Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 194 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: TÂM LƯ ĐẠO ĐỨC hay những bài học về ĐẠO ĐỨC! Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 181 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:29am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bài 13:   ĐỐ KỴ



1. ĐỊNH NGHĨA.

Đố kỵ ( trong đạo Phật gọi là tật đố )là thù ghét những ai hơn ḿnh, những ai được nhiều quyền lợi hơn ḿnh. Ở đây chúng ta không gọi là tật đố v́ nghe có vẻ xa lạ với những người bên ngoài, dùng chữ đố kỵ phổ thông hơn, dễ hiểu hơn.

Tâm đố kỵ rất nguy hiểm cho cuộc đời tu hành của chúng ta. Người nào không thoát được tâm này th́ ba đường ác sẽ mở ra, không biết ngày nào sẽ kéo ḿnh đi xuống. V́ tâm đố kỵ nguy hiểm như vậy nên người tu không được coi thường.

Dấu hiệu dễ thấy nhất của tâm đố kỵ là thái độ khó chịu khi thấy người khác hơn ḿnh. Ví dụ, trong lớp học, thấy có người huynh đệ học giỏi hơn ḿnh, được nhiều điểm tốt hơn ḿnh, chúng ta cảm thấy khó chịu. Khi sự khó chịu làm chúng ta bực bội, cảm thấy ghét người kia th́ đó chính là đố kỵ. Tất nhiên, khi ḷng có sự bực bội nghĩa là trong tâm đă tiềm tàng sự đố kỵ.

Thường khi đang c̣n là học Tăng, mọi việc đă có quư Thầy lớn lo, quyền lợi cũng giống nhau nên chúng ta không bận tâm việc ǵ cả, cũng không có ǵ phải hơn thua, ganh ghét. Nếu có hơn thua nhau cũng chỉ là hơn thua ở điểm số. Nhưng khi ra ngoài làm việc, bắt đầu có chút quyền lợi, chúng ta không tránh khỏi sự hơn thua, đụng chạm quyền lợi với người này người khác. Nếu không biết tu, lúc đó tâm đố kỵ sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ thấy thù ghét người hơn ḿnh. Đây là một tâm vô cùng bất thiện, thậm chí có thể gọi là ác tâm. Người có tâm đố kỵ không thể nói đến chuyện giải thoát, giác ngộ, chỉ chờ ngày đọa địa ngục mà thôi. Tâm đố kỵ rất nguy hiểm và hậu quả của nó cũng thật khủng khiếp.

V́ vậy, bây giờ tuy chưa gánh vác việc ǵ lớn lao nhưng chúng ta phải chuẩn bị điều này. Sau này, khi đă tu hành tốt, bắt đầu có những trách nhiệm, có uy tín, có ảnh hưởng với mọi người, chúng ta phải cẩn thận. Nếu không diệt trừ được tâm đố kỵ, khi đụng chạm với người khác chúng ta để tâm đố kỵ khởi lên sẽ vô cùng nguy hiểm.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 182 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:32am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Theo định nghĩa th́ đố kỵ là thù ghét những ai hơn ḿnh. Vậy những cái hơn đó là ǵ?

Cái hơn thứ nhất là về tài năng. Tài năng là điều làm cho người ta hay ganh tỵ với nhau. V́ tài năng thường đem lại danh dự, đem lại thành công cho con người. Và tất nhiên, thành công đó cũng đem lại lợi ích về vật chất. V́ vậy, nếu ai đó hơn ḿnh về tài năng, tự nhiên chúng ta cảm thấy người đó có danh tiếng hơn ḿnh, uy tín cũng hơn ḿnh, sự thành công cũng vượt hơn, có ảnh hưởng lớn hơn và sẽ thu hoạch được vật chất nhiều hơn. Trong khi đó, tâm lư sâu thẳm của con người là chỉ muốn hơn chứ không bao giờ muốn thua kém người khác cho nên nảy sinh tâm đố kỵ.

Ví dụ, trong lớp chúng ta đang học sẽ có người học kém, có người học giỏi. Đây là giai đoạn chúng ta hay có sự đố kỵ về tài năng, về sức học. Nếu thấy người nào học giỏi hơn, được tin tưởng, được khen ngợi nhiều hơn mà trong ḷng ḿnh cảm thấy có sự bực bội khó chịu, chúng ta biết rằng ḿnh đă có tâm đố kỵ, phải nhanh chóng diệt trừ. Nếu cảm giác này chưa xuất hiện nhiều, chúng ta cũng cần phải đề pḥng, tránh để tâm đố kỵ xuất hiện sau này gây nên những hậu quả nguy hiểm.

Sự đố kỵ thường xảy ra với những đối tượng cùng trang lứa. Khi đang c̣n là học Tăng, chúng ta không đố kỵ với quư Thầy lớn v́ họ là những người đi trước, có giỏi hơn cũng là điều đương nhiên. Lúc này, chúng ta chỉ ganh tỵ với những huynh đệ đồng học nhưng hơn ḿnh. Khi lớn lên, được giữ chức vụ ǵ đó, chúng ta bắt đầu ganh với lớp người ngang với ḿnh. Với lớp đàn em, chúng ta không c̣n để ư ganh tỵ trừ những người học sau, tu sau mà tỏ ra giỏi hơn, tỏ ra qua mặt ḿnh.

Trong môi trường tu hành, vấn đề này c̣n nhẹ nhàng nhưng ở ngoài đời, người ta sống chết, tranh giành hơn thua với nhau từng ly, từng tí và tạo thành những nghiệp khủng khiếp. Tuy nhiên, dù không khốc liệt như ngoài đời, nhưng tâm đố kỵ tồn tại trong môi trường tu hành sẽ làm cho Phật pháp ngày càng suy yếu v́ không có sự đoàn kết tạo nên sức mạnh. Trong một đất nước cũng vậy, nếu con người có tâm hẹp ḥi, hay đố kỵ lẫn nhau th́ đất nước sẽ suy yếu, không tập hợp được sức mạnh.

Nh́n vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta sẽ thấy rơ điều này. Những năm tháng đất nước bị ngoại xâm, toàn dân có chung một kẻ thù nên cùng chung lưng đấu cật, góp sức người sức của đấu tranh chống kẻ thù, giành lại giang sơn xă tắc. Nhưng khi đă đuổi được kẻ thù ra khỏi bờ cơi, con người bắt đầu quay lại tranh giành quyền lực, ganh tỵ, chống đối lẫn nhau. Đó là tâm đố kỵ. Chính tâm đố kỵ này đă làm cho con người không tập hợp được sức mạnh để xây dựng đất nước ngày càng phát triển, ngược lại c̣n làm cho đất nước thêm suy yếu.

Nói ra điều này càng thêm buồn ḷng nhưng đây là một sự thật. Người Việt Nam chúng ta c̣n bị tâm đố kỵ rất nặng nề. Hễ thấy ai giỏi hơn là cảm thấy khó chịu, đố kỵ, ganh ghét và t́m cách chỉ trích, chống đối, mưu hại lẫn nhau, triệt hạ lẫn nhau. Cứ như vậy, bản thân người hay đố kỵ đă không làm ǵ được nhưng người có tài cũng không phát huy được năng lực của ḿnh. Đất nước, v́ thế cũng không phát triển được.

Trong khi đó, cũng là con người như chúng ta nhưng châu Âu lại có sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật rất cao, xây dựng được những công tŕnh vĩ đại. Sở dĩ như vậy v́ tư tưởng của họ rất thoáng. Một phát minh khoa học có thể là kết quả lao động miệt mài, tận tụy của nhiều nhà khoa học. Hoặc có thể đó là sự kế tục công tŕnh của người đi sau đối với người đi trước. Điểm hạn chế của chúng ta là không phát huy được sức mạnh trí tuệ của nhiều nguời. Khi gian khổ có thể chung tay góp sức, đồng tâm hiệp lực nhưng khi yên b́nh, sung sướng lại đấu đá, giành giật với nhau.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 183 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:40am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Điều này cũng đă đi vào trong Phật pháp. Thực tế cho thấy, t́nh trạng ganh ghét, đố kỵ giữa người này với người khác, nhóm này với nhóm khác, chùa này với chùa khác đă làm cho Phật pháp chia rẽ, không tập hợp được sức mạnh. Ví dụ, một người đang là giảng sư giỏi, có nhiều uy tín bỗng phát hiện ra ở chùa kia cũng có một giảng sư từ đâu về, cũng nổi danh, được nhiều người mến mộ, ngợi ca. Cho rằng vị giảng sư kia đang giành ảnh hưởng, uy tín, quyền lợi với ḿnh, người này cảm thấy khó chịu, đâm ra thù ghét và t́m cách chỉ trích, công kích.

Chính sự thù ghét, chỉ trích công kích đó đă gây nên sự nghi kỵ, chia rẽ trong Phật pháp và làm cho Phật pháp ngày càng suy yếu. Thật đáng tiếc ! V́ nếu không v́ ḷng đố kỵ, chống đối lẫn nhau làm giảm hiệu quả làm việc của mỗi người, những người tài giỏi ấy biết hợp lại với nhau sẽ làm được biết bao nhiêu điều lớn lao cho Phật pháp.

Có những vấn đề mà mười người không thông minh bàn măi, bàn măi cũng không giải quyết được. Nhưng những người thông minh thật sự, khi hợp lại, bàn với nhau th́ sẽ phát hiện ra được nhiều điều rất độc đáo mà một ḿnh họ không nghĩ ra. Có những trường hợp chỉ cần một người giỏi thôi cũng giải quyết được tất cả, những người khác cứ thế làm theo. Trong khi đó, nhiều người họp bàn với nhau lại không đem lại hiệu quả v́ không biết tôn trọng ư kiến của nhau.

Nếu người tu chúng ta biết quư nhau, tôn trọng nhau, hợp lại th́ sẽ xây dựng được nhiều điều tốt đẹp cho Phật pháp và có lợi cho chúng sinh. Ngược lại, nếu có tài mà cứ ganh tỵ với nhau v́ cá nhân ḿnh, không những chúng ta làm cho tài năng của ḿnh và người bị giảm bớt mà c̣n gây thiệt tḥi cho Phật pháp, cho chúng sinh. Như vậy, chẳng những không ai được phước lại c̣n mang nặng nghiệp.

Tóm lại, tài năng là giá trị trên cao của một con người nên là khởi điểm dễ khiến người ta giành giật, ganh tỵ với nhau.

Một yếu tố nữa khiến người ta có thể ganh tỵ với nhau là tiền bạc. Nhắc đến tiền bạc, sự giàu có, chúng ta không thể không nghĩ đến “Công tử Bạc Liêu”. Đây là nhân vật có thật nhưng xung quanh sự thật về cuộc đời Trần Trinh Huy (Công tử Bạc Liêu), người ta đă dựng nên không biết bao nhiêu giai thoại. Trong những câu chuyện về Công tử Bạc Liêu có chuyện ganh nhau về tiền bạc và muốn chứng tỏ ḿnh giàu giữa Công tử Bạc Liêu (Hắc Công Tử) và Phước Georges (Bạch Công Tử)- đệ nhất phong lưu ở Mỹ Tho. Trong Công tử Bạc Liêu- Sự thật và giai thoại, Phan Trung Nghĩa kể: “Một bận, gánh hát cải lương Phước Chương của Bạch Công tử về Sóc Trăng hát, Bạch Công tử liền mời Hắc Công tử lên xem. Văn hát, Bạch Công tử tổ chức ăn nhậu với Hắc Công tử… Đang nhậu, Một người nào đó đánh rơi một vật dưới gầm bàn rồi cúi xuống ṃ t́m trong bóng tối. Thấy vậy, Bạch Công tử liền móc tờ giấy con công (năm đồng) đốt làm đuốc soi cho t́m vật đánh rớt. Với ư chơi khăm và cũng để “giật le” trước hai người đẹp, Hắc Công tử liền bật hộp quẹt đốt tờ giấy bộ lư (100 đồng) cũng để làm đuốc (thuở ấy ai có tờ giấy bạc bộ lư là đă bị “lính kín” theo dơi”. Chuyện đă lan truyền thành giai thoại “Công tử Bạc Liêu đốt tiền”. Tiền bạc có thể làm cho người ta ganh nhau đến mức ngông cuồng như vậy.

Trong cuộc sống của người thế gian, chúng ta cũng gặp rất nhiều trường hợp ganh ghét, đố kỵ với nhau về tiền bạc. Chẳng hạn, lâu nay ḿnh sống trong ngôi nhà hai tầng sang trọng, bề thế không nhà nào sánh được. Bỗng nhiên, một hôm bên cạnh mọc lên ngôi nhà ba tầng sừng sững. Từ đó, đi ra đi vào chúng ta cảm thấy khó chịu v́ nhà ḿnh thấp hơn. Tất nhiên, việc người ta xây ngôi nhà ba tầng lầu như vậy chẳng ảnh hưởng ǵ đến ḿnh, chẳng làm ḿnh thiệt tḥi điều ǵ. Nhưng cảm giác khó chịu xuất hiện là do bản thân ḿnh cảm thấy bị mất thể diện. Đó là tâm hơn thua của con người.

Người tu chúng ta cũng vậy. Có người trong tâm chưa diệt sạch đố kỵ nên đôi lúc cũng có sự khó chịu trước thành công của người khác. Có khi đó là sự thi đua, hơn thua về thể diện, lúc nào cũng muốn ḿnh nổi bật hơn người khác. Trong bài Khiêm hạ, khi nói về vấn đề danh dự, chúng ta đă khẳng định người tu chân chính không đặt vấn đề danh dự, không đặt vấn đề thể diện. Nhưng nếu không tu tỉnh, chúng ta vẫn xem điều đó là quan trọng nên cảm thấy phải có sự hơn thua. Chính điều đó làm chúng ta phiền năo và tạo nghiệp.

Điều thứ ba để con người ganh tỵ với nhau nữa là địa vị. Ở ngoài đời, vấn đề này có thể làm cho con người giành giật lẫn nhau bất kể sống chết. V́ địa vị, chức vụ, người ta có thể giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử thế giới, chúng ta từng nghe kể về những vụ ám sát Tổng thống. Có những vụ xuất phát từ động cơ chính trị nhưng cũng có những vụ do tranh giành địa vị, quyền lợi. Nhiều lănh tụ v́ đụng chạm quyền lợi vẫn có thể bị người dưới mưu sát. Đây là điều rất nguy hiểm.

Sự ganh ghét, đố kỵ về địa vị dễ khiến con người nảy sinh những suy nghĩ, những hành động bất thiện. Phim ảnh, sách vở đă nói nhiều đến vấn đề này. Chẳng hạn, trong một phim, một vị Tổng thống luôn bị người ta âm mưu lật đổ, đă nói nửa đùa nửa thật trong một cuộc họp với các cố vấn cao cấp: “Cái chết của Tổng thống làm cho Phó Tổng thống quan tâm”. V́ Hiến pháp của Mỹ quy định: Tổng thống chết, Phó Tổng thống sẽ lên thay. Câu nói đùa của Tổng thống cũng ám chỉ vị Phó Tổng thống nào cũng mong cho Tổng thống chết bất đắc kỳ tử để ḿnh được lên thay.

Trong cuộc sống cũng vậy. Khi đang giữ chức phó ǵ đó, người ta hay cầu mong người trưởng gặp bất trắc để ḿnh được thăng tiến. V́ vậy, nhiều khi thấy người trưởng gặp nạn, họ không nói ra nhưng trong bụng mừng thầm. Hoặc có khi ngấm ngầm cầu cho người ta tiêu tan mất, đừng tồn tại nữa. Tuy không khởi thành hành động, cũng không thành lời nói, chỉ ngấm ngầm ở trong tâm, nhưng đó là tâm ác độc. Tất cả những điều đó đều xuất phát từ tâm đố kỵ, hơn thua, tranh giành quyền lợi với nhau. Những người có tâm như vậy không thể tu được, không thể giải thoát, giác ngộ được.

Có người kể rằng, khi c̣n đi học, v́ là người học giỏi, thường giúp đỡ bạn bè nên họ bị người khác (lúc bấy giờ là lớp trưởng) ganh ghét và t́m cách hăm hại. Người ta vu khống đủ điều khiến người này cũng bị khốn đốn một thời gian. Nhưng về sau, gần hai mươi năm trôi qua, khi người này đă đi tu, t́nh cờ đọc báo và biết rằng người bạn cùng lớp năm xưa nay là công an đă bị bắt, bị kết án mười sáu năm tù v́ vi phạm pháp luật nặng nề. Ngày xưa, anh ta lúc nào cũng mưu hại để người khác phải vào tù. Bây giờ bản thân anh ta phạm tội nặng phải chịu cảnh tù tội. Phải chăng, ḷng đố kỵ đă hại con người nặng nề như vậy ?

Người tu chúng ta không đến nổi có những ác tâm như vậy, nhưng nếu không khéo tu, vẫn có sự ganh tỵ hơn thua với nhau về vị trí, về chức vụ và cũng t́m cách triệt hạ nhau một cách ngấm ngầm, thấp kém, không xứng đáng là người xuất gia. Đây là trường hợp rất đáng sợ nên chúng ta phải cẩn thận .

Ví dụ, trong chúng, ḿnh là người tu trước, tuổi hạ cao nhưng không được giao chức trưởng chúng. Điều đó làm chúng ta cảm thấy bực bội. Sự bực bội đó chính là đố kỵ - điều làm cho chúng ta gây nghiệp. Trong phạm vi này, những biểu hiện của sự đố kỵ xuất hiện chưa nhiều. Nhưng về sau, khi bước ra làm việc, bắt đầu giữ chức vụ ǵ đó trong chùa, trong Giáo hội… th́ việc so sánh hơn thua giữa chức này, chức kia sẽ làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu nhiều hơn và tâm đố kỵ dễ khởi phát hơn.

Trong Phật pháp, có khi chúng ta cũng gặp nhiều sự đố kỵ, xỉa xói của người đời khi chúng ta đem khả năng ḿnh đóng góp nhiệt t́nh vào việc chung. Nếu không vững tâm, có khi ta sẽ dao động, sợ hăi và lui bước. V́ tránh né sự đố kỵ của người mà ta đành phải hủy bỏ công đức, cũng là một sự thất bại. Chúng ta nên quan niệm rằng nếu đóng góp được, chúng ta cũng nên nhiệt t́nh đóng góp, miễn đừng tự cao, đừng v́ danh lợi. V́ người tu vẫn c̣n sự đố kỵ nên chúng ta cẩn thận, đề pḥng, đừng gây sự khó chịu cho người chung quanh khi ta đóng góp được nhiều cho cộng đồng. C̣n riêng trong tâm, lúc nào chúng ta cũng mong có được nhiều người hơn ḿnh, không bao giờ muốn tranh giành bất cứ điều ǵ với ai để tránh đi ư niệm đố kỵ.

Nếu ai cũng biết đem khả năng của ḿnh ra đóng góp th́ cộng đồng này, xă hội này hay Phật pháp sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Nhưng chính v́ c̣n tồn tại những điều đố kỵ nên nhiều người không dám bộc lộ khả năng của ḿnh. Đó cũng là điều bất lợi, điều thiệt tḥi cho tất cả mọi người, cho Phật pháp. Sống trong môi trường có quá nhiều đố kỵ, hơn thua, chỉ có những người can đảm mới không sợ sự ganh ghét, đố kỵ, mạnh dạn đem khả năng của ḿnh ra cống hiến cho xă hội, cho Phật pháp. Có lẽ trong hai cách sống- im lặng, không làm ǵ để tránh sự đố kỵ và can đảm chấp nhận đố kỵ - chúng ta nên chọn cách sống thứ hai. V́ nếu cứ cảm thấy khó chịu khi đụng chạm với người xấu, nếu cứ sợ bị ganh ghét đố kỵ mà chúng ta bỏ cuộc th́ xă hội này sẽ rơi vào tay những người xấu, rất nguy hiểm. Những người quân tử, những người tốt thường mắc phải bệnh này. V́ vậy, sống trong môi trường hơn thua, đố kỵ, ganh tỵ đủ điều, chúng ta cố gắng trụ lại, cố gắng chịu đựng để có thể đóng góp được nhiều điều tốt cho đất nước.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 184 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:41am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho người ta đố kỵ là danh tiếng. Chúng ta vẫn biết danh tiếng là cái rất hăo huyền nhưng người ta vẫn cứ tranh giành, hơn thua, đố kỵ với nhau. Ngài Động Sơn trước khi tịch có nói một câu: “Ta có tiếng tăm ở đời, danh tiếng ở đời, ai v́ ta mà dẹp được”. Nghe vậy, một vị Tăng bước ra đảnh lễ và nói: “ Ḥa thượng cho con xin”. Lúc ấy, ngài Động Sơn mới trả lời rằng: “ Tiếng tăm của ta đă hết”.

Thực ra, Ngài muốn thử xem các đệ tử của ḿnh ngộ đạo đến mức nào. Người đă ngộ đạo sẽ biết tiếng tăm là chuyện hăo huyền, không có thật, không phải là cái ǵ cụ thể. Bởi vậy, khi đứng ra nói: “ Ḥa thượng cho con xin” nghĩa là vị Tăng kia đă hiểu được điều này. Làm sao Ḥa thượng có thể đưa cho đệ tử ḿnh cái danh tiếng vốn hăo huyền đó được ? Trả lời: “Tiếng tăm ta đă hết” là Ḥa thượng muốn khen vị Tăng đă hiểu đúng ư nghĩa của danh tiếng. Người xưa quả rất thâm thuư. Chỉ một câu nói ngắn gọn nhưng đă thể hiện được trí tuệ cao siêu của một bậc giác ngộ.

Danh tiếng là hăo huyền, không có thật tại sao con người cứ phải tranh giành nhau? Sở dĩ người ta chấp ghê gớm và giành giật với nhau về danh tiếng v́ họ chưa đủ trí tuệ để thấy được nó là hăo huyền. Chúng ta phải tu hành làm sao để thấy được tiếng tăm là hăo huyền như vị Tăng kia.

Sự giành giật danh tiếng cũng tuỳ theo cấp độ. Ví dụ, chúng ta có tâm rất tốt, phát nguyện đi về một vùng xa xôi nào đó để giáo hóa. Sau một thời gian dài giảng giải, giáo hóa, chúng ta được nhiều người hâm mộ, quư mến, phát tâm tu theo Phật pháp. Thời gian cứ thế trôi qua. Bỗng một hôm, chúng ta nhận ra số người nghe ḿnh giảng Pháp giảm xuống. Hỏi ra mới biết có một thầy khác từ đâu mới đến cũng giảng pháp rất hay, nhiều người thích và đến đó nghe giảng. Nghe như vậy, chúng ta cảm thấy khó chịu trong ḷng v́ sự xuất hiện của người này vừa có sự hơn thua danh tiếng, vừa đụng chạm đến quyền lợi của ḿnh. Nếu có tiếng tăm, người đó sẽ được san sẻ quyền lợi, sự cúng dường mà bấy lâu nay thuộc về độc quyền của ta ở khu vực đó.

Như vậy, mặc dù tu rất tốt nhưng chúng ta vẫn không kiểm soát được tâm ḿnh, không diệt trừ được đố kỵ. Khi có người xuất hiện gần như giành quyền lợi với ḿnh, tâm đố kỵ của chúng ta đă khởi lên ngay. Phải chăng, việc giảng pháp hay, làm lợi ích chúng sinh thực chất chỉ che đậy những tham vọng tiềm tàng của riêng ḿnh, không thực ḷng v́ Phật pháp, v́ chúng sinh ? V́ nếu thật ḷng thương yêu chúng sinh, khi nghe có thêm người giảng hay, chúng ta phải vui mừng. Ở đây, chúng ta lại sợ mất uy tín, mất ảnh hưởng, mất quyền lợi của ḿnh. Đây chính là tâm đố kỵ. Chúng ta phải cẩn thận điều này. Nếu thấy chúng sinh được lợi ích, chúng ta phải vui mừng dù họ được hóa độ bởi bất cứ ai.

Hiểu được điều này, ngay từ bây giờ chúng ta phải đề pḥng tâm đố kỵ. Mỗi đêm, chúng ta phải phát nguyện độ cho tất cả chúng sinh. Mỗi khi ăn cơm, chúng ta cũng: “nguyện đoạn nhất thiết ác, nguyện tu nhất thiết thiện, nguyện độ nhất thiết chúng sinh”. Nhưng chúng ta phải cẩn thận khi nguyện độ cho chúng sinh được giác ngộ giải thoát. V́ có khi việc nguyện đó chỉ v́ quyền lợi, v́ danh tiếng của ḿnh chứ không phải v́ chúng sinh. Nghĩa là chúng ta muốn chỉ một ḿnh độ chúng sinh chứ không muốn có ai cùng làm việc đó.

Như vậy, tùy mức độ những người bằng ḿnh hay hơn ḿnh mà tâm đố kỵ xuất hiện để chúng ta cố gắng vươn tới, giành tới. Ở mức độ thấp (khi c̣n là Tăng Ni sinh), nếu có tâm đố kỵ hơn thua cũng chỉ ganh tỵ hơn thua với nhau trong vấn đề học hành. Khi lớn lên ra làm việc, tùy theo mức độ, phạm vi làm việc mà người ta ganh tỵ nhau. Ví dụ, nếu nổi tiếng ở mức độ làm việc trong tỉnh, chúng ta không ganh tỵ với những người nổi tiếng ngoài tỉnh, nổi tiếng cả trong nước, mà chỉ ganh với người trong tỉnh. Khi tiếng tăm đă lớn đến tầm quốc gia, đất nước th́ chúng ta bắt đầu ganh tỵ với những người nổi tiếng ở mức độ cả nước, c̣n người trong tỉnh chúng ta không c̣n quan tâm, ganh tỵ nữa. Đến khi nổi tiếng khắp thế giới, chúng ta lại không ganh tỵ với người trong nước mà ganh tỵ với những người nổi tiếng cả thế giới như ḿnh….

Bạn lữ cũng là yếu tố làm cho con người đố kỵ với nhau. Khi thấy người khác có nhiều bạn trong khi ḿnh chẳng có ai quan tâm, thăm hỏi, chúng ta ngấm ngầm bực bội. Đó cũng là đố kỵ.

Ở đây chúng ta phải hiểu rằng, người được nhiều người mến đều có nguyên nhân. Đó là cái phước, cái duyên với chúng sinh. Có thể đời trước họ có duyên với nhiều người nên bây giờ người ta cứ t́m đến. C̣n chúng ta, có thể kiếp trước thích ẩn tu nên bây giờ ít ai biết đến. Nếu không biết nguyên nhân, chúng ta sẽ sinh ḷng đố kỵ. Khi có ai hỏi đến họ, chúng ta sẽ tỏ thái độ bực bội hoặc nhiều khi nói xấu, chỉ trích. Đây là điều rất nguy hiểm.

Một yếu tố nữa cũng khiến người ta ganh tỵ với nhau là nhan sắc. Điều này ít xảy ra ở người nam nhưng lại phổ biến ở người nữ. Chẳng hạn, một cô gái mỗi ngày soi gương nhận thấy ḿnh đẹp nhất nh́ thiên hạ nhưng ra đường chỉ toàn nghe người ta khen người khác đẹp, cô ta cảm thấy trong ḷng bực bội. Ngược lại, nếu được ai khen đẹp, cô sẽ cảm thấy vui sướng vô cùng.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 185 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:43am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Vậy, nguyên nhân làm cho tâm đố kỵ xuất hiện là ǵ?

Nguyên nhân là do ngă chấp. Tất cả mọi phiền năo, lầm lỗi của con người đều xuất phát từ chấp ngă ban đầu.

Tuy nhiên, chấp ngă chỉ là nguyên nhân chung. Thật sự, ngoài chấp ngă c̣n có nhiều nguyên nhân khác. Chấp ngă phát sinh ra nhiều bệnh, trong đó có bệnh tự tôn. Đây là bệnh rất kỳ quái. Nó không phải là kiêu mạn. Kiêu mạn là dựa vào một ưu điểm của ḿnh để thấy ḿnh hơn người và có cảm giác thích thú bởi việc hơn thua đó. C̣n tự tôn là tự cho ḿnh hơn mọi người mặc dù chính ḿnh không có điểm ǵ đặc biệt. Chúng ta thường bắt gặp trường hợp này nơi những người không có tài năng, danh vọng, tiền bạc nhưng luôn thích làm ra vẻ quan trọng, lúc nào cũng thấy ḿnh hơn người khác.

V́ không muốn thua ai, nhưng không có cách nào để hơn người nên người này hay xuất hiện tâm lư thù ghét những ai hơn ḿnh. Sở dĩ như vậy v́ họ sợ bị thua thiệt, mất quyền lợi, mất ảnh hưởng. Đây cũng là vị kỷ.

Như vậy, chấp ngă đưa đến tự tôn (không muốn thua người khác)và vị kỷ (muốn có quyền lợi hơn người khác). Tự tôn cộng với vị kỷ sẽ đưa đến đố kỵ (thù ghét những người hơn ḿnh).

Cũng có trường hợp kiêu mạn dẫn đến đố kỵ. V́ kiêu mạn, chúng ta nghĩ rằng ḿnh hơn tất cả mọi người nhưng khi có người giỏi hơn xuất hiện, chúng ta sinh ḷng đố kỵ, thù ghét họ. Hiểu được điều này, chúng ta cố gắng sống một đời vị tha, thương yêu tất cả mọi người, không tự tôn, không kiêu mạn, lúc nào cũng thấy ḿnh thấp bé để tâm đố kỵ không xuất hiện.


Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 186 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:52am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. ĐỐ KỴ KHIẾN NGƯỜI TA GÂY NHÂN XẤU NẶNG NỀ.

Việc đầu tiên mà người có tâm đố kỵ hay làm là thích chỉ trích để hạ uy tín của người giỏi, người làm được việc.

Ví dụ, nghe người ta khen thầy nào đó giảng hay, được nhiều Phật tử mến mộ, chúng ta liền chỉ trích, nói xấu. Có thể người ta chưa tin ngay điều ḿnh nói nhưng niềm tin, ḷng kính trọng đối với vị thầy kia phần nào sẽ bị giảm sút. Khi đến nghe Pháp, họ không c̣n nghe trọn ḷng nữa. Như vậy, sự chỉ trích để triệt hạ uy tín lẫn nhau sẽ làm thoái tâm nhiều người khác. Đó là điều rất tai hại.

Hậu quả của tâm đố kỵ rất nặng nề nhưng nhân quả rơ nhất là chúng ta sẽ mất tâm đạo. Có người kiếp trước từng tu rất tốt nhưng bây giờ mất hết đạo tâm, không tu hành được nữa, sống không nhà, không cửa, không vợ con, lang thang hết nơi này đến nơi khác… Đó là nhân quả của việc nói xấu người khác, nói xấu những vị Tôn túc, làm cho Phật tử thoái tâm.

V́ lời chê bai, chỉ trích làm người ta chia rẽ, làm Phật tử thoái tâm, góp phần làm cho Phật pháp suy tàn nên chúng ta không nên nói xấu chỉ trích, ngược lại cần phải khen nhiều hơn. Ví dụ, khi Phật tử đến thăm chùa, chúng ta nên khen các thầy trong chúng. Nếu họ có hỏi về thầy nào, chúng ta cũng t́m những hạnh tốt để khen. Tất nhiên, sống trên đời không ai tránh được khuyết điểm, nhưng chúng ta tránh nói khuyết điểm, chỉ nói ra những ưu điểm nhằm giúp Phật tử tăng thêm tín tâm với đạo. V́ trong chùa có nhiều người tốt, người ta sẽ tin Phật pháp là tốt đẹp. Hơn nữa, những lời khen ấy cũng tạo thành phước rất lớn cho chúng ta.

Những người làm giảng sư rất dễ có phước v́ khi giảng, thế nào họ cũng ca ngợi Đức Phật, ca ngợi các vị Thánh Tăng. Một lời họ nói ra không phải chỉ một hai người nghe mà rất nhiều người nghe. Do đó, phước họ có được là vĩnh viễn, đời đời. Lời khen rất dễ có phước. Nhưng nếu người giảng sư đứng trên bục giảng cứ công kích người này, nói xấu nguời kia th́ sẽ bị tổn phước, không c̣n giảng được nữa, không c̣n tiếng tăm uy tín nữa. Những người viết sách cũng vậy. Viết sách ca ngợi Phật, ca ngợi chư Tăng, họ sẽ được đời đời hưởng phước. Nói chung, phước khen ngợi Đức Phật có thể kiếp sau mới được hưởng nhưng nghiệp chê người này, chỉ trích người kia chúng ta sẽ bị đọa ngay trong hiện tại.

Việc hay chỉ trích, công kích, chê bai không những làm cho chúng ta tổn phước, làm thoái tâm những người khác mà tai hại hơn nữa c̣n khiến Phật pháp (điều tốt) không phát triển được. Phật pháp phát triển được hay không là do sự phát tâm của từng người, từng ngôi chùa, từng đạo tràng. Nếu mỗi người thoái tâm một chút, nếu mỗi người cứ đố kỵ, chỉ trích để triệt hạ uy tín lẫn nhau, chúng ta sẽ không phát huy được sức mạnh và làm cho Phật pháp suy tàn.

Cộng với tâm ác độc, người đố kỵ có thể mưu hại người khác một cách hèn hạ. Ngoài đời, ác tâm của con người thật kinh khủng. V́ tranh hơn thua với nhau, họ sẵn sàng dùng bất cứ thủ đoạn ǵ để giết hại nhau. Người tu có thể c̣n tâm đố kỵ nhưng ác độc không nhiều v́ biết tin Nhân Quả. Ngay đến việc giết một con vật nhỏ chúng ta c̣n không dám, làm sao có thể dám hại con người. Nhờ biết tin và sợ Nhân Quả, quả báo nên lâu ngày, tâm ác của chúng ta cũng giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không biết tu, không kiểm soát tâm ḿnh, không có lư tưởng giải thoát thật sự th́ khi có nhiều quyền lợi quá, người tu chúng ta vẫn tranh giành với nhau, vẫn có thể hại nhau đến mất hết uy tín, đến tiêu tan cả sự nghiệp.

Chẳng hạn, ở một vùng nọ có một Thầy chánh đại diện v́ muốn vị trí ḿnh vững vàng không ai giành được nên khi thầy nào có năng lực muốn xin về đó ông ta đều t́m cách triệt hạ ngay từ đầu. Đó chính là đố kỵ, sợ đụng chạm quyền lợi, cũng là một mưu hại, tuy chưa nặng lắm. Nếu ác tâm mạnh hơn nữa, họ có thể vu khống người ta vi phạm chính trị để mọi người nghi ngờ đuổi đi nơi khác hoặc để công an bắt giam.

Chúng ta c̣n nhớ câu chuyện Lục Tổ Huệ Năng được trao y bát. Ngài được Tổ Hoàng Nhẫn trao cho y bát nhưng phải truyền trao một cách lén lút vào lúc nửa đêm. Rồi sau đó Tổ phải đưa Ngài ra sông để trốn đi luôn. Tại sao như vậy? V́ Tổ Hoàng Nhẫn không tin vào tâm của chúng ḿnh. Họ vẫn c̣n đố kỵ nhiều quá. Nói ra điều này chúng ta cũng cảm thấy đau ḷng v́ không hiểu v́ sao thời đó gần Tổ mà con người vẫn c̣n tâm đố kỵ nặng nề như vậy. Có thể nhiều khi họ rất hiểu Thiền lư nhưng những quan điểm về Đạo đức vẫn chưa vững nên vẫn c̣n đố kỵ khi thấy người ta hơn ḿnh.

Phân tích tâm đố kỵ của những người trong chúng đối với Lục Tổ Huệ Năng, chúng ta thấy có nhiều lư do. Tổ Huệ Năng là một cư sĩ mới đến chùa được sáu tháng, mới hơn hai mươi tuổi trong khi những người khác đă xuất gia ít ra cũng trên hai, ba chục năm, hạ lạp y áo đàng hoàng. Vậy mà Tổ Huệ Năng được trao y bát, tương lai sẽ được giữ địa vị Tổ- một địa vị quá lớn lao, bao nhiêu người từng ao ước. Điều này đă làm cho họ không thể chịu đựng nổi. Ḷng đố kỵ cộng thêm sự tự ái đă làm cho sức mạnh tăng lên dữ dội nên họ đă đuổi theo giành lại y bát. Thái độ của họ rất hùng hổ, sẵn sàng đánh giết để đoạt y bát trở lại. Đó cũng là tâm ác.

Trong khi đó, ngài Thần Tú vẫn rất nhẹ nhàng. Ngài là người có Đạo đức. Sau khi tŕnh bài kệ không được Ngũ Tổ chấp nhận, Ngài cũng b́nh an ở lại giữ núi. Khi Ngũ Tổ tịch, Ngài vẫn tiếp tục tu hành, dạy chúng b́nh thường và sau này cũng rất nổi tiếng. Sự đạt ngộ của Ngài có thể không bằng ngài Huệ Năng nhưng Ngài có công phu tu hành chân chính, có Đạo đức rất vững. Ngài cũng có sở đắc tâm linh, cũng nhập định rất tốt. Khi c̣n ở trong chúng, ai cũng nể phục tài đức của Ngài. Họ tin chắc rằng, ngoài Ngài ra không ai xứng đáng được nhận y bát. Quả thật, Ngài cũng xứng đáng với sự tin yêu đó. Nhưng ngài Huệ Năng lại quá đặc biệt, quá siêu việt nên đă lănh mất y bát khiến những người chúng dưới không chịu nổi. C̣n ngài Thần Tú vẫn b́nh thản, coi như không có chuyện ǵ xảy ra v́ Ngài tin vào sự chọn lựa của Thầy ḿnh.

Truyện Thái Dương Sơn B́nh Thị Giả quật mồ ngài Minh An- thầy ḿnh - trong Thiền Lâm Bảo huấn cũng cho chúng ta bài học về ḷng đố kỵ. Lúc bấy giờ, ngài Minh An thuộc về tông Tào Động. Ngài là một Thiền Sư nổi tiếng đến mức ngài Phần Dương Thiện Chiêu - thuộc tông Lâm Tế - phải cho những đệ tử của ḿnh qua đó tham học. Chúng ta biết rằng, tông Lâm Tế rất nổi tiếng và ít nể phục ai. Vậy mà thời đó ngài Phần Dương là người nối tông Lâm Tế chính tông lại cho đệ tử ḿnh sang học với thầy Minh An. Điều này chứng tỏ ngài Minh An rất giỏi đồng thời cũng cho chúng ta thấy Đạo đức của cổ nhân. Những bậc đạo sư đúng nghĩa là như vậy. Họ không có sự riêng tư. Đọc chuyện này, chúng ta nể phục ngài Minh An bao nhiêu càng kính trọng ngài Phần Dương Thiện Chiêu bấy nhiêu.

Khi sang học, hai đệ tử của tông Lâm Tế được ngài Minh An khen ngợi. Ngài c̣n nói hai người đó sẽ nối Pháp của Ngài làm cho tông Tào Động được hưng thịnh. Nhưng hai vị từ chối v́ cho rằng ngài B́nh Thị Giả mới thực sự là người tài giỏi. Hai vị đă ngộ đạo mà khen như vậy chứng tỏ ngài B́nh Thị Giả cũng đă ngộ đạo. V́ trong Thiền tông, người đă ngộ đạo chỉ cần dùng trực giác để nh́n hoặc nghe người khác nói một vài câu sẽ biết ngay người đó đă ngộ hay chưa. Nhưng ngài Minh An lại không công nhận ngài B́nh Thị Giả ngộ đạo. Ngài nói: “V́ trong đây không tốt, sau này sẽ chết ở đây”. “Ở đây” là trong bàn tay của ḿnh, người Trung Hoa c̣n gọi là hổ khẩu tức miệng cọp. Nghĩa là Ngài muốn nói ngài B́nh Thị Giả tâm không tốt nên sau này sẽ chết ở miệng cọp.

Chuyện cứ thế trôi qua. Trước khi chết, ngài Minh An nói với mọi người: “Khi ta chết cho đến mười năm, không có chuyện ǵ. Nhưng sau mười năm sẽ có Thái Dương Sơn đánh ta.” Nói xong, Ngài ngồi tịch một cách tự tại v́ Ngài đă đắc đạo cao siêu. Sau đó, thân Ngài được đem vào nhập tháp trong tư thế ngồi như thế. Ngài B́nh Thị Giả tiếp nối trụ tŕ, gọi là Thái Dương Sơn B́nh Thị Giả. Nhưng không hiểu v́ sao càng ngày ông càng đố kỵ với cái tháp của thầy ḿnh. H́nh như ông cảm thấy cái tháp có vẻ uy nghi, đẹp đẽ sừng sững đứng trấn ở vị trí đó khiến ông không phát được. Thời gian cứ thế trôi qua, ḷng đố kỵ với thầy ḿnh của ngài Thái Dương Sơn càng ngày càng lớn. Cho đến mười năm sau, cảm thấy ḷng đố kỵ đă đủ, ông nói: “Cái tháp Tiên sư để đây với ta có chướng ngại, thôi quật cái tháp đi, lấy xác thiêu và đem cốt vào thờ”. Chúng không chịu nhưng ông vẫn ra lệnh quật tháp. Điều ngạc nhiên là dù chết đă mười năm nhưng cơ thể ngài Minh An vẫn c̣n tươi tắn, hồng hào, râu tóc vẫn ra dài. Đây là điều rất độc đáo. Những vị khác tịch mười năm có thể nhục thân không hoại nhưng sẽ bị khô đi. Thân thể Ngài Minh An vẫn tươi như c̣n sống nên chất củi đốt cũng không thể cháy được. Thần lực Ngài Minh An để lại thật khủng khiếp! Thấy như vậy, Thái Dương Sơn bèn lấy búa ŕu dùng chẻ củi chém xả vào đầu, vào thân ngài Minh An cho đến khi tan nát. Sau đó, ông tưới dầu vào và đốt cho thân thể tiêu tan.

Hành động cầm búa ŕu chém vào nhục thân thầy ḿnh mười năm không hoại ấy đă khiến cho mọi người không ai chịu đựng nổi. Quá đau ḷng, những người c̣n lại trong chúng đă chạy lên báo với quan huyện. Rất may, vị quan này vốn kính thờ ngài Minh An. Nghe tin, ông rất giận dữ sai quân lính đến lột y và đuổi Thái Dương Sơn ra khỏi chùa, không cho làm người tu nữa. Quả báo đă đến ngay tức khắc như vậy và ông ta đă hết phước làm Tăng. Sau đó, B́nh Thị Giả đổi tên là Hoàng Tú Tài và đi nơi khác sống. Nhưng đi đến đâu, ông cũng không được trọng dụng. Một hôm, đi đến ngă ba đường, ông bị cọp vồ chết đúng như lời ngài Minh An đă nói trước kia.

Ḷng đố kỵ cộng với ác tâm khiến người ta có thể làm nhiều chuyện động trời như vậy.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 187 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:54am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Ở mức độ nhẹ hơn, người có tâm đố kỵ thường quấy phá lặt vặt nhằm hạ uy tín của người khác. Ví dụ, cùng học với nhau, nhưng thấy người kia làm bài được nhiều điểm hơn, người có tâm đố kỵ sẽ t́m cách lấy bớt một vài trang trong bài làm của họ xé bỏ đi. Người kia không hay biết, vẫn mang bài đến nộp nên không được điểm cao. Hoặc thấy một huynh đệ được thầy trụ tŕ quí mến, v́ đố kỵ, họ cảm thấy bực bội. Đến phiên người ấy nấu bếp, họ phá bằng cách lấy muối bỏ thêm vào nồi canh vv….

Trong Góp nhặt cát đá có câu chuyện về người mù và Thiền Sư Bankei.   Thiền Sư Bankei dạy đạo ở một ngôi chùa. Trước cổng chùa có một người mù. Tuy không nh́n thấy nét mặt của người khác nhưng người mù có cái tai rất nhạy và chỉ cần nghe tiếng nói, ông có thể đánh giá được tâm trạng người khác, biết họ thật t́nh hay không. Ông từng nói: “Khi nghe một người khen sự thành công của người khác, tôi cũng nghe được cái bí mật trong ḷng họ, đó là một sự ganh tỵ. Khi nghe một người chia buồn với nỗi đau khổ của người khác, tôi vẫn nghe được trong tâm họ cái bí mật của một sự vui mừng hả hê.” Ông nói: “Chỉ có Thiền Sư Bankei khi khen ai một điều ǵ, hay chúc mừng ai một điều ǵ, tôi nghe trọn ḷng chân thành, sự vui mừng của Ngài. Khi nghe Ngài tỏ sự buồn bă đối với nỗi buồn của ai, tôi nghe trọn vẹn cái nỗi buồn như thế”.

V́ tu thiền kiểm soát được tâm vững chắc, kỹ lưỡng nên Thiền Sư Bankei có ḷng thương người rất chân thành, không đố kỵ. Câu chuyện nhằm khen ngợi đức tính ấy của ông.

Cái tâm của con người là như vậy. Thấy người nào thua ḿnh th́ vui mừng, thấy ai hơn ḿnh dù mở miệng khen nhưng trong ḷng vẫn có sự bực bội. Hoặc thấy người hơn ḿnh bị nạn, tâm vui mừng một cách lộ liễu hoặc thầm kín.

Ví dụ, người nữ hay hơn thua nhau về sắc đẹp. Thấy người kia được nhiều người khen đẹp, người này cũng khen nhưng trong ḷng ấm ức, bực bội. Đó là khen không thật t́nh v́ ḷng không thật vui khi thấy người ta đẹp hơn ḿnh. Hoặc nghe tin người có tài năng, có danh tiếng hơn ḿnh bị tai nạn, chúng ta không dám bộc lộ niềm vui một cách lộ liễu nên miệng vẫn xuưt xoa: “Tội nghiệp” nhưng trong ḷng lại vui mừng quá đỗi v́ từ nay ông ta không đi giảng được nữa, không hơn ḿnh được nữa. Đó là tâm bí mật của con người.

Từ trong thâm sâu, chúng ta phải cố gắng kiểm soát tâm để khi thấy sự thành công của người khác, chúng ta xem như đó là thành công của chính ḿnh; trước niềm vui của người khác, chúng ta cũng vui như chính niềm vui của ḿnh. V́ vậy, trong bài Khấn nguyện chúng ta vẫn tụng hằng ngày có đoạn:

Xin cho con sung sướng

Khi thấy người thành công

Hoặc gây tạo phước lành

Như chính con làm được

Chúng ta tụng như vậy là để diệt ḷng đố kỵ, khởi được tâm tùy hỷ trước sự thành công của người khác.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 188 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:55am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Tâm đố kỵ có quả báo rất kinh khủng. Có lẽ chúng ta c̣n nhớ câu chuyện về Tôn giả Losaka Tissa bị quả báo đói kém. Vào thời Đức Phật Ca Diếp, Ngài là một trụ tŕ ở một tinh xá đầu làng. Ngài cũng hiền lành, cả làng chỉ có ḿnh Ngài ở ngôi chùa đó. Một hôm, một vị trưởng lăo Alahán đi đến làng và gặp vị địa chủ. Người địa chủ này sau khi nói chuyện, thấy vị Tôn giả này quá trí tuệ bèn thỉnh thọ cơm rồi nói:

- Thưa Tôn giả, đầu làng này có một ngôi tinh xá, xin Tôn giả hăy đến đó nghỉ ngơi, chiều con sẽ đến thăm Tôn giả.

Vị Tôn giả Alahán đến tinh xá gặp vị trụ tŕ. Sau khi chào nhau, vị trụ tŕ hỏi:

- Ngài đă dùng cơm ở đâu chưa?.

Ḥa Thượng trả lời:

- Thưa Ngài, tôi có dùng cơm ở nhà vị trưởng làng.

Chiều hôm đó, người địa chủ mang cơm, thức ăn, sữa và một số vật phẩm đến cúng dường hai vị và đảnh lễ xin nghe Pháp của Tôn giả Alahán. Vị trụ tŕ thấy vậy rất khó chịu.

Sau khi đảnh lễ và nghe pháp xong, người địa chủ đảnh lễ thỉnh luôn hai vị:

- Con xin thỉnh hai vị trưa mai đến nhà con thọ thực.

Cả đêm đó, vị trụ tŕ không ngủ được v́ bỗng dưng từ đâu có người đến giành bớt Phật tử của ḿnh. Sáng hôm sau, ông dậy rất sớm để đến nhà người địa chủ nhưng không gọi vị Tôn giả Alahán kia đi cùng. Thực ra, ông có gơ cửa hai tiếng rất nhẹ, gơ nhưng cố ư không cho người kia nghe.

Khi đến nơi, người địa chủ hỏi:

- Vị Tôn giả hôm qua đâu?.

Vị trụ tŕ trả lời:

- Hôm qua ông ăn cái ǵ đó chắc c̣n đầy bụng, tôi có gọi mà ông không dậy.

Câu nói tuy nhẹ nhưng là một lời chỉ trích, nói xấu làm cho người nghe có cảm giác vị Tôn giả kia ăn no, ngủ quên không chịu tu hành. Ăn xong, vị địa chủ lấy riêng một bát thức ăn và nói:

- Con mong thỉnh Ngài, Ngài đem về cho vị kia giùm con.

Đi giữa đường, gặp đám than hồng người ta đang đốt, ông đổ tất cả bát cơm vào đó. Lúc bấy giờ, ở tinh xá, vị Tôn giả Alahán đă biết tất cả mọi chuyện. Thấy ông này quá đố kỵ, ông đắp y, mang bát bay lên hư không qua vùng khác ở và không về đó nữa.

Về đến nơi không thấy vị kia, vị trụ tŕ giật ḿnh nghĩ: “Hay là vị này đă chứng đạo biết được tâm ta đố kỵ nên bỏ đi không ở lại. Ôi, ta v́ ngu si đă làm một chuyện lầm lỗi”. Sau đó, ông buồn rầu, hối hận rồi chết.

Khi chết, ông xuống địa ngục mấy ngàn năm, bị thiêu đốt ở đó. Hết nghiệp địa ngục, ông lên làm quỷ đói, trong năm trăm năm không hề được ăn một miếng ǵ trừ cái bào thai chết của người ta trục ra một hai lần. Sau khi măn năm trăm năm ngạ quỷ, ông bị đọa làm chó năm trăm đời. Trong thời gian làm chó, không bao giờ ông được người ta cho ăn uống đàng hoàng, chỉ được ăn khi người ta nhậu say nôn ói ra ngoài. Con chó ấy gầy ốm rồi chết. Sau đó, được trở lên làm người. Nhưng nơi ông được sinh ra, cả làng luôn mang tai hoạ. Ông bị người ta đuổi ra khỏi làng, sống lang thang vất vưởng. Sau này, ông gặp Đức Phật (lúc đó Ngài c̣n là Bồ Tát). Ngài giáo hóa theo Phật để củng cố lại nhân duyên với Phật pháp.

Trong kiếp cuối cùng thời Đức Phật sinh ra đời, ông cũng được sinh ra tại một làng đánh cá. Vào ngày ông ra đời, không ai đánh được một con cá nhỏ nào, hồ nước dự trữ cho làng cũng bị cạn, một số nhà trong làng bỗng nhiên bốc lửa cháy, rồi tự nhiên vua ra lệnh bắt cả dân làng….Những chuyện xui cứ tới dồn dập. Thế là người ta nghĩ trong làng đă xuất hiện một người nào đó xúi quẩy, phải t́m cách loại ra. Lúc đầu, họ chia làng thành hai phần độc lập, không giao thiệp với nhau nữa. Phân nửa làng không có ông th́ làm ăn phát đạt trở lại, c̣n nửa làng kia vẫn tiếp tục bị xui xẻo. Thế là, phân nửa làng đó lại được chia làm đôi. Cứ thế, cuối cùng chỉ c̣n lại gia đ́nh ông. Họ đuổi gia đ́nh đó ra khỏi làng và làng lại làm ăn trở lại b́nh thường. Khi bị đuổi, người chồng đuổi luôn người vợ ra khỏi nhà. V́ núm ruột ḿnh đứt ruột đẻ ra, người vợ không nỡ dứt bỏ nên cố gắng làm lụng nuôi ông trong đói khổ. Khi ông lẫm chẫm cầm b́nh bát đi xa được, bà sai con đi xin ăn và ở nhà bà trốn đi. Thế là từ ngày đó, ông bắt đầu cuộc đời đói khổ, tự lập thân sống như con quỷ ăn bùn. Nhiều khi chỉ xin được mấy hạt cơm người ta làm rơi ở sàn nước để ăn cho đỡ đói. Đến khi gặp ngài Xá Lợi Phất, bằng đạo nhăn, ngài Xá Lợi Phất thấy rằng người này có duyên với Phật pháp, có thể tu được dù nghiệp rất khắc nghiệt. Ngài hỏi:

- Cha mẹ con ở đâu ?

- Thưa, mẹ con v́ con mà quá khổ sở nên đă bỏ con.

- Con có muốn xuất gia không?

- Lành thay Tôn giả! Nếu có thể cho con được xuất gia!.

Thế là ngài Xá Lợi Phất đem ông về, cạo tóc cho xuất gia. Mặc dù đă tu chứng Alahán nhưng suốt một đời, không bao giờ Ngài được ăn no cho đến ngày chết.

Quả báo đố kỵ kinh khủng, đáng sợ như vậy. V́ Ngài đă đố kỵ với vị Alahán nên bị đoạ đày không biết bao nhiêu kiếp.

Trong cuộc sống, những người hay đố kỵ phải chịu nhiều quả báo. Nếu không có tài năng, luôn ganh tỵ với người, đời sau chúng ta sẽ không có tài năng. Thấy ai thành công, chúng ta chỉ trích, bực bội th́ đời sau, thành công sẽ không đến, làm ǵ cũng thất bại. Bởi vậy, những người làm việc hay thất bại thường do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có nguyên nhân do đời trước có tâm đố kỵ nặng quá. Ngoài ra, người có tâm đố kỵ c̣n chịu một quả báo nữa là bị thân quyến bỏ rơi. V́ chỉ trích cho người ta bỏ nhau, ghét nhau th́ chúng ta sẽ chịu quả báo sống cô đơn, bị người thân ghét bỏ. Và quả báo nặng hơn nữa là bị đọa ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 189 of 349: Đă gửi: 24 March 2005 lúc 5:56am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. ĐỀ PH̉NG TÂM ĐỐ KỴ.

Tâm đố kỵ đem lại quả báo khủng khiếp như vậy nên chúng ta phải đề pḥng, đừng để nó khởi phát. Nhưng đề pḥng tâm đố kỵ bằng cách nào?

Trong phạm vi gần: Đối với những huynh đệ cùng lớp, cùng trường và nhất là cùng tŕnh độ với nhau, lúc nào chúng ta cũng chân thành cầu mong huynh đệ hơn ḿnh. Nếu lỡ học kém, chúng ta cũng cầu mong cho huynh đệ măi măi hơn ḿnh. Như thế, chúng ta sẽ có phước và dần dần sẽ học giỏi hơn. Nếu lúc nào cũng muốn hơn người, chúng ta sẽ ngày càng kém sút.

Khi thấy huynh đệ được nhiều người mến (đắc nhân tâm), chúng ta đừng phủ nhận mà phải t́m thấy ưu điểm nào đă khiến họ được như vậy. Có thể họ có phước ǵ đó trong quá khứ và ưu điểm ǵ đó trong hiện tại. T́m những ưu điểm của bạn để chúng ta học hỏi, tuyệt đối không được chê bai, dè bĩu.

Trường hợp huynh đệ ḿnh có uy tín, được người lớn giao nhiệm vụ (trông coi hương đăng, tiếp khách, tri sự, quản chúng… ), chúng ta phải tận t́nh phụ giúp để huynh đệ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chúng ta đừng v́ ganh ghét mà lén lút phá đám.

Sau một thời gian tu hành, thấy huynh đệ ḿnh tu tiến, ngồi thiền được lâu, thuyết giảng hay…, chúng ta phải hoan hỷ và thật ḷng kính trọng. V́ người có trí tuệ, định lực tăng tiến cũng chính là thầy ḿnh.

Đối với những huynh đệ kém hơn, chúng ta phải tận t́nh chỉ dạy, không giấu giếm để huynh đệ vượt lên. Thâm tâm chúng ta phải lúc nào cũng mong cho huynh đệ tốt hơn ḿnh. Nếu thấy huynh đệ nào chữ viết c̣n xấu, chúng ta chỉ họ cách rèn từng chữ để dần dần chữ viết được đẹp hơn. Hoặc thấy huynh đệ viết câu văn chưa chuẩn, chưa suông, chấm câu c̣n tùy tiện…, chúng ta phải hướng dẫn họ nắm lại những qui tắc ngữ pháp cơ bản vv… Nói chung, chúng ta luôn tận t́nh chỉ dạy cho huynh đệ ḿnh tiến lên.

Ở phạm vi xa: (lúc trưởng thành làm việc lớn)

Đây là lúc tâm đố kỵ dễ có điều kiện khởi phát nhất. V́ lúc này, mối quan hệ của chúng ta rộng răi hơn, quyền lợi cũng nhiều hơn. Bởi vậy, chúng ta càng đề pḥng tâm đố kỵ cẩn thận hơn.

Khi nghe có giảng sư nào thuyết pháp hay, được nhiều người hâm mộ, chúng ta phải chân thành t́m thấy ưu điểm của vị đó để tán thán, học hỏi. Có khi, giữa chúng ta và người ấy không đồng quan điểm nhưng nếu họ được nhiều người hâm mộ, khen ngợi, tán thán, chúng ta cũng phải t́m hiểu nguyên nhân và chân thành học hỏi. Trước những ưu điểm của người, chúng ta phải đảnh lễ, kính trọng. Có như vậy, tâm đố kỵ mới bị tiêu trừ và chúng ta mới có thể tiến bộ.

Đối với những vị tu có kết quả tâm linh, chúng ta phải chân thành kính trọng. V́ đó chính là những vị Thánh của cuộc đời, là chỗ dựa cho chúng sinh. Làm một giảng sư hay không bằng những người đắc định, ngộ đạo thật sự trong tâm. Họ mới thật sự là chỗ dựa của chúng sinh. Có thể người đó nhỏ tuổi hơn chúng ta, tu sau chúng ta nhưng nếu họ đạt được kết quả tâm linh th́ tận trong thâm tâm, chúng ta phải xem họ là thầy ḿnh và thật ḷng kính trọng, không được khởi tâm đố kỵ. Nếu gửi đến các bậc Thánh ḷng kính trọng, sau này chúng ta cũng sẽ đạt được nhiều điều tốt lành.

Mặt khác, chúng ta phải giới thiệu những vị có Tài Đức cho nhiều người biết để cùng học hỏi. Chẳng hạn, bác Như Sanh là người Ḥa Hảo nhưng sách Bác viết rất hay và sâu sắc. Khi giảng Pháp, nhờ giới thiệu cuốn sách cho nhiều người biết, chúng ta đă làm được một điều tốt là tạo mối quan hệ giữa Ḥa Hảo và đạo Phật mặc dù lâu nay, giữa hai đạo này vốn không có thiện cảm với nhau. Như vậy, khi chân thành ca ngợi cái hay của người khác, chúng ta sẽ góp phần làm cho thế giới này đoàn kết hơn.

Đối với những người có chức vụ cao hơn ḿnh, chúng ta cố gắng phụ lực để giúp họ làm tṛn trách nhiệm. Tận trong thâm tâm, chúng ta không mong cầu tín đồ, tiền bạc, địa vị, danh tiếng … v́ tất cả chỉ là hư ảo. V́ không mong cầu nên chúng ta không có cảm giác bị đụng chạm quyền lợi với ai và không nảy sinh ḷng đố kỵ khi thấy người khác hơn ḿnh.

Nói tóm lại, tâm đố kỵ rất đáng sợ. V́ vậy, chúng ta phải thương yêu mọi người chân thành, lúc nào cũng mong mọi người hơn ḿnh. Đó là những nguyên tắc để diệt trừ tâm đố kỵ.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 190 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:22am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bài tiếp theo: GIẢI THOÁT ĐỂ LÀM G̀
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 191 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:26am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

BÀI 14: GIẢI THOÁT ĐỂ LÀM G̀ ?




1. GIẢI THOÁT LÀ MỤC TIÊU CỦA ĐẠO PHẬT.

Khi đến với đạo Phật, tất cả chúng ta đều xác định mục tiêu là t́m đến sự giác ngộ, sự giải thoát. Đó là lời khẳng định đúng đắn con đường đi của đạo Phật. Nhưng trong đạo Phật, ư niệm đem lợi ích cho chúng sinh cũng là một mục tiêu quan trọng không kém.

Như vậy, vừa t́m đến sự giải thoát, vừa đem lại lợi ích cho cuộc sống của con người luôn luôn là đôi cánh của con chim mà người tu theo Phật phải nhận thức chắc chắn không lầm lẫn. Đó cũng là sự minh chứng hùng hồn rằng Đạo Phật hoàn toàn không phải là đạo tiêu cực.

Nhưng để thiết tha đi t́m sự giải thoát, trước hết chúng ta phải hiểu sâu sắc thế gian này là ràng buộc, là đau khổ. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy được ư nghĩa của sự giải thoát. Nếu không ư thức được cuộc sống hiện nay là đau khổ th́ lư tưởng giải thoát sẽ trở nên vô nghĩa.

Bao giờ cũng vậy, khi rơi vào hoàn cảnh bức xúc, ngặt nghèo, lư tưởng t́m đến giải thoát sẽ mạnh mẽ hơn. Trong ḥan cảnh sung sướng no đủ, người ta dễ măn nguyện và không thiết tha t́m cầu điều ǵ vượt thóat hơn. Đạo Phật được gọi là đạo của trí tuệ chính v́ ngay trong bất cứ ḥan cảnh nào, dù khổ đau hay sung sướng, người ta cũng được soi sáng một chân trời cao siêu hơn, ṭan thiện hơn. Người ta sẽ luôn luôn được cảnh báo rằng cái sung sướng mà họ đang hưởng thực chất cũng chỉ là cạn cợt, tầm thường, mong manh và nguy hiểm.Đây là trí tuệ then chốt của người học Phật .

Nếu không hiểu sâu sắc sự đau khổ của cuộc sống, chúng ta sẽ không có khát vọng hướng đến sự giải thoát. Một lúc nào đó, có người không tin tôn giáo, thắc mắc rằng tại sao Đức Phật nói cuộc đời là khổ trong khi con người, ai cũng có lúc khổ, có lúc sướng, chúng ta sẽ lúng túng không trả lời được. Hỏi như vậy, có nghĩa là người ta cảm thấy sự khẳng định của Đức Phật là cực đoan và cách nh́n thế gian của đạo Phật quá bi quan.

Về sự khổ, chúng ta đă học một phần trong kinh: Bát Đại Nhân Giác. Trong Tứ Diệu đế, khổ được chia ra làm tám loại: Sanh, lăo, bệnh, tử, cầu bất đắc, oán tán hội , ái biệt ly và ngũ ấm xí thạnh. Chúng ta chưa bàn đến Sanh, lăo, bệnh, tử v́ đó là những vấn đề lớn. Cầu bất đắc là cầu không được. Ái biệt ly là thương yêu mà phải chia cách. Oán tắng hội là ghét mà cứ gặp hoài. Ngũ ấm xí thạnh là thân tâm là một khối khổ.

Xét từng trường hợp, chúng ta thấy rằng, có người cầu mong điều ǵ đều được như ư. Người ấy không có ǵ phải đau khổ. Như vậy, làm sao khẳng định rằng cuộc đời này toàn là đau khổ? Hoặc nói ái biệt ly là đau khổ. Nhưng nếu người ḿnh thương yêu luôn ở bên cạnh, không hề xa cách, th́ làm ǵ có sự đau khổ. Như vậy, khẳng định cuộc đời này toàn là đau khổ, phải chăng đó là điều không đúng? Hoặc nói oán tắng hội là ghét mà gặp mặt hoài là khổ. Nhưng có những người ḿnh ghét mà chẳng ở chung với họ th́ không có ǵ gọi là khổ v.v… Nhiều người cứ lư luận như vậy, nếu chúng ta không hiểu rơ được nỗi đau khổ của cuộc đời th́ sẽ không trả lời được. Cho nên, dù làm Giảng sư hay không, chúng ta cũng phải chuẩn bị cho ḿnh những lư luận cơ bản để có thể giải thích vấn đề một cách hợp lư. Trứơc hết, chúng ta phải hiểu rơ nỗi đau khổ của cuộc đời để thiết tha tu hành. Nhưng làm sao chúng ta nhận ra cuộc đời ḿnh đang sống là đau khổ, là ràng buộc ?

Để trả lời điều đó, chúng ta phải biết so sánh. Chẳng hạn, nếu nh́n một con chó hoang ghẻ lác, lông rụng hết, mùa đông đến, phải sống trong giá lạnh, lại bị con người xua đuổi, phải sống lang thang ngoài đường phố, chúng ta sẽ thấy thân phận nó khổ biết chừng nào. So sánh với thân phận con người, chúng ta sẽ nghĩ nếu thoát được thân chó và làm người, chắc chắn nó sẽ sung sướng hơn. Hoặc nh́n thấy những con kiến bé nhỏ đang ́ ạch tha mồi mang về hang, về tổ, chúng ta sẽ xót thương thân phận chúng vô cùng, v́ chúng quá cực khổ. Thân phận con kiến đă quá bé nhỏ lại phải cần mẫn tha từng miếng mồi to hơn mấy lần thân nó một cách vất vả. Với con người chúng ta, miếng mồi ấy có đáng ǵ, có thể đó chỉ là mảnh vụn rơi ra từ cái bánh ta vừa ăn. Nhưng đối với họ nhà kiến, miếng mồi ấy quí giá vô cùng. Như vậy, thử so sánh thân phận con kiến với con người, chúng ta sẽ thấy nó quá khổ c̣n ḿnh thật sung sướng, hạnh phúc. Dẫu sao, chúng ta cũng có cái ăn, có cái dự trữ, chúng ta c̣n được đi đó đi đây, xa hơn và tự do hơn. Trong khi đó, con kiến bị ràng buộc trong một phạm vi nhỏ hẹp.

Bao giờ cũng vậy, nh́n xuống dưới, chúng ta luôn thấy ḿnh sướng hơn nhiều người, nhưng nếu so sánh với Chư Thiên, chúng ta sẽ chợt thấy đời ḿnh đầy ắp những nỗi khổ đau. Chư Thiên sống một cuộc sống thong dong an vui, tự do, tự tại và muốn ǵ được nấy. Nếu muốn đi đâu, chỉ cần khởi ư niệm bên này, chư Thiên sẽ biến mất và hiện ngay lập tức ở bên kia. Hoặc muốn liên lạc với ai, chỉ bằng ư niệm của ḿnh, Chư Thiên sẽ làm cho người kia nhận ngay được ư tưởng. Các vị sống trong một thế giới mà mọi điều đều tốt đẹp. Rơ ràng, so sánh như vậy, chúng ta sẽ thấy con người sống khổ hơn rất nhiều so với chư Thiên.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 192 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:29am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy


Trong cuộc sống, cũng có những lúc chúng ta thấy ḿnh được vui, được hạnh phúc, nhưng cái vui của thế gian này nếu so sánh với Niết Bàn tuyệt đối của Phật chẳng có ư nghĩa ǵ. Như vậy, sở dĩ Đức Phật tuyên bố cuộc đời này đau khổ là v́ Ngài dựa vào Niết Bàn tuyệt đối mà Ngài đă chứng được. Khi đă chứng được Niết Bàn tuyệt đối, Ngài mới hiểu rằng, mọi cái gọi là niềm vui hay hạnh phúc của thế gian thực chất chỉ là đau khổ v́ nó quá tầm thường. Chúng ta chưa chứng được điều đó, chỉ nghe Phật nói nên thường hiểu không sâu sắc.

Sự thật, những ǵ chúng ta gọi là hạnh phúc ( được nhà cao cửa rộng, lắm của nhiều tiền…) so với trạng thái Niết Bàn tuyệt đối của Chư Phật, chỉ là điều vụn vặt không đáng kể. Nếu so sánh với con kiến, chúng ta thấy nó quá cực khổ, quá ràng buộc, c̣n ḿnh quá tự tại th́ Đức Phật nh́n cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Ngài thấy ḿnh tự do, tự tại mà chúng sinh phải lặn hụp kiếm từng miếng ăn nho nhỏ chẳng khác ǵ con kiến.

Chúng ta thử h́nh dung chứng kiến cảnh hai con kiến đang giành nhau một mẩu bánh của con người làm rơi, chúng ta sẽ nghĩ ǵ ? Có thể lúc ấy chúng ta cảm thấy buồn cười v́ sự tranh giành lặt vặt, xâu xé lẫn nhau v́ một vật không đáng ǵ của chúng. Điều đó chẳng khác ǵ cách nh́n và cách nghĩ của Chư Thiên hay Chư Phật đối với chúng ta. Đối với các vị Bồ Tát, Alahán, địa vị, danh lợi chỉ là những thứ tầm thường chẳng khác ǵ hạt bụi rơi ra từ chiếc bánh. Vậy mà, chúng ta lại cứ giành nhau, xâu xé lẫn nhau, cho đó là những ǵ quí nhất, quan trọng nhất. Khi hiểu được như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời này thật sự là bể khổ. Những lúc cảm thấy sung sướng là do chúng ta chỉ so sánh lẩn quẩn trong phạm vi cuộc sống của con người. Nếu so sánh với hạnh phúc của Chư Thiên hoặc với sự an lạc của một vị Bồ Tát, một vị Alahán, một vị Phật…th́ những cái gọi là sung sướng trong cuộc đời này thật quá tạm bợ, quá nhỏ bé tầm thường. Chừng nào hiểu sâu sắc ư nghĩa đau khổ của cuộc đời, hiểu được thân phận tầm thường, nhỏ nhoi của ḿnh, chừng ấy chúng ta mới hiểu sâu sắc đạo Phật và thiết tha đi t́m sự giải thoát.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 193 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:47am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Vậy, nguyên nhân của đau khổ là ǵ ?

Đó là do khuynh hướng vị kỷ. Chúng ta biết rằng, vị kỷ sinh ra nhiều hệ quả, trong đó có một hệ quả quan trọng là sự đau khổ. Hay nói cách khác, tất cả những đau khổ của con người đều bắt nguồn từ vị kỷ. Nói vị kỷ sinh ra đau khổ thường dựa trên hai ư nghĩa. Một là trên hệ quả của tâm lư hiện tại và một là trên hệ quả của luật Nhân Quả đưa đến vị lai.

Ví dụ, khi có người nào đó đem đến cho chúng ta một vật quí, chúng ta sợ phải chia lại cho người khác nên vội vàng t́m cách cất giấu và hưởng thụ riêng. Đó là tâm lư vị kỷ. Như vậy, điều đau khổ thứ nhất là chúng ta rơi vào trạng thái bất an. Hệ quả bất an là hệ quả về tâm lư. Đó cũng là đau khổ trong hiện tại. Về vị lai, qua một kiếp nào đó, theo luật Nhân Quả, chúng ta sẽ không được may mắn trong cuộc sống. Muốn làm điều ǵ, chúng ta cũng bị ràng buộc, khó khăn, chướng ngại, và cuối cùng không làm được việc ǵ có ư nghĩa. C̣n ǵ đau khổ hơn khi sống mà chỉ có thất bại và hèn kém! Như vậy, vị kỷ là nguyên nhân của đau khổ.

Ngược lại, người sống vị tha, sống cho người khác sẽ được nhiều phước nên dần dần được tự do và làm điều ǵ cũng được như ư nguyện. Đây là công thức rất đúng, tuyệt đối đúng. Nh́n vào thực tế, chúng ta sẽ thấy điều này rất rơ. Chẳng hạn, người thiếu phước muốn đi đâu, làm ǵ cũng khó khăn v́ không đủ điều kiện. Trong khi đó, người có phước được giàu có về vật chất, muốn điều ǵ họ sẽ thực hiện được ngay, không bị ai ngăn cản. Như vậy, người không được tự do làm theo ư ḿnh muốn là người thiếu phước. Hay nói cách khác, càng có phước chúng ta càng được tự do. Tiên đề này rất quan trọng. Tự do c̣n có nghĩa là giải thoát. Trong tiếng Anh, giải thoát và tự do đều được dùng một chữ là freedom, hoặc liberty, là sự tự do.

Nói càng có phước chúng ta càng được tự do nghĩa là càng được giải thoát. Cho nên, chúng ta phải sống vị tha để tạo thêm phước. Nếu sống vị tha nhiều, phước sẽ càng lớn và chúng ta càng tự do hơn.

Người tu đến độ vị tha hoàn toàn tuyệt đối là người cả cuộc đời chỉ sống cho mọi người, tuyệt đối không cầu cho ḿnh điều ǵ dù chỉ trong ư nghĩ. Những người ấy sẽ có được Phước đến vô biên và Tự do không c̣n giới hạn. Đó thực sự là người được giải thoát. Như vậy, có hai con đường để chúng ta đi đến giải thoát. Một là tu tập trí tuệ Thiền định để phá chấp ngă, phá vô minh và đạt được giải thoát. Hai là chúng ta sống cuộc đời vị tha, tạo phước cho đến vô biên vô lượng, để đạt được sự Tự do tuyệt đối.

Thực ra, hai con đường này chỉ có chung một lối. Con đường tu tập Thiền định, trí tuệ để phá chấp ngă, phá vô minh gọi là con đường tu Huệ. Con đường thứ hai gọi là tu Phước. Phước Huệ song tu là điều Đức Phật đă nói từ ngàn xưa. Chúng ta đi t́m sự giải thoát phải đi trên cả hai con đường này, vừa tu Phước vừa tu Huệ. Gọi là tu Phước, tu Huệ nhưng sự thật chỉ có một lối duy nhất để đi đến giải thoát.

Có người hỏi Như Sanh rằng, đạo Phật là đạo t́m sự giải thoát vượt ra ngoài cả thiện và ác. Vậy khi tu hành giải thoát trong đạo Phật, chúng ta không làm tội cũng không tạo phước, điều đó có đúng không? Như Sanh đă trả lời không đúng. Ông lư giải rằng, càng có tội, người ta càng bị ràng buộc và càng làm phuớc, người ta càng được tự do. Người ta chỉ được tự do trong phước và bị ràng buộc trong tội. Câu trả lời ấy làm cho đạo Phật viên măn. V́ khi đi t́m sự giải thoát, chúng ta sẽ sống một cuộc đời hết sức vị tha, làm lợi ích cho tất cả mọi nguời. Điều này hoàn toàn trái với quan niệm cho rằng, muốn t́m sự giải thoát phải buông bỏ tất cả, quên hết tất cả mọi người, chỉ lo đóng cửa tu tập, lo cho chính ḿnh. Đó là quan niệm rất sai lầm.
Xét lại chuyện Tôn giả Losaka Tissa bị đói suốt đời, đến giờ phút cuối cùng nhờ thần lực và Đức của ngài Xá Lợi Phất mới được ăn một bữa no đủ trước khi nhập diệt, và sau đó được chứng Alahán, chúng ta có quyền hoài nghi. V́ một người thiếu phước như ngài Losaka Tissa làm sao có thể đạt được sự giải thoát như vậy. Chúng ta luôn nhớ một điều, sự Tự do, sự Giải thoát bao giờ cũng phải xuất phát từ Phước. Trong suốt truyện tích về ngài Losaka Tissa, chúng ta chỉ thấy từ nghiệp đố kỵ mà Ngài bị quả báo quá nặng nề. Trong khi đó, không có chi tiết nào kể về việc Ngài tạo phước lớn hơn để vượt qua sự quả báo ấy. Vậy mà, cuối cùng Ngài vẫn chứng được Alahán.

Chính v́ những sự vô lư như vậy nên một số học giả phương Tây thường tỏ ra hoài nghi những Kinh điển cổ. Trong chuyện này họ cho rằng, người sau có thể thêm thắc vào để có một kết thúc như vậy. V́ một người đang trong t́nh trạng thiếu phước cực độ không thể có được sự giải thoát. Chúng ta khi bàn đến vấn đề này, cũng có quyền xét lại câu chuyện về tôn giả Losaka Tissa. Có thể ngài c̣n một cái Nhân lành rất đặc biệt khác nữa để trợ giúp cho sự chứng ngộ mà kinh điển không ghi ra hết.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 194 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:52am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

2. MỤC ĐÍCH GIẢI THOÁT CHO M̀NH CHỈ LÀ SỰ VỊ KỶ TRÁ H̀NH.

Khi biết chắc rằng cuộc đời này vô cùng đau khổ, chúng ta xác định phải đi đến sự giải thoát. Nhưng nếu chỉ đi t́m sự giải thoát cho chính ḿnh, chúng ta sẽ rơi trở lại tâm vị kỷ. Mà vị kỷ chính là nguyên nhân của mọi đau khổ trên đời. Bởi vậy, không ít người muốn thoát khỏi đau khổ nhưng không ngờ lại gieo nhân đau khổ. Đây là cái ṿng lẩn quẩn mà không phải ai cũng dễ dàng thoát ra được. Chúng ta phải cẩn thận điều này. Nếu phát tâm tinh tấn tu hành mà chỉ tu cho bản thân ḿnh, vĩnh viễn không bao giờ chúng ta đạt được sự giải thoát. Thực tế đă chứng minh điều đó.

Chúng ta phải hiểu rằng, thực chất của việc đi t́m sự giải thoát, giác ngộ nằm ngay trong cuộc sống của chúng ta. Nếu tách khỏi đời sống, những danh từ ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Muốn giải thoát, mỗi người phải xem lại ḿnh có thương yêu mọi người hay không, có giữ được tâm khiêm hạ hay không. Nếu nói chuyện giải thoát giác ngộ thật xa vời để rồi trong đời sống, chúng ta không có t́nh yêu thương, chúng ta cứ hống hách kiêu mạn, cứ ganh ghét đố kỵ với mọi người th́ sự giải thoát, giác ngộ chỉ là vô nghĩa.

Đức Phật xuất gia v́ có một mục đích rơ ràng là đi t́m đường giải thoát cho chúng sinh. Mặc dù sống một cuộc đời sung sướng vương giả nhưng do ḷng thương yêu của một vị Bồ Tát nên Ngài nh́n thấy thân phận con người là vô nghĩa. Lúc bấy giờ, ở Ấn Độ, người đă tin có luân hồi và Đức Phật cũng theo tín ngưỡng thời đó. V́ tin có luân hồi nên Ngài nh́n thấy sự đau khổ của con người. Người ta cứ sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết, rồi lại tái sinh. Cứ sống trong ṿng lẩn quẩn như thế không biết bao giờ con người mới thoát ra được. Trong ṿng lẩn quẩn đó, có khi con người cũng cảm thấy được sung sướng nhưng không phải là sự sung sướng đích thực. Tất cả rồi cũng trôi qua, con người rồi cũng vướng vào sự hơn thua, tranh giành, hận thù, tham lam, ích kỷ rồi cuối cùng cũng chấp nhận cái chết. Có thể bây giờ nghe câu chuyện này, chúng ta cảm thấy b́nh thường nhưng so sánh với những người khác, chúng ta sẽ thấy được sự vĩ đại trong cái nh́n của Đức Phật.

Hiện nay, trên thế giới cũng có nhiều nhà từ thiện, nh́n thấy những nỗi đau khổ nào đó của kiếp người. Họ cũng nỗ lực làm điều ǵ đó để xoa dịu nỗi đau cho con người. Chẳng hạn, có một nhóm người thấy rằng sử dụng ḿn bẫy trong chiến tranh là điều rất vô nhân đạo. Không biết bao nhiêu người dân vô tội đă bị thương tật, đă bị bỏ mạng bởi vướng phải những quả ḿn ấy. Nh́n thấy đó là một nỗi khổ lớn của nhân loại, họ đă đoàn kết kêu gọi các nước trên thế giới chấm dứt sản xuất ḿn bẫy, chấm dứt sử dụng ḿn bẫy trong chiến tranh để giết hại con người. Họ đấu tranh dữ dội khiến một số nước lớn đă phải ngồi vào bàn Hội nghị để thảo luận và thống nhất vĩnh viễn chấm dứt sản xuất ḿn. Những việc họ làm thật vĩ đại. Những người ấy cũng nh́n thấy nỗi đau khổ của kiếp người và ra sức làm điều ǵ đó có lợi cho con người. Hoặc có người nh́n thấy nỗi đau khổ của những người bị bệnh phong cùi, tay chân bị ṃn dần, thân h́nh lở lói khiến người ta sợ hăi, xa lánh mà động tâm. Họ t́m cách giúp đỡ những con người bất hạnh ấy. Những nhà khoa học th́ miệt mài trong pḥng thí nghiệm để t́m ra loại thuốc chữa bệnh cùi. Những người khác th́ không ngần ngại vào những trại cùi để săn sóc, an ủi bệnh nhân cùi. Họ quả thật là những con người vĩ đại.

Trong cuộc sống, c̣n biết bao nhiêu tấm gương sống vị tha như thế. Họ đều là những người biết yêu thương con người, thấy được nỗi khổ của con người và cố gắng làm một cái ǵ đó có lợi cho chúng sinh. Họ đều là những con người vĩ đại. Nhưng tất cả những cái họ nh́n thấy chỉ là một góc nhỏ trong nỗi khổ của kiếp người. C̣n nỗi khổ lớn, bao trùm vĩnh viễn lên kiếp người là Luân hồi th́ họ không nh́n thấy được. Đây là chỗ khác biệt giữa họ và Đức Phật. Khi nh́n thấy bên kia làng có một số người nghèo khổ, vất vả không có miếng ăn, Ngài cảm thấy đó thật sự là nỗi khổ nhưng chưa phải là nỗi khổ cuối cùng. Hoặc thấy những người bị bệnh, lăn lóc đau đớn không có thuốc thang, không người chăm sóc, Ngài biết là khổ thật nhưng vẫn chưa phải là nỗi khổ cuối cùng. Nỗi khổ cuối cùng, lớn nhất theo Ngài, đó chính là Luân hồi .

Chúng ta biết rằng, trong kiếp người này, dù người giàu hay người nghèo, dù người bệnh hay người khỏe, may mắn hay bất hạnh, tất cả đều phải bệnh, phải già, phải chết, phải tái sinh. Con người cứ lẩn quẩn một cách mệt mỏi như thế. Nếu chúng ta hiểu được rằng, không phải đây là lần duy nhất ḿnh vào ra thế gian này mà mấy triệu kiếp rồi, và sẽ c̣n nhiều kiếp nữa phải tiếp tục lang thang, vào ra như thế, chúng ta sẽ thấy chán ngán và mệt mỏi.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 195 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:53am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong bài Khấn nguyện chúng ta vẫn tụng hằng đêm, có đoạn viết:

Cúi lạy mười phường Phật

Đau khổ đă nhiều rồi

Vô lương kiếp luân hồi

Đắng cay và mỏi mệt.

Như vậy, khi hiểu được ḿnh đă lang thang vô lượng kiếp bây giờ c̣n phải lang thang nữa, chúng ta sẽ cảm thấy cay đắng và mệt mỏi. Đức Phật nh́n thấy ngay điều đó và thấy được nỗi khổ bất tận của chúng sinh nên quyết tâm t́m con đường giải thoát để cứu chúng sinh. Động cơ xuất gia của Đức Phật hoàn toàn vị tha. Và sau đó, Ngài sống những năm tháng lặn lội, khổ sở trong rừng để tu tập cũng v́ chúng sinh.

Chúng ta cũng vậy, phải xác định dù tu hay học cũng v́ lợi ích cho chúng sinh, đừng bao giờ nghĩ đến lợi ích của chính ḿnh. Trong từng giây phút tu hành, chúng ta phải tinh tế nh́n ra điều sai điều đúng, kiểm soát tâm ḿnh để rút ra những kinh nghiệm quí báu. Khi đă có kinh nghiệm, nếu có duyên chúng ta sẽ đứng trên pháp đàn tuyên dương hoằng hóa đạo Phật, thay Phật thay Tổ đem chánh pháp đến cho mọi người. Nếu không có duyên, chúng ta vẫn có lời để khuyên lơn, an ủi những người đang đau khổ khi họ t́m đến với ḿnh. Làm được điều đó nghĩa là chúng ta đă làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu cứ vị kỷ, học hành tu tập để được bằng cấp, danh tiếng cho ḿnh, chắc chắn sau này cái chờ đợi chúng ta là khổ đau chồng chất v́ lúc ấy chúng ta bị ràng buộc đủ điều.

Để làm được những điều ấy, chúng ta phải nh́n kỹ tâm ḿmh, xem ḿnh có c̣n tâm đố kỵ, c̣n ganh tị với người khác hay không. Nếu tâm đố kỵ c̣n tồn tại, chúng ta phải sám hối cho thật kỹ. Nói gạn lọc tâm ḿnh là như vậy. Chúng ta phải sống hết sức vị tha, vượt qua hết những phiền năo. Nhiều khi, chúng ta cũng mắc phải những lỗi lầm. Điều quan trọng là mỗi người phải chân thành nhận đó là lỗi để sửa chữa, để t́m cách vượt qua. Nhờ những lầm lỗi và sự chân thành nhận lỗi mà chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm tu hành. Đó là những kinh nghiệm mà chúng ta tu tập để dạy cho người khác. Người có lỗi mà không cho đó là lỗi sẽ không bao giờ tiến bộ.

Như vậy, nhờ những lời dạy của Phật, những lời dạy của Thầy Tổ, kết hợp với sự chân thành nh́n lỗi của ḿnh, chúng ta rút ra được nhiều kinh nghiệm, nhiều nguyên tắc để truyền đạt lại cho người sau. Xét cho cùng, khi phạm sai lầm, chúng ta biết rút kinh nghiệm là đă nghĩ đến người khác. Nếu đă phạm sai lầm, chúng ta phải làm sao cho người khác đừng mắc phải sai lầm như ḿnh. Đó là vị tha.

Ngược lại, được điều ǵ hay chúng ta đều muốn cho chúng sinh cùng được. Ví dụ, khi được hướng dẫn ngồi Thiền điều thân, biết được toàn thân và nhận ra đây là căn bản quan trọng của Thiền, chúng ta phải nhớ đến những người khác. Chúng ta mong sao mọi người trước khi vào ngồi Thiền đều biết được sự điều thân, v́ điều này rất có lợi cho công phu của họ. Như vậy, được điều ǵ đúng, chúng ta luôn luôn mong cho mọi người cùng được. Và vấp điều ǵ dở, chúng ta lại muốn mọi người không bị vấp như ḿnh. Đó là vị tha.

Chẳng hạn, khi tâm ḿnh khởi lên điều ham thích nào đó, chúng ta biết ngay đó là điều dở. Từ chỗ nhận thức như vậy, chúng ta phải t́m cách vượt qua. Khi vượt qua được, chúng ta sẽ nghĩ đến bao nhiêu người khác c̣n đang vướng kẹt và mong mỏi giúp họ đều vượt qua như thế. Ví dụ vấn đề ái dục, nếu có con đường, có phương pháp đúng đắn để vượt qua được ái dục sẽ có lợi cho những người tu hành biết bao nhiêu. Từ đó, mỗi người một ư kiến để có thể t́m ra được con đường ấy, giúp cho đời sống tu hành của Tăng Ni được thanh tịnh hơn, trong sạch hơn.

Tóm lại, chúng ta không nên đặt ra mục đích giải thoát cho bản thân ḿnh. V́ đó là sự vị kỷ. Là người tu hành, chúng ta phải luôn t́m đến mục đích giải thoát cho chúng sinh.


Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 196 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:55am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3. BIỂU HIỆN CỦA GIẢI THOÁT LÀ ĐẠO ĐỨC.

Đạo đức là nền tảng ban đầu. Khi tu, chúng ta bắt đầu bằng Đạo đức,     phải rèn luyện bằng Đạo đức. Nhờ có Đạo đức, chúng ta mới tạo được Phước. Nhờ Phước, chúng ta mới giữ được Giới. Người không có Phước, không thể giữ Giới được. V́ vậy, chúng ta phải tạo Phước, phải lạy Phật, sống một cuộc sống vị tha, phải khiêm hạ…để có bản lĩnh giữ được Giới cho trong sạch. Khi đă giữ được Giới, chúng ta mới vào Định được. Khi Định đă thành, chúng ta sẽ được Tuệ giải thoát. Và biểu hiện của giải thoát lại là Đạo đức.

V́ khi đă đạt được Tuệ giải thoát, Đạo đức c̣n sáng tỏ hơn bao giờ hết. Chúng ta bắt đầu bằng Đạo đức và kết thúc cũng bằng Đạo đức. Người được xem là tu tiến trong Phật Pháp cũng biểu hiện bằng Đạo đức, không phải là điều ǵ xa xôi, khó hiểu. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng, người được giải thoát là người có những lời nói bí hiểm kỳ lạ, có hành vi khó hiểu, có cuộc sống ung dung, nhàn hạ chỉ thích ngao du sơn thủy:

B́nh bát cơm ngàn nhà

Thân chơi muôn dặm xa.

Mắt xanh xem người thế

Mây trắng hỏi đường qua.

Hoàn toàn không phải như thế. Người được giải thoát là người có Đạo đức, sống cuộc đời vị tha, lo cho người khác. Những người sống phong lưu, nhàn hạ vân du nơi này nơi khác mà chúng ta gặp chưa hẳn là người đă được giải thoát. Vậy, biểu hiện của Đạo đức là ǵ ?

Trước hết, đó là tâm từ bi, từ bi rất mạnh. Khi chưa giải thoát, chúng ta phải tu tập ḷng từ bi. Khi giải thoát rồi, ḷng từ bi sẽ cực mạnh. Có người ngay từ nhỏ đă là người tốt, sẵn sàng giúp đỡ người khác. Khi lớn lên, biết Đạo người ấy lại càng tốt hơn, rất giàu đức hy sinh. Nhất là khi hiểu Đạo một cách sâu sắc, thấy ḷng từ bi là một thuộc tính quan trọng không thể thiếu của người tu, người ấy rất siêng năng tu tập từ bi. Khi trở thành Giảng sư, đi giảng khắp nơi, vị chân tu ấy cũng luôn kêu gọi mọi người phải tu tập từ bi, sống với nhau trong t́nh thương yêu. Vậy mà, có lúc vị này chợt nhận ra ḿnh chưa biết thương ai. Đây là điều rất lạ. Dù đă sống rất tốt, hy sinh tất cả cho mọi người, không giữ lại ǵ cho riêng ḿnh, cực khổ gian nan cũng không nề hà, nhưng vẫn có lúc thấy ḿnh chưa đủ t́nh yêu thương với mọi người.

Sở dĩ nhận ra điều ấy là do vị chân tu vừa đạt được sự từ bi đích thực. Người chợt hiểu sự quan tâm đến người khác, hy sinh cho người khác của ḿnh trước kia chưa phải từ bi. Đó là cái tốt của lư trí. Nghĩa là v́ hiểu Đạo lư, hiểu Đạo dạy phải sống tốt, phải hy sinh, không được ích kỷ mà người ấy đă đối xử tốt với mọi người. Cái tốt đó không xuất phát từ ḷng thương yêu thật sự của trái tim. Chỉ khi nào người tu hành cảm thấy trái tim ḿnh thật sự có ḷng thương yêu con người th́ lúc ấy mới gọi là có từ bi. Và chính lúc ấy, chúng ta mới nhận ra trước kia ḿnh chưa thực sự thương ai. Đây là điều rất khó. Khi đă có một chút từ bi, nh́n thấy ai chúng ta cũng có thể khởi ḷng thương yêu. Ngay cả những người sống giang hồ, quậy phá, nói năng thiếu văn hóa, chúng ta cũng có thể khởi ḷng thương yêu mà không hề ghét bỏ. Điều này chúng ta đă được học trong bài Tâm từ. Tuy nhiên, t́nh yêu thương con người của chúng ta như vậy vẫn chưa đủ, cường độ vẫn c̣n yếu. Chúng ta chưa thể có t́nh yêu phủ trùm pháp giới một cách mạnh mẽ như Chư Phật hay Chư Bồ Tát. Đó là lư do v́ sao nói người đă được giải thoát, từ bi rất mạnh.    

Nếu không cố gắng tu tập, ḷng từ bi sẽ bị chai ĺ đi, chúng ta sẽ không thương yêu được chúng sanh và dễ dàng rơi trở về tâm vị kỷ. Lúc ấy, đau khổ sẽ ngập tràn. Bởi vậy, chúng ta phải tu tập từ bi để hỗ trợ cho Đạo đức của sự giải thoát. Mỗi khi lễ Phật hay ngồi Thiền, chúng ta đều phải tác ư quán từ bi, thương yêu chúng sanh. Cứ thế đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ nhận thấy trong trái tim ḿnh tràn ngập t́nh thương yêu đối với chúng sinh. Đó là lúc chúng ta bắt đầu có được ḷng từ bi. Và điều đó chỉ bản thân chúng ta mới hiểu được.

Một biểu hiện khác của Đạo đức giải thoát là sự khiêm hạ, khiêm hạ rất sâu v́ có trí tuệ Vô ngă. Khiêm hạ là khiêm tốn, không khoe khoang, không tranh hơn thua với bất cứ ai. Người nào hiểu, chúng ta giăi bày, dạy dỗ. Người nào không hiểu, chúng ta không tŕnh bày, không khoe, không nói. Họ có coi thường cũng mặc, chúng ta không quan tâm.

Khi chưa được vô ngă, chúng ta giữ khiêm hạ bằng Đạo lư. Hàng ngày, hàng đêm, chúng ta luôn thấy ḿnh như cỏ rác, cát bụi, mọi lời khen chê chỉ là bóng mây. Tự nhủ thường xuyên như vậy, tự nhắc nhở thường xuyên như vậy nhưng cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, chúng ta vẫn chưa hẳn đạt được khiêm hạ thật sự. Chỉ trừ khi được giải thoát hoàn toàn, chúng ta mới mong đạt được điều đó. Khi chưa thật sự giải thóat, Ngă chấp luôn tồn tại. Rồi chấp ngă luôn tạo nên khuynh hướng kiêu mạn. Những tâm niệm kiêu mạn ấy rất dễ khởi lên trong tâm của mỗi người để thấy ḿnh hơn người khác. Điều đó luôn luôn có thể xảy ra nếu chúng ta không kiểm soát kỹ tâm ḿnh.

Xuất phát từ chấp ngă, những tâm kiêu mạn có thể khởi ra từng giờ, từng phút, nếu chúng ta không biết tỉnh táo thường xuyên kiểm soát tâm ḿnh. Nếu chúng ta không siêng năng lạy Phật, không siêng năng phát nguyện th́ những tâm niệm kiêu mạn ấy sẽ tàn phá hết tâm hồn ḿnh.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 197 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:57am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong bài Lời khấn nguyện, chúng ta vẫn thiết tha mỗi ngày:

Cho con biết khiêm hạ

Biết tôn trọng mọi người

Tự thấy ḿnh nhỏ thôi

Việc tu c̣n kém cỏi .

Đó là những lời tâm niệm để giữ tâm hồn ḿnh lại. Nếu không giữ được, kiêu mạn sẽ xuất hiện. Người giải thoát do đạt được trí tuệ Vô ngă nên không một hạt bụi nào có thể che mờ tâm các Ngài. Hay nói cách khác, tâm phiền năo hay kiêu mạn dù nhỏ như một hạt bụi cũng không ngự trị trong tâm các Ngài. Bao giờ cũng vậy, các Ngài luôn kiểm soát tâm ḿnh rất kỹ nên tâm kiêu mạn không khởi lên được. Những người như vậy rất khiêm hạ, rất kín đáo, nhẹ nhàng.

Cũng có những người được gọi là tu có tiến bộ, có tâm linh, có sở đắc, nhưng trong lời nói của họ vẫn c̣n cái ngông nghênh. Những người ấy rơ ràng chưa thật sự giải thoát, vẫn c̣n ngă chấp rất nặng. Đây là chỗ để chúng ta đánh giá mức độ tu tập của người khác và rút ra kinh nghiệm cho bản thân ḿnh. Đừng bao giờ nghĩ rằng, tâm linh tiến bộ là hết kiêu mạn. Có người tu vào được Định lại kiêu mạn hơn trước. Đây cũng là điều mà chúng ta phải cẩn thận.

Với người giải thoát, Đạo đức c̣n được biểu hiện ở sự tùy hỷ với ưu điểm và thành công của người khác. Nghĩa là khi nghe nói người khác có đức, có nhiều ưu điểm, có ḷng từ bi, chúng ta phải mừng vui thực sự. Ví dụ, khi gặp một vị Thầy tinh tấn tu hành, gương mặt phúc hậu, tỏa ra vẻ đẹp tâm hồn chân chính, nghiêm túc, chúng ta phải vui mừng v́ biết đây là một trong những cột trụ của Phật Pháp. Có thể bây giờ chưa có tiếng tăm ǵ, nhưng sau này chắc chắn người ấy sẽ làm lợi ích cho nhiều người. Nghĩa là sau này khi đến với họ, chúng sinh sẽ được an lạc, hoan hỷ. Chúng ta phải thực sự vui mừng khi nh́n thấy trong Đạo có những con người như thế. Trước ưu điểm và sự thành công của người khác, người đă giải thoát sẽ thấy ḷng tự nhiên chan ḥa, vui sướng. Như vậy gọi là tùy hỷ. Hạnh tùy hỷ ngược lại đố kỵ.

Một điều quan trọng nữa là người đă được giải thoát không bao giờ khinh miệt người kém hơn ḿnh, không bao giờ khinh miệt người lầm lỗi. Họ luôn mong cho tất cả mọi người trở thành người tốt dù biết rất rơ ai cũng có khuyết điểm. Đây là điều rất quan trọng. Người đă giải thoát rồi dù không muốn, không suy nghĩ nhưng tính cách của họ, tâm của họ lúc nào cũng bao dung như người cha, người thầy, người bạn lành của chúng sinh. Khi chưa giải thoát, chúng ta ai cũng có khuyết điểm, nhưng giải thoát rồi khuyết điểm không c̣n nữa. Lúc ấy, nh́n thấy những người khác có khuyết điểm, chúng ta vẫn không khinh bỉ, chỉ mong cho họ tốt lên . Đó chính là ḷng bao dung, ḷng từ bi cao cả.


Người giải thoát thật sự có thể được xem là bóng cây râm mát, làm nơi che chở, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Ví dụ, khi biết rằng, tâm bao dung là biểu hiện của Đạo đức, người giải thoát có tâm bao dung như một người cha, một người thầy, chúng ta có thể yên tâm đem lỗi của ḿnh giăi bày với họ. Những lỗi đó chúng ta bí mật giấu kín trong ḷng không cho ai biết, nhưng khi đến với người đă giải thoát, chúng ta không ngại ngần nói ra tất cả. Nghĩa là chúng ta tin ở ḷng thương yêu và bao dung của họ. Chúng ta biết rằng, khi nghe nói lỗi, người ấy sẽ không tỏ ra khinh bỉ mà vẫn bao dung, vẫn răn dạy ḿnh, vẫn khuyên ḿnh những điều sáng suốt để ḿnh vượt qua được lỗi lầm. Đó là tấm ḷng, là tính cách của người giải thoát. Ngược lại, khi có lỗi, chúng ta thường che giấu người khác v́ biết họ không thương yêu ḿnh, không đủ sức cảm thông với ḿnh.

Người giải thoát có khả năng bao dung được các Pháp môn tu hành trong đạo Phật. Đạo Phật có nhiều Pháp môn, người giải thoát có thể đắc đạo nhờ một Pháp môn nào đó nhưng vẫn bao dung được các Pháp môn khác. Không bao giờ họ cho rằng, chỉ có Pháp môn ḿnh tu mới đúng, c̣n những Pháp môn khác là sai. Đây là điểm để chúng ta nhận ra người đă giải thoát thật sự và người chưa thật sự giải thoát, cũng là điểm để kiểm tra chính ḿnh đă đi gần đến sự giải thoát hay chưa. Ví dụ, một người niệm Phật có kết quả nên chê những Pháp môn khác, người đó chưa phải là người giải thoát. Hoặc người tu quán hơi thở, nhiếp được vào trong Định, gặp Pháp môn nào cũng chê cả. Cái định của họ chưa phải là giải thoát. Bởi vậy, tâm bao dung là một thuộc tính của Thánh. Một vị được gọi là chứng Thánh, được giải thoát phải có tâm bao dung, trước hết là trong đạo Phật và sau nữa là đối với các tôn giáo khác.

Hiện nay, ở nước ta có 6 tôn giáo được Nhà nước công nhận : Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin lành, Cao đài, Ḥa hảo và Hồi giáo. Giữa các tôn giáo có nhiều điểm khác biệt. Người theo tôn giáo nào sẽ cho tôn giáo đó là đúng nhất. Chúng ta cũng vậy. V́ tin tưởng chắc chắn đạo Phật là chân lư đúng nhất nên chúng ta đă tu theo đạo Phật. Nhưng hăy nhớ rằng, không v́ có niềm tin như vậy chúng ta chê bai, phỉ báng các tôn giáo khác. Một trong những biểu hiện Đạo đức của người giải thoát là luôn t́m những chỗ tương đồng giữa các tôn giáo..

Ví dụ, giữa đạo Thiên Chúa và đạo Phật có nhiều điểm rất khác nhau. Chúng ta không tin có Thượng đế và không tin chính Thượng đế tạo ra muôn ḷai. Trong khi đó, những người theo đạo Thiên Chúa lại rất tin điều đó. Đây là điểm khác nhau rất căn bản giữa hai tôn giáo. Nhưng không để ư đến sự khác biệt đó, chúng ta nên t́m những điểm tương đồng như t́nh thương yêu, ḷng bác ái, sự công bằng, thưởng phạt nghiêm minh của Thượng đế…Những điều ấy chúng ta vẫn có thể lư giải để thấy sự tương đồng với đạo Phật ở ḷng từ bi, ở luật Nhân Quả….Từ đó, khi gặp người theo đạo Thiên Chúa, chúng ta vẫn có điểm để tôn trọng họ. Chúng ta tin rằng, khi thực hiện những giáo lư đó, họ cũng trở thành những người tốt. Chúng ta đừng nghĩ rằng, chỉ có đạo Phật là chánh, những đạo khác là tà.

Hoặc đối với đạo Hồi, một đạo thật khủng khiếp, tàn bạo, chỉ nói chuyện bằng bom đạn, chúng ta vẫn cố gắng t́m những điểm hay của họ. Ví dụ, trong cuộc sống, họ rất khắc khe với người phụ nữ. Phụ nữ đi ra đường phải trùm kín từ đầu đến chân, chỉ ló ra hai con mắt. V́ họ cho rằng, thân h́nh của người phụ nữ sẽ làm kích động dục vọng của người đàn ông, che kín như vậy để đàn ông không bị kích động dục vọng. Quả thật là quá bất công đối với người phụ nữ!

Thay v́ qui định phụ nữ đừng ăn mặc quá hở hang khi ra đường, lẽ ra phải buộc đàn ông phải lo giữ tâm ḿnh, đừng dễ dàng xao động, họ lại đổ tất cả trách nhiệm lên đầu người phụ nữ, buộc họ phải sống tù túng khổ sở suốt đời như vậy. Đó chính là sự bất công của đạo Hồi. Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng, những luật lệ nghiêm khắc của họ đă góp phần làm cho xă hội ổn định. Điều này chúng ta sẽ đề cập trong một bài khác.

Một biểu hiện Đạo đức nữa của người giải thoát là tùy duyên mà sống, làm lợi ích cho mọi người, dù lớn hay nhỏ. Nghĩa là dù làm một việc rất lớn là đăng đàn thuyết Pháp, hoằng hóa đạo Phật cho nhiều người hay chỉ một vài lời khuyên giúp người đau khổ, chúng ta cũng không từ nan. Việc lớn chúng ta cũng làm, việc nhỏ cũng không bỏ qua, miễn là những việc ấy đem lại lợi ích cho tất cả mọi người.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 198 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 12:58am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4. SỰ KHỦNG HOẢNG ĐẠO ĐỨC CỦA THẾ GIỚI VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẠO PHẬT.

Hiện nay, sống trong một thế giới mà văn minh vật chất và kỹ thuật hiện đại đang phát triển đến chóng mặt, con người dần dần đánh mất đi những giá trị đạo đức, những giá trị tinh thần đă từng ngự trị trong đời sống của họ từ bao đời nay. V́ thế, tội phạm lan tràn trên mọi lĩnh vực, ở khắp mọi nơi, mọi giới, mọi lứa tuổi. Ngành nghề nào cũng có người phạm tội, khó mà kiểm soát được.

Ông bà ta thường nói: Túng quá hóa liều hoặc Đói ra ma, no thành Phật. Có nghĩa là v́ hoàn cảnh quá khó khăn, hoặc rơi vào bước đường cùng, con người thường làm liều để trở thành kẻ phạm tội. Ngày nay, kẻ phạm tội không hoàn toàn là những người nghèo túng, khó khăn hay ngu si không biết luật pháp. Họ c̣n là những trí thức, rất am hiểu luật pháp, là những người giàu có, những kẻ có chức quyền trong xă hội…Những con người này, một khi đă cố t́nh phạm tội, rất khó phát hiện bởi thủ đoạn của chúng quá tinh vi, và hậu quả để lại v́ thế thật khôn lường. Chẳng hạn, một bác sĩ, người được tôn vinh là luơng y như từ mẫu lại là con át chủ bài trong đường dây mua bán số đề. Người ấy dám bỏ ra một trăm năm mươi cây vàng để công ty xổ số phải ra đúng con số mà ông ta cần. Tất nhiên, ông bao tất cả con số đó khắp các tỉnh và trúng một quả rất đậm trong khi bao nhiêu người phải rơi nước mắt. Khi bị bắt, ông ta lại tha thiết kêu oan rằng bị người khác gài chứ ḿnh không phạm tội. Đó là một kư giả có tài đi tống tiền người khác bằng cách t́m đến những công ty, xí nghiệp có sai phạm trong kinh doanh để hù dọa. Nếu không muốn công ty ḿnh bị phá sản và bản thân ḿnh bị pháp luật sờ gáy th́ Giám đốc, bằng bất cứ giá nào cũng phải mua bằng được bài báo đó. Cứ thế, vị kư giả ấy tha hồ sắm xe hơi, tậu nhà lầu. Đó là một cán bộ chống buôn lậu có cỡ nhưng lại tiếp tay cho bọn buôn lậu. Nhờ thế, bao nhiêu vụ buôn lậu xuyên quốc gia cũng đều trót lọt, làm thất thoát hàng trăm tỉ đồng của Nhà nước.

Gần đây nhất, vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn được đưa ra trước pháp luật đă làm nức ḷng nhân dân khắp nơi trong nước. Nhưng khi được đưa ra ánh sáng, vụ án ấy cũng để lại trong ḷng người bao nỗi xót xa. Bởi người ta biết rằng, bao nhiêu năm tung hoành ngang dọc, gây ra biết bao đau khổ cho người dân lương thiện, bọn chúng vẫn không bị sa lưới pháp luật là nhờ sự “bảo hộ” của những cán bộ Nhà nước có uy tín. Những con người ấy, v́ lợi ích cho bản thân ḿnh đă phụ ḷng tin yêu của hàng triệu triệu người dân.

T́nh trạng chủ bóc lột công nhân đang xuất hiện phổ biến trên đất nước ta cũng là một h́nh thức phạm tội, vi phạm Bộ luật Lao động của Nước cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng ta biết rằng, từ thế kỷ XVIII-XIX, do bất măn về việc người chủ có tiền mở xưởng sản xuất, thuê công nhân và bóc lột công nhân tàn tệ, Các Mác đă t́m ra con đường phát triển xă hội theo hướng Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Xă hội. Bước đầu, do sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các nước Tư bản phương Tây đă sửa lại Bộ luật lao động, buộc các giới chủ phải chú ư đến quyền lợi của công nhân. Vậy mà hiện nay, khi đất nuớc chúng ta mở cửa cho các nhà tư bản nước ngoài vào đầu tư, t́nh trạng bóc lột xuất hiện trở lại. Những công ty, xí nghiệp ấy đă bắt buộc công nhân phải làm thêm giờ, trả lương thấp, thậm chí c̣n giữ lại tiền lương của công nhân ....

Chưa hết, báo chí thỉnh thoảng vẫn đăng những tội lỗi trời không dung, đất không tha khác như : cưỡng hiếp trẻ em, con giết cha mẹ v́ tranh giành tài sản, vợ giết chồng rồi chặt thành từng khúc v..v...Biết bao cảnh đau ḷng như thế đă xảy ra trong xă hội ngày nay. Nguyên nhân gây nên những tội lỗi ấy là do Đạo đức của con người xuống cấp nghiêm trọng. Một khi không có Đạo đức, không có lương tâm, con người sẽ không từ bất cứ việc ǵ. V́ thế, họ cứ gây ra đau khổ triền miên cho nhau.

Để chống lại những điều đó, Nhà nước phải làm ǵ?

Nhà nước đă sọan thảo nhiều Bộ luật như : Luật Hôn nhân gia đ́nh, Luật Lao động, Luật Tố tụng H́nh sự, Luật Dân sự…Luật pháp có vẻ cụ thể, nhưng luôn luôn đi sau tội lỗi và rốt cuộc vẫn lệ thuộc vào Đạo đức của người thi hành. Đó là lực lượng Công an, cán bộ Viện Kiểm sát, các quan ṭa…

Ví dụ, luật pháp rất nghiêm, rất cụ thể, minh bạch. Người phạm tội ǵ, được quy định rơ ràng phải chịu mức án bao nhiêu năm. Nhưng khi có một người phạm tội, đưa đến Công an xử lư, gia đ́nh họ mua chuộc cán bộ Công an, thế là kẻ phạm tội được xử một cách nhẹ nhàng hoặc thả trôi theo thời gian. Hoặc Công an làm việc nghiêm túc, xử lư điều tra rồi chuyển qua Viện Kiểm sát nhưng người ta lo lót cho ông Viện trưởng nên vụ án rồi cũng ch́m xuồng. Trường hợp Công an, Kiểm sát thi hành đúng luật và đưa lên Ṭa án để xét xử, nếu các quan ṭa được mua chuộc sẽ tuyên bố trắng án, hoặc tuyên mức án rất nhẹ so với tội danh…. Như vậy, nếu người thi hành luật pháp không có Đạo đức, luật pháp sẽ không đem lại hiệu quả.

Trở lại vấn đề Đạo đức, khi nói đến các cán bộ tham nhũng, chúng ta thường gặp trên các báo, nhất là báo Công an Thành phố *** cụm từ “cần cái tâm trong sáng của người cán bộ”. Nói đến cái tâm trong sáng của người cán bộ nghĩa là nói đến Đạo đức của họ. Nhưng chúng ta thấy, cái gọi là giáo dục Đạo đức ở nước ta cũng như trên thế giới chưa ổn, chưa có đường lối rơ ràng, dứt khoát. Bước chân đến trường, học sinh được học rất nhiều môn, thậm chí có những môn quá nặng nề so với độ tuổi của các em, nhưng Đạo đức lại được học rất ít và đó là môn được xem là không quan trọng. So với các môn khác như Toán , Văn, Ngoại ngữ…, môn Đạo đức chỉ là môn hệ số 1. Đó là lư do v́ sao học sinh không tập trung học tập và rèn luyện Đạo đức. Bởi vậy, ở nhiều nước trên thế giới trong đó có nước ta, biết bao thế hệ con người lớn lên nhưng không được giáo dục Đạo đức một cách kỹ lưỡng. Một xă hội cứ tiếp tục sản sinh và lớn lên những con người không được dạy kỹ về Đạo đức, xă hội ấy sẽ hỗn loạn, Đạo đức ngày càng suy đồi và tội lỗi sẽ tràn lan.

Nếu mỗi người được dạy Đạo đức từ nhỏ th́ xă hội sẽ tốt đẹp và lành mạnh biết bao nhiêu. Trước t́nh trạng Đạo đức suy đồi như hiện nay, chúng ta luôn mong ước mỗi đệ tử Phật phải trở thành một chiến sĩ trên mặt trận Đạo đức. Nghĩa là tự ḿnh sống rất Đạo đức và truyền bá Đạo đức cho mọi người.

Trong khi chúng ta vẫn cho rằng, đạo lư đạo Phật là đúng đắn nhất, phong phú nhất và xuất hiện sớm nhất. Tạng kinh của đạo Phật thật mênh mông, đồ sộ. So với những Đạo khác, chúng ta thấy rằng, chỉ có đạo Phật mới có hệ thống Kinh điển rất lớn cho đến bây giờ vẫn chinh phục được tầng lớp trí thức. Nhiều nhà bác học khi đọc giáo lư của đạo Phật đều chấp nhận và ngợi ca. Nhưng theo con số thống kê sơ bộ, chúng ta thấy giữa đạo Phật và những đạo khác có sự tương quan rất lớn về số lượng tín đồ. Chẳng hạn, Hồi giáo xuất hiện sau đạo Phật một ngàn năm. Hiện nay, họ có khoảng một tỷ hai trăm năm mươi triệu tín đồ trên toàn thế giới. Đạo Thiên Chúa sau đạo Phật khoảng sáu trăm năm. Hiện nay, họ có khoảng một tỷ một trăm mười triệu tín đồ trên toàn thế giới. Trong khi đó, đạo Phật xuất hiện sớm hơn hai Đạo này nhưng hiện nay chỉ có không tỷ ba trăm năm mươi triệu tín đồ trên toàn thế giới.

Nguyên nhân chính là do đâu? Do những người tu hành như chúng ta không làm hết trách nhiệm, bổn phận của ḿnh. Không ít người đến với đạo Phật chỉ lo tu cho bản thân ḿnh, thờ ơ với mọi người, không thiết tha với sự nghiệp truyền bá Chánh pháp. V́ vậy, trước t́nh trạng này, chúng ta không được tu một cách thụ động như trước nữa, phải mạnh mẽ hơn. Mỗi người phải sống vị tha, siêng năng dạy dỗ truyền bá để cho ánh sáng Phật Pháp được lan tỏa khắp mọi nơi.

Những người chưa hiểu đạo Phật, đi theo đạo khác, không phải ai cũng t́m được chân lư của ḿnh. Nếu được về với đạo Phật, họ sẽ trong sáng hơn, thanh thản hơn. Bởi vậy, nếu để thêm một người bước sang con đường khác là lỗi của chính chúng ta, nhất là khi họ được dẫn đi theo con đường của bạo lực, con đường của mê tín, mù quáng.

Phật hóa gia đ́nh là vấn đề rất quan trọng trong việc hoằng hóa Phật pháp. Hễ một người biết đạo Phật, người ấy phải làm cho cả gia đ́nh theo đạo Phật. Chúng ta phải dạy điều đó cho các Phật tử, dứt khoát không để xảy ra t́nh trạng ḿnh biết đạo Phật nhưng những người trong gia đ́nh muốn đi đâu đi. Để họ rơi vào tà kiến, rơi vào tội lỗi, không tin Nhân Quả, không kính trọng Phật Pháp, không những là điều thiệt tḥi cho họ mà c̣n là lỗi của chúng ta. Cho nên, một người trong nhà biết Đạo, phải làm cho tất cả mọi người đều biết Đạo. Nhất là những em bé, nếu từ nhỏ đă biết lễ Phật, đă quy y Tam Bảo, lớn lên chắc chắn sẽ có một cuộc đời tốt đẹp đồng thời sẽ là một người tốt cho xă hội. Chúng ta phải hiểu rằng, nếu để lại cho con cái một gia tài đồ sộ mà không để lại Trí tuệ hay Đạo đức, gia tài ấy rồi cũng sẽ bị phá cho tiêu tan. Nhưng nếu để lại phước, để lại Đạo đức cho con cái, th́ kiếp này đến những kiếp sau, nó sẽ được sung sướng, an vui.

Vậy, sức mạnh nào khiến người Phật tử mạnh dạn đem hết cả gia đ́nh ḿnh vào đạo Phật? Tất nhiên, sức mạnh ấy không phải tự nhiên mà có. Chính những người tu hành chúng ta đă truyền sức mạnh đó cho họ. Khi có lư tưởng thiết tha tu hành và tích cực ra làm việc, giáo hóa, chúng ta sẽ truyền cho Phật tử sức mạnh, niềm tin giúp họ cảm hóa được mọi người trong gia đ́nh. Như vậy, việc Phật pháp không được phục hưng, không được phát triển trước hết là do lỗi của người xuất gia. Đây là điều chúng ta phải nh́n thấy và phải lưu ư.

Khi thấy những kẻ tội phạm, trộm cướp, giết người…, chúng ta phải tự nghĩ ra cách nào đó để cải hóa tâm hồn họ, làm cho họ trở nên lương thiện. Tuyệt đối chúng ta không ghét ai cả. Chẳng hạn, khi nghe có tên cướp khét tiếng, giết người cướp của không ghê tay bị đem ra xử tử, chúng ta không thấy thấy hả hê mà cảm thấy ḷng ḿnh xót xa. V́ họ cũng là người như bao con người khác nhưng chỉ v́ trong tâm có chủng tử của tội lỗi mà trở thành một kẻ cướp của giết người. Nếu cũng với con người đó, vẫn mái tóc bồng bềnh đó, vẫn đôi mắt, đôi tay khỏe mạnh đó, nhưng tâm của họ được thay bằng những tư tưởng Đạo đức, chắc chắn họ sẽ trở thành con người tốt cho xă hội.

Như vậy, lỗi không phải ở ṭan bộ con người họ mà là ở Tâm của họ, mà Tâm là cái có thể thay đổi được. Cho nên, chúng ta không bao giờ được ghét bỏ ai, kể cả người gây nhiều tội lỗi. Chúng ta phải suy nghĩ, phải băn khoăn t́m cách làm cho họ tốt hơn. Đây chính là trách nhiệm của người tu hành.

Ở Ấn Độ có trường hợp cho phép người ta vào dạy Thiền trong nhà tù. Trước kia, có nhiều vị Thầy đă vào nhà tù để giảng Đạo cho tù nhân. Ở nước ta, việc này chưa làm được, nhưng chúng ta phải nghĩ đến điều đó, nghĩ đến việc cải hóa Đạo đức cho phạm nhân. Chúng ta đừng nghĩ cứ trừng phạt cái thân của họ, giam giữ đày đọa cái thân của họ sẽ làm họ thay đổi. Một khi tâm chưa thay đổi th́ những việc làm đó mới chỉ chỉ là nắm cái ngọn mà thôi .

Là người tu theo đạo Phật, chúng ta phải luôn mơ ước mọi người đều hiểu luật Nhân Quả. Muốn vậy, chúng ta phải vận động Nhà nước, nhà trường đưa Đạo đức - Nhân Quả vào trong học đường dạy cho học sinh để trẻ thấm nhuần Đạo đức từ bé. Nếu từ nhỏ được dạy Nhân Quả nghiệp báo, những đứa trẻ ấy lớn lên sẽ là người tốt, biết cân nhắc thiện ác, tội phước. V́ sở dĩ người ta sống tội lỗi là v́ họ không tin Nhân Quả, tội phước.

Thực ra, hiện nay rất nhiều người, trong đó có những cán bộ, công an tin là có Nhân Quả. Nhiều giáo viên theo đạo Phật cũng tin Nhân Quả là có thật. Nhưng chưa ai dám chính thức, công khai nói mạnh điều ấy trong nhà trường v́ sợ vi phạm. Chúng ta thấy Nhân Quả là điều có thật, là sự công bằng của cuộc đời. Điều quan trọng là làm sao đưa được môn học này vào trong nhà trường, dạy cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 12. Được như vậy, xă hội sẽ thay đổi, sẽ có rất nhiều người tốt xuất hiện trong cuộc đời này. Đây là ước mơ của tất cả chúng ta. Hy vọng rằng, mơ ước này sớm trở thành hiện thực.

Hiện nay, t́nh trạng Đạo đức của Tăng Ni có dấu hiệu xuống cấp. Bởi vậy, dạy môn Tâm lư Đạo đức là để phục hồi lại Đạo đức cho Tăng Ni. Mong rằng, sau khi ra trường, nhiều người sẽ tiếp tục dạy Tâm lư Đạo đức cho thế hệ Tăng Ni khác để cây Đạo đức măi măi nở hoa trong đạo Phật và trong ḷng người.


Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 199 of 349: Đă gửi: 26 March 2005 lúc 1:00am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA ĐỜI SỐNG VỊ THA CỦA NGƯỜI HƯỚNG VỀ GIẢI THOÁT VỚI NHỮNG NHÀ TỪ THIỆN LỚN CỦA CÁC TÔN GIÁO.

Giữa đời sống vị tha của người hướng về Giải thoát trong đạo Phật với những nhà từ thiện lớn thuộc các tôn giáo khác đều có điểm giống nhau là có ḷng tốt, ḷng thương người ( hy vọng là như vậy). Nhưng giữa hai đối tượng ấy cũng có những điểm khác. Trước hết, đạo Phật hướng về mục tiêu Vô Ngă tuyệt đối, c̣n những nhà từ thiện khác không có mục tiêu đó.

Thứ hai, khác nhau ở quan điểm, cách nh́n về thế giới (thế giới quan). Đạo Phật thấy thế giới này là tạm bợ. Trong khi đó, những nhà từ thiện kia lại thấy thế giới này là thật. V́ thấy là thật nên họ xây dựng thế giới này cho tốt đẹp. Chúng ta, tuy thấy thế giới này là giả, là tạm bợ nhưng vẫn thương yêu con người, vẫn xây dựng thế giới này tốt đẹp.

Một sự khác nhau nữa là khác ở sự thực hành Thiền Định. Chúng ta thực hành Thiền Định, kiểm soát những tâm niệm bí mật để thoát khỏi mọi ham muốn về danh tiếng, mọi ước mơ về quả báo.

6. LÀM G̀ ĐỂ GIẢI THOÁT VÀ GIẢI THOÁT ĐỂ LÀM G̀?

Đây là câu hỏi cuối cùng chúng ta phải đặt ra khi nói về vấn đề Giải thoát. Chúng ta sống vị tha để được Giải thoát và Giải thoát cũng để sống vị tha. Nhưng nếu chỉ hướng về Giải thoát cho riêng ḿnh, đó là sự vị kỷ. Nếu thiếu Đạo đức th́ sự tu hành của chúng ta chỉ là công phu của ngoại đạo. Bởi vậy, chúng ta phải nhớ rằng, Đạo đức là vấn đề rất quan trọng.

Và điều quan trọng cuối cùng chúng ta phải luôn tâm niệm là cả cuộc đời ḿnh, dù Giải thoát hay chưa Giải thoát, đều phải làm lợi ích cho chúng sinh.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 200 of 349: Đă gửi: 30 March 2005 lúc 8:37am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bài tiếp theo:
Bài 15. Niềm Tin.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

<< Trước Trang of 18 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 4.8906 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO