên họ phải cố gắng lễ Phật. Có người v́ khoe khoang, tu được điều ǵ cũng đem nói cho mọi người biết nên mất hết Phước, không c̣n hạnh Kín đáo nữa. Người ấy tu cũng không tiến bộ. V́ vậy, chúng ta khuyên họ phải kín đáo. Hoặc có người sống hay đố kỵ với người khác, thấy ai thành công cũng tỏ ra ganh ghét nên việc tu hành của họ không tiến bộ được. Với loại người này, chúng ta lại khuyên đừng đố kỵ, phải cố gắng tập hạnh tùy hỷ với người khác vv…

Nhưng điều quan trọng là làm sao khi nh́n vào mỗi người, chúng ta biết được Nghiệp của họ để có những lời khuyên sâu sắc, hợp lư ?

Nhiều khi người hỏi câu ấy là một người hoàn toàn chưa quen biết nhưng chúng ta phải nh́n thấy ngay được cái nghiệp của họ để trả lời cho có trí tuệ. Đây là cái khó của người Thầy. Nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm trong đời sống tu tập của ḿnh th́ chưa đủ. V́ có những “bệnh” người ta có mà chúng ta hoàn toàn không có. Như vậy, chúng ta cần dựa vào những cái họ bộc lộ ra bên ngoài qua lời nói. Tất nhiên, phải có mối quan hệ gần gũi với người ấy, chúng ta mới đánh giá được cá tính, nội tâm của họ qua lời nói cũng như việc làm.

C̣n trường hợp người hỏi điều đó chưa hề sống gần gũi với ḿnh mà chúng ta vẫn biết được là nhờ vào quá tŕnh tu hành của ḿnh. V́ nhờ tu tốt, tâm linh phát triển, trực giác phát triển, chúng ta có thể biết được nội tâm của người khác. Nhưng phải hiểu một điều là chúng ta biết để giáo dục người chứ không phải để khoe khoang. Phật gọi điều này là giáo hóa thần thông. Nghĩa là thần thông dùng để giáo hóa, không phải thần thông dùng để làm điều lạ. Có được điều này không phải dễ nhưng đă theo con đường của đạo Phật, ai cũng cần phải có một chút trực giác. Nhờ trực giác, khi người ta đến với ḿnh, chúng ta sẽ biết quan tâm, đối xử với họ đến mức độ nào để giúp họ gỡ cái nghiệp mà họ đang gánh nặng. Không phải lúc nào chúng ta cũng dạy được người khác, nhưng biết người ta nặng nghiệp ở chỗ nào, khuyên họ xoáy vào chỗ đó để dễ vượt qua cũng là điều rất cần thiết. Mặt khác, trả lời người khác một cách chính xác cũng thể hiện được trí tuệ, tŕnh độ tu tập của người Thầy.

Với những câu hỏi đơn giản như vậy, chúng ta có thể theo trực giác trả lời để giúp họ tu tập được tiến bộ.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 233 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:02am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trường hợp khi được hỏi những câu thuộc về đạo lư, sâu sắc hơn, chúng ta phải có trí tuệ rất cao mới trả lời được. Có một Thầy kể lại câu chuyện có thật mà ḿnh gặp phải, chúng ta nghe để thấy rằng, trả lời đúng một câu hỏi lắt léo của Phật tử không phải là chuyện đơn giản. Một lần, người ấy ngồi nói chuyện với một nhóm Phật tử, trong đó có một người có khả năng kiến giải rất cao. Anh ta kể về tŕnh độ tu tập của ḿnh khiến ai cũng nể phục. Mặc dù chỉ là cư sĩ nhưng anh ta đă từng ngồi thiền Yoga và có được sự đốn ngộ như một nhà Thiền. Trong nhóm Phật tử, người hỏi câu này, người hỏi câu kia, chỉ có anh ta là nói nhiều hơn cả để chứng tỏ ḿnh là người có kiến giải đặc biệt trong đạo Phật. Quả thật, những điều anh nói đều rất sắc bén. Trong lúc nói chuyện, bất ngờ anh quay sang hỏi vị Thầy một câu:

- Thưa Thầy ! Không biết tại sao khi nh́n mặt ông bà già bảy tám mươi tuổi, tôi vẫn thấy họ nhỏ hơn tôi nhiều?

Câu hỏi ấy không phải dễ trả lời. Nhưng anh ta vừa dứt câu hỏi, ông Thầy ngồi đó đă trả lời ngay : “Kiếp trước anh tu làm Tiên trường thọ sống đến hai, ba trăm tuổi nên ông bà già bảy tám mươi tuổi đối với anh vẫn c̣n là trẻ con”. Ngay lúc đó, một người bạn anh ta mới nói tên của anh ta là Nguyễn Thọ Trường. Lúc này, anh ta mới tiết lộ : Từ khi c̣n là cậu bé bảy, tám tuổi, anh đă biết được phép tu tiên, đă luyện Yoga, luyện khí công rất thành công. Anh có thể nhập Định giữ không cho mạch nhảy, không cho tim đập. Nghĩa là mức độ luyện khí công, luyện các phép tu Tiên của anh khá thành công. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy kiếp trước anh đă luyện thành công nên bây giờ gặp lại phép đó, anh đă tu rất sớm và rất thành công. Và kiếp trước anh tu làm Tiên trường thọ nên bây giờ, cái nghiệp đă rơi vào tên của anh là Nguyễn Thọ Trường.

Thực ra, ông Thầy mới gặp anh ta lần đầu, không hề biết những chuyện ấy, nhưng không hiểu sao lại trả lời đúng, lại giải thích được một vấn đề anh ta c̣n băn khoăn khiến anh ta rất nể phục. Từ đó, h́nh như cái ngă của anh ta lắng xuống, anh ít nói hơn, biết lắng nghe hơn. Câu trả lời như vậy là có trí tuệ. Tất nhiên, đó không phải là câu trả lời duy nhất. Có thể một người khác cũng hỏi câu tương tự như vậy nhưng trường hợp này không phải do tuổi thọ lớn hơn mà có khi do đời trước họ từng làm vua. V́ đứng trước ông vua dù c̣n rất trẻ, một ông già bảy, tám mươi tuổi cũng phải quỳ.

Như vậy, không phải trường hợp nào cũng giống trường hợp nào, chúng ta phải có cách trả lời cho phù hợp. Trong việc giáo hóa hay giao tiếp, chúng ta sẽ đối diện với nhiều đối tượng, nhiều trường hợp khác nhau. Nếu trả lời một cách sâu sắc, chúng ta sẽ giúp người khác có niềm tin vào Phật pháp, có hướng đi đúng đắn và có sự tinh tấn trong cuộc sống cũng như trong việc tu hành.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 234 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:03am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Đặc biệt, khi tiếp xúc với người khác, chúng ta phải dùng lời nói giúp người tin sâu Nhân Quả. V́ luật Nhân Quả chi phối mọi mặt trong đời sống cũng như sự tu hành. Nếu dựa vào đó để giải thích, chúng ta sẽ ít bị sai lầm. Có Phật tử từng là đệ tử của một vị Thầy khá nổi tiếng đă tâm sự với một Thầy khác rằng: “Thầy của con không đi sâu vào Nhân Quả mà nghiêng về tâm lư học, xă hội học. Ông thường dùng những lư luận của tâm lư xă hội để giải thích nhưng áp dụng vào cuộc sống lại không thích hợp. Khi nghiên cứu về Nhân Quả, con thấy hợp lư hơn, tâm con yên hơn và dễ chấp nhận hơn”. Đây là một lời tâm sự rất chân thành. Những điều mà người Phật tử ấy nhận xét là có cơ sở. Bởi vậy, chúng ta hiểu sâu Nhân Quả để hướng dẫn, giáo hóa sẽ đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh.

Và như vậy, chúngta có một phương pháp tu khá hay là luôn luôn quan sát lời nói trước khi phát ra. Đó là Chánh niệm trong lời nói. Trước khi nói, chúng ta phải kiểm soát xem ḿnh sắp nói ra điều ǵ. Có nhiều người, khi được người khác hỏi đến, không bao giờ suy nghĩ mà vội vàng trả lời ngay nên không kiểm soát được tâm ḿnh. Nếu có trí tuệ đi trước, chúng ta sẽ biết ḿnh nên nói điều ǵ và nói điều ǵ trước, điều ǵ sau để tránh khỏi sai lầm.

Ví dụ, khi nghe người khác khen một Thầy nào đó học giỏi, luôn luôn được điểm cao, chúng ta suưt buột miệng nói: “ Chắc có cảm t́nh riêng với Giáo thọ nên được điểm cao chứ giỏi giang ǵ”. Nhưng nhờ sự tỉnh giác, kiểm soát trước lời nói, chúng ta đánh giá được ngay đó là lời hàm ư chê bai và được xuất hiện từ tâm đố kỵ nên không thốt ra. Chúng ta biết rằng, tâm đố kỵ rất nguy hiểm, người c̣n tâm đố kỵ sẽ tạo nên nhiều nghiệp khủng khiếp sau này. Như vậy, nhờ đánh giá trước lời nói, chúng ta giữ lại được những lời nói không hay nên tránh tạo thành nghiệp. Đồng thời, chúng ta cũng biết trong tâm ḿnh c̣n sự đố kỵ và quay về lạy Phật sám hối để vượt qua.

Chúng ta tuyệt đối không nói lời đố kỵ, chỉ trích mà chỉ nên hoan hỉ khen điều tốt của người. Khi nghe ai khen người khác, chúng ta nên vui mừng thật sự và cũng bày tỏ sự khen ngợi, cảm phục của ḿnh. Ví dụ, nghe một người khen một vị Giảng sư rất nổi tiếng, làm được nhiều việc tốt cho Phật pháp, chúng ta dựa vào Nhân Quả và khen rằng, có lẽ vị này đă có Công đức trước đó rất lớn, có nhiều hạnh tốt ở trong tâm nên có một sự thành công như vậy. Người ấy chỉ giảng những giáo lư cơ bản, không có ǵ sâu sắc nhưng lại được nhiều người nghe và khen ngợi, chắc chắn người ấy phải có đức, có phước ǵ đó rất lớn. Khen được như vậy, trước hết tâm chúng ta phải biết hoan hỷ.

Khi nghe người khác tài giỏi, thành công, chúng ta phải vui mừng. Đây là điều người tu chúng ta nên lưu ư. Trong cuộc sống, người đời hay có bệnh ganh tị nhau như con gà ghét nhau tiếng gáy. Nhưng là người tu, chúng ta phải vượt qua được điều đó. Có thể rồi chúng ta sẽ làm nhiều việc cho Phật pháp, khi làm việc cho Giáo hội, khi đi dạy cho Phật tử, cho Tăng Ni... nhưng nghe ở đâu có người giảng hay, chúng ta phải thực sự vui mừng. V́ trong đạo Phật, có được nhiều người giảng hay như vậy, nhiều chúng sinh sẽ được hoá độ.

Nói tóm lại, chúng ta phải kiểm soát lời nói của ḿnh. Muốn nói điều ǵ, chúng ta phải nh́n trước lời nói đó và khi thốt ra lời, phải thong thả, chậm răi, trầm tĩnh.

Chúng ta biết, lời nói là biểu hiện của nội tâm. Nhưng cũng có những trường hợp lời nói và nội tâm trái ngựơc nhau. Đó là trường hợp nói không thật tâm hay c̣n gọi là giả dối. Ví dụ, trong ḷng ghét cay ghét đắng người nào đó nhưng vờ nói thương. Hoặc ghét người nhưng không dám nói thẳng rồi nói xấu sau lưng. Hoặc không có đạo đức nhưng làm ra vẻ đạo mạo để mọi người tôn trọng vv… Người tu chúng ta không nên rơi vào trường hợp này, cần sống buông bỏ, không giận ghét bất cứ ai và nghĩ như thế nào, nói như thế đó. Người chân tu phải chân thật, thẳng thắn nhưng khả ái, dịu dàng không thô tháo, không nói nặng lời để làm mất ḷng nhau. Lời nói phải có ái ngữ.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 235 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:06am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Tại sao người tu phải sống chân thật ? V́ không thích ai đó nhưng cứ giả vờ nịnh hót, nói ngọt để lấy ḷng họ, chúng ta sẽ trở thành con người hèn hạ. Đó là lối sống của kẻ tiểu nhân. Người đời sống theo đạo Nho, đạo làm người quân tử cũng tránh lối sống giả dối như vậy( trừ một số trường hợp). Cho nên, là người của đạo Phật, đi t́m danh vị Thánh, chúng ta không bao giờ được sống luồn lách, dối trá. Mỗi người phải sống thật như chính tâm hồn ḿnh.

Không những lời nói biểu lộ nội tâm mà giọng nói cũng biểu lộ nhiều điều. Có những điều qua lời nói chúng ta không nhận ra được nhưng giọng nói lại biểu lộ rất rơ. Bởi vậy, khi đánh giá một người, nhiều khi không cần nghe họ nói điều ǵ, chúng ta chỉ cần nghe giọng nói họ như thế nào. Giọng nói của con người thường biểu lộ hai điều: Phước và Đức. Phước là cái nhân quả họ đă gieo. Đức là những tính t́nh của họ.

Nếu nghe một người có giọng nói vang ấm, trang trọng, chúng ta biết đó là người giàu có, thậm chí là người nổi tiếng. Trong đời sống, có những người tuy khỏe mạnh nhưng giọng nói lại yếu ớt. Những người như vậy thường có cuộc sống nghèo khổ hoặc chết sớm. Người có giọng nói không rơ ràng là người vị kỷ, nham hiểm. Người có giọng nói nghe chát chúa, khó ưa là người có tính t́nh hung dữ và thô tháo. Người này hay nói những điều làm mất ḷng người khác. Trong khi đó, không ít người có giọng nói rất êm ái, rất chuẩn. Đó là những người có tâm Từ bi. V́ xuất phát từ ḷng từ bi, thương yêu nên khi nói với người đối diện, người ấy như đang chan rải t́nh thương. Gặp những người như vậy, chúng ta rất dễ có cảm t́nh. Một khi đă có tâm từ, chắc chắn họ đă làm nhiều việc phước nên những người này cũng là người giàu có tuy không nổi tiếng, không có uy quyền. C̣n trường hợp giọng nói êm nhưng chưa chuẩn, nghĩa là Tâm từ mới xuất phát, có thể người này chưa giàu v́ Nhân mới gieo, Quả chưa đến. Có người nói giọng êm nhưng uốn éo. Đây là người có tâm đa t́nh, đa cảm. Người này thường yếu đuối, thiếu lập trường. Ngoài đời, chúng ta thấy nhiều người lẳng lơ, lăng nhăng cũng có giọng kiểu này. Không ít người trong cuộc sống gặp nhiều điều rắc rối, phức tạp cũng v́ giọng nói ngọt ngào, êm ái mà đa t́nh ấy.   

Có những trường hợp, giọng nói biểu lộ được cá tính, nội tâm của con người rất rơ. Nghe giọng nói bên trong có vẻ ǵ vừa dứt khoát, cương nghị vừa êm ái, chúng ta biết đây là người vừa có đạo đức, vừa có ư chí. Có nhiều người tướng mạo bên ngoài đẹp đẽ nhưng giọng nói không dứt khoát, yếu đuối. Đó là người rất khó tu. Trong việc nhận xét con người, những thầy tướng thường cho rằng giọng nói quan trọng hơn gương mặt. Ví như người có gương mặt đẹp mà giọng nói không tốt vẫn có thể bị phá tướng. Bởi vậy, mỗi nguời phải có ư thức sửa dần giọng nói của ḿnh.

Nếu để ư chúng ta sẽ thấy giọng nói cũng có những “tật” riêng. Có người nói quá lớn, có người nói quá nhanh, có người lại nói lắp, ngọng nghịu…

Người nói quá nhanh thường là nguời thông minh. Trong vùng năo của họ có những tư tưởng phát ra rất nhanh. Nhưng những người nói nhanh cũng biểu lộ một nhược điểm là vội vàng, hấp tấp. Nếu biết ḿnh có “tật” nói nhanh, chúng ta phải tập kiểm soát lời nói của ḿnh trước khi phát ra. Như vậy, lời nói tự nhiên sẽ chậm lại. Người có giọng nói quá lớn thường là người không có chiều sâu, hay khoe khoang và thường là người không có bản lĩnh. Người có giọng nói bị lắp, ngọng nghịu là người thiếu phước và gây nghiệp xấu ở đời trước. Nói lắp (c̣n gọi là nói cà lăm) là trong một câu nói thường có một vài chữ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến câu nói không suông. Người có “tật” nói lắp thường khó thành công trong cuộc sống.

Người ta có kể một câu chuyện vui về người nói lắp như sau: Khi huấn luyện cho những người lính tập nhảy dù, huấn luyện viên có dặn khi nhảy ra khỏi máy bay phải đếm một, hai, ba…đến mười th́ giật dây cho dù bung ra, từ từ rơi xuống đất. Sau khi buông dù, huấn luyện viên kiểm lại thấy thiếu một người. Th́ ra, anh ta rơi xuống bị “lệch pha”, cũng may là rơi trên đống rơm nên không nguy hiểm. Hỏi ra mới biết anh ta chưa đếm đến mười th́ đă rơi xuống đến đất rồi. Lúc ấy mọi người mới biết anh ta bị nói lắp, đếm đến năm, sáu bị lặp lại nhiều lần quá nên buông dù không kịp.

Khác với nói lắp, nói ngọng là người nói phát ra phụ âm không rơ. Ví dụ, trong một câu thơ viết về những anh chàng “ngọng”, nhà thơ Hồ Xuân Hương có viết:        & nbsp;         & nbsp;        
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông.

Chúng nó bảo nhau: “ ấy ái uông”.( “thấy cái chuông”-NV)

Chúng ta biết rằng, trong Văn học cổ Việt Nam, Hồ Xuân Hương nổi tiếng là một nữ sĩ có cá tính ngang tàng, độc đáo. Viết những câu thơ này, bà muốn mỉa mai những anh học tṛ tài năng c̣n non kém, tài thơ c̣n “ngọng nghịu” mà dám làm thơ chọc ghẹo ḿnh.

Người nói lắp, nói ngọng thường là người bị cái nghiệp ǵ đó trong quá khứ. Họ phải phải sám hối thật nhiều trong đời này. Như vậy, căn cứ vào giọng nói, chúng ta có thể biết được Nghiệp và Tâm ḿnh để sám hối, sửa đổi.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 236 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:07am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. Lời nói là phương tiện giao tiếp.

Đây là công dụng thứ hai của lời nói. Trước kia, khi chưa có chữ viết, chúng ta giao tiếp với nhau chủ yếu bằng lời nói. Từ thế kỷ thứ X, ta có chữ Hán; thế kỷ XIII, cha ông ta chế ra chữ Nôm và đến thế kỷ XVII, chúng ta sử dụng chữ Quốc ngữ với mẫu tự Latin làm phương tiện ghi lại lời nói. Nhưng phương tiện giao tiếp chủ yếu giữa con người với con người trong cuộc sống vẫn là lời nói. Bởi vậy, lời nói có vai tṛ rất quan trọng trong việc tạo nên sự tương quan giữa người và người. Chúng ta phải cẩn thận trong lời nói để tạo nên mối tương quan tốt. Dù bày tỏ ư nghĩ của ḿnh cho người khác nghe hay nhờ vả, sai bảo, thuyết phục, chào hỏi…, lời nói cũng cần phải có đạo đức. Tuy nhiên, dùng lời nói để thuyết phục người khác là một điều rất khó.

Chẳng hạn, khi ra giáo hóa, gặp người nào đó chưa tin luật Nhân Quả, chúng ta phải dùng lời nói có đủ sức thuyết phục để họ tin đạo lư Nhân Quả. V́ không tin luật Nhân Quả là điều bất hạnh lớn trong cuộc đời. Khi không hiểu luật Nhân Quả, không biết về sự quả báo, họ sẽ làm nhiều điều lầm lỗi. Để có sức thuyết phục, chúng ta phải có đủ lư lẽ và phải nắm được tŕnh độ của họ. Thuyết phục cho người ta làm điều họ chưa làm, tin điều họ chưa biết, từ bỏ lối sống cũ, chuyển qua lối sống mới và tu hành tốt hơn là điều rất khó của Giảng sư . Điều này hoàn toàn khác với việc tŕnh bày một đề tài cho người khác hiểu của người đi giảng ở thế gian. Tŕnh bày cho người ta hiểu chỉ đơn giản người tŕnh bày hiểu sâu sắc vấn đề và có tài ăn nói khéo léo một chút.Trong đạo, người Giảng sư không chỉ làm cho người khác hiểu mà c̣n phải thuyết phục họ thay đổi cách sống. Cái sức mạnh chuyển hóa người khác ấy phải xuất phát từ chính sự tu hành của ḿnh.

Trong giao tiếp, người phát ngôn luôn luôn có đối tượng tiếp nhận. Nếu khi nói chuyện với người đối diện hoặc với hai, ba người với nhau, chúng ta phải cẩn thận từng lời nói th́ khi chuyển lời của ḿnh thành sách, chúng ta càng phải cẩn thận hơn. V́ chúng ta không thể h́nh dung bao nhiêu đối tượng sẽ đọc sách của ḿnh.

Cũng có trường hợp nói mà không có đối tượng, người nói chỉ lẩm nhẩm một ḿnh. Đó là những trường hợp đặc biệt. Người nói có vấn đề không ổn về thần kinh hoặc có khi người b́nh thường ghét ai đó nhưng không dám nói thẳng nên lầm bầm chửi rủa một ḿnh. Người tiểu nhân thường có tính xấu đó.

Sở dĩ chúng ta phải cẩn thận từng lời trong khi nói v́ nếu lỡ nói lời không hay, xúc phạm đến người khác, chúng ta sẽ làm đổ vỡ t́nh cảm. Mà t́nh cảm một khi đă đổ vỡ thật khó hàn gắn lại nguyên vẹn như xưa. Người ta thường nói : “Mọi sự chắp nối, dẫu tinh vi cũng c̣n dấu vết”. Ông bà ta cũng từng nói một câu rất chí lư: “Ly nước đổ ra hốt lại sẽ không đầy”. Nếu trong lúc nóng nảy, lỡ nói những lời càn dở, sau này chúng ta có ân hận cũng không kịp nữa. Bởi vậy, tốt hơn hết, chúng ta phải cẩn thận, đừng nói lời quá nặng, xúc phạm đến người khác. Trong cuộc sống, chúng ta luôn nhớ một điều:


“Vết dao đâm có thể lành thương tích.

Lời nói đâm nhau, hận một đời”.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 237 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:09am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong khi nói chuyện, chúng ta nên khen điều tốt của người hơn chê bai, chỉ trích. V́ sao như vậy? V́ lời chê bai, chỉ trích thường làm buồn ḷng người khác và gây nên sự bất ḥa. Hơn nữa, theo luật Nhân Quả, nếu chê ai điều ǵ, chúng ta sẽ bị quả báo, sẽ mắc những điểm xấu giống như vậy. Ngược lại, nếu khen điểm tốt của người, chúng ta sẽ được những điều tốt ấy. Bởi vậy, trong giao tiếp, chúng ta cứ nh́n vào ưu điểm của người khác để có lời khen ngợi, đừng bao giờ chỉ chăm chăm vào những điểm xấu của họ.

Trong lời nói c̣n có một “bệnh” đáng để ư nữa là nói nhiều. Chúng ta phải hiểu rằng, giá trị của lời nói nằm ở ngay trong việc làm của chúng ta. Hay nói cách khác, việc làm chính là cái gốc giá trị của lời nói. Liên hệ đến Kinh tế học, chúng ta sẽ hiểu rơ hơn điều đó. Như chúng ta đă biết, đồng tiền lưu hành có giá trị là nhờ có cái gốc của nó. Mỗi quốc gia thường có một cách xác định giá trị của đồng tiền. Chẳng hạn, có quốc gia dùng vàng để xác định giá trị đồng tiền. Họ quy định một lượng vàng bằng một trăm đồng chẳng hạn. Muốn phát hành tám tỉ đồng cho lưu hành ra ngoài, trong kho bạc Nhà nước, họ phải dự trữ một số vàng tương ứng. Như vậy, đồng tiền lưu hành ra ngoài có giá trị là nhờ vào số vàng cất trong kho Nhà nước làm cái gốc giá trị cho nó. Đồng tiền hoàn toàn không phải là tờ giấy đơn thuần được in ra. Nhưng nếu một lúc nào đó, do lạm phát, kinh tế khó khăn, họ in ra hai mươi tỉ đồng. Giá trị của đồng tiền bị giảm đi v́ không có cái gốc.

Có quốc gia lại xác định giá trị đồng tiền của nước ḿnh dựa vào ngoại tệ mạnh ở nước ngoài như đồng đôla của Mỹ. Một đôla, họ quân b́nh thành bao nhiêu tiền của nước họ. Tương tự như vậy, số tiền phát hành bên ngoài tương ứng với số đô la họ dự trữ trong Ngân hàng Nhà nước. Nếu có trường hợp bị lạm phát, số tiền họ in ra nhiều hơn th́ đồng tiền của họ sẽ bị giảm giá.

Từ ư nghĩa kinh tế học, chúng ta suy ra giá trị của lời nói cũng vậy. Lời nói có giá trị là lời nói có sức thuyết phục đối với người khác. Cái gốc giá trị của lời nói nằm ở việc làm của mỗi người. Đó là việc làm bố thí, vị tha, thương yêu giúp đỡ người khác một cách tận tuỵ, đối xử tử tế với tất cả mọi người… Trong cuộc sống, có nhiều người rất khéo nói, nói rất nhiều nhưng không làm được bao nhiêu. Đó là những lời nói không có giá trị. Chúng ta không cần nói nhiều nhưng làm tất cả mọi điều giúp đỡ người khác, lời nói của chúng ta chắc chắn sẽ có giá trị, có sức thuyết phục mạnh mẽ.

Ví dụ, chúng ta sống một đời bố thí, buông xả, không bao giờ giữ bất cứ cái ǵ cho riêng ḿnh. Khi nh́n thấy một huynh đệ sống ích kỷ, không bố thí quảng đại, không buông xả, chúng ta chỉ khuyên một câu nên sống một đời buông xả, rộng răi bố thí, đừng giữ cái ǵ cho riêng ḿnh, một câu ngắn thôi nhưng người ấy đă hiểu ra và thay đổi. Sức mạnh của lời khuyên ấy nằm ở những việc làm bố thí, ở cả một đời sống vị tha của chúng ta. Hiểu như vậy, chúng ta không nên nói nhiều (cũng như đồng tiền phát hành nhiều nên mất giá trị ). Mỗi ngày, chúng ta nên tổng kết lại ḿnh làm được bao nhiêu việc tốt. Nếu cân đối lại, thấy ḿnh đă nói nhiều hơn làm việc tốt, chúng ta sẽ khắc phục hôm sau sẽ làm nhiều hơn nói, để lời nói không mất giá trị. Hơn nữa, nói nhiều cũng là biểu hiện của “bệnh” chấp ngă, lúc nào cũng muốn người ta phải để ư đến ḿnh, thấy ḿnh là người quan trọng. Người nói nhiều không những dễ bị sai lầm mà c̣n làm phiền người khác. Đây là một loại “bệnh” cần phải sửa. Hằng ngày, chúng ta phải có ư thức sám hối, sửa chữa mới vượt qua được.

Trong cuộc sống, chúng ta gặp không ít người rất ham nói, ham biện luận. Nhưng đó là loại người biện luận rỗng, cố nói để thuyết phục người nghe tin vào lư luận của họ. Đó là những người giả dối, lừa đảo mà chúng ta cần phải tránh. Theo kinh nghiệm, chúng ta thấy người nói nhiều thường ít nói thật. Không phải tự nhiên mà khi nói với đệ tử của ḿnh, một vị Giảng sư đă nói: “ Muốn thuyết pháp, trước hết phải biết im lặng”. Nghĩa là người nói phải làm chủ được lời nói của ḿnh, làm chủ được tâm hồn ḿnh, sống mà không c̣n mong cầu điều ǵ hết, không c̣n mong cho người khác phải tin theo ḿnh, phải tu theo ḿnh, không thấy ḿnh là quan trọng nữa. Người sống như vậy, không c̣n điều ǵ để nói hết. Họ thuyết phục người khác bằng chính nội tâm có tu hành, từ nội tâm buông xả của ḿnh chứ không hoàn toàn bằng lời nói.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 238 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:10am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Sự thật, làm Giảng sư không phải là t́m cách nói cho nhiều, nói cho hay. Trên thực tế, biết bao nhiêu người học làm Giảng sư nhưng số người nói có giá trị, có sức thuyết phục chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên nhân được t́m thấy là do phần lớn họ không có tu tập, cuộc đời chưa trải qua những khổ đau, thử thách; chưa có sự rèn luyện Đạo đức, chưa có những giờ phút yên lặng ngồi Thiền, chưa có những lúc thiết tha lạy Phật sám hối vv… Nếu cứ học cho nhiều, ghi chép thật đầy đủ, khi đi dạy đem những điều ḿnh đă học được nói lại cho người khác th́ chúng ta chẳng khác ǵ cái máy. Những lời giảng của chúng ta phải thoát ra từ nội tâm mới có sức thuyết phục người khác. Nếu cứ giảng cho mọi người rằng hăy sống nhẫn nhục nhưng trong tâm ḿnh chưa bao giờ thực hành điều đó, chưa bao giờ nhẫn nhục trước nghịch cảnh cuộc đời th́ làm sao những lời nói ấy có thể đi vào trái tim người nghe. Ngược lại, nếu xuất phát từ trái tim, từ những đau khổ, trở trăn, từ những giờ phút tinh tấn của chính ḿnh th́ những lời nói ấy sẽ đi vào tâm người nghe làm cho họ chuyển hóa, bị thúc đẩy phải tu tập.

Trên lĩnh vực khác, chúng ta không cả quyết, nhưng nói chuyện Phật pháp th́ phải xuất phát từ trái tim biết tu tập. Ánh sáng phát ra từ trái tim ấy sẽ thắp vào những trái tim khác cũng biết tu tập như vậy. Cứ như thế, trái tim biết tu tập này lại thắp sáng những trái tim khác tạo thành những ngọn đèn nối nhau từ trái tim đến trái tim.

Sức thuyết phục của lời nói không có được do học tập mà từ sự hành tŕ tu tập, kiên nhẫn lễ Phật, Toạ Thiền, Bố thí, Vị tha… Do vậy, chúng ta cố gắng tu hành, lễ Phật, ngồi Thiền, sống vị tha thương yêu huynh đệ, chịu đựng những nghịch cảnh, dấn thân vào những việc khó khăn… để có sức mạnh nói được những lời pháp có giá trị, chuyển hóa giáo dục được bao nhiêu tâm hồn khác. Sức thuyết phục ấy c̣n được tạo nên từ nơi phước của công quả. Câu chuyện một Ni Sư ngộ đạo nhưng không chịu nấu bếp nên không giảng pháp được là một ví dụ. Khi đă ngộ đạo, bà bỏ ngang không chịu nấu cơm tiếp ba năm như đă hứa. Phật hiện ra bảo: “ Nếu con không nấu cơm hết ba năm, con không thuyết pháp được”. Bà vẫn không nghe và ngang bướng bỏ đi luôn. Quả thật, dù đă ngộ đạo nhưng đến khi chết, bà cũng không thuyết pháp được do thiếu phước. Đây là điều rất lạ. Chúng ta đừng tưởng ḿnh có thể đem cái tàng thức có được từ kiếp trước qua kiếp sau. Nếu không chịu làm phước, dù kiếp trước có là giảng sư, đời này chúng ta cũng không thể làm giảng sư được.

Trái với người nói nhiều, có người thốt ra lời nói thật khó khăn, không diễn tả được tâm trạng của ḿnh. Nguyên nhân thứ nhất là do ít học, ít viết lách nên vùng ngôn ngữ trong năo không phát triển. Muốn khắc phục được t́nh trạng này, chúng ta phải tập viết thật nhiều. Viết nhiều, chúng ta có điều kiện trau chuốt câu văn, cộng thêm những công hạnh khác, lời nói của chúng ta sẽ dễ thuyết phục. Nguyên nhân thứ hai là do vùng năo kém phát triển làm giọng nói không lưu loát. Đó là người thiếu phước, cần lễ Phật sám hối.

Trong giao tiếp, có khi ta bắt gặp những người có lời nói thiếu chính xác do không phán đoán được phản ứng của người nghe. Đây là chỗ biểu hiện Trí tuệ khôn ngoan của người nói. Chưa bàn đến vấn đề có thuyết phục trước đông người hay không, chỉ trong phạm vi trao đổi trong từng người, chúng ta cũng nhận ra điều này. Khi nói xong một câu, chúng ta phải hiểu người nghe phản ứng ra sao, trong tâm họ hiểu chưa. Nếu đoán họ chưa hiểu, chúng ta sẽ lặp lại vấn đề một lần nữa. Nếu họ hiểu rồi, chúng ta có thể chuyển sang vấn đề khác. Hoặc khi nói ra điều ǵ, chúng ta phải đoán được người nghe hoan hỷ hay tự ái, buồn ḷng, để kịp điều chỉnh. Khi thuyết pháp trước đám đông, chúng ta vẫn phải đoán được phản ứng của người nghe dù rất đông. Như vậy, lời giảng mới hấp dẫn và có hiệu quả.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 239 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:13am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

II. ĐẠO ĐỨC CỦA NGÔN NGỮ.

Trong đạo Phật, đạo đức của ngôn ngữ thể hiện ở sự ái ngữ. Mọi người phải dùng lời khả ái dễ nghe, biểu hiện thái độ nhă nhặn, lịch sự. Người tu không được nói lời thô tháo, cộïc cằn hay có thái độ khinh bỉ, miệt thị người khác. Lúc nào trong lời nói, chúng ta cũng biểu lộ hai điều : thương yêu và tôn trọng. Đối xử với người nhỏ hơn, chúng ta phải thể hiện ḷng thương yêu và sự tôn trọng, không quát tháo, nạt nộ. Đối với người lớn hơn, chúng ta cũng biểu lộ sự thương yêu và kính trọng đúng mực. Sự thương yêu, tôn trọng ấy chủ yếu biểu hiện ở cách xưng hô hay ở giọng nói, lời nói. Chúng ta phải xưng hô rơ ràng, hợp lư và đúng mực; giọng điệu phải từ tốn, lễ phép, chậm răi ; lời nói phải rơ ràng, dễ nghe.

Không chỉ thương yêu, tôn trọng, với người nhỏ hơn, chúng ta phải bảo bọc, phải hy sinh nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ có suy nghĩ ḿnh tu lâu hơn, phải được hưởng nhiều quyền lợi hơn. Đó là quan niệm sai lầm, tạo nên một định kiến, một tiền lệ không hay trong Đạo Phật. Là người tu trước, hiểu đạo nhiều hơn, có đạo đức hơn, sức chịu đựng cũng nhiều hơn, chúng ta phải hy sinh nhiều hơn cho người nhỏ. Đó là tư cách của người tu trong Đạo Phật.

Đặc biệt, chúng ta không được hơn thua trong lời nói, không được bộc lộ sự khoe khoang. Người có tâm hơn thua thường hay biểu lộ ra lời nói, muốn tranh hơn với người khác, nhất là trong Giáo lư. Điều này sẽ làm tổn phước. Bởi vậy, chúng ta nên nhường nhịn nhau trong lời nói. Ví dụ, khi nghe người ta nói một lời muốn chứng tỏ họ hay hơn ḿnh, chúng ta nên im lặng, mỉm cười. V́ chúng ta biết họ đang có tâm hơn thua, không muốn nghe ḿnh. Khi nào người ta muốn nghe, chúng ta sẵn sàng tŕnh bày những kiến giải của ḿnh một cách chân thành. Có như vậy, họ mới nể phục ḿnh.

Những người mới tu thường bộc lộ sự khoe khoang, hơn thua với huynh đệ. Họ hay bắt chước những Thiền sư trong Thiền ngữ thử kinh nghiệm nhau, thử sức ngộ của nhau bằng cách bác bỏ lời của nhau. Nói đến Thiền ngữ, chúng ta hay nhắc đến ngài Đại Huệ. Ông chuyên môn đặt những câu hỏi bắt bí người khác. Ai trả lời được, người ấy thực sự là giỏi. Một hôm, có một vị Tăng bước vào cốc của ông ta, ông hỏi :

- Không cùng vạn pháp làm bạn là người nào?

“Vạn pháp” là mọi chuyện trên đời này: hơn thua, ganh ghét, t́nh tiền… Không làm bạn với những thứ đó là ai ? Tất nhiên là người đă giải thoát. Ông Tăng trả lời ngay :

- Kẻ không mặt mày.

Câu trả lời cũng hay nhưng ngài Đại Huệ nói :

- Lúc năy có một người trả lời như ông đă bị ta đánh đuổi ra.

Nghe vậy, ông Tăng chựng lại ngay và ngờ ngợ không biết tại sao câu trả lời hay như vậy mà bị đánh đuổi ra ngoài. Thấy thế, ngài Đại Huệ đánh đuổi ông Tăng ra liền. Rơ ràng, vị Tăng kia nói được mà Tâm chưa chứng được. Mới nghe ngài Đại Huệ thử một câu đă chựng lại ngay. Đọc những câu Thiền ngữ đó, người mới tu thường hay bắt chước hỏi về Đạo, muốn tỏ ra hơn người khác.

Một biểu hiện khác trong đạo đức của ngôn ngữ là nên khen nhiều hơn chê. Trước khi khen ai câu ǵ, chúng ta phải suy nghĩ. V́ một lời khen không đúng cũng có nghĩa như một lời chê. Nhưng trước khi chê ai điều ǵ, chúng ta càng phải suy nghĩ nhiều hơn. Muốn chê trách ai, chúng ta phải có đủ đức độ. Khi đă có đức rất lớn, chúng ta chê trách, người ta không giận mà c̣n tiếp thu, sửa chữa. Nếu chưa đủ đức, chúng ta chê trách, chỉ trích người khác sẽ khiến họ giận ghét, tạo ra tương quan không tốt giữa người và người.

Trong cuộc sống cũng như trong đạo, khi có duyên với nhau, mỗi lời nói đều đem lại sự vui vẻ, thú vị. Những lúc như vậy, chúng ta nên nói. Trường hợp nói mà người khác không nghe, chúng ta đừng bao giờ nói. Phật pháp cũng như thuốc bổ vậy, đúng liều, đúng đối tượng sẽ có lợi; quá liều, không phù hợp với đối tượng, sẽ trở thành thuốc độc. Đây là chỗ tế nhị, chúng ta nên cẩn thận.

Mỗi lời nói đều là sự lan truyền hoặc tốt, hoặc xấu nên khi nói, chúng ta phải nghĩ đến hậu quả của lời nói, phải cân nhắc, thận trọng trước khi nói. Chẳng hạn, khi chê ai một điều ǵ, chúng ta phải nghĩ nếu lời chê bai của ḿnh lan ra th́ hậu quả sẽ như thế nào, ảnh hưởng đến Phật pháp ra sao…? Hoặc chúng ta nói cho người đối diện nghe một giáo lư th́ phải h́nh dung người đó nói lại cho người khác nghe sẽ có lợi hay có hại cho Phật pháp. Đây cũng là điểm cần phải cẩn thận. Các vị Thiền sư thường hay có cách phá chấp cho người trước mặt, nhưng qua người thứ hai th́ sẽ trở thành bất lợi.

Ví dụ, ngài Đức Sơn nói : “Mười phương Bồ Tát giống như đống phân chuột”. Có thể câu nói phá chấp của ông làm cho người đối diện ngộ đạo, nhưng lời nói ấy lan truyền tạo ra một sự ngông cuồng trong giới những người học Thiền. Từ đó, người học Thiền thích nói bậy bạ làm tổn phước, không c̣n ai tu chứng được nữa. Như vậy, chỉ một người mà gây hại cho không biết bao nhiêu người. Trong khi đó, Đức Phật luôn nói lời có lợi cho mọi người. Phật nói với người này nhưng nếu đem cho người khác, lời nói ấy vẫn có ích lợi v́ lời nói của Ngài luôn luôn chuẩn.

Khi có Phật tử t́m đến nhờ giải đáp một vấn đề ǵ về đạo hoặc về chuyện gia đ́nh, chúng ta phải cân nhắc trước khi trả lời. Có thể lời khuyên của chúng ta làm cho họ tỉnh ngộ nhưng áp dụng cho người khác lại không phù hợp, lại sai lầm. Chúng ta phải lường trước điều này. Làm sao khi một lời nói ra dẫu có lan truyền sang người khác vẫn không để lại hậu quả. Muốn vậy, chúng ta phải kiểm soát kỹ lời nói của ḿnh để khỏi mắc sai lầm.

Khi nói đến đạo đức của ngôn ngữ, chúng ta thường khuyến khích ít nói. Tuy nhiên, có lúc cần phải nói nhiều. Đó là khi can đảm nói lên sự thật để minh oan hay bênh vực cho những người yếu thế, giải tỏa những oan ức cho họ. Hoặc có khi chúng ta dùng lời nói để khuyên lơn, dạy cho người khác biết điều hay để tránh lỗi lầm. Biết người ta mắc sai lầm mà không mạnh dạn ngăn cản, chỉ lo cho bản thân ḿnh là chúng ta thiếu trách nhiệm đối với Phật pháp. Tất nhiên, khi đă làm Giảng sư, chúng ta không thể nói ít được. Lúc ấy phải nói nhiều nhưng phải nói hay và nói đúng được đạo lư, lời nói mới có ư nghĩa. Có những lúc gặp được người tâm đầu ư hợp như tri kỷ gặp nhau, chúng ta nói chuyện cả ngày không biết chán. Nhưng có những khi nguời ta khen ḿnh hết lời, chúng ta lại dè dặt, không nói ǵ. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng, không phải lúc nào cũng ít nói, có khi cũng cần phải nói nhiều, nói cho mạnh mẽ.

Trong một bài kinh, Đức Phật nói : “Sau 45 năm ta chưa hề nói một lời”. Nghĩa là dù nói suốt đời mà Phật lại chẳng thấy ḿnh nói lời nào. Đức Phật sống trong Định rất sâu, Ngài không chấp một điều ǵ, Ngài có nói cũng v́ chúng sinh mà nói. Thuyết pháp 45 năm nhưng Ngài vẫn thấy ḿnh không nói ǵ hết là điều rất tự nhiên, không lư luận được. Ai từng sống trong cái Định sẽ hiểu sâu sắc được điều Ngài nói. Thử sống trong thanh tịnh một ngày, chúng ta sẽ thấy ḿnh làm rất nhiều việc nhưng lại thấy như không làm ǵ cả. Chúng ta cần học theo Đức Phật để giữ Chánh Niệm trong lời nói. Dù nói chuyện với người nhưng chúng ta vừa kiểm soát được tâm ḿnh, giữ tâm ḿnh cho thanh tịnh để khi người ta đi rồi chúng ta vẫn thấy ḿnh như chưa nói ǵ hết. Đó là cái đạo, là con đường của Phật pháp mà chúng ta phải đi theo. Có thể bây giờ chưa thực hiện được nhưng nếu luyện tập, chắc chắn chúng ta sẽ làm được.

Có những trường hợp chúng ta phải nói và dùng lời nói để cho không khí giao tiếp thêm vui tươi, nói để độ người. Điều này nghe hơi lạ nhưng sự thật nhiều khi rất cần.Ví dụ, một vài Phật tử có chuyện ǵ buồn ở ngoài vào chùa chơi cho yên tĩnh. Thấy vậy, chúng ta mời vào chùa lễ Phật, sau đó mời qua nhà khách uống nước. Họ chẳng biết Phật pháp là ǵ để nói chuyện nên cứ im lặng. Lúc ấy, nếu chịu khó một chút, chúng ta sẽ hỏi chuyện xem họ làm việc ǵ, có hay đi chùa không, hay xem Kinh không? vv… Sau đó, chúng ta có thể cho họ mượn cuốn sách ḿnh thấy hay. Trong khi nói chuyện, chúng ta nói nhẹ nhàng, từ ái, thong thả, nói trong sự vui vẻ, người ta cũng cảm thấy vui vui. Hôm sau có dịp họ lại đến chùa. Nhờ vậy, họ dần dần biết Đạo, phát triển được Đạo tâm. Đây cũng là một cách độ người. Như vậy, khi cần thiết phải nói cho vui, đó là đạo đức của ngôn ngữ, chúng ta không cố chấp. Nhưng lúc cần phải im lặng để mọi người niệm Phật, giữ Tâm, chúng ta không nên nói làm xao động, làm loạn Tâm người khác. Chúng ta cần phân biệt được hai trường hợp này.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 240 of 349: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 7:15am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Học bài Làm chủ lời nói nhưng điều cuối cùng chúng ta cần chốt lại là phải để Tâm nói nhiều hơn miệng. Ví dụ, trong chúng có những người có Tâm thương yêu huynh đệ rất mực. Từ ánh mắt, nụ cười cho đến việc làm của họ đều biểu lộ t́nh thương yêu huynh đệ chan chứa nhưng họ lại rất ít nói. Khi tiếp xúc, chúng ta sẽ hiểu và cảm nhận được ngay. Tự nhiên, trong Tâm chúng ta cũng yêu mến họ. Có người lại nói rất nhiều, gặp ai cũng nói thương mến nhưng trong Tâm chẳng có t́nh thương yêu. Khi tiếp xúc, chúng ta cũng nhận ra ngay. Bởi vậy, dù họ rất khéo léo, nhỏ nhẹ trong lời nói, ân cần trong việc làm, chúng ta cũng cảm thấy nhạt nhẽo, không có cảm t́nh.

Sống trong cuộc đời này, để Tâm nói nhiều hơn miệng, chúng ta phải huân tập Từ Tâm thật sâu rộng. Làm sao khi mắt vừa thấy người, Tâm Từ đă khởi phát ngay. Người ta nói, Tâm Từ bi lan đến cỏ cây vạn vật là như vậy. Mỗi ngày ngồi Thiền, chúng ta trải Tâm Từ đến tất cả chúng sinh. Mọi người xung quanh sẽ cảm nhận được điều đó. Ngay cả những người sống trong thế giới vô h́nh cũng cảm nhận được. Trong cuộc sống cũng vậy, khi ra đường, nh́n thấy những người xa lạ, chúng ta đều khởi Tâm thương yêu th́ trong vô h́nh, họ đều có cảm ứng trở lại. Họ sẽ nh́n người tu chúng ta một cách tŕu mến, có cảm t́nh. Ngược lại, nếu không khởi Tâm thương yêu mà tỏ ra bực dọc, người ta cũng sẽ nh́n ḿnh với ánh mắt khó chịu. Trong tâm, tự nhiên họ nảy ra ư mỉa mai, xỉa xói người tu.

Đây cũng là điều rất lạ. Bởi vậy, chúng ta cố gắng tu tập Tâm Từ cho thật mạnh. Trong bài Tâm từ , chúng ta đă nói nhiều đến vấn đề này. Khi mắt chạm đến chúng sinh là ḷng thương yêu ḿnh khởi phát ngay. Cả một cuộc đời, chúng ta phải sống được như vậy, phải tập được như vậy.

Một điều chúng ta cần chú ư khi học về ngôn ngữ là các phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thay đổi theo thời đại. Ngày xưa, cách đây mấy ngàn năm, thời Đức Phật, người ta giao tiếp với nhau chủ yếu bằng lời nói v́ chưa có chữ viết. Người này nói, người kia nghe và truyền lại cho người khác. Cứ thế, đời này truyền lại kinh nghiệm sống, ư tưởng, t́nh cảm cho đời sau đều bằng con đường truyền miệng. Một thời gian dài, Văn học h́nh thành, phát triển và lưu truyền cũng bằng h́nh thức này, gọi là Văn học Dân gian. Tất nhiên, khi truyền miệng qua con đường trí nhớ th́ sẽ không giữ được nguyên vẹn những lời nói, ư tưởng ban đầu. Người ta gọi hiện tượng này là: “Tam sao thất bổn”.

Phát minh ra chữ viết là một tiến bộ vượt bậc của xă hội loài người. Khi có chữ viết, con người giao tiếp với nhau phong phú hơn, tiện lợi hơn. Lúc đầu, người ta viết trên thẻ tre, sau đó là viết trên giấy dó ( một loại giấy thô làm bằng vỏ cây), rồi giấy lụa… Chữ viết đă trở thành một phương tiện giao tiếp quan trọng giữa con người với con người. Những người không biết chữ sẽ cảm thấy lạc lơng giữa xă hội. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, không biết chữ là một thiệt tḥi rất lớn của con người. Bởi vậy, Nhà nước ta đă có chủ trương xoá nạn mù chữ, đem “cái chữ” về vùng sâu, vùng xa; đưa ra chương tŕnh phổ cập cấp 2 cho người dân ở các Quận , Huyện trong thành phố vv…

Ngày nay, máy vi tính cũng đă trở thành một phương tiện giao tiếp hiện đại, quan trọng trong đời sống con người. Vào thời điểm này, phương tiện giao tiếp trên computer c̣n mới mẻ, nhưng đến một lúc nào đó, nó sẽ được sử dụng phổ biến. Người ta nói chuyện điện thoại, gởi Fax, E-mail, Chat, truy cập thông tin, tính toán sổ sách… đều bằng computer. Nếu ai không biết sử dụng computer, người ấy sẽ trở nên lạc hậu, sẽ đứng ra ngoài xă hội.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

<< Trước Trang of 18 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.9297 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO