Tác giả |
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 41 of 52: Đă gửi: 21 January 2006 lúc 7:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
VI. MƯỜI ĐỊA
Nói chung, theo Hiển giáo th́ quả vị Phật chỉ đạt được sau khi trải qua 5 giai đoạn, hay là 5 Vị, đó là: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi và Thập Địa. Người muốn vào quả Vị Phật c̣n phải đạt đến bậc Đẳng giác và bậc Diệu – giác.
Nhưng trong Mật giáo th́ con đường giải thoát chỉ gồm có hai giai đoạn là “Trước Địa” và “ Mười Địa”
Giai đoạn “ Trước Địa” th́ ai không phải là Phật đều đạt đến được: Hành giả chưa có thể nhận thức hoàn toàn được sự thực về Tịnh – Tâm Bồ - Đề. Giai đoạn này tương ứng với Ba kiếp va giai đoạn của 6 Vô – Uư.
Giai đoạn “ Mười Địa” là giai đoạn đă nhận thức rơ về sự thật về Tâm Bồ - Đề thanh tịnh: Đólà giai đoạn của người đă đạt đến thực trang của Tâm Phật.
Mười Địa của Mật giáo cũng có tên như Mười Địa của Hiển giáo, nhưng ư nghĩa th́ hoàn toàn khác hẳn. Quả thế, trong Hiển giáo th́ Mười địa là 10 tŕnh độ của đạo hạnh, c̣n trong Mật giáo th́ Mười địa tiêu biểu cho 10 phần công đức của Tịnh Tâm Bồ -Đề. V́ vậy ma trong 10 địa này không có sự tăng tiến.
Ở địa thứ nhất, gọi là Hoan - Hỷ địa th́ ứng hợp với đoạn kinh văn sau đây : “ Bí Mật- chủ! Danh nghĩa Tịnh Tâm Bồ - Đề của chư Bồ - Tát là tên của con đường, qua đó người ta bắt đầu được tỏ Ngộ đối với các Pháp. Nếu Bồ - tát chăm lo tu học ở địa vị ấy th́ không phải thực – thi đạo hạnh lâu dài mà để đạt được Tam – ma- đề( Định), xa ĺa được mọi chướng ngại. Người nào đạt được Tam – ma- đề ấy th́ được đồng – đẳng với chư Phật và Bồ - Tát. Họ sẽ thành - tựu được tất cả các Pháp của Phật, nhờ sức Tín – Tâm nhiệt – thành của ḿnh, chứ không phải do sự tu tập lâu dài mà được”.
Bản luận - giải về đoạn này như sau: “ Muốn vào Trí - Tuệ Phật, có vô số phương - tiện giải thoát. Nhưng, trong tông phái này( Mật – tông), người ta vào thẳng trong phạm trù của Tâm Bồ - Đề thanh - tịnh.” “ Tam – ma - đề xa ĺa các chướng dùng để loại bỏ căn dơ của ba từng vọng chấp ít nhiều tinh tế mà người ta đă xa ĺa trong ba kiếp”.
Đến một đoạn sau, kinh nói: “ Bí - mật – chủ! Hành nhơn ở Địa Tín giải quan sát ba Tâm, với vô lượng Tuệ ba – la - mật, họ Quán Tứ nhiếp Pháp. Địa Tín - giải th́ tuyệt đối không có lượng, chẳng có thể nghĩ bàn: ở đó người ta kiến lập 10 Tâm và làm nảy sanh Trí - Tuệ vô biên”
Bản Thích - luận giải thích đoạn ấy như sau: “ Theo tôn chỉ của kinh này th́ từ Tịnh-tâm Bồ-đề, cho đến 10 trụ địa ở trên đó, hết thảy đều ở trong Hạnh Tín-giải, đó là phạm trù của riêng chư Phật : Người ta gọi nó là Địa cứu cánh của Nhất-thiết Trí Trí”.
Quan sát 3 Tâm tức là : Nhân, Căn (gốc rễ) và Cứu-cánh Tâm (3 câu hay 3 Định-thức, đă nói trên). Bản Luận-giải sắp xếp 10 Địa, làm cho chúng nó tương ứng với 3 Định-thức : Địa thứ nhất tương với Định thức thứ nhất, “ Phát triển Tâm Bồ-Đề là Nhân đầu tiên”. Các Địa tiếp theo, từ Địa thứ 2 đến Địa thứ 7, tương ứng với Định thức thứ hai, “ Đại-bi là Gốc rễ”. Ba Địa sau rốt tương ứng với Định thức thứ ba, “phương tiện cứu độ là Cứu cánh”.
Như vậy, xem xét dưới ánh sáng của 3 Định thức th́ các Địa, từ Địa thứ 2 trở đi, thuộc về phạm vi Lợi tha. Chúng nó có mục đích cứu khổ chúng sanh, cho nên kinh nói đến Tứ nhiếp Pháp : Đó là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hạnh, Đồng sự
Trong giai đoạn tiếp theo, kinh nói : “ Bởi thế, bậc Trí giả nên suy tư về Địa Tín-giải của Nhất thiết Trí”, và kế đó, vượ qua kiếp thứ ba, “ lên trụ ở địa ấy” nghĩa là : Người hành Chân ngôn, khi vào 10 Địa, phải vượt qua 3 kiếp, hay là 3 từng vọng chấp thô, tế và rất vi tế.
Theo bản Thích-luận th́ 10 Địa, tuy đồng- nhất với thực trạng của Tâm Phật, nhưng chưa phải là giai đoạn cuối cùng của sự Diệu-giác. Bởi vậy, tiếp sau đoạn trích văn mà chúng ta vừa đọc, kinh nói thêm : “Lên trụ ở địa ấy (địa Tín-giải) : Vậy là được 1 trong 4 phần, khi đă qua Địa Tín giải”.
Đoạn này, bản Thích-luận giản thích. Bên trên 3 Tâm, tương ứng với 3 Định-thức, c̣n có 1 địa Tín-giải nữa, đó là Phật Địa làm Tâm phương tiện thượng thượng. Lúc đó đến Tâm thứ tư này th́ gọi là “ Địa cứu cánh Nhất-thiết Trí”. Cho nên nói : “ Một trong 4 phần này (là) khi đă qua Địa Tín-giải”.
VII. SÁU VÔ ÚY
Kinh đại-Nhật cho thấy rằng : Muốn diệt trừ các ảo tưởng phiền năo của chúng ta để t́m lại Tâm Bồ-Đề thanh tịnh uyên-nguyên, chúng ta phải theo hai đường lối song song nhau. Đường lối thứ nhất là phải theo Ba kiếp, để vượt qua 3 từng Vọng Chấp. Đường lối ấy song hành, đồng thời, trước khi vào Địa thứ nhất trong số 10 Địa. Chúng nó thuộc về phạm vi mà người ta gọi là giai đoạn “Địa trước”.
Các mối tương quan giữa Ba kiếp và Sáu Vô-úy thuộc về Mật giáo ngay từ đầu : Người ta thờ phụng chư vị Phật Thánh trong Mạn-Trà-La, và với phương tiện thực hành Tam Mật (thân, ngữ, ư tương ưng), người ta mở ra con đườn dẫn đến Tịnh Tâm Bồ-Đề uyên nguyên. Ba kiếp thuộc về mặt tiêu cực nó được giải thích là đại biểu chính yếu cho sự diệt trừ trọn vẹn mọi ảo tưởng phiền năo của chúng ta. Sáu Vô-úy lại thuộc về mặt tích cực chúng nó tiêu biểu cho sự tăng trưởng về độ sáng chói của Tịnh Tâm Bồ-Đề, trước tác dụng của sự diệt trừ kia.
Trong bản Luận-giải, người ta tŕnh bày kế tiếp nhau quan điểm của hiển giáo và của người hành Chân-Ngôn, đối với mỗi món trong số sáu Vô-úy:
1/ Thiện Vô-úy: Về phương diện thường t́nh thỉ đây là vấn đề một kẻ phàm phu, đang ch́m đắm trong đau khổ, mà có thể giữ ngũ giới, làm 10 điều lành (Thạch thiện), khi tinh thần đạo lư đă thức tỉnh. Làm vậy, họ tránh được các khổ năo của ba đường ác ( Ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục), và thâm Tâm được yên ổn. Đối với người hành châm ngôn th́ đây là giai đoạn vào Mạn-Trà-La, và bắt đầu thực hành Tam Mật.
2/ Thân Vô-úy : Nghĩ về sự Bất tịnh của Thân người Thế Gian, vứt bỏ sự d́nh-mắc với cái Ngă, đi đến chỗ không c̣n thấy sợ hăi cho bản thân : Đây là Người biết nghe lời Phật dạy. Người hành Chân-ngôn thực thi Tam-Mật, đạt đến tŕnh độ thấy h́nh Tướng của Bổn-Tôn, bằng cái Thấy của Tâm.
3/ Vô-ngă Vô-úy : Người tu hành quán thấy Tự Thân là chỗ nhóm họp của 5 Uẩn ( Sắc, Thọ ,Tưởng, Hành ,Thức).Hiểu rơ cái vị của con người không có,bản thân rỗng không ,thành bậc A-La-Hán .Người hành chân ngôn ,thực tập Du-già ,suy tư về Tự-Tánh của Tâm ,thấy Tâm “ Bất Khả Đắc “,bèn ĺa bỏ Ngă,chẳng sanh kiêu -mạn .
4/ Pháp Vô-Ngă Vô-Uư : Bậc A-La-Hán quán sát các Uẩn ,thấy các Pháp Uẩn đều rỗng không ,thành bậc Bích -Chi- Phật .Người hành Chân- Ngôn ,trong lúc thực thi Tam- Mật,thấy các h́nh tướng hiện tiền thực không hiện hữu,các h́nh tướng ấy giống như bóng trăng đáy nước.
5/ Pháp Vô-ngă Vô-uư : Qúan thấy 3 cơi chỉ do Tâm.Ngoài Tâm không có Pháp ,và chính Tâm Ta cũng rỗng không ,người ta trở thành một vị Bồ -Tát .Người hành chân ngôn biết rằng tất cả các h́nh tướng thấy được trong Du-già đều là những trạng thái của chính Tâm Ta ,và họ đạt được “ cái dụng Tự Tại “ của Tâm.
6/ Nhất -thiết Pháp Tự -Tánh B́nh -đẳng Vô-uư : Hiểu rằng các Pháp do các Nhân quả chuyền níu nhau và sanh ra; chúng nó không hề có Tự -Tánh ,mà hết thảy đều có chung một tánh là Tự -Tánh, mà hết thảy đều có chung một tánh là Tự-Tánh, Không-Tánh. Bồ-Tát nắm bắt được Tánh B́nh-đẳng giữa các Pháp, và như vậy là đạt đến giáo lư Nhất thừa. Hành giả tu theo Chân-ngôn th́ đạt được một phần trạng thái của Tịnh-Tâm Bồ-Đề không dơ như Hư-Không. Họ chỉ sẽ được Chứng-ngộ hoàn toàn, sau khi vào 10 Địa.
VII. LƯỢC ĐỒ GIÁO LƯ PHẨM I.
1- Thiện Vô-úy
2- Thân Vô-úy
3- Vô-ngă Vô-úy
Sáu Vô-Úy
Kiếp thứ 1 4- Pháp Vô-úy
Ba Kiếp Kiếp thứ 2 5- Pháp Vô-ngả Vô-úy
Kiếp thứ 3 6- Nhất-thiết Pháp Tự
Tánh B́nh-đẳng Vô-úy
1- Cực hỷ địa
2- Ly cấu địa
3- Phát quang địa Bồ-Đ& #7873; Tâm (Nhân)
4- Diệm tuệ địa.
5- Nan thắng địa. &nb sp; 3 câu
6- Hiện tiền địa Đại_b i (Gốc rễ) &nb sp; hay
7- Viễn hành địa. &nb sp; &nb sp; &nb sp; 3 Định thức.
8- Bất động địa.
9- Thiện tuệ địa. Phươn g tiện (Cứu cánh)
10-Pháp-vân địa
PHẦN IV
TÓM LƯỢC PHẨM II VÀ CÁC PHẨM KẾ TIẾP
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 42 of 52: Đă gửi: 28 January 2006 lúc 7:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHẦN IV
TÓM LƯỢC PHẨM II VÀ CÁC PHẨM KẾ TIẾP
Phẩm II.
ĐỦ DUYÊN NHẬP MẠN TRÀ LA CHÂN NGÔN
Trong chương này, được giảng giải cách thức thiết lập đúng đắn một Mạn-Trà-La, và cách tiến hành lễ Quán đảnh để thực hiện có hiệu quả các lời dạy trong Chương I về việc hướng dẫn cho người tu hành Chân-ngôn vào Tâm Bồ-Đề.
Muốn lập Mạn-Trà-La và làm lễ Quán đảnh th́ cần thiết phải chuẩn bị mọi t́nh thế và vật liệu. Trước tiên là phải hành động để được sức gia tŕ với các Mật-chú của Phật. V́ các lẻ đó mà Phẩm này lấy tên là “Đủ duyên…”.
Mạn-Trà-La ở đây là “Mạn-Trà-La đủ duyên” khác với “Mạn-Trà-La Bí-mật”, được giải thích ở Phẩm XI và XIII. Nguyên tư-tưởng chính yếu của Phật là muốn chỉ cho chúng ta thấy rằng Mạn-Trà-La Bí-mật là ở trong Tâm của tất cả chúng sanh. Cho nên vấn đề bây giờ là phải làm cho nó được trông thấy trong thực tế : Đây là một phương-tiện thiện xảo để làm lợi ích cho chúng sanh.
Nội dung của Phẩm này, đại khái có thể chia ra làm 3 phần :
- Phần thứ nhất nói về việc chọn và sửa đất (Trị Địa) trong 7 ngày.
- Phần thứ hai nói về sự gia tŕ cho cuộc lễ.
- Phần thứ ba nói về các mật chú riêng của sự gia tŕ.
Dưới đây chúng tôi sẽ tóm lược 3 phần đó theo thứ tự của chúng nó:
Ở đầu phẩm này, tiếp theo sau một câu hỏi của ngài Kim – Cang Thủ, Đức Phật nói: “ Bây giờ ta sắp nói hạnh tu Mạn – Trà – Là” đầy đủ các Pháp môn của Nhất - thiết Trí Trí”
Kinh giải nói năng lực của một vị có thể làm bậc A – Xà – Lê, vị này sẽ hướng dẫn sự sửa đất, làm việc gia tŕ, rồi kinh nói đến các năng - khiếu của người muốn là đệ tử.
Nơi người ta có thể chọn làm địa điểm của Mạn – Trà – la th́ phải dọn sạch các sỏi đá, mảnh chai, sâu bọ đủ loại và các lụn vụn như xương, vỏ ốc…Phải chọn ngày lành làm lễ Khuyến thỉnh Địa Thần giúp đỡ. Đến các câu hỏi và lời giải đáp về lư do phải lập Mạn – Trà – La. Sau khi trét đất vững chắc với phân ḅ và nước đái ḅ, ngưới ta làm cho chỗ đất thanh tịnh bằng cách rảy nước thơm, trong lúc tập trung tư tưởng nghĩ về 5 Đức Phật. Kế đó phải dùng bột cây Đàn – hương phác -hoạ Mạn – Trà – La, gồm 9 vị dành riêng cho:
1. Năm Đức Phật 2. Chư Phật
3. Chư Bồ tát 4. Phật Mẫu Hư –không Nhăn
5. Kim – Cang Thủ 6. Liên Hoa Thủ
7. Thánh Bất - Động Tôn 8. Hàng Tam Thế Tôn
9. Vị A – Xà – Lê
Đó gọi là Bạch – Đàn Cửu vị Mạn – Trà – La. Nó chỉ là một h́nh phát hoạ tạm thời ban đầu.
Kế đến lại giải thích các năng khiếu mà người đệ tử cần phải có: Bao nhiêu người có thể được nhận vào Mạn – Trà – La. Tiếp theo là các câu hỏi và trả lời về tên gọi của Mạn – Trà – Là ấy.
Rồi, để trao đệ tử sức làm chủ Tam - Muội – Da, người ta ban cho y một cây xỉ - mộc, một sợi Kim – Cang tuyến có chỉ 5 Màu tượng trựng cho 5 Trí - Đức của Như – Lai .(1) Đại - Nhật Màu Trắng: Từ - Bi: Bửu Tràng , Màu Đỏ Đại - Huệ: Hoa Khai Phu Màu Vàng: Thân Kim – Cang; Vô Lượng Tho, Màu Lục: Đại – Không; Phật Cổ - Âm, Màu Đen; Đại Lực. Kế đó, khi giải thích các giấc mộng của đệ tử (sẽ nhập Mạn –Trà - La), người ta đóan đước người nào sẽ có cơ thành tựu, và người ta trao dạy cho y “ Trí giới không chướng - ngại của 3 đời”. Để cho Tâm của đệ từ thanh - tịnh, người ta cho uống nước có chứa một chất thơm thanh - tịnh.
Sau khi đă giải thích sơ lược về cách lập Mạn – Trà – La, cách làm phép gia tŕ, kinh nói về cách đo địa điểm, cách phân chia cá lớp hay viện của các Đức Phật, dạy tỉ mỉ cách thức vẽ h́nh chư Phật, Thánh, Thiên, Thần..
Kinh giải thích rằng: Cả đến trường hợp người ta đă may mắn biết được giáo lư Chân – Ngôn Tông, cũng khó mà vào Mạn - Trà – La. Tiếp theo là Hỏi và Trả lời về: Cách tô màu Mạn - Trà – La ; 5 loại Tam - Muội đạo của Phật , Bồ - Tát, Thanh – Văn, Bích – Chi Phật, và của Người; các loại Mật – chú ; ư nghĩa huyền bí của các chữ trong vần chữ Phạn. Sau là tán - thán công năng cao siêu của giáo lư Chân – ngôn Tông; kể các phẩm vật cúng dường trong Mạn – Trà – La: laọi hoa nao? Hương đèn nào? đồ ăn thức uống nào?
Về nghi lễ Quán đảnh th́ khi người đệ tử đă được đưa đến bên Đạo – tràng Mạn – Trà – La, làm sao để dẫn họ vào? Cách tiến hành Pháp Hộ - Ma Tức – Tai như thế nào, để àm cho các lỗi lầm của các đệ tử được tiêu trừ; bên cạnh Mạn – Trà – La lập một Đàn Quán đảnh, để rót nước Thánh trên đầu đệ tử, với những nghi thức nào? Trong số những nghi thức náy có những sự việc lạ như sau: Vị A – Xà – Lê đưa đến trước mắt của đệ tử một bản kim loại, gọi là “Kim trà” ; bản kinh văn của Tây - Tạng gọi là (đũa vàng ) h́nh chày Kim – Cang, hai đầu nhọn tṛn trịa, có bôi thuốc; coi như có công năng rọc rách màn vô minh của đệ tử, giống như con dao mổ của bác sĩ giải phẫu, rồi Ngài trao cho đệ tử một cái gương soi trong sáng để cho để tử tự soi ḿnh trong đó: Gương tượng trưng cho sự không có Tự -tánh của các Pháp ; Sau cùng Ngài đặt trước mặt đệ tử một bánh xe Pháp( Pháp luân), và khiến đệ tử thổi trong một vỏ ốc ( dùng làm Tù – và, gọi là Pháp Loa). Điều đó có nghĩa là người đệ tử sẽ nói Pháp để cứu độ chúng sinh. Trong lúc giao cho các đệ tử các vật kia, bấc A – Xa – Lê đọc nhiều bài kệ. Để chấm dứt, vị Thầy nhắc đệ tử chớ tiếc thân mạng, từ nay đă hiến cho Giáo – Pháp để làm lợi ích cho chúng sanh; và chớ tiếc đạo lư( khi có người hỏi đến). Vậy là đă trao cho đệ tử “ Trí - giới Vô - ngại của 3 đời “ và lễ Quán đảnh chấm dứt.
Kế đó, kinh giải thích các công năng của sự Quán đảnh khi đă vào Mạn – Trà – La ( nhập đàn Quán đảnh) và nêu ra 16 Mật – chú đă đọc trong khi hành lễ.
Phẩm này là phẩm dài nhất trong kinh đó bắt đầu từ giữa quyển một và chấm dứt ở quyển hai.
Trong bản Thích - luận, dịch giả Thiện Vô – uư tả chi tiết các phương thức cụ thể đă được tiến hành tại Ấn Độ trong việc lập Mạn – Trà – La và làm lễ Quán đảnh; các lời thán-tán của ông làm nên phần bổ túc cần thiết cho quyển kinh. Mạn-Trà-La được tả trong Phẩm này là Đại-Bi Thai-Tạng Mạn-Trà-La, số lượng chư vị Thánh Thiên trong đó, như sau :
Chư Thánh Thị giả.
Trung tâm Hoa Sen & nbsp; 9
Lớp thứ nhất:
Khu vực - Trí-tuệ &nbs p; &nbs p; 3
Khu vực – Quan-âm (Quán Tự-Tại) 7
Khu - vực Kim-Cang Thủ (Bí-mật-chủ) 5 4
Khu vực – Các vị Tŕ Minh (Minh Vương) 2
Lớp thứ hai :
Khu vực – Văn-Thù (Diệu Kiết Tường) 7 5
Khu vực - Trừ Nhất Thiết Cái Chướng 9 2
Khu vực - Địa Tạng & nbsp; 6  ;
Khu vực – Hư Không Tạng & nbsp; 6
Lớp thứ ba :
Khu vực – Thích Ca Mâu Ni &n bsp;45
99 11
Tổng số là 110 vị.
Bản Thích Luận thêm 54 vị nữa, thành 164 vị cả thảy. Nhưng Hiện đồ MẠn-Trà-La (có tại Nhật bản, Từ thời Hoằng-Pháp Đại-Sư) có đến 414 vị hết thảy.
Phẩm III.
TÚC CHƯỚNG
Sửa lại bởi phapvan : 28 January 2006 lúc 7:48pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 43 of 52: Đă gửi: 30 January 2006 lúc 10:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm III.
TÚC CHƯỚNG
Ở đầu phẩm này, Ngài Kim-Cang Thủ hỏi Phật 3 câu hỏi :
1- Trong lúc tiến hành lễ Quán đảnh, người ta tránh được tất cả các loại chướng-ngại chăng ?
2- Phải đọc những Mật-chú nào ?
3- Người ta có thể đạt kết quả bằng cách ǵ ?.
Phẩm này trả lời câu hỏi thứ nhất
Khi người ta lập Mạn-Trà-La là làm lễ Quán đảnh, dù sao cũng dễ xảy ra đủ thứ chướng ngại, có thể chia ra làm 2 loại lá Chướng ngại về tinh thần và Chướng ngại về thời tiết.
Trong số các Chướng ngại về tinh thần, có sự xao động trong Tâm hành giả. Kinh nói : “ Tất cả các chướng ngại đều do tự-tâm ta mà ra chúng nó là hậu-quả của ḷng tham lam của chúng ta trong quá khứ. Muốn trừ bỏ các nguyên nhân ấy, ta phải chuyên chú nghĩ đến Tâm Bồ-Đề”. Ta phải khẩn cầu Ngài Bất-Động Minh-Vương, là vị tượng trưng cho sự cương quyết của Tâm Bô-Đề.
Các Chướng ngại về thời tiết là các sự mưa gió…trái thời, v́ ngày xưa, lễ Quán-đảnh đă được tiến hành ngoài trời, nên các biến-cố không thể tránh được. Trong trường hợp tương tợ, phải nhờ đến sức gia-tŕ và sự Thiền-định.
Phẩm IV
KHO CHÂN NGÔN THÔNG DỤNG
Nhờ có bổn nguyện của chư Phật và Bồ-Tát nên trong Mật-chú có một sức kỳ diệu, khiến cho khi đọc lên người ta đạt được một công năng vô biên.
Để trả lời câu hỏi thứ hai, Phẩm III “ Phải đọc những Mật chú nào ?”, Ngài Phổ-Hiền và chư Bồ-Tát khác, v́ ḷng tôn kính Đức Đại-Nhật nên phải Nhập-định ; và đọc thần chú của chư vị, trong lúc vào Đại Mạn-Trà-La của Thai-Tạng Đại-Bi, qua cửa thanh-tịnh của Pháp giới, chư Bồ-Tát đó và các nhân vật khác, v́ đă vào sâu trong thế giới Trí đức của Như-Lai, cho nên Người hành Chân-ngôn mà thâm nhập được thần chú của quí Ngài, cuối cùng đă t́m thấy lối vào Trí đức của Như-Lai.
Các Thần chú được kể trong Phẩm này lên đến số 118 câu.
Phẩm V.
THÀNH TỰU THẾ GIAN
Cái ǵ thuộc về Thế gian đều trái ngược lại với Xuất Thế gian. Phạm vi Xuất Thế gian th́ vượt ra ngoài ṿng diễn đạt (của Ngôn ngữ Thế gian). Bởi vậy, Đức Phật phải dựa vào các hiện tượng của Thế giới này để giải thích các lư siêu thế gian.
Nhân loại đă quen với các hiện-tương đó, cho nên họ chỉ nhờ sức thần biến của Phật, mới có thể vào trong phạm vi của chân lư siêu Thế-gian.
Phẩm này trả lời câu hỏi thứ ba (nói trong Phẩm III) : “Người ta có thể đạt kết quả bằng cách ǵ ?”. Người ta đạt kết quả bằng sự tŕ-tụng Mật-chú, theo 4 phương pháp như sau :
1/ Tâm tưởng niệm tụng, có 4 cách tập :
a- Quán chữ trong Tâm : Vừa đọc chú, vừa quán h́nh các chữ của của Mậ-chú trong Tâm ḿnh.
b- Phân biệt âm thanh : Vừa đọc chú, vừa để ư phân biệt các âm thanh của Mật-chú.
c- Hiểu nghĩa cáu chú : Vừa đọc chú, vừa t́m hiểu ư nghĩa các câu của Mật-chú
d- Điều chỉnh hơi thở : Điều chỉnh để quán sự hổ-tương thâm-nhập giữa Phật và đệ tử.
2/ Tiên tŕ-tụng Pháp niệm tụng : Tŕ tụng trước các Mật-chú sẽ phải tụng khi hiến dâng các Phẩm vật, như hương, hoa,…
3/ Cu chi niệm tụng : Niệm tụng trong lúc hiến dâng các Phẩm vật như Hương, hoa,… (chữ Hán “Cu chi” là : Cầm giữ hoàn toàn.
4/ Tác thành Niệm tụng : Niệm tụng cho sự việc được thành-tựu, nhờ sức gia tŕ của Mật-chú.
Ba phương pháp 2, 3, 4 được gọi là “Tam nguyệt niệm tụng”, tức là niệm tụng trong 3 tháng (cho thành thục). Đây cũng là một sự so sánh giữa mặt trăng đáy nước với sự quán tưởng các chúng sanh trong “Nước của Tâm” trong Định, hai loại h́nh ảnh đó vốn thanh-tịnh.
Phẩm VI.
XUẤT HIỆN TẤT ĐỊA
Chữ Phạn “Siddhi” nghĩa là “thành-tựu các điều ước mong”, Tàu dịch là “Tất-địa”. C̣n xuất hiện là hiện rơ ràng sự thành-tựu cho thấy.
Có 2 loại ước mong là ươc mong Thế-gian và ước mong Xuất Thế-gian : Do đó, có 2 loại thành-tựu Thế-gian và xuấy Thế-gian. Phẩm trước đă nói về sự thành-tựu Thế-gian. Trong Phẩm này, kinh nói đến sự thành-tựu Xuất Thế-gian.
Để giải thích tất cả các cách biểu lộ của sự thành-tựu này, kinh nói rằng : các Mật-chú, một cách tự nhiên, theo lối các Pháp, có những năng lực cố hữu của chúng nó, và các năng lực ấy là do sự gia-tŕ của Phật, sự gia tŕ đó có tác động đến chúng nó qua một tiến tŕnh sâu kín và khó hiểu.
Kế đến, Mật-chú “ở khắp mọi nơi” được giải thích ; Nó được gọi là Chân-ngôn ấy rất quan trọng trong kinh này nó như vầy :
Namah sarva tathàgata bhya visva mukhe bhyah sarvathà A À AM AH.
(Nam ma tát bà đát tha nghiệt đố tệ vi thấp-phạ mục khế tệ tát bà tha a à am ah.)
Kế đó, người ta thấy nói rằng : Người đệ tử thực hành Mật-chú th́ các điều ước mong của họ dẽ được thỏa măn, nhờ 3 năng lực của Công đức ḿnh, với sức gia tŕ của Phật và của Pháp giới.
Mật chú của Đức Phật Đại Tỳ-Lô Giá-Na có thể hàng phục Tứ MA : ma Phiền-năo, Ma Ngũ-ấm, Tử Ma, Thiên Ma ; giải thoát 6 thú, và làm cho đầy đủ Nhất-thiết trí Trí. Chữ câu Kim-Cang của Mật-chú đó như au :
- Namah samanta Budhànàm Avira Hùm Kham.
( Nam ma tam măm đa bột đà nẫm a vị ra hồng kham.)
Các vần “A vi ra hùm kham” tương ứng với Chủng Tử Tự của 5 yếu tố (hay 5 đại) là : A (đất), Va (nước), Ra (lửa), Ha (gió), Kha (Hư-không).
Kế đó, được giải thích các Mạn-Trà-La của 5 yếu tố, và cách thức giúp cho người hành Chân-ngôn nhờ sự Quán tưởng để đồng nhất hóa Tự Thân với 5 Mạn-Trà-La ấy, có thể tự cải hóa cho đến lúc đạt đến Tự Thể của Đức Phật. Đại Tỳ-Lô Gí-Na. Mặc dù có nhiều loại Mật-chú, nhưng chính Chữ A (chữ Phạn) là Mật-chú căn bản của Đức Đại Tỳ-Lô Giá-Na.
Bởi vậy, người hành Chân-ngôn, chỉ cần quán một chũ A thôi là đạt đến trí trực giác, biết rơ bản thể thật của Tâm ḿnh, và đồng thời vươn lên đến sự thành tựu cùng cực.
Phẩm VII.
THÀNH TỰU TẤT ĐỊA
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 44 of 52: Đă gửi: 01 February 2006 lúc 9:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm VII.
THÀNH TỰU TẤT ĐỊA
Trong hai Phẩm trước, đă được giải thích sự thành-tựu Thế gian và sự Thành-tựu Xuất Thế gian. Người ta gọi thành tựu trước là “ Tất-địa Hữu tướng” và sự thành-tựu Xuất Thế gian là “ tất-địa Vô tướng”. sự thành-tựu Hữu tướng th́ bị giới hạn, có những đặc tính này mà không có những đặc tính khác. Sự thành-tựu Vô tướng không có ǵ là tương đối nữa ; Đặc tính của nó là gồm đủ tất cả mọi đặc tính. Các đặc tính của hai sự thành-tựu đă được xác định như vậy rồi, phẩm này giải thích : Các thành-tựu của Chân-ngôn từ đâu mà đến.
Ngài Kim-Cang Thủ tán Chân-ngôn, nói giáo pháp về Mật-chú tóm thâu tất cả cá giáo pháp khác, giống như hết thảy các sông ng̣i chảy về hoà trong Đại dương, và Ngài hỏi nguồn gốc về sự thành-tựu của Chân-ngôn. Đức Phật trả lời như vầy : “Ư xứ của Ma-Ha-Tát, gọi là Mạn-Trà-La, Tâm vị của Chân-ngôn, biết rơ th́ thành-tựu”
Khi người hành Chân-ngôn biết con đường sáng chói của Tâm Chân-ngôn th́ các sắc tượng (nghĩa là các đối tượng của 6 cách nhận thức) trở nên chói lọi, và hành giả sẽ thấy Đức Phật vô thượng, được trời Người tôn kính, và khi chiêm-ngưỡng Ngài th́ hành giả sẽ được Thân vĩnh-cửu của Tất-địa bậc nhất. Kế đó, kinh nói rằng Quán các chữ AM và RA khiến đạt được Tất-Địa.
Phẩm này có mục đích chính yếu là giải thích cho biết rằng : Tất-Địa có thể bắt nguồn trong Tâm của tất cả chúng sanh.
Phẩm VIII.
HÀNH MẠN TRÀ LA CHUYỂN TỰ LUÂN
Xoay bánh xe Chủng Tử Tự (Tự Luân) là suy-tư về chu kỳ các Chủng-tử Tự của Đà-La-Ni trong một thứ tự ṿng tṛn; Nhờ phương tiện đó, Ta có thể tạo lập một loại Mạn-Trà-La ở nội tâm. Trong phẩm trước, các Tất-địa bên trong đă được giải thích. Để hoàn tất, phẩm này chỉ cho thấy rằng, Ta có thể quán chữ A là chữ mà chư Như-Lai đều gia tŕ.
Nếu tất cả các Bồ-Tát trong Chân ngôn Tông muốn thấy đức Phật, nếu họ muốn cúng dường Ngài, nếu họ muốn chứng-nhận Tâm Bồ-đề, tham dự vào các tập-hội của chư Bồ-Tát, để được lợi ích cho chúng sanh, t́m cầu tất địa và Nhất-thiết Trí Trí, họ phải hăng hái tập theo Tâm của tất cả chư Phật (nghĩa là chữ A).
Kế đó, kinh giải thích cách thức họa một Mạn-Trà-La h́nh vuông, có màu sắc, gồm 3 lớp h́nh tṛn và 12 khu đó là :
1- Tại nội tâm với Đức Đại tỳ-Lô-Gí-Na và các khu .
2- Biến tri viện 3- Khu Quan Thế Âm Bố-Tát.
4- Khu Kim-Cang Thủ 5- Khu Chấp Kim-Cang.
6- Khu Minh Vương 7- Khu Đại Hộ.
8- Khu Thích Ca Mâu Ni 9- Khu Văn-Thù.
10- Khu Trừ Nhất Thiế Cái Chướng
11- Khu Địa Tạng 12- Khu Hư Không Tạng.
Mạn Trà-La này so với Mạn-Trà-La trong Phẩm II th́ giản dị hơn nhiều. Đối với mỗi khu vực kể trên, bản văn chỉ cho những điểm chính xác về bậc Thánh-tôn chính, như : Chủng-tử Tự, Tam-ma-da h́nh (tiêu biểu cho tánh đức của mỗi vị) : Các điều ấy đều được ghi chú đủ chi tiết, c̣n cac vị thứ yếu th́ không được mô tả. Các Chủng-tử Tự th́ có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi v́ sự quán tưởng bên trong phải chú ư đến chúng nó hơn cả. Về Mạn-trà-La nói trên, kinh cũng chỉ dẫn một nghi thức Quán đảnh rất giản dị.
Phẩm IX
MẬT ẤN
Mật-ấn, với Tam-Muội-Đa h́nh, Chủng-tử Tự,…. Là một trong các cách biểu hiện để cảm nhận Tam-Muội-Đa đặc biệt của Chư Phật. Khi người hành Chân-ngôn làm pháp sự gia tŕ với các Mật-ấn của Như-Lai, th́ họ tự động hóa với Thân Pháp giới của Phật. Phẩm này, trước tiên là tŕnh bày các công năng của Mật-ấn.
Bí-mật-chủ ! Có những dấu hiệu tượng trưng, đồng với các vật trang sức của Như-Lai, đồng với chiều hướng của pháp giới (nghĩa là đồng với Thân Như-Lai hướng về pháp giới). Nếu Bồ-Tát (hành Chân-ngôn) dùng các dấu hiệu ấy để trang nghiêm Tự Thân, th́ dù họ ở trong sanh tử, đi khắp các thú, họ cũng được báo hiệu cho các tập-hội của chư Như-Lai biết, với cái Đại-Phan Bồ-Đề của họ, chư Thiên-Long, dạ-Xoa, Càn-Thát Bà, A-Tu-La, Yết-Lệ-Trà, Khẩn-Na-La, Ma-hầu-la-già, Người và Phi nhơn,…thảy đều kính trọng họ, nhận lời giảng dạy của họ, và đem thi hành.
Kế đó, kinh nói đến 31 Mật-chú và Chân-ngôn của Như Lai, tượng trưng cho công đức của quí Ngài, các thuộc tính, đồ trang sức của quí Ngài, như Pháp loa, tọa cụ,…và 57 Mật-chú và Chân-ngôn của các Thánh-Tôn khác, bắt đầu từ Bồ-Tát Phồ-Hiền, đến Bồ-Tát Từ Thị (Di Lặc),… sau cùng là 45 Mật-chú của chư Thánh thiên khác.
Phẩm X
TỰ LUÂN
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 45 of 52: Đă gửi: 02 February 2006 lúc 8:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm X
TỰ LUÂN
Tự Luận (bánh xe chạy ṿng của các chữ) khi nó không chạy ṿng th́ nó tiêu biểu cho sự bất động của Tâm Bồ-Đề. Vả lại, v́ không chấm dứt, nên nó đại diện cho sự tạo thành các vần, bắt đầu bằng chữ A là Chủng-tử Tự của Đức Đại Tỳ-Lô Giá-Na. giống như bánh xe quay nghiền nát mọi Tham-dục và Vô-minh của chúng ta. Hơn nữa, chữ A của Phật, đă ở nến tảng của bản thể Bồ-Đề, th́ sự xoay chuyển của Tự Luân là rất lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
Gọi là “Tự Luân”, bởi v́ các vần đầu từ Củng-tử Tự A mà ra, giống như các căm xe đều phát xuất từ cái “moa-dơ” là cốt. Và phẩm này giải thích cách Quán tất cả các vần.
Trong Mật giáo, chữ A nghĩa là Tâm Bồ-Đề, À là Tập hành Bồ-Đề, AM là Được Bồ-Đề, AH là Vào Niết-Bàn.
Tất cả chư Thánh-Tôn được kể trong kinh Đại-Nhật đều được xếp thành 3 Bộ : Phật-Bộ, Liên-Hoa Bộ, và Kim-Cang Bộ. Chủng-tử Tự của Phật bộ là A, của Liên-Hoa bộ là SA, của Kim-Cang Bộ là VA.
Phẩm này yêu cầu hành giả phải Quán, tại 4 nơi trong Tự Thân, cái ṿng biến đổi của các vần, hay các chữ có thêm vỹ-ngữ (tất đàn). Thí dụ khi quán các vần Ka, kha, ga, gha,… nơi Trán, hành giả đạt đạt đến chỗ hiểu rơ Tâm Bồ-Đề của chư Thánh-Tôn trong 3 Bộ. Khi Quán trong Cổ họng, cũng các vần đó mà kéo dài ra : Kà, khà, gà, ghà,, họ quan niệm đầu đủ các hạnh Bồ-Đề trong ba bộ, Khi quán trong tim ḿnh, các vần ấy theo giọng mũi : Kam, kham, gam, gham, họ tham dự vào chính Bồ-Đề. Khi quán ở Rún các vần Kah, khah, gah, ghah. Họ tự đồng hóa với Niết-Bàn. Cuối cùng, họ đạt đến tŕnh dộ chuyển Bánh xe Pháp, như Đức Đại-Nhật như-Lai đă làm. Điều này gọi là quán Bánh xe của ba bộ, tại 4 nơi trong Tự Thân.
Phẩm XI
MẠN TRÀ LA BÍ MẬT
Phẩm này nói : Lúc đó, Đức Bạt-Già Tỳ-Lô Giá-Na nhập vào định “Pháp-giới Vô-cấu”, rối vào định. Như-Lai phấn tấn b́nh đẳng trang nghiêm tạng như vậy, Ngài đă đầu đủ bổn nguyện, độ chúng sanh giới không c̣n thừa.
Điểm thiết yếu trong Phẩm này là dạy đệ tử quán trong Tự Thân 5 ṿng tṛn của các yếu tố đất, nước, lửa, gió, Hư-Không, và đồng hóa Tự Thân với một cái Tháp của Pháp-giới (Tháp tứ đại). Kế đó, nói đến Chân-ngôn Vương có 12 vần, dùng để Quán sự B́nh-đẳng của Pháp giới, nghĩa là sự đồng nhất giữa chúng sanh với Như-Lai hiện hữu ở khắp nơi.
Tiếp đến, Ngài Kim-Cang Thủ hỏi 40 câu hỏi về Đại-Bi Tai-Tạng Mạn-Trà-La (đă mô tả ở Phẩm II) để giải quyết mọi chỗ nghi ngờ. Để trả lời các câu hỏi đó, Đức Phật giải thích Mật-nghĩa của Mạn-Trà-La ấy, cho biết nó có những ư nghĩa kín hơn các ư nghĩa đă giải nói ở Phẩm II. Các ư nghĩa đă nói trong Phẩm II thuộc về Thế gian, chúng nó được đặt trên nền móng Đại-Bi, để cho kẻ sơ cơ được dẫn dắt vào Mạn-trà-La. C̣n Mạn-Trà-La trong Phẩm này là Mạn-trà-La, do bậc A-Xà-Lê phát lộ, khi Ngài đă thâm nhập giáo lư, đă vào sâu trong Định và đă được thành-tựu trong hạnh Du-già. Sự phát lộ ở đây thuộc về phạm trù tinh thần hơn : Đó là sự dùng Tâm để Quán đảnh “Dĩ Tâm Quán đảnh”.
Mội một trong số 12 khu nhận một sự giải thích của Đại Mạn-trà-la, dưới danh nghĩa như sau :
- Mạn-Trà-La Bí-Mật của Đức Đại Tỳ-Lô Gí-Na.
- Mạn-Trà-La Bí-Mật của Phật Bộ.
- Mạn-Trà-La Bí-Mật của Liên-Hoa Bộ
- Mạn-Trà-La Bí-Mật của Kim-cang Bộ.
- Mạn-Trà-La Bí-Mật của Chư Vị Tŕ Minh ( Minh Vương)
- Mạn-Trà-La Bí-Mật của Phật Mẫu ( Hư Không Nhăn)
- Mạn-Trà- La Bí -Mật của Chư Bồ-Tát
- Mạn-Trà- La Bí -Mật của Đức Phật Thích ca Mô
- Mạn-Trà- La Bí -Mật của Diệu Kiết Tường Bồ-Tát (Văn-Thù)
- Mạn-Trà- La Bí -Mật của Trừ Nhất Thiết Cái Chương Bồ-Tát
- Mạn-Trà- La Bí -Mật của Địa Tạng Bồ-Tát.
- Mạn-Trà- La Bí -Mật Hư Không Tạng Bồ-Tát.
Các Mạn-Trà-La làm nẩy nở trong Tự Tâm của chúng ta các Công đức đă ấn kín, v́ vậy chúng nó được gọi là “ Bí Mật”.
Phẩm XII.
PHƯƠNG PHÁP NHẬP MẠN TRÀ LA BÍ MẬT.
Với mấy bài kệ, gọi là “ U-đà-na”, Phẩm này được mô tả trong Phẩm trước .Các bài kệ đó đă được khai-triễn trong bản Thích Luận.
Bậc A-Xà-Lê quá quen thuậc với Mạn-trà-la bí mật, dẫn đệ tử vào trong đó, và với cách quán mà vị đệ tử đă làm về các ṿng chữ trong Tự Thân, họ hoàn tất được việc xả bỏ các Nội-chướng, và làm nẩy sinh và phát động được Trí Bồ-Đề thanh-tịnh Bất sinh, trong người họ nhờ các vần mà người đệ tử tưởng tượng nên tại 4 Thân trong Thân họ, họ đạt đến thực-trạng chiêm ngưỡng được “Chân-ngôn Vương có 12 vần”, và hiện thực được B́nh-Đẳng của ḿnh với Chư Phật.
Phẩm XIII.
PHƯƠNG PHÁP NHẬP MẠN-TRÀ-LA BÍ-MẬT.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 46 of 52: Đă gửi: 04 February 2006 lúc 4:30am | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm XIII.
PHƯƠNG PHÁP NHẬP MẠN-TRÀ-LA BÍ-MẬT.
Phù hợp với các lời giải thích đă nói trong Phẩm trước, Phẩm này soi sáng thực trạng b́nh đẳng với chư Phật trong Pháp thân. Vào trụ vị Mạn-Trà-La Bí-Mật th́ hành giả chiêm mgưỡng “ Liên Hoa Vương” có 8 cánh hoa, nở trong Tự Tâm, và hoa sen ấy tượng trưng chi sự đồng nhất của Tâm Ta với chín Mạn-Trà-La.
Để giải thích tiến tŕnh đó, kinh nói : “Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo Ngài chấp Kim-Cang Bí chủ rằng : Thiện nam tử ! Hăy lắng nghe Mạn-Trà-La của nội-tâm. Bí mật chủ ! Thân địa của nhà ngươi là Tự Tánh của Pháp giới. Với sự gia tŕ của Chân-ngôn và Mật-chú, hăy làm việc gia tŕ cho nó, v́ bản tính của nó thanh-tịnh : Dùng Yết-Ma kim-Cang mà Hộ tŕ cho nó th́ Tịch-trừ được mọi trần cấu, như Ngă, Nhơn, Chúng sanh, Thọ giả,… là (những khái niệm) do Ư sanh. Mạn-Trà-La của Nội-tâm h́nh vuông, có 4 cửa người ta vào đó, mặt xây về hướng Tây, nó có những giới đạo vây quanh. Bên trong Mạn-Trà-La, hiện ra Đại Liên hoa vương 8 cánh, do ư của chúng ta tạo ra, từ cộng hoa nẩy ra những tua nhị sặc sỡ, đoan nghiêm, vi diệu. Đức Như-Lai ở giữa Hoa Sen đó. Thân Ngài đặc biệt được tất cả Thế-gian tôn quí. Ngài đă vượt qua quá căn-đế của Thân, Ngữ, Ư, và vào đến đáy ḷng, Quả vị Ngài đạt được thật là Vi diệu, thù thắng. Phương Đông Ngài là Bửu-Tràng Như-Lai, phương Bắc là Cổ-Âm Như-Lai, phương Tây là Vô Lượng Thọ Như-Lai, phương Đông-Nam là Phổ-Hiền Bồ Tát, phương Đông-Bắc là Quán Tự-Tại Bồ-Tát, phương Tây-Nam là Diệu Kiết Tường đồng tử, phương Tây-Bắc là Từ Thị Bố Tát. Giữa tất cả các tua nhị có Mẹ của Chư phật và Bồ-Tát (Phật Mẫu Hư Không Nhăn), và các quyến thuôc có tam-Muội, sáu Ba-la-Mật, để tự trang nghiêm. Phía dưới Đức Như-Lai có chư vị Tŕ Minh phẫn nộ. C̣n Tŕ Kim-Cang Chủ Bồ Tát, đứng làm cộng hoa th́ ở giữa biển lớn vô tận. tất cả chư Thiên ở trên đất, đứng vây quanh hoa, th́ số lượng vô tận.
Mạn-Trà-La này, h́nh tràng hoa, có 8 cánh. Nó ở trung tâm Đại-Bi thai-tạng Mạn-Trà-La. Nhưng khi tŕnh bày Mạn-Trà-La này, gọi là “Hiện đồ Mạn-trà-La”, th́ Quán Tự Tại Bồ-Tát và Từ Thị Bồ-Tát được chuyển vị cho nhau.
Phẩm XIV
TÂM ẤN BÍ MẬT
Phẩm này giải thích 8 Mật-ấn và 8 Mật-chú thuộc về Mạn-Trà-La h́nh Hoa Sen 8 cánh đă được mô tả trong Phẩm trước. Tám Mật ấn tương ứng với 4 đức Phật ở 4 phương chính :
- Bửu-Tràng Như-Lai ở phương Đông.
- Khai Phu Hoa Vương Như-Lai ở phương Nam.
- Vô lượng Thọ Như-Lai ở phương Tây.
- Cổ Âm Như-Lai ở phương Bắc.
Và 4 Đức Bồ-Tát ở 4 phương phụ :
- Phổ-Hiền Bồ-Tát ở Đông-Nam.
- Diệu Kiết Tường đông-tử ở Tây-Nam.
- Từ Thị Bồ-Tát ỏ Tây-Bắc.
- Quán Tự Tại Bồ-Tát ở Đông-Bắc
Sở dĩ Mật-ấn và Mật-chú của Đức Đại Tỳ-Lô giá-Na ở trung tâm được giải thích, bởi v́ chính Ngài tóm thâu tất cả chư Phật và Bồ-Tát trong Tự Thân của Ngài.
Kính nói : “Tất cả các điều đó, chính là điều mà người ta gọi là Mật-ấn của Như-Lai đại Tỳ-Lô-Giá-Na. Các Mật-ấn siêu việt ấy, không được dễ dàng truyền đạt lại cho người, chúng nó chỉ có thể trao truyền cho ai đă được Quán đảnh, tánh nết đă thuần thục, dịu hiền, có nhiều quyết chí và siêng năng tinh tấn, đă phát nguyện độ sinh, biết tôn kính Thầy, nhớ ơn đức không quên, được thanh tịnh ở nội-tâm cũng như ngoại-diện, và sẵn sàng hy sinh đời ḿnh để cầu Pháp”
Phẩm XV.
CẤM GIỚI TR̀ MINH
Phẩm này tŕnh bày các giới cấm bắt buộc người hành chân ngôn hay tŕ tụng Mật-chú phải giữ trong 6 tháng (Lục nguyệt niệm tụng).
Các Chân-ngôn là các vần A, VA, RA, HA, KHA. Kha tương ứng với A, Va, và Kha tương ứng với Ra + Ha. Người ta tụng mỗi vần đó trong một tháng với những Mật-ấn, những Mạn-Trà-La, với sự ăn uống thích hợp, vừa tụng vừa Quán một trong 5 Đức phật, lấy các vần đó làm Chủng-tử Tự (3 lần vần Kha đối với Đức Đại Tỳ-Lô Giá-Na). Vả lại, ở đây không nhất thiết là những tháng thật, mà danh từ “Tháng” có thể hiểu theo nghĩa “một lần tŕ tụng”.
Trong lúc thực hành các điều ấy, ta phải hoàn toàn tự chủ, và tránh làm mọi điều xấu (chẳng lành) để đạt được sự thành-tựu. Các giới cấm phải giữ đó được gọi là “Chế giới” và chúng nó khác với các giới cấm liên quan đến Tánh sâu kín của chủ thể, đến Tâm Bồ-Đề, và các giới này, chính là Ngũ giới, đă được tŕnh bày ở Phẩm II.
Phẩm XVI.
CHÂN THẬT TRÍ CỦA A-XÀ-LÊ
Tất cả các Mật-chú của Mạn-Trà-La đều được tóm thâu trong vần A, nó là Tâm Mạn-Trà-La Bí-Mật của đức Đại Tỳ-Lô Giá-Na, điểm của Mật-chú. Phẩm này giải thích rằng : Chữ A đó là để gọi cái Trí Chơn thực của bậc A-Xà-Lê.
Quả thế, tất cả các âm thanh đều từ vần A mà ra. Nếu vần A không có, th́ sẽ không có một âm thanh nào khác. Ta Quán trong Tâm Ta, bản tánh của nó vốn thanh-tịnh, mà chữ A là “Tâm của tất cả các Mật-chú”, khi đó chúng ta có thể thông đạt đến chỗ hiểu biết cái Chân thật trí của Như-Lai.
Phẩm XVII
BỐ TỰ (SẮP XẾP CÁC CHỮ)
Tịnh tâm Bồ-Đề là Cảnh của tất cả các vần. trong Phẩm này, người ta giải thích cho biết khi người hành chân ngôn đă đặt vần A ở đáy Tâm Bồ-Đề của ḿnh, và đă sắp sếp tất cả các vần chữ Phạn trên mọi chỗ khác nhau của tự thân th́ người đó biến đổi thân ḿnh thành một Pháp-giới Mạn-Trà-La. Như vậy, họ kích động được sự nẩy nở mọi đức hạnh của Phật, đă có sẵn trong chính họ.
Kết luận của Phẩm này nói về cái vốn Nhất-thiết Trí Trí luôn luôn hiện hữu trong Tâm của chúng ta, th́ đă được trích dẫn trong Phần Dẫn nhập, chương V.
Phẩm XVIII
CẤM GIỚI PHƯƠNG TIỆN
Phẩm này nói về các giới cấm mà mọi Bồ-Tát Đại-thừa đều phải tuân thủ trong suốt một thời gian hành đạo. Các giới cấm ấy, mọi người hành Chân-ngôn phải giữ. Nhưng ở đây, họ xem chúng nó như là những phương tiện phụ, v́ chính giới đối với họ, một mặt là phải thực hành những ǵ để phát lộ “cái vốn Bồ-Đề” sẵn có và luôn luôn hiện hữu trong tự thể sâu kín của họ, mặt khác là phải thực thi theo giáo lư Mật-tông trong một thời kỳ hạn định để đạt đến sự thành-tựu.
Các giới cấm được kể như sau :
1/ Thân thiện nghiệp đạo : Muốn tránh các lỗi lầm quan trọng th́ phải hành động theo 10 đường lành, như sau :
- Chẳng đoạt sinh mệnh.
- Chớ lấy của không cho.
- Chẳng tà dâm (3 món : Sát, đạo, dâm thuộc về thân)
- Chẳng nói láo.
- Chẳng chưởi mắng, nói lời ác.
- Chẳng nói hai lưỡi.
- Chẳng nói thêu dệt (vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ : 4 món này thuộc về khẩu là miệng).
- Chẳng tham
- Chẳng sân.
- Bỏ Tà kiến (Tham, Sân, Tà kiến thuộc về ư thức).
2/ Ngũ giới : Bồ-Tát tu tại gia th́ phải giữ 5 giới, là :
- Chẳng đoạt sinh mệnh
- chẳng lấy của không cho
- Chẳng nói láo.
- Chẳng tà dâm.
- Bỏ tà kiến.
3/ Tránh 4 loại tội căn bản đó là:
- Phỉ báng Chánh pháp.
- Ĺa bỏ Tâm Bồ-Đề.
- Khan lận (biết Pháp, giữ riêng, không muốn nói cho ai nghe).
- Năo hại chúng sanh.
Theo lời kinh dạy, th́ đó là Tánh nhiễm, chẳng phải tŕ giới Bồ-Tát. Các Tội căn bản ấy phải tránh, cho dù phải bỏ Thân mạng cũng không phạm.
Trong phẩm II, các giới cấm này được được xác định là thuộc giới Tam-Muội-Da và bản Thích-Luận nói chúng thuộc về Chân-ngôn Tạng. Người giữ được các ấy th́ sống trong Chân-ngôn Thừa. Người nào vi phạm th́ giống như cái thay ma, họ chết nơi đạo-lư.
Phẩm XIX.
GIẢNG VỀ VIỆC SANH RA 100 CHỮ
Sửa lại bởi phapvan : 04 February 2006 lúc 4:38am
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 47 of 52: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 11:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm XIX.
GIẢNG VỀ VIỆC SANH RA 100 CHỮ
Trong Phẩm này, kinh giảng về sự Biến chiếu thành 100 vầng ánh sáng của Chân-ngôn AM( Bách quang Biến chiếu Chân-ngôn) và theo cách nào mà vần AM đă là vua của các Chân-ngôn, nên nó có công năng phá tan mọi u-ám vô trí, cũng như khi mặt Trời xuất hiện th́ người ta thấy nó từ khắp mọi nơi(tối tăm mọi nơi đều tan biến).
Chư Phật 3 đời được chứng-ngộ trong khi Quán vần ấy. V́ vậy, Chân-ngôn đó là con đường đi thẳng đến quả vị Phật.
Tiến tŕnh sanh ra 100 vần (hay chữ), từ vần AM, như sau: 5 vần mỗi loại 5 chữ: Ka,Ca,Sa,Ta,Pa, làm thành(5*5) 25 vần. từ mỗi một trong số 5 vần đó, lại chuyển biến thành 3 vần nữa, như: từ Ka mà đổi thành Kà, kam, hah,vậy là đủ 4 vần, tượng trưng cho:
- Sự thức tỉnh của Tâm Bồ Đề.
- Sự hành đạo Bồ Đề.
- Sự đạt được Bồ Đề.
- Sự nhập Niết bàn, 25 vần, mỗi vần biến thành 4 vần khác nhau, thế là (25*4) đủ tạo vần hay 100 chữ.
Nhưng tất cả 100 vần đó đề là những khai triển của A, không rời ra khỏi A, mà sự tương quan giữa A và AM là: A tượng trưng cho Nhân, Am tượng trưng cho Quả. Bởi vậy, nếu kết hợp 100 vần đó tượng trưng cho thành quả đạt được, tức là Phật quả vậy.
Phẩm XX.
KẾT QUẢ TƯƠNG ỨNG VỚI 100 CHỮ.
Phẩm trước giải thích cách Quán “ Sự biến chiếu thành ánh sáng của 100 vần”. Phẩm này tŕnh bày vô lượng Công đức của quả Phật, đạt được là do thực hành phép Quán 100 chữ.
Kinh nói: Lại nữa, chí cầu câu Tam-miệu Tam Bồ Đề là:
* Biết Tâm vô lượng, tức biết Thân vô lượng.
* Biết Thân vô lương, tức biết Trí vô lương.
* Biết Chúng sanh vô lượng, tức biết Hư Không Giới vô lượng.
Bí- mật- chủ! Do Tâm vô lượng nên được 4 loại vô lượng, đă được 4 loại vô lương đó rồi th́ thành bậc Chánh Giác, có đủ 10 Trí lực, hàng phục được 4 loại ma, không có nơi nào phải sợ. Nhà ngươi sẽ nói Pháp, như sư tử rống. Đoạn kinh này xác định thực trạng Chính giác mà người ta có thể đạt được, với phương tiện 100 chữ.
Phẩm XXI.
THÀNH VỊ CỦA 100 CHỮ.
Phẩm này giải thích thực trạng của người đă được công năng Biến chiếu của 100 vần ánh sáng do vần AM toả ra, như đă nói ở Phẩm trước.
Hành giả đă đạt được các công năng đó, nhờ sức gia tŕ của vần AM, và nhờ đă quán Tự Tâm Bồ Đề Vô sinh ở Tự Thân. Cuối cùng người đó hiểu rằng: Hộ không khác với Đức Đại Tỳ-Lô Giá-Na,cũng không khác với Mạn-Trà-La của ḿnh.
Kinh nói:
Người có thể biết rằng: Đại- ngă của Nội- tâm.
Tuỳ theo Tự-Tâm vị Là nhà của Đạo-sư
Ư sanh hoa 8 cánh Trở nên rất sáng đẹp
Trong vầng trăng tṛn đầy Thanh-tịnh như gương trong
Thường an trụ ở đó Hành chân-ngôn cứu đời
Màu vàng, toả ánh sánh Trụ Tam-Muội, hại độc
Như mặt trời khó nh́n Các chúng sanh cũng vậy
Sức gia tŕ thường hằng Thâm nhập họ khắp nơi
Bên trong như bên ngoài Nên tất cả có thể
Như Đức Phật Đại-Nhật Với con mắt Trí giác
Biết Tự-Tâm như gương V 7899;i mắt Trí giác đó
Người hành môn Chân-ngôn Quán gương thanh tịnh ấy
Nhờ vậy họ đạt đến &nbs p; Tướng Chánh giác tịch nhiên.
Và ở một đoạn sau,kinh nói: “ Bí-mật-chủ! Giống như Quán Mạn-Trà-La trong ư mà trừ được bệnhg nóng: Nó trừ được tức th́, không có nghi ngờ ǵ. V́ Mạn-Trà-La chẳng khác nói Ư, Ư chẳng khác với Mạn-Trà-La với Ư chỉ là một”.
Kinh giải thích rằng: Mạn-Trà-La, trong hiện tướng cụ thể của nó, chính nó giống như một ẩn dụ, chỉ là một sự phóng ngoại của Mạn-Trà-La trong Tâm, đó là Tâm Bồ- Đề của Ta
Phẩm XXII.
Sửa lại bởi phapvan : 09 February 2006 lúc 11:46pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 48 of 52: Đă gửi: 10 February 2006 lúc 12:36am | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm XXII.
SỰ THÀNH TỰU VỚI VIỆC TR̀ TỤNG 100 CHỮ.
Phẩm này giải thích các thành tựu, do việc tŕ tụng 100 chữ mà được.
Kinh nói: “ Vần AM cứu đời, không khác nhau, giữa Thân Bất-tịnh của phàm phu với Thân thanh-tịnh của Phật. Tâm bất-tịnh của phàm phu la do Tâm thanh-tịnh của họ vốn có ma ra, cho nên Tâm Bất-tịnh ấy có thể thanh lọc được, trong sự biến chiếu của vần AM, nó từ Tâm Bất-tịnh mà hiện ra. Do đó, nó toả sáng khắp các bộ phận của Thân”. Như vậy là đă được đặt ra ư niệm: không có sự phân biệt giữa cái Tịnh và cái Bất tịnh, giữa chúng sanh và Phật.
Kế đó, kinh nói rằng: Khi Quán tất cả các vần, với sự thất biết la chúng nó không rời vần A, người ta có thể nhờ sự gia tŕ của vần A, mà đạt được Tam-Muội-Da, thấy không có sự đối đăi ( tính lưỡng nguyên) giữa cái tịnh và cái Bất tịnh, giũa Phật và chúng sanh. Nhờ quán 32 vần, do vần AM biến ra (đó là các vần abc của chữ Phạn, bỏ các nguyên âm và các chữ đọc giọng mũi, nhưng kể cả A, Sa, Va, là 3 Chủng - tử Tự của 3 Bộ, và âm kép ksa), người ta có thể đạt được 32 tướng tốt của Phật, và nhờ Quán 5 âm giọng mũi: Na, Na, Na, Na, Ma, người ta có thể đạt được 80 vẽ đẹp của Đức Thế - Tôn.
Phẩm XXIII
PHÁP CHÂN NGÔN 100 CHỮ
Phẩm này giải thích các công năng của vần A là gốc của vần Am, vần Am là Chân – ngôn của “Sự biến chiếu thành 100 vàng ánh sáng”. Người ta cho vần A có ư nghĩa là “ Không, nguyên Vô Sinh, Bất Tư Ngh́”.
Kinh nói: Trong môn Tam - Muội này, lấy Không để gia tŕ th́ được Tự Tại đối với tất cả các Pháp, và thành tựu Tối Chánh giác. Thật thế, vần ấy chính là Đức Thánh Tôn Đại Tỳ -Lô Giá –Na.
Sự thật của tất cả các Pháp đă là Không, Bất Tư Ngh́, ngay từ nguồn gốc th́, nếu hành giả đồng hoá Tự Tâm với ư nghĩa của vần A,Y có thể đạt đến sự thông hiểu toàn bộ các Pháp.
Phẩm XXIV.
NÓI TÁNH BỒ ĐỀ.
Phẩm này biện luận về ư nghĩa sâu kín của Tánh Bồ Đề. Tánh Bồ Đề, nói về Chữ th́ chẳng là ǵ khác ngoài chữ A, nói về Pháp th́ chính là Tâm Bồ Đề Vô sinh, nơi chúng ta, nói về sự nhân cách hoá th́ đó là Đại Tỳ Lô Giá-Na Như Lai, ngự ở trung tâm của Đại -Bi Thai -Tạng Mạn -Trà-La. Thật thế, ở Phẩm I, chúng ta đă thấy nói: “ Bồ-Đề là ǵ? Là biết tự Tâm như thật và Tâm, Hư-Không giới với Bồ Đề là ba món không hai”.
Phẩm này giải thích tánh Bồ Đề bằng những lời như sau: “Thí như Tướng Hư-Không ở 10 phương, thường, cùng khắp, mà không có chỗ dựa, Chân-ngôn cứu đời cũng vậy. Trong tất cả các Pháp, nó không có chỗ dựa”.
Phẩm XXV.
TAM MUỘI DA:
Danh từ “ Tam Muội Da” thường được dùng trong Mật giáo. Ở đó, nó có nh́eu nghĩa khác nhau, như là: phù hợp, tương ứng, đồng nhất… Người thường dịch nó là B́nh đẳng. Tương đương với chữ Samanta trong Phạn ngữ./ Ở phẩm IXcủa bản Thích Luận bằng chữ hán, người ta cho nói có 4 nghĩa sau:
1. Tam Muội Da là sự B́nh đẳng giă các chúng sanh và Phật.
2. Nó là Bổn-thệ của Phật, khi Ngài thấy tất cả chúng sanh đều có tánh Bồ Đề. Nên Ngài thấy tất cả chúng sanh đều có Tánh Bồ Đề. Nên Ngài thề nguyện làm cho họ đạt đến Bồ Đề.
3. Nó là sự Trừ chướng do Đức Phật thực hiện, nghĩa là Ngài phá vô minh làm chướng ngại cho sự hiện thực Bồ Đề của chúng sanh
4. Nó là sự cảnh giác trong ư nghĩa là: Phật đảnh thức chúng sanh ra khỏi giâc ngủ Vô-Minh để họ nhớ lại Tự tánh Bồ Đề của họ, hay là nhắc nhở chư Bồ Tát nhớ lại nhiêm vụ của họ trên bước đường của minh.
Trong mật giáo, tam Muội Da là sự đồng nhất giữa các Pháp có cặp ba như: Tâm, Phật, Chúng sanh, Tâm, Bi, trí, Phật Pháp, Tăng, Thân,Ngữ, Ư, Pháp Thân, Báo Thân, Hoá Thân…..
Trong Phẩm này, tam Muội Da được định nghĩa, trước tiên bằng văn xuôi,như:
1. Pháp tương tục sanh, tức là sự phát triển dần dần của Tâm Bồ Đề trong Tâm chúng sanh
2. Sự Trù chướng,tức phá hoại các Chướng
3. Tưởng dạng, tức tưởng tượng nên sự đồng nhất giữa đệ tử với Phật
Sau đó, trong các bài kệ, nó được định nghĩa như:
1. Bồ Đề Tâm ban đầu, tức là Phật trong Thâm tâm của chúng ta.
2. Pháp
3. tăng nghĩa là toàn bộ các tín đồ, đang dần dần hiện thực Pháp.
Phẩm XXVI
NÓI TRONG NHƯ LAI.
Trong Phẩm này, Ngài Kim Cang Thủ hỏi:
- Sao gọi là Như Lai?. - Sao gọi là Nhơn Trung Tôn?
- Sao gọi là Bồ Tát?. - Sao gọi là bậc Chánh giác?.
Bồ Tát là người cầu Bồ Đề, ĺa tất cả phân biệt như Hư Không. Bậc Chánh giác là vị đă thành tựu 10 địa, thông đạt Tự Tại các Pháp là không. Như ảo, và biết chiều hướng đi về của tất cả chúng sanh ở cơi đời này.Hiệu “ Tam Bồ Đề” là vị được 10 trí lực của Phật, hiểu tất cả các Pháp như tương Hư Không, chỉ có một Tướng không hai. C̣n Như Lai là chỉ có Trí Tuệ Tự Chứng, hại Vô Minh, Tự Tánh ĺa ngôn thuyết.
Phẩm XXVII.
PHÁP HỘ MA THẾ GIAN VÀ XUẤT THẾ GIAN.
Pháp hộ ma là lễ dùng lửa để dâng hiến. Nguyên nó là một sự hi sinh của Bà la môn. Phật giáo Mật Tông đă dùng nghi thức ấy, nhưng lại hiểu nó theo một nghĩa khác hẳn. Pháp Hộ Ma của Mật Giáo tiêu biểưu cho sự huỷ diệt, sự đốt cháy các Tham dục và ảo tưởng của chúng ta, trong ngọn lửa trí Tuệ của Như Lai.
Kinh kể trước tiên là 44 loại Hộ-Ma Thế-Gian: Các loại ấy là do người Bà la môn học tập và nghiên cứu kinh Vệ đà truyền lại.
C̣n Pháp Hộ Ma Xuất Thế Gian là riêng của Phật Giáo. Nó có 2 loại là: Ngoại Hộ Ma và nội Hộ Ma. Ngoại Hộ Ma có 12 thứ khác nhau. C̣n nội Hộ Ma là một nghi thức Quán tưởng. Người ta phải quán sự đồng nhất của lửa, sự đồng nhất giữa người hiến dâng với vị Bổn Tôn được hiến dâng phẩm vật, và nó là một nghi thức quan trọng hơn cả.
Ngọn lửa trí Tuệ Vô sinh trong Tâm chúng ta chẳng khác với ngọn lửa Nhất thiết Trí của Phật. Ngọn lửa ấy thiêu huỷ các vọng phân biệt thành Tịnh Tâm Bồ Đề
Phẩm XXVIII
TAM MUỘI BỔN TÔN
Người hành Chân-ngôn, khi duyên h́nh Bổn tôn để quán th́ lúc đó Tam Muội hiện ra, họ nhận thấy rằng: Bổn Tôn với họ chỉ là một, nghĩa là Bổn Tôn nhập vào họ, họ nhập vào Bổn Tôn. Sự kiện đó, người ta gọi là “Nhập Ngă, Ngă Nhập”.
Phẩm này giải thích rằng. Bổn Tôn có thể hiện dưới ba h́nh thức, và sự thành tựu do Bổn Tôn tạo ra có hai loại .
Kinh nói: “Bí mật chủ! Chư Tôn có 3 loại Thân, đó là Chủng tử Tự, Mật ấn, và H́nh tượng. Về chữ th́ có hai loại là vần đọc lên tiếng và chữ trong Tâm Bồ Đề. Ấn cũng có hai loại Hữu h́nh và vô h́nh. H́nh tượng của Bổn Tôn cũng có hai loại Thanh tịnh và Không thanh tịnh. Nếu chứng Tịnh thân th́ ĺa tất cả các Tướng, c̣n không Tịnh là Thân có Tưởng, ắt có H́nh Sắc hiện ra”.
Một trong 3 loại Thân của Bổn Tôn lại chia là hai hạng, tuỳ theo sự Quán tưởng của hành giả là Hữu tướng, hay Vô tướng. Quán Hữu tướng th́ chữ đọc lên tiếng, ấn bắt nên h́nh, Tượng có sắc. Quán Vô tướng th́ chữ trong Tâm Bồ Đề, Ấn Vô h́nh, Tượng không h́nh sắc. Đó là hai loại thành tựu, hay hai loại Tất Địa khác nhau.
Phẩm XXIX
TAM MUỘI VÔ TƯỚNG
Phẩm này tŕnh bày cách thức hành giả phải làm theo để nhập Tam Muội Vô tướng, để được Tất Địa Vô Tướng, để được Tất Địa Vô tướng. Kinh định nghĩa Tam muội đó như sau: “ Bí mật chủ! V́ Tâm không có Tự Tánh nên nó ĺa tất cả các Tưởng (quan niệm). Bởi thế, hăy nên tư duy về Tánh Không. Bí mật chủ! Tâm trong 3 thời t́m cầu nó không thể được,v́ nó vượt quá 3 thời. Như vậy là Tự Tánh xa ĺa tất cả các Tướng”. Muốn đạt Tam Muội Vô Tướng này th́ phải Quán Không, Vô Ngă. Và cách Quán này là Quán vần A, v́ nó “vốn Vô sinh” .
Phẩm XXX.
TR̀ TỤNG THẾ GIAN VÀ XUẤT THẾ GIAN.
Phẩm này diễn tả cách tŕ tụng Mật chú. Có hai phương pháp:
- Phương pháp Thế gian th́ miệng đọc Mật chú của Bổn Tôn, Thân phải điều hoà nhịp thở vô ra theo câu chú.
- Phương pháp Xuất Thế gian th́ đọc thầm Mật chú, đồng thời tập trung tư tưởng nghĩ về Bổn Tôn để tự đồng hoá với Ngài.
Phương pháp đầu tương ứng với Tam Muội Hữu Tướng, phương pháp thứ hai tương ứng với Tam Muội Vô Tướng. Cần thiết phải tập trung cả hai phương pháp để bảo đảm cho sự tŕ tụng thành công và đạt được Tất Địa.
Phẩm XXXI.
CHÚC LỤY.
|
Quay trở về đầu |
|
|
dieptan_dung Hội viên

Đă tham gia: 07 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 162
|
Msg 49 of 52: Đă gửi: 10 February 2006 lúc 9:23am | Đă lưu IP
|
|
|
phapvan đă viết:
Pháp Vân xin chép lại tập: “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật”...
Sau đây là một số ư kiến nói về bộ kinh này:
- “ Trong Đại Thừa, Kinh Đại-Nhật là Vua, và trong Mật tông, nó là : “Mật” hơn hết cả Kinh Pháp Hoa cũng không đạt đến độ cao siêu của nó, huống là các Kinh khác” (Trí Chứng Đại-Sư”
- “Nếu người ta nghiên cứu tư tưởng sâu sắc của Kinh Đại-Nhật từng chi tiết, người ta sẽ nhận thấy rằng : Tư tưởng ấy thâm nhập bởi những ư niệm mà người ta đă biết được qua các kinh chính của Đại-Thừa như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bát Nhă. Kinh Đại-Nhật là nơi qui tụ của một tư tưởng tôn giáo, mà các kinh nổi tiếng kia chỉ mới đại diện cho các giai đoạn đầu của nó”. (xem cuối phần dẫn nhập)
Đôi lời trích dẫn để giới thiệu không dám nói nhiều, bởi đă có nội dung của kinh tự nói. Để tóm tắt, chỉ xin ghi một câu : “Đây là biển cả chảy vào một giọt nước”. |
|
|
Kính anh Pháp Vân ,
Nếu nói về Mật Tông th́ kinh ĐẠI NHẬT là cốt lơi , là xương sống cốt tủy chánh Pháp Mật Gíao , điều này là sự thật bất khả tư ngh́ , không ngoa chút nào . Tôi thấy anh miệt mài post bài kinh Đại Nhật này từ trước Tết đến nay cho các bạn đọc thật là công đức vô lượng . Thời mạt pháp này tà giáo tràn lan hoặc lợi dụng danh nghĩa Phật giáo cũng nhiều . Bài kinh này quả là hiếm hoi và quư giá trong chánh pháp phật giáo .
Chúc anh an lạc , vui với đạo pháp nhà phật .
Trân trọng
Diệp Tấn Dũng - Cựu SQ H.O.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 50 of 52: Đă gửi: 10 February 2006 lúc 10:39am | Đă lưu IP
|
|
|
Dạ, cảm ơn anh Diệp Tấn Dũng - Cựu SQ H.O.
Cầu chúc cho anh và gia đ́nh An vui Tự tại!
Kính
PhapVan
|
Quay trở về đầu |
|
|
phapvan Hội viên

Đă tham gia: 01 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 597
|
Msg 51 of 52: Đă gửi: 10 February 2006 lúc 10:48am | Đă lưu IP
|
|
|
Phẩm XXXI.
CHÚC LỤY.
Ở phần cuối kinh, Đức Phật căn dặn thính chúng là chỉ truyền giáo pháp này cho những đệ tử được lựa chọn và đă được thử thách. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chúng hội rằng : “ nay quí vị nên chẳng buông lung đối với pháp môn này. Chớ trao truyền cho những ai mà quư vị chẳng biết căn tánh”.
Người xứng đáng để nhận giáo pháp này phải có đủ những tướng đức mà kinh văn kể chi tiết, như khi sanh ra có những hiện tượng Kiết tường, Tâm chí cầu thắng sự, có tuệ Vi tế, thường nhớ ân đức, sanh ḷng khát ngưỡng, nghe Pháp khởi vui, tướng trắng xanh hay trắng bạch, đầu rộng, cổ dài, trán rrộng và thẳng, mặt tṛn đầy, đoan nghiêm, cân đối.
Phẩm chấm dứt theo thông lệ đọc giả hoan hỷ, tin nhận làm theo, sau khi đă xin Phật một Thần chú gia tŕ.
Dịch ngày 29/01 Canh Ngọ
Tức ngày 24/02/1990
----------
Pháp vân đă chép xong tập: “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật”
Soạn giả : R.TAJINA
GS TS Viện Đại học Ba-Lê và
Viện Đại học Đại Chánh ở Đông Kinh.
Soạn giả : Như Pháp Quân. 1990
----------
Xin hồi hướng công chép tập “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật” lên mạng cho quư vị có duyên với Mật đă đọc tập này.
Nam mô Tỳ Nô Giá Na Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
vuhoangnguyen Hội viên

Đă tham gia: 24 October 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 282
|
Msg 52 of 52: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 9:09am | Đă lưu IP
|
|
|
phapvan đă viết:
Phẩm XXXI.
CHÚC LỤY.
Ở phần cuối kinh, Đức Phật căn dặn thính chúng là chỉ truyền giáo pháp này cho những đệ tử được lựa chọn và đă được thử thách. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chúng hội rằng : “ nay quí vị nên chẳng buông lung đối với pháp môn này. Chớ trao truyền cho những ai mà quư vị chẳng biết căn tánh”.
Người xứng đáng để nhận giáo pháp này phải có đủ những tướng đức mà kinh văn kể chi tiết, như khi sanh ra có những hiện tượng Kiết tường, Tâm chí cầu thắng sự, có tuệ Vi tế, thường nhớ ân đức, sanh ḷng khát ngưỡng, nghe Pháp khởi vui, tướng trắng xanh hay trắng bạch, đầu rộng, cổ dài, trán rrộng và thẳng, mặt tṛn đầy, đoan nghiêm, cân đối.
Phẩm chấm dứt theo thông lệ đọc giả hoan hỷ, tin nhận làm theo, sau khi đă xin Phật một Thần chú gia tŕ.
Dịch ngày 29/01 Canh Ngọ
Tức ngày 24/02/1990
----------
Pháp vân đă chép xong tập: “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật”
Soạn giả : R.TAJINA
GS TS Viện Đại học Ba-Lê và
Viện Đại học Đại Chánh ở Đông Kinh.
Soạn giả : Như Pháp Quân. 1990
----------
Xin hồi hướng công chép tập “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật” lên mạng cho quư vị có duyên với Mật đă đọc tập này.
Nam mô Tỳ Nô Giá Na Phật.
|
|
|
Cám ơn Thầy Pháp Vân đă san sẻ ḥan tất Kinh Đại Nhật Mật Gíao cho các bạn học đạo thật là quư giá . Cầu xin Chư Phật , Chư Bồ Tát mười phương ban phúc lành cho Thầy Pháp Vân sở thành viên măn Phật Đạo .
Kính
Vũ Ḥang Nguyên
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|