Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 179 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật” Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 21 of 52: Đă gửi: 03 January 2006 lúc 8:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

anh Pháp Vân, bài này hay lắm.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 22 of 52: Đă gửi: 04 January 2006 lúc 8:23am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

Cảm ơn bạn QuangQuy đă quan tâm,
Chúc duyên lành đến với QuangQuy!

__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 23 of 52: Đă gửi: 04 January 2006 lúc 8:25am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

Phần thứ nhất:

NGHIÊN CỨU TỔNG QUÁT VỀ KINH ĐẠI NHẬT


I- ĐỀ KINH

Nhan đề của các kinh thường được ghi thành chữ Hán, hoặc theo lối phiên dịch, hoặc theo lối chuyển âm, dưới 1 h́nh thức rút gọn, so với nhan đề bằng chữ Phạn.

Thí dụ như kinh này th́ Nhan đề bằng chữ Hán là “ Đại Tỳ-Lô-Giá-Na kinh”. Chữ “Đại” là chữ Hán, dịch chữ Ma-ha là chữ Phạn. Tỳ-Lô-Giá-Na là phiên âm chữ Phạn “Vairocana”.Chữ “kinh” là dịch chữ Phạn “Sù-tra”. Phạn Hán ghép lại thành “Đại Tỳ-Lô-Giá-Na kinh”. Chữ “Tỳ-Lô-Giá-Na” dịch thành chữ Hán là Nhật. V́ vậy, sang tiến Việt, ta gọi là Kinh Đại-Nhật.

II- BA NGUỒN GỐC CỦA KINH ĐẠI NHẬT, THEO TRUYỀN THUYẾT.

Theo truyền thuyết xưa th́ kinh Đại-Nhật do 3 nguồn gốc mà ra, đó là :
·     Bản thường hằng như pháp.
·     Bản rộng lớn để lưu truyền.
·     Bản tóm lược để phổ biến.

Bản sau chót có 3000 bài kệ là bản Đại-Nhật hiện đại. Về chủ đề này Hoằng-Pháp Đại-Sư có nói như sau, ở phần dẫn nhập của ông, trong kinh Đại-Nhật : “Toàn bộ kinh này được tŕnh bày trong 3 bản văn”

·     Bản thứ nhất là “Bản thường hằng như pháp”, đó là Pháp Mạn-Trà-La của tất cả chư Phật.
·     Bản thứ hai là “Bản rộng lớn để lưu truyền”, đó là bản của Ngài Long-Thọ đọc thuộc và truyền đạt lại, bản kinh đó có 100.000 bài kệ.
·     Bản thứ ba là “Bản tóm lược để phổ biến”, bản này chỉ có hơn 3000 bài kệ. Mặc giù nó chỉ có 3000 bài kệ, trong 7 quyển, nó vẫn tóm lược đủ cả bản rộng lớn, nó chứa nhiều sự vật trong 1 số ít chữ, trong một chữ thôi đă có vô lượng nghĩa, và trong một điểm của nó thôi đă có vô số yếu chỉ, huống là thực chất của quyển kinh mà người ta t́m trong Bách-Tự-Luân (bánh xe 100 chữ). Trong 3000 bài kệ, biết bao nhiêu yếu chỉ đă được phát lộ?. Bản rộng lớn và bản tóm lược tuy có khác nhau về h́nh thức, nhưng lại đồng nhất với nhau về giáo lư.

Về Bản thường hằng, (nên biết) đó là sự thuyết minh giáo lư ở trong tư tưởng của chư Phật. Nó phù hợp với giáo pháp được Đức Đại-Nhật thuyết giảng măi măi với Pháp thân hằng hữu khắp nơi của Ngài. Hiển nhiên là Ngài không có sự hiện hữu bằng thể chất. Bản kinh bằng chữ Hán cũng như các quyển sớ giải đều không thấy có ám chỉ đến nguồn gốc thứ nhất này. Người ta có thể thấy : đây là một sự phát kiến độc đáo của Hoằng-Pháp Đại-Sư.

Về nguồn gốc thứ hai và thứ ba th́ trong quyển sớ giải có nói như sau: “…Bản văn chữ Phạn của kinh này thiếu phần dẫn nhập tổng quát. Thiên Vô-úy là vị đă dịch kinh nói Đại-bản của kinh Đại-Nhật có đến 100.000 câu kệ, v́ quá nhiều, khó nhớ, nên chư Thánh truyền đă thu nhặt điều trọng yếu, rút lại thành 3000 bài kệ có dư. Mặc giù đây là một bản tóm lược đầy đủ sự thực hành và giáo-lư Chân-ngôn Tông, nhưng bởi nó không phải là Đại-Bản, nên người ta không thấy có phần Dẫn nhập ở trang đầu…”

Và ở 1 đoạn sau xa, ông nói : “Nguyên bản của kinh này chứa gần đến 100.000 bài kệ để được truyền bá ở Nam-diêm phù-đề”. vả lại, trong bản sớ giải của Ngài, Thiện Vô-úy thường hay nói đến “Nguyên Bản” (các từ trong Đại-bản). Hơn nữa, Ngài Bất-Không Kim-Cang, trong bản Tobu-darani-moku, Ngài có nói : “…Đại-bản kinh Đại Nhật gồm 100.000 bài kệ, dịch ra th́ có đến 300 tập. Lúc đầu người ta dịch kinh ấy vào đời nhà Đường, đó là 1 bản tóm lược chỉ có 7 quyển thôi.

Nguyên bản với 100.000 bài kệ đă không bao giờ được đem sang Tàu, nhưng tin tưởng vào sự hiện hữu của nó th́ các dịch giả người Ấn đă có tin và đem niềm tin ấy vào Trung-Quốc.

III- NGUỒN GỐC KINH ĐẠI NHẬT, THEO HUYỀN THOẠI.    



__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 24 of 52: Đă gửi: 05 January 2006 lúc 6:51am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

III- NGUỒN GỐC KINH ĐẠI NHẬT, THEO HUYỀN THOẠI.    

Có 2 huyền thoại nói về nguồn gốc của kinh Đại- Nhật
Theo huyền thoại thứ nhất th́ Ngài Long-Thọ đă t́m được tập kinh trong cái tháp sắt ở Nam-Ấn, và sau đó Ngài mới cho người ta biết nó. Đó là truyền thuyết được thừa nhận ở Đông- Mật, một trong hai nhánh của Trường Mật –giáo tại Nhật-Bản

Theo huyền thoại thứ hai th́ các con khỉ ở một khu rừng Bắc-Ấn đă đưa quyển kinh cho một ông tiều phu. huyền thoại này được Thai-Mật chấp nhận.

Về huyền thoại cái tháp sắt th́ Hoằng-Pháp Đại-sư có nói như vậy, trong tập “Phó Pháp truyện” của Ngài. Ngài Kim-Cang Trí kể rằng: “Sau khi Đức Như-Lai nhập diệt, có một người đạo hạnh cao, tên là Long-Thọ. Ông này đă thực hành các thần chú của Đức-Đại Nhật. đức Phật Tỳ-Lô Giá-Na biểu hiện thân vô biên của Ngài, và từ trên cao giữa không trung, Ngài tuyên thuyết giáo lư của Ngài trong Thánh kinh. Sau khi Ngài Long-Thọ đă ghi chép được cả th́ Đức Phật biến mất. bản văn này là quyển thứ nhất của “ Yếu lược niệm tụng kinh”. Bấy giờ, Ngài Long-Thọ nhớ nó, đọc thuộc nó và thực hành theo nó. Ngài đi về Nam-Ấn, đến trước cái Tháp Kho của chư Đại Bồ Tát, và cầu xin cho cái Tháp đó mở ra. Trong 7 ngày, Ngài đi quanh Tháp, vừa đi vừa tụng chú. Ngài hiến dâng những hạt cải trắng và gơ cửa. Đến ngày thứ 7, cửa tháp mở ra. Trong tháp, có những vị thần Kim-Cang, nhảy lên v́ giận dữ, và không chịu cho Ngài vào. Ngài thấy bên trong tháp có những ngọn dầu thơm, toả ra ánh sáng xa từ 10 đến 20 bước, và có nhiều phướng dài lọng quư treo rất nhiều. ngài nghe nhiều giọng nói tán thán. Lúc bấy giờ, Bồ-Tát Long-Thọ thành tâm sám hối, và phát lời đại-nguyện. Tất cả chư Thiên, Thần Kim-Cang liền đi ra hỏi Ngài muốn điều ǵ?

Ngài đáp: “Sau khi Đức Như Lai diệt độ, rừng tà kiến mỗi ngày một dày thêm. Đại-thừa đang ở trên đường sắp mất. Đệ tử nghe nói rằng, trong tháp này, được ǵn giữ tất cả các giáo lư của chư phật ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai). Đệ tử muốn nhận lănh cái giáo lư đó để cứu độ tất cả chúng sanh”.

Chư Kim-Cang bèn đưa Ngài vào. Khi Ngài đă vào trong th́ của tháp liền đóng lại. Nh́n vào bên trong th́ thấy lâu đài Tháp giới này là cái Tháp, nơi đó đă hiện ra Đức Tỳ-Lô Giá Na, chư Phật của 3 cơi, tất cả chư Đại Bồ-Tát, như Văn Thù, Phổ- Hiền và các vị khác. Tất cả đều ở đó. Khi ấy Ngài được nhận nghi lễ Quán Đảnh, sức gia tŕ của Kim-Cang Tát-Đỏa v.v…, đọc và nhớ các định thức khác nhau của Mật-giáo, để về sau tryuền bá cho nhâ loại”.

Huyền thoại này do Ngài Kim-Cang Trí truyền miệng cho Ngài Bất-Không Kim-Cang, và vị này đă chép ra, ghép vào bản văn nhan đề là “Kim Cang Đảnh Nghĩa Quyết”. Hoằng-Pháp Đại Sư đă rút nó ra từ đó, nhưng bản văn không nói tên của vị có đạo hạnh cao nói trên. Chính Hoằng Pháp Đại Sư dựa vào sự tiên đoán của kinh Lăng già mà chứng minh rằng, vị đó là Ngài Long Thọ.

Đông-Mật và Thai-Mật đều đồng ư thừa nhận Ngài Long-Thọ như một Vị Tổ của Phật giáo Mật-Tông. Vả lại, theo “Kim Cang Đảnh Nghĩa Quyết” th́ kinh Kim Cang Đảnh cũng được giả định là một quyển kinh, đă t́m thấy trong Tháp sắt. Nhưng theo truyền thuyết của Thai Mật th́ kinh Kim Cang Đảnh không phải từ tháp ấy mà được. Song truyền thuyết của Thai-Mật cũng có những dị biệt, mà sau đây là huyền thoại này ở trong phần Dẫn nhập của kinh Đại-Nhật.

Tại miền Bắc Ấn-Độ, có một xứ nhỏ gọi là Lỗ-La. Phía Bắc kinh thành xứ ấy, có một ḥn núi đá lớn cao đến tận mây, chân núi có những ghềnh cao đến 100.000 bộ. Trên đỉnh núi có một hang đá, nơi đó được bảo tồn Pháp Bí-mật, và hàng năm đến ngày 7 tháng 7 th́ chư thánh tập họp lại đó.Hàng ngh́n con khỉ đem các kinh trong hang ra để cho chúng được thoáng khí. Gặp lúc trời tốt, người ta có thể nhận ra chúng được. nhưng không có thang để leo lên, người ta co1 thể nói đó là những con Ngỗng Trời ở trong mây. Th́nh ĺnh một gió xoắn nổi lên và để rơi một tập sách bằng chữ Phạn. Một ông tiều phu lượm được nó và nghĩ rằng có thể đây là một quyển sách kỳ diệu nào đó, ông bèn đem sách đến dâng cho nhà vua. Vua nhận sách và thấy không có sách nào giống nó. Ngay chiều hôm đó, một con khỉ lớn đến đ̣i sách.

Nó nói: “Nếu nhà Vua không trả sách cho tôi th́ tôi phải tự sát”.

Vua dùng những phương tiện khéo léo để thuyết phục nó, 3 lần nói với một cách có lễ độ rằng: “Quyển kinh đó,ta sẽ trả cho nhà ngươi, nhưng xin để cho ta sao chép lại đă”.

Con khỉ thấy Vua khẩn khoản nài nĩ,cuối cùng nó đồng ư: “Trong 3 ngày nữa, tôi sẽ trở lại lấy sách”.

Nhà Vua giao công việc cho một đám đông chép tay, nên sao được một bản, và đến kỳ hạn phải trả quyển sách, vua chỉ giao sách cho đông cung thái tử. Vị hoàng tử được sách, chẳng phổ biến nó ra ngoài đời. Một thời gian sau đó, có một tu sĩ Du-già, ở miền Trung Ấn, đi khắp mọi nơi, vượt đèo qua suối để t́m kho bí mật. Thấy được phẩm cách lạ lùng của vị tu sĩ đó, nhà Vua vui ḷng cho vị ấy quyển kinh kia.

Câu chuyện đủ t́nh tiết kể trên, h́nh như có những sự kiện thực hữu. Tuy thế, nó lại không có ǵ chắc chắn cả. Người ta không thấy ở đâu là xứ Bột-lỗ-la, và có thể tự hỏi: “Không biết nó có hay không?”. Huyền thoại lại không xác định tên ông vua kia và tên của vị tu sĩ nọ. Đoạn sau của phần Dẫn nhập nói trên lại khiến cho người ta nghĩ đến Thiện Vô-Úy, v́ kinh Đại-Nhật của ông dịch chính là quyển kinh do ông đă mang đến với ông.

Nhưng các sự kiện đă xảy ra không làm cho huyền thoại ấy được vững chắc, mà ngược lại. Bản văn mà Thiện Vô-Úy đem đến với ông chỉ là quyển thứ 7 của bộ kinh. Sáu quyển đầu đă được Ngài Vô-hành thu thập trước rồi(xem chương sau). V́ vậy, không có vấn đề phải kể đến huyền thoại về các con khỉ.

Các nhà Bác học của Đông-Mật thừa nhận rằng kinh Đại-Nhật, cũng như kinh Kim-Cang Đảnh, đều đă được t́m thấy trong Tháp sắt. Lúc Ngài Kim Cang Trí ở Nam Ấn th́ 2 bộ kinh đó là do Long Trí giao cho Ngài

(c n)


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 25 of 52: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 8:35am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

Các nhà Bác học của Đông-Mật thừa nhận rằng kinh Đại-Nhật, cũng như kinh Kim-Cang Đảnh, đều đă được t́m thấy trong Tháp sắt. Lúc Ngài Kim Cang Trí ở Nam Ấn th́ 2 bộ kinh đó là do Long Trí giao cho Ngài,mà Long-Trí là đệ tử của Long-Thọ. Đó là điều mà Phi Tích đă nói trong lời Bi-kư của ông đối với Bất-Không Kim-Cang, trong tiểu sử của Ngài Bất-Không, phần hành trạng cũng nói như thế, và Tổng mục Tam Tạng thời Tcheng Yuan cũng vậy. Các tài liệu ấy có một giá trị lịch sử ngang bằng với giá trị của tập “Kim Cang Đảnh Nghĩa Quyết”. Nhưng cái Tháp sắt là ǵ?. Từ nhiều thế kỷ nay, kẻ th́ nghĩ rằng đó là một cái tháp thật, người th́ cho nó là một cái tháp lư tưởng.

Hoằng Pháp Đại Sư nói: “Cái Tháp ấy không phải là một tác phẩm của năng lực loài người. Nó được xây dựng bởi thần lực của Như-Lai”.

Hưng-Giáo Đại-Sư nói: “nếu người ta muốn giải thích nó theo ư nghĩa sâu kín của Mật-Giáo th́ cái Tháp sắt đó chẳng là ǵ khác, ngoài chính Thân của chúng ta. Thật thế, Thân của chúng ta chứa đựng vạn Pháp, nó tập hợp tất cả các dây trói buộc( triền phược). Bởi vậy, tục truyền nói rằng:cái Tháp sắt tượng trưng cho thân thể của tín đồ”.

Người ta thấy rằng kgông có ǵ bắt buộc chúng ta phải h́nh dung cái Tháp sắt như một công tŕnh xây cất thật sự. Bản sớ giải kinh Đại-Nhật không nói về cái Tháp ấy, mà nó nói một cách có ư nghĩa như sau: “tâm bạn là một cái Tháp Phật”. Đứng về phương diện giáo-lư Mật mà nói, th́ không có ǵ chống đối không cho chúng ta nh́n nhận trở lại cái Tháp lớn của Tâm      uyên nguyên, trong cái Tháp sắt ở Nam-Ấn kia, các cửa của nó đă mở ra cho Ngài Long-Thọ.

IV- CÁC BẢN DỊCH BẰNG CHỮ HÁN CỦA KINH ĐẠI NHẬT.

Bản kinh Đại-Nhật, về sau được dịch ra chữ Hán, trước là một trong những thủ bản đă được thu thập tại Ấn-Độ. Người làm việc ấy là Ngài Vô Hành, một tu sĩ Trung Hoa, đă đi sang Ấn dưới đời vua Cao Tông nhà Đường, năm 667. Suốt thời gian trú ngụ tại Ấn, Ngài đă làm vịêc hăng say, và đến năm 674, vào lúc Ngài Sắp trở về Trung Quốc th́ Ngài bị bệnh ở Bắc Ấn và mất tại đó. Các thủ bản do Ngài thu thập được, theo lệnh vua, đều được mang về Tàu và giữ ǵn tại Hoa Nghiêm tự ở Trường An. Ngài Thiện Vô Úy chọn được bản kinh Đại Nhật trong các số thủ bản kia, và tuân sắc lệnh của vua Huyền Tông, Ngài đă dịch bộ kinh ấy, vào các năm 725-735. Tại Đại Phúc Quang Tự ở Lô Giang Ngài Nhất hành đă hợp tác với Ngài trong công cuộc dịch thuộc ấy.

Trong bản tổng mục của Phật giáo, đời vua Khai nguyên, chúng ta đọc: “Xưa, tu sĩ Vô-Hành đi du học ở phương Tây, tại Ấn-độ,   và vị ấy đă báo trước ngày về. nhưng chẳng may, khi đi đến Bắc Ấn th́ Người mất. Vua ban lệnh đi t́m và đem về cho các thủ bản mà Người đă thu thập được, và chúng nó đă được cất giữ tại chùa Hoa-Nghiêm của Tây-đô. Thiện Vô-Úy với sa môn Nhất hành có thể chọn trong các sách kia nhiều thủ bản bằng chữ Phạn, mà hết thảy đều thuộc Mật-giáo và chưa được dịch. Năm 724, Thiện Vô-Úy đi theo phái đoàn của nhà vua, đến lô giang. Ông vào ở chùa Đại Phúc Quang và sau đó ông dịch kinh Đại-Nhật cho sa môn Nhất-hành chép. Bản chữ Phạn của kinh đó chứa 100.000 bài kệ(mỗi bài có 82 chữ). bản dịch hiện tại chỉ là một bản tóm lược của bản kia. Tu sĩ Thiện Vô Úy dịch miệng, tu sĩ Nhất-Hành nhận nghĩa, chép dần bằng bút lông và viết sạch lại các ư kiến với cách diễn đạt chúng nó”.

V. BẢN DỊCH BẰNG CHỮ TÂY TẠNG.
(Chúng tôi không dịch trang này, v́ nội dung chính nó là: đối chiếu số chương mục giữa 2 bản của Tàu và của Tây Tạng, chứ nó không giúp ích ǵ cho sự hiểu niết thêm về nội dung của bản kinh).

Riêng đối với bản dịch chữ Hán th́,như chúng ta đă biết(xem chương V phần dẫn nhập), việc sớ giải nó chia làm 2 loại:

·     Loại I là: “Đại-Nhật Kinh Sớ” của Đông-Mật dùng.
·     Loại II là: “Đại-Nhật Kinh Nghĩa Thích” của Thai Mật dùng.

Bộ này do 2 tu sĩ Ôn-Cổ và Trí-Nghiễm sắp xếp thành 14 quyển, th́ phẩm nào thuộc quyển nào?. Sẳn có tài liệu bằng chữ Hán, chúng tôi xin liệt kê ra đây để sang phần IV, chúng ta tiện theo dơi, không cần phải có bản đối chiếu giữa bản dịch của Tàu với bản dịch của Tây-tạng.

Đây chính là chỗ dụng của Chương này đối với Phần IV sau:



Sửa lại bởi phapvan05 : 06 January 2006 lúc 8:38am


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 26 of 52: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 8:45am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

Phần này liệt kê các Phẩm: mục lục(lược) để sau cùng.

Sửa lại bởi phapvan05 : 06 January 2006 lúc 8:47am


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 27 of 52: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 8:49am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

VI. NHÂN VẬT ĐƯỢC COI NHƯ TUYÊN THUYẾT KINH ĐẠI NHẬT.
          
Trong giáo-lư Đại-thừa,người ta phân biệt 3 Thân Phật

Hóa-Thân là Đức Phật thuộc lịch sử đă sống cách đây khoảng 2.500 năm, ở Magadha, tại Ấn-Độ. Lúc 35 tuổi, Ngài đă chứng đạo, và trong 45 năm, Ngài đă nói pháp cứu độ quần chúng, đến 80 tuổi Ngài nhập Niết bàn. Ngài làm lợi lạc cho phàm phu, Thanh Văn, Duyên giác, Bích-Chi-Phật, của Tiểu-thừa, và chư Bồ-tát của Đại-thừa.

Báo-thân là Thân được lư-tưởng-hóa của Đức Phật lịch sử, thân này vô biên và vĩnh cửu. Chính Đức Phật này coi như đă tuyên thuyết Nhất thừa giáo, tŕnh bày trong kinh Pháp-Hoa và kinh Hoa-Nghiêm.

Pháp thân là đồng nhất với thực tại, không có chỗ bắt đầu, không có ngày chấm dứt.

Xét về phương diện tḥi gian th́ Hóa-Thân là Thân biến hóa, Thân của Đức Phật lịch sử. Thân này có ngày bắt đầu và ngày chấm dứt ( hữu thủy hữu chung ). Báo-thân là Thân của Đức Phật đạt được, xem như thành-quả của bao nhiêu công đức trước của Ngài. Thân này có ngày bắt đầu mà không có ngày chấm dứt ( hữu thủy vô chung ). C̣n Pháp-Thân là Thân Vô thủy, Vô Chung.

Theo giáo lư của Hiển giáo th́ Pháp-Thân, hay nói một cách khác là thực tại của Đức Phật vĩnh cửu và vô điều kiện, không có nói Pháp. Nhưng, theo giáo lư Mật-giáo th́ chính Pháp-Thân, có h́nh tướng và hành động, có thuyết pháp. Hoằng-Pháp Đại-sư, trong tập ( Biện hiển mật nhị giáo luận ) của ông, ông nhấn mạnh chỗ khác như sau : “ Hiển giáo, ông nói, th́ do Báo-Thân và Hóa-Thân thuyết giảng. Mật-giáo th́ do Pháp-Thân giảng dạy”. Kế đó, ông tŕnh bày các điểm khác nhau chính yếu giữa hai giáo lư. Bản thuyết tŕnh của ông có thể tóm lược như sau. Hiến-giáo là một tập hợp những giáo lư nói ra, do Đức Thích-Ca thuyết tŕnh, nhằm mục đích cải hóa chúng sanh, như người ta cho những món thuốc khác nhau đối với những bệnh nhân khác nhau. Có thể nói đó là phương tiện, không chứa đựng những tư tưởng sâu sắc của Như-Lai. V́ lư do đó người ta gọi nó là “Tư tưởng đi theo chúng sanh”

Mật-giáo ngược lại là điều Bí-Mật thực sự của Như-Lai. Chính Pháp-Thân của Như-Lai Tỳ-Lô Giá-Na tự hiện thực điều Bí-Mật ấy, và dạy nó cho quyến thuộc, lưu xuất từ Tự-Thân của Ngài, để làm cho quyến thuộc tham dự vào niềm vui mà chính Ngài đă hưởng thụ. Giáolư ấy thuộc phạm trù riêng của các Đức Phật mà thôi, nên không cần thiết để cho những phương tiện can dự vào. V́ thế, người ta gọi giáo lư đó là giáo lư của “Tư tưởng Tự tùy”, nghĩa là nó chỉ phù hợp với tư tưởng của chính Đức Phật mà thôi. Về điểm này, trong tập “Biện Hiển Mật nhị giáo luận” có nói, ThânTự thọ-dụng và Báo thân của chư Phật, v́ muốn tự hưởng thụ niềm vui của Pháp, nên mỗi vị, nói với quyến thuộc của ḿnh thuyết minh Tam mật ( thân khẩu ư đồng nhất )

Đó là cái người ta gọi là giáo lư Bí-mật, và Tam Mật là điều mà người ta gọi là phạm trù thấy biệt do chư Như-Lai hiện thực ở Nội Tâm. Bồ-Tát ở 10 Địa và chư vị Đẳng Giác, c̣n không thể vào trong pḥng của điều Bí-mật ấy, huống là Phàm Phu, Nhị Thừa, Thanh Vân, Duyên Giác và Bích Chi Phật mà có thể đến lâu đài ấy sao?

Trong bản văn này, danh từ “ Thân Phật tự thọ dụng” thuộc về Lư-Pháp-Thân của Đức Tỳ-Lô Giá-Na, nói kinh Đại-Nhật, c̣n Báo-thân Phật th́ thuộc Trí Pháp-Thân, nói kinh Kim Can Đảnh. Hai kinh đó là quyền lực thuộc Thánh điển của Mật-giáoChân-ngôn Tông.

Trong các bản sớ giải kinh Đại-Nhật, có danh từ “ Bạt-Già-Phạm” dược dùng ở đầu kinh, là danh từ dùng để chỉ Pháp-Thân căn bản của Đức Tỳ Lô Giá Na.

Hoằng Pháp Đại Sư, trong “Đại Nhật kinh khai đề” của ông, ông giải thích rằng : “Kinh Đại Nhật là đại Bí Mật của chư Như Lai, là sự kỳ diệu lớn lao của tất cả chúng sanh. Trong Báo Thân của các Ngài, chư Phật ǵn giữ nó không hề giảng nói, chư Như Lai Hoá Thân th́ lặng thinh và không trả lời”.
Các đoạn văn trên chứng tỏ rơ ràng là chính Đức Tỳ Lô Giá Na trong Pháp Thân Tự thọ dụng, đă tuyên thuyết kinh này.

VII.NƠI THUYẾT PHÁP :


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 28 of 52: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 8:54am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

VII. NƠI THUYẾT PHÁP :

     Trong Phật giáo, nói chung, nơi Phật thuyết pháp như người ta đă biết, thường là những địa phương ở trên đất, như núi Linh-thứu, vườn Cấp-cô-độc …….nhưng kinh Đại Nhật th́ theo văn kinh đă nói, Phật nói kinh này tại kinh rộng lớn của Kim Cang Pháp giới, nơi đó Như Lai đă thủ hộ bằng sức gia tŕ của Ngài. Bản Thích nghĩa nói : “ Cung đó là nơi Phật xưa thành Bồ-Đề, đó là Cung Trời Ma-hê-thủ-la”

     Trường phái Chân-ngôn của hai Thánh kinh : kinh Đại Nhật và kinh Kim Cang Đảnh. Nơi nói kinh Kim Cang Đảnh là cung Trời Sắc Cứu Cánh, đó là cung Trời Ma-hê-thủ -la, nó ở trên cùng Cỏi Sắc giới.

     Tuy nhiên, v́ Pháp Thân của Đức Tỳ Lô Giá Na hiện hữu ở khắp nơi, cho nên không tránh được là Đức Tỳ Lô Giá na ở cùng khắp, chứ không phải ở cùng nơi riêng biệt. Đó là ư kiến của bản Luận giải muốn nói : “ Trong Tông phái hiện nay, người ta hiểu rằng, đó là chỗ trụ sứ của Tâm Phật, có thần lực gia truyền, và v́ lư do đó nên người ta gọi nó là vương cung. Cho dù Như Lai thị hiện ở nơi nào chăng nữa th́ các nơi đó cũng có thể chỉ là Cung này, và nó không phải chỉ ở trên 3 cơi ( dục giới, sắc giới, vô sắc giới ) mà thôi”.

     Hơn nữa, bản Thích luận giải thích ư nghĩa Mật của Cung Kim Cang Pháp giới như sau : “ Pháp giới là Trí Thân Kim Cang rộng lớn, là cái mà người ta gọi là Thân Chơn Trí của Như Lai. Nhờ hiệu lực của sức gia tŕ của Ngài nên cung ấy được trang nghiêm bằng những công đức chơn báu. Người ta gọi nó là cung v́ đó là chổ trụ sứ siêu việt, và là thủ đô của Tâm Vương”.

     Do đó,chúng ta phải hiểu rằng : Như Lai đă tuyên thuyết kinh này, khi Ngài đang ở trong Trí Thân Chơn thực của Ngài.

     Hơn nữa, người ta thường gọi chỗ ngồi của Như Lai là “ Ṭa Sư Tử”, bởi v́ khi Đức Phật chiến thắng 96 loại Ngoại đạo, người ta gọi Ngài là “ Sư tử giữa loài Người”. Nhưng Thích Luận c̣n cho chúng ta một lối giải thích khác. Theo sự hiểu biết của tông phái hiện tại th́ Sư Tử là tâm Bồ Đề dũng mănh. Từ khi tâm ấy khởi nguyện muốn thành Phật, nó đạt được được sự dũng cảm lớn lao, sự can đảm khác thường, nó không biết sợ, hoàn toàn giống tâm địa của một con sư tử, khi nó bắt đầu được mồi , th́ không bao giờ nó thả ra. Vậy “ Toà Sư Tử” có ư nghĩa là Đức Phật thành tựu sự cứu khổ cho Nhân loại một cách cao cả, chứ không bao giờ sự nghiệp của Ngài là vô bổ.

      Như vậy, giáo lư Mật Tông đề xuất, ở mỗi chi tiết, mỗi trường hợp, một sự thông hiểu thuộc phạm vi Trí tuệ.

VIII. THỜI GIAN THUYẾT PHÁP



__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
Quan Tri Vien 3
Quản trị
Quản trị


Đă tham gia: 07 June 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1106
Msg 29 of 52: Đă gửi: 06 January 2006 lúc 7:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn Quan Tri Vien 3

Kính gởi Bác Pháp Vân,

Cháu đă kích hoạt lại account phapvan của Bác rồi . Bác có thể đăng nhập bằng account đó .

Năm mới kính chúc Bác an khang thịnh vượng .


__________________
Kính,
T
Quay trở về đầu Xem Quan Tri Vien 3's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Quan Tri Vien 3
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 30 of 52: Đă gửi: 07 January 2006 lúc 10:33am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

Rất Cảm ơn bạn Quan Tri Vien 3!
Năm mới chúc Bạn cùng gia đ́nh Vạn sự như ư.

__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 31 of 52: Đă gửi: 07 January 2006 lúc 10:36am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

VIII. THỜI GIAN THUYẾT PHÁP

     Pháp-Thân của Đức Như-Lai Tỳ-lô Giá-na hiện hữu ở khắp nơi và vĩnh viễn tồn tại trong 3 đời Quá khứ,Hiện tại, vị lai. Do đó thời gian nói trên vượt quá phạm trù thời hạn ở cơi đời này, và nó có thể được xem là vĩnh cữu, trong Hiệin tại,cũng như ở trong Quá khứ hay trong Tương lai. Vả lại, đối với Pháp giáo về Định thức tam Mật( Thân, Khẩu, Ư B́nh đẳng, đồng nhất) hiện thực được nhờ sức thần biến gia tŕ của Mặt Trời Như Lai, th́ văn kinh Đại Nhật xem Pháp giáo ấy như là “siêu việt” đối với 3 dạng thức của thời gian.

     Bản Thích Luận định nghĩa như sau về Mặt Trời của Như Lai: “ Trong thế giới này, thời gian được chia ra làm Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. Có đủ cách đo thời gian, tính kiếp khác nhau, hoặc dài hoặc ngắn. Thí dụ, khi Mặt trời đi ṿng khắp 4 châu thiên hạ, th́ ngày và đêm điều có phần đầu, phần giữa và phần sau cho đến trong 30 thời, hoặc là những thời hạn khác, th́ ranh giới của chúng nó không được xác định ở một chỗ nào, chúng nó nối tiếp nhau, theo đuổi nhau. Người ta xem xét các điều đó với đôi mắt thanh tịnh th́ các dấu hiệu riêng của 3 dạng thức thời gian được coi như không hoàn toàn quan niệm được. Không có chỗ chấm dứt, không có chỗ bắt đầu, chẳng có Quá khứ hay Tương lai, cũng chẵng có đến, đi, đây là Thực tướng của ngày, của mặt trời tṛn sáng, thường trụ, trong suốt và yên tịnh như Hư-Không.

     Các sự khác nhau về độ dài, ngắn của sự phân định thời gian, không có trước thực trạng đó. Đức Phật dùng thần lực của Ngài, làm cho người thực hành Du già nhận thấy một kiếp dài vô hạn giống như một chốc lát, hay một chốc lát thành một kiếp dài vô hạn. Các thời gian đó tự do rút lại hay kéo dài ra để thích nghi với các sự thiết yếu của tất cả chúng sanh. Bởi nó bất định, nên người ta gọi là ngày hay Mặt trời (*) của Như Lai.

   (*) Chữ Nhật nghĩa là ngày, cũng có nghĩa là Mặt trời. Ngày không có hạn định thời gian tức là chỉ sự soi sáng của Mặt trời vậy.

     Kinh c̣n nói : “tất cả các hành vi của Thân Đại-Nhật, tất cả hành vi của Ngữ, tất cả các hành vi của Ư Ngài, đều là lời nói Pháp về những định thức theo đạo Chân-ngôn, ở mọi nơi , và vào mọi lúc, trong Thế giới chúng sanh”.

     Như vậy, Pháp thân của Đức Tỳ Lô Giá Na th́ vĩnh viễn bận nói Pháp, nhưng chúng ta không thấy Ngài, chúng ta không nghe Ngài, cũng như giữa ban ngày mà người đui không thấy ǵ cả, và sấm động mà người điếc không nghe, cũng như chúng ta có thể thấy rơ khuôn mặt của chúng ta trong làn nước tịnh, mà không thấy nó trong làn nước xao động. Như vậy, chúng ta thấy được Pháp-Thân Phật và nghe được lời nói Pháp của Ngài, rơ ràng hay kém rơ ràng là do Tâm của chúng ta Thanh tịnh, hay kém Thanh tịnh.

IX. Ư NGHĨA CỦA DANH HIỆU ĐẠI TỲ LÔ GIÁ NA :

     Đại Nhật là chữ dịch của Đại Tỳ Lô Giá Na là vị Đại Giác Ngộ. Về việc gọi tên này, Bản Thích Luận nói danh hiệu ấy luôn có 3 ư nghĩa :

1.     Đức Đại Tỳ Lô Giá Na dẹp bỏ tối tăm, và chiếu sáng khắp nơi ( Trừ ám, biến minh).

2.     Ngài làm tṛn tất cả các chức năng ( chúng vụ thành biện ).

3.     Ngài chiếu sáng vĩnh cửu ( Quang vô sanh diệt ).

Bản Thích Luận nói : trong tiếng Phạn, chữ Tỳ Lô Giá Na là một trong các tên của Mặt Trời. Thật thế, Mặt trời xua đuổi tối tăm và gieo rắc ánh sáng khắp nơi. Tuy nhiên, Mặt trời của thế gian bị hạn chế, và nếu nó có thể chiếu sáng bên ngoài, nó lại không thể chiếu sáng bên trong, nó chiếu sáng bên này, không chiếu sáng được bên kia. Hơn nữa nó sáng chói ban ngày, không chói sáng ban đêm. Ánh sáng Trí tuệ của Như Lai th́ không có như thế, nó lan tràn khắp nơi và tạo ra một sức sáng phổ quát. Bên trong cũng như bên ngoài, ở khắp mọi nơi, ngày cũng như đêm, nó không đổi khác. Hơn nữa, khi Mặt trời đi qua cỏi Nam diêm Phù đề th́ cây cỏ, bụi rừng có thể phát triển theo Tự Tánh của chúng nó, và chính nhờ Mặt trời mà mọi chức năng của thế giới có thể được thành tựu. Cũng như thế, sự tỏa sáng của Mặt trời Như Lai chiếu khắp Pháp giới, làm cho vô lượng vô biên chúng sanh tạo ra mọi giống căn lành b́nh đẳng; và không có cái ǵ tốt đẹp ở Thế gian và ngoài Thế gian này được thành tựu mà không có sự tỏa sáng ấy. Lại, như lúc trời đất tối tăm, mây che nhiều lớp, mặt trời ẩn mất, nhưng chẳng hoại diệt; gió mạnh, mây tan, mặt trời hiện ra, cũng không phải mới hiện. Mặt trời của Tâm Phật, lại cũng như vậy. Tuy bị Hư Luận, Phiền Năo, Vô Minh, như mây che nhiều lớp, nhưng không v́ đó mà sức sáng của nó sút giảm. Khi chúng được thực tướng cứu cánh của các Pháp th́ Huệ Nhật của Tâm vẫn tṛn sáng không ngằn mé, nhưng cũng chẳng tăng thêm. V́ các nhân duyên trên, nên dùng mặt trời của thế gian để dụ với mặt trời của Tâm Phật, th́ chẳng đủ ư nghĩa, mà chỉ lấy được một phần nào tương tự thôi. Bởi thế, người ta thêm tĩnh tự Đại là lớn, tức thành “Đại Tỳ Lô Giá Na” ( hay Đại Nhật ) vậy.
     

Về một phương diện khác, cái ư nghĩa thứ nhất của danh hiệu Đại Tỳ Lô Giá Na, chính là sự Vô biên của Trí sáng Như Lai. Cái ư nghĩa thứ hai, là sự vô tận của ḷng Đại-bi của Ngài, cái ư nghĩa thứ ba, là sự Bất biến và sự thường hằng của bản tín Ngài. Hoặc nữa, ư căn bản được giải thích trong kinh, chính là chúng ta phải hiểu có sự đồng nhất giữa ta với Đức Đại Nhật.

     Về phương diện này th́ 3 ư nghĩa của danh hiệu Đại Tỳ Lô giá Na, chính là để phân biệt 3 công năng của tâm Bồ Đề Thanh tịnh đang có trong chúng ta.

* Công năng thứ nhất là : Tâm Bồ Đề Thanh tịnh đập tan mọi Phiền năo của Vô Minh.
* Công năng thứ hai là : nó làm cho quả Bồ đề chín mùi.
* Công năng thứ ba là : nó vẫn bất biến, cho dù nó bị Phiền năo bao phủ ở cơi đời này, nơi mà chúng ta đang sống lang thang.

Ba ư nghĩa này của danh hiệu Đại Nhật tóm tắt mọi điều trọng yếu của Giáo lư Chân ngôn Tông.


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 32 of 52: Đă gửi: 07 January 2006 lúc 10:39am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

X. TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỨC THÍCH CA VÀ ĐỨC ĐẠI NHẬT :

     Khi b́nh luận các giáo lư của Đạo Phật, Hoằng Pháp Đại Sư đă xoay chung quanh vấn đề phân biệt Hiển giáo với Mật giáo, mà Đức Phật đại diện là Phật Thích Ca và Phật Đại Nhật. Hiển nhiên rằng đạo Phật là Pháp giáo của Đức Thích Ca. C̣n Mật giáo, nếu nó không phải là Giáo lư của Đức Thích Ca th́ nó không phải là của Phật giáo. Nhưng trong thực tế, chúng ta tin rằng không những Mật giáo đúng đắn là của đạo Phật, mà nó chiếm một vị trí hoàn toàn cao siêu, trong toàn bộ đạo Phật. Vậy th́ tương quan đúng đắn giữa Đức Thích Ca và Đức Đại Nhật là những ǵ?

     Hăy nói ngay lời kết luận của chúng ta. Trong ( Phó Pháp truyện )của Hoằng Pháp Đại Sư, chúng tá đọc : “ Ba Thân Pháp, Báo,Hóa, là các dụng khác nhau của chung một Thể” . Vậy, Đức Thích Ca Mâu Ni trong Hóa Thân và Đức Tỳ Lô Giá Na trong Pháp Thân là đồng nhất. Đức Tỳ Lô Giá Na không thể hiện hữu mà không có Đức Thích Ca Mâu Ni.

Chúng ta có thể nghiêm chiêm ngưỡng Đức Thích Ca Mâu Ni về hai phương diện. Với tư cách là nhân vật lịch sử, hay với tư cách là đấng Giác ngộ, Ngài là một con người, Ngài đă đạt được sự chứng ngộ, nhờ sự tin tưởng của Ngài đối với Chân-lư của Đạo Pháp. Đạo pháp ấy, Ngài đă hiểu rơ khi ngồi ở gốc cây Bồ-Đề, v́ nó là thực tại tuyệt đối ( Chân như ), hiện hữu bất biến cao siêu, ở ngoài Tâm Bồ Đề của Đức Thích Ca Mâu Ni.

     Đây là lối diễn tả theo lối phân biệt của người thế tục, là các điều mà Đức Đại Nhật đă diễn đạt trong các từ ngữ sau đây : “ các Pháp vẫn luôn luôn như vậy ( NHƯ THỊ ), theo Tánh loại của chúng sanh là pháp ( PHÁP NHĨ ), cho dù Như Lai có xuất hiện, hay không xuất hiện ra nơi đời”.

     Pháp Thân là thân của pháp, của thực tại vĩnh cửu, mà Đức Thích Ca Mâu Ni đă bắt gặp, khi Ngài Chứng ngộ. Để giải thích cái thân ấy của Pháp theo Mật Giáo, người ta nêu 3 định mức :

1.     Chính là sự Giác ngộ của chư Phật, vị này làm cho vị kia giác ngộ, việc này là riêng của chư Phật ( biết với nhau ) : ai chưa là Phật th́ chưa biết được.

2.     Thân của Pháp đă là vĩnh cửu, th́ chính Đức Tỳ Lô Giá Na vĩnh cửu, đă tuyên thuyết Pháp này.

3.     Theo kinh Đại Nhật và kinh Kim Cang Đảnh th́ sự nói Pháp đă được kư thác trong “ bản vĩnh cửu tồn tại theo tánh loại là Pháp”. ( Pháp Nhĩ thường hằng chi bổn ).

     * Nói gọn lại là Đức Đại Tỳ Lô Giá Na là Đức Phật lịch sử đă được lư tưởng hóa thành Pháp Thân “ Bất Sinh Bất Diệt”.

Phần thứ hai :
DịCH PHẩM I KINH ĐẠI NHẬT


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 33 of 52: Đă gửi: 10 January 2006 lúc 5:26am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Phần thứ hai :
DỊCH PHẨM I KINH ĐẠI NHẬT

“Đại Tỳ Lơ Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Kinh”





Phẩm I : NHẬP MƠN CHÂN NGƠN, TRỤ TÂM.
     
Tơi nghe như vầy : một thời Đức Bạt Già Phạm trụ tại cung Pháp giới Kim Cang rộng lớn của Như Lai gia tŕ. Tất cà các vị tŕ Kim Cang đều hội họp đơng đủ. Như Lai tín giải du hư thần biến, sanh lầu các lớn làm bằng bửu vương, cao khơng cĩ bờ giữa, được trang hồng bằng những đại-diệu bửu vương, cĩ Thân Bồ Tát làm Tịa Sư Tử

Tên Kim Cang của Chư vị là :
           Hư Khơng Vơ Cấu Chấp Kim Cang.
           Hư Khơng Du Bộ Chấp Kim Cang.
           Hư Khơng Sanh Chấp Kim Cang.
           Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang.
Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang.
Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng Chấp Kim Cang.
Ai Mẫn Vơ Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang.
Na La Diên Lực Chấp Kim Cang.
Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang.
Diệu Chấp Kim Cang.
Thắng Tấn Chấp Kim Cang.
Vơ Cấu Chấp Kim Cang.
Nhẫn Tấn Chấp Kim Cang.
Như Lai Giáp Chấp Kim cang.
Như Lai Cứu Sanh Chấp Kim Cang.
Trụ Vơ Hư Luận Chấp Kim Cang.
Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang.
Vơ Cấu Nhăn Chấp Kim Cang.
Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ.

Chư Vị Thượng thủ như thế, với chúng Tŕ Kim Cang nhiều bằng số bụi nhỏ của 10 cơi Phật cùng hội họp với Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ tát, Diệu Kiết Tường Bồ Tát, Trừ Nhất thiết Cái Chướng Bồ Tát …….., chư Đại Bồ Tát như thế vây quang sau trước Đức Phật để nghe diễn nĩi Pháp. Pháp ấy là Ngày gia tŕ vượt quá 3 thời của Như Lai, gọi là Pháp mơn “ Thân Ngữ Ư B́nh Đẳng Cú”

Lúc bấy giờ, nhờ sức gia tŕ của Đức Tỳ Lơ Giá Na Như Lai mà Bồ Tát Phổ Hiền làm Thượng thủ, như Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ làm Thượng Thủ, Phấn Tấn Thị Hiện Thân trang nghiêm tạng vơ tận, phấn tấn thị hiện Ngữ, Ư B́nh đẳng trang nghiêm tạng vơ tận. Như vậy, chẳng phải từ Thân Phật Tỳ Lơ Giá Na, hoặc Ngữ, hoặc Ư sanh, tất cả các chỗ sanh khởi đều mất, các bờ mé đều khơng thể được, thế mà tất cả Thân nghiệp, tất cả Ngữ nghiệp, tất cả Ư nghiệp, tất cả Xứ, tất cả Thời, đối vĩi giới Hữu t́nh, Đức Tỳ Lơ Giá Na đều diễn nĩi Cú pháp đạo Chân ngơn, lại thị hiện h́nh tượng dung mạo của các Bồ Tát Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ …. phổ biến khắp 10 phương, diễn nĩi Cú pháp Thanh tịnh, đạo Chân ngơn. Từ lúc mới phát Tâm cho đến 10 Địa, thứ lớp đời này đầy đủ, Nghiệp duyên sanh thêm lớn, Chủng tử Nghiệp thọ của các loại Hữu t́nh được diệt trừ, lại cĩ mầm giống sanh khởi.

Bấy giờ, Ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đang ngồi giữa chúng hội, bạch Phật rằng : “ Bạch Thế Tơn ! Sao gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, được Nhất thiết Trí Trí ? Được cái Nhất thiết Trí Trí ấy, v́ vơ lượng chúng sanh chia bày rộng nĩi tùy theo các loại thú, các loại tính dục, các loại đạo phương tiện; diễn nĩi Nhất thiết Trí Trí, hoặc nĩi thừa Thanh văn, hoặc nĩi thừa Duyên giác, hoặc nĩi Đại thừa, hoặc nĩi 5 thơng trí, hoặc nguyện sanh lê các cơi Trời, hoặc sanh vào Nhân gian, và các lồi Rồng, Dạ xoa, Càn Thát Bà, cho đến nĩi Pháp, sanh Ma Hầu La Già. Nếu cĩ chúng sanh muốn được Phật độ, liền hiện Thân Phật, hoặc hiện Thân Thanh văn, hoặc hiện Thân Duyên giác, hoặc Thân Bồ Tát, hoặc Thân Phạm Thiên, hoặc Thân Tỳ Sa Mơn, Na La Diên, cho đến Thân Ma Hầu La Già, Thân Người hay chẳng phải Người ……; đối với mỗi một trụ ở các uy nghi khác nhau mà nghe đồng một ngơn âm, như vậy là Nhất Thiết Trí Trí chỉ nĩi cĩ một vị, đĩ là vị giải thốt của Như Lai.

Bạch Thế Tơn ! Giống như Hư khơng ĺa tất cả các phân biệt và khơng phân biệt; như vậy Nhất Thiết Trí Trí cũng ĺa tất cà các phân biệt, khơng phân biệt và khơng khơng phân biệt.

Bạch Thế Tơn ! Thí như đại địa là chỗ dựa nhờ của chúng sanh th́ Nhất Thiết Trí Trí cũng như vậy, đĩ là chỗ dựa nhờ của Trời, Người, A Tu La.
Bạch Thế Tơn ! Ví như lửa thiêu đốt tất cả các cây củi mà khơng chán đủ th́ Nhất Thiết Trí Trí cũng như thế, nĩ thiêu đốt tất cả củi vơ trí mà khơng chán đủ.

Bạch Thế Tơn ! Thí như giĩ trừ tất cả các bụi bặm, th́ cũng như thế Nhất Thiết Trí Trí trừ khử tất cả các bụi phiền nảo.

Bạch Thế Tơn ! Dụ như nước là chỗ vui chơi của tất cả chúng sanh, th́ Nhất Thiết Trí Trí cũng như thế : nĩ làm lợi lạc cho chư Thiên và Người đời.

Bạch Thế Tơn ! Trí tuệ như thế, lấy ǵ làm nhân ? cái ǵ làm căn ( gốc rể ) . Cái ǵ cứu cánh ?

Đức Phật Tỳ Lơ Giá Na phán với Ngài Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ rằng : “ Lành thay, lành thay Chấp Kim Cang. Lành thay, Kim Cang Chủ. Ngươi hỏi ta các ư nghĩa như thế, th́ hăy lắng nghe. Ngươi khởi ư rất lành ! Nay ta nĩi điều ấy”.

Ngài Kim Cang Thủ thưa rằng : “ Bạch Thế Tơn ! Con nguyện muốn vui nghe”.

Đức Phật liển nĩi : “ Tâm Bồ Đề làm Nhân, lịng Bi làm gốc rể, Phương tiện làm Cứu Cánh”.

Bí Mật Chủ, Bồ Đề là thế nào ?

-     Là biết Tự tâm như thật.

Bí Mật Chủ ! A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vơ Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ) Pháp ấy, cho đến một chút ít, cũng khơng cĩ ǵ để được tại sao?

- Tại v́ Tướng Hư khơng là Bồ Đề, khơng cĩ người tỉnh biết, cũng khơng cĩ sự mở biết tại sao ?. Tại v́ Bồ Đề khơng cĩ Tướng. Bí Mật Chủ ! Các Pháp khơng Tướng, là Tướng Hư khơng.

Bấy giờ, Ngài Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng : “ Bạch Thế Tơn ! Ai t́m cầu Nhất Thiết Trí ? Ai v́ Bồ Đề thành Bậc Chánh Giác ? Ai phát khởi cái Nhất Thiết Trí ấy ?”.

Phật dạy : Bí Mật Chủ ! Tự Tâm t́m cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí tại sao ? Tại v́ bổn tánh Thanh tịnh. Tâm chẳng tại trong, chẳng tại ngồi, chẳng ở khoảng giữa. Tâm chẳng cĩ thể được ( Bất Khả Đắc ). Bí mật chủ ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng phải Xanh, chẳng phải Vàng, chẳng phải Đỏ, chẳng phải Trắng, chẳng phải Hồng, Tía , chẳng phải Sắc Nước trong, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng trịn, chẳng vuơng, chẳng sáng,chẳng tối, chẳng phải Nam,chẳng phải Nữ,chẳng phải chẳng Nam, Nữ. Bí Mật Chủ! Tâm chẳng phải đồng tánh với cơi Dục, chẳng phải đồng tánh với cơi Sắc, chẳng phải đồng tánh với cơi Vơ Sắc, chẳng phải Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càng Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, chẳng phải đồng tánh với Người, Phi Nhơn, các Thú. Bí mật Chủ! Tâm chẳng trú Nhăn giới, chẳng trú Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư giới, chẳng phải Kiến ( thấy), chẳng phải hiển hiện tại sao?. tại v́ Tướng Tâm Hư Khơng, ĺa các sự phân biệt, khơng phân biệt. Sở dĩ như vậy là tại làm sao? Đồng tánh Hư Khơng tức đồng tánh với Tâm, đồng tánh với Tâm, tức đồng với Bồ Đề. Tâm, Hư Khơng giới với Bồ Đề là 3 mĩn khơng hai. 3 mĩn ấy lấy Bi làm gốc rễ, phương tiện Ba La Mật đầy đủ. Bởi vậy, này Bí Mật Chủ! Ta nĩi các Pháp như thế, khiến cho chúng Bồ Tát các ơng, Tâm Bồ Đề Thanh Tịnh hiểu biết Tự Tâm. Bí Mật Chủ tính loại Nam, tính loại Nữ, muốn hiểu biết Bồ Đề, hăy nên hiểu Tự Tâm như thế.

Bí Mật Chủ! Biết Tự Tâm là thế nào?. – Là biết rằng, nếu chia cắt, hoặc hiển Sắc, hoặc h́nh Sắc, hoặc Cảnh giới nếu là Sắc, nếu là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; nếu là Ngă, Ngă- sở; nếu là Năng-chấp, Sở-chấp; nếu là Thanh tịnh, nếu là giới, nếu là Xứ, cho đến trong tất cả các phần đoạn, cầu chẳng cĩ thể cĩ được.

Bí mật Chủ! Mơn “ Bồ Tát Tịnh Bồ Đề Tâm” này gọi là Sơ Pháp minh đạo. Bồ Tát Trụ ở đĩ là tu học th́ chẳng phải siêng năng, cực khổ lâu dài mà liền được Tam Muội “ Trừ tất cả chướng ngại ngăn che”. Nếu được Tam Muội ấy, ắt cùng với chư Phật và Bồ Tát được “Đồng Đẳng Trú”, sẽ phát hiện 5 mĩn Thần Thơng, được Vơ lượng Ngơn ngữ âm Đa La Ni, biết hành trạng của tâm chúng sanh, được chư Phật hộ tŕ, tuy ở nơi sanh tử mà khơng bị đắm nhiễm, v́ Pháp giới chúng sanh mà chẳng từ bỏ cơng lao cực nhọc để thành tựu trụ với vơ vi, thơng đạt Chánh kiến, xa ĺa Tà kiến.

Lại nữa, Bí mật chủ! Bồ Tát trụ Tam Muội “ trừ tất cả các Chướng” này, nhờ sức tin hiểu, chẳng phải siêng tu lâu dài mà đầy đủ tất cả Phật Pháp. Bí mật chủ lấy cốt yếu mà nĩi th́ người Thiện Nam. kẻ Thiện Nữ như thế, thành tựu được vơ lương cơng đức.
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 34 of 52: Đă gửi: 10 January 2006 lúc 5:27am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Bấy giờ, Ngài Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng kệ hỏi Phật như vầy.

XinĐức Thế Tôn nói         &nb sp;     Sao tâm Bồ Đề sanh?
Dựa vào H́nh Tướng nào         &nb sp;     Biết phát tâm Bồ Đề?
Nguyện thức Tâm,Tâm thắng        & nbsp; Nói Trí tự nhiên sanh
Đại cần Dũng, bao nhiêu         & nbsp;     Thứ lớp Tâm nối sanh
Các Tướng Tâm và Thời        &n bsp;      Nguyện Phật giảng nói rộng.
Công đức tu cũng vậy        &nb sp;      Và các Hành thu hành
Các loại Tâm sai khác         &n bsp;     Chỉ Đại Mâu Ni nói.

Nghe hỏi như vậy rồi, Đức Đại Tỳ Lô Giá Na bèn phán với ngài Kim Cang Thủ rằng: “ Lành thay! Chân Tử Phật! Tâm lợi ích rộng lớn. Câu Đại Thừa Thắng thượng Đại Bí Mật của Phật, ngoại đạo chẳng thể biết. Nay ta mở bày hết, nên một ḷng lắng nghe. Vượt 160 Tâm sanh công đức rộng lớn. Tánh nó thường kiên cố biết Bồ Đề sanh. Vô lượng Hư Không, chẳng nhiễm ô, thường trụ. Các Pháp chẳng lay động, xưa nay lặng, Vô Tướng, Vô lượng Trí thành tựu, Chánh đẳng giáo hiển bày”. Tu hành hạnh cúng dường sơ phát tâm từ đó.

Bí Mật Chủ! Phàm phu Ngu đồng, sống chết từ vô thỉ, đắm Chấp Ngă danh, Ngă hữu, phân biệt vô lượng Ngă phần. Bí Mật Chủ, nếu họ chẳng quan sát Tự Tánh của bản Ngă, ắt sanh ra cái Ngă, và Ngă Sở ( Ta và cái của Ta), lại chấp có Thời, Địa… biến hoá; chấp Ngă Du già, Kiến Lập Tịnh, chẳng Kiến Lập không Tịnh, hoặc Chấp cái Ngă Tự tại thiên, cái Ngă lưu xuất; và Thời, cái Ngă tôn quư, cái Ngă tự nhiên, cái Ngă nội tại, cái Ngă nhơn lượng, cái Ngă biến Nghiêm, cái Ngă thọ mạng, Cái Ngă bổ đặc già la ( thường trụ), Ngă là cái thức, là A lại da, là cái Biết, cái Thấy, là Năng chấp,Sở chấp, Nội tri, Ngoại tri, Xả đát phạm, Ư sanh, (Người sanh), Ngu đồng(Thắng ngă), thường định sanh, tiếng, chẳng phải tiếng … Bí mật chủ ! Loại phàm phu Ngu đồng giống như con dê đực ; lúc đang mê hoặc bổng có một niệm tưởng sanh ra cái gọi là “ăn chay” ; họ tư duy một phần ít tưởng ấy, khởi tâm hoang hỉ, rồi nhiều phen tu tập ( theo niệm tưởng ấy ). Bí mật chủ ! Đó là Chủng tử của thiện nghiệp phát sanh lúc ban đầu.

Lại, lấy đó làm Nhân, trong 6 ngày ăn chay, đem thức ăn bố thí cho cha mẹ, thân thích nam nữ : đó là mầm giống thứ 2.

Nhân sự bố thí ấy, lại đem cho những kẻ mà ḿnh biết rơ là chẳng thân thích ǵ : đó là bào chủng thứ 3.

Lại nhân sự bố thí ấy mà đem dâng cho Người có đạo đức cao, khí lượng lớn : đó là giống lá thứ 4.

Lại nhân sự bố thí ấy mà đem cho chư vị biết kỷ nhạc …. Dân hiến cho bậc tôn đức : đó là hoa nở thứ 5.

Lại nhân sự bố thí kia, mà khởi ḷng thân yêu nuôi dưỡng họ : đó là thành quả thứ 6.

Lại nữa Bí mật chủ ! Dùng cái tâm sanh tử, lưu chuyển nơi xứ sở của bạn lành, được nghe nói những điều lành : đó là cỏi Trời Đại thiên ban cho tất cả các điều vui sướng.

Nếu tâm cúng dường trở thành vững chắc th́ tất cả sở nguyện đều được thỏa măn : đó là các cỏi Trời Tự Tại, Trời Phạm Thiên, Trời Na La Diên, Trời Thương Yết La, các cỏi Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn, ….. và câu Phệ Lạm ( La ), Tỳ Sa Môn. Thích ca, Tỳ Lâu Lặc Soa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diêm Ma, Diêm Ma La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đắc ( Đức ) Xoa Ca Long, Ḥa Tu Kiết, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà, các Rồng hoặc Thiên Tiên, Đại Vi Đà Luận Sư, mỗi mỗi đều nên khéo cúng dường. Họ nghe nói như thế Tâm sanh mừng rở, ân cần cung kính, tùy thuận tu hành. Bí mật chủ ! Đó là chổ dựa Vô úy của Dị sanh ngu đồng, c̣n phải sanh tử lưu chuyển, đó là Tâm anh đồng thứ 8.

Bí mật chủ ! Lại nữa, hạnh thù thắng là tùy theo trong chỗ người ta mà biết chỗ trụ thù thắng để cầu sanh Tuệ giải thoát, nghĩa là họ nói : “ Thường, Vô Thường, Không” chỉ là chỉ tùy thuận theo đó mà thôi.

Bí mật chủ ! Chẳng phải họ hiểu biết rơ ràng cái Không, cái Chẳng Không, cái Thường, cái Đoạn. Chẳng Có, chẳng Không, điều do họ phân biệt, không phân biệt mà nói. Phân biệt cái Không là như thế náo ?. Họ chẳng biết các nghĩa không, chẳng phải là họ có thể biết niết bàn. Bởi vậy, nên biết rơ nghĩa “ Không” ĺa cả Đoạn, Thường. Bấy giờ, Ngàu Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng : “ chúng con chỉ nguyện xin Đức Thế Tôn nói rơ các thứ tâm của chúng sanh”
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 35 of 52: Đă gửi: 10 January 2006 lúc 5:30am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Nghe hỏi như vậy rồi, Đức Phật bèn phán với Ngài Kim Cang Thủ rằng : “ Bí mật chủ hăy lắng nghe các Tướng của Tâm. Đó là Tâm Tham, Tâm không Tham, Tâm Sân, Tâm Từ, Tâm Si, Tâm Trí, Tâm Quyết Định, Tâm Nghi, Tâm Tối, Tâm Sáng, Tâm chứa Nhóm, Tâm Tranh hơn thua, Tâm ưa Kiện căi, Tâm không Kiện căi, Tâm Trời, tâm A Tu La, Tâm Rồng, Tâm Người, Tâm Người Nữ, tâm Tự Tại, Tâm Thương Nhơn, Tâm Nông Phu, Tâm Sông, Tâm Ao chứa, tâm Giếng, Tâm Thủ Hộ ( Che Giữ ). Tâm Keo Kiệt, Tâm Chồn, Tâm Chó, Tâm Ca Lâu La, Tâm Chuột, Tâm Ca Ngâm, Tâm Nhảy Múa, Tâm Đánh Trống, Tâm Nhà ở, Tâm Sư Tử, Tâm Cú Mèo, Tâm Quạ, Tâm La Sát, Tâm Châm Chích, Tâm Hang, Tâm Gió, Tâm Nước, Tâm Lửa, Tâm Bùn, Tâm Hiển Sắc, Tâm Ván, Tâm Mê, Tâm Uống Thuốc, Tâm Trói Buộc, Tâm Cùm, Tâm Mây, Tâm Ruộng, Tâm Ruộng Muối, Tâm Dao Cắt, Tâm Di Lê, Tâm Biển Cả, Tâm Không, Tâm Thọ Sanh, Tâm Khỉ Vuợn.

Bí mật chủ !

-     Sao gọi là Tâm Tham ?. Là tùy thuận Pháp Nhiễm.

-     Sao gọi là Tâm Sân ?. Là tùy thuận Pháp Giận.

-     Sao gọi là tâm Từ ?. Là tùy thuận tu hành pháp Từ.

-     Sao gọi là Tâm Si ?. Là tùy thuận tu pháp chẳng Quán.

-     Sao gọi là Tâm Trí ?. Là tùy thuận tu pháp tăng thượng thù thắng.

-     Sao gọi là Tâm Quyết Định ?. Là tôn trọng các điều của giáo lư dạy bảo, theo đúng như thuyết làm.

-     Sao gọi là Tâm Nghi ?. Là thường thân giữ các sự mà chẳng quyết định.

-     Sao gọi là Tâm Tối ?. Là đối Pháp không đáng nghị ngờ lại nghị ngờ.

-     Sao gọi là Tâm Sáng ?. Là đối Pháp không đáng nghi ngờ th́ cứ theo đó mà tu hành chẳng nghi ngờ ǵ.

-     Sao gọi là Tâm Chứa Nhóm ?. Là tâm có Tánh lấy vô lượng làm một.

-     Sao gọi là Tâm Tranh hơn thua ?. Là tâm có Tánh so sánh phải trái với nhau.

-     Sao gọi là Tâm Ưa kiện căi ?. Là tâm tự nó đă sanh ḷng phải trái.

-     Sao gọi là Tâm Không kiện căi ?. Là Tâm xả bỏ mọi điều phải trải.

-     Sao gọi là Tâm Trời ?. Là Tâm nghĩ thế nào đều được thành tựu như thế.

-     Sao gọi là Tâm A Tu La ?. Là Tâm vui sống chốn sanh tử.

-     Sao gọi là Tâm Rồng ?. Là Tâm nhớ nghĩ đến những tài sản rộng lớn.

-     Sao gọi là Tâm Người ?. Là tâm nhớ nghĩ làm lợi cho người khác.

-     Sao gọi là Tâm Người Nữ ?. Là Tâm tùy thuận pháp ham muốn.

-     Sao gọi là Tâm Tự Tại ?. Là tâm tư duy muốn cho ta tất cả đều được như ư.

-     Sao gọi là tâm Thương Nhơn ?. Là tâm thuận tu theo Pháp ban đầu thu góp sau mới phân tách.

-     Sao gọi là Tâm Nông Phu?. Là tâm tuỳ thuận theo cách ban đầu thu rộng nghe, sau mới cầu pháp.

-     Sao gọi là tâm Sông?. Là tâm tuỳ thuận theo pháp dựa vào Nhân hai bên.

-     Sao gọi là Tâm Ao Chứa ?. Là tâm tuỳ thuận pháp khát khao không biết đủ chán.

-     Sao gọi là Tâm Giếng ?. Là tâm tư duy sâu, lại muốn càng thêm sâu.

-     Sao gọi là Tâm thủ hộ ?. Là Tâm chỉ tự cho ḿnh là thật, c̣n các Tâm khác đều chẳng thật.

-     Sao gọi là Tâm keo kiệt ?. Là Tâm tùy thuận pháp vị kỷ ( v́ ḿnh ). Chẳng cho người khác.

-     Sao gọi là Tâm Chồn ?. Là Tâm tùy thuận ta theo pháp tiến lê chầm chậm.

-     Sao gọi là Tâm Chó ?. Là tâm vui đủ với một phần ít đă được.

-     Sao gọi là Tâm Ca lâu la ?. Là Tâm tùy thuận pháp ưa bè đảng vây cánh.

-     Sao gọi là Tâm Chuột ?. Là Tâm tư duy dứt các sự ràng buộc.

-     Sao gọi là Tâm Ca ngâm ?. ( bản chữ Phạn thiếu phần giải thích)

-     Sao gọi là Tâm Nhảy múa ?. Là Tâm muố tu hành như các pháp bay lê cao, hiện các món Thần biến.

-     Sao gọi là Tâm Nhà ở?. Là Tâm thuận thu theo pháp tự hộ thân.

- Sao gọi là Tâm Sư Tử?. Là Tâm tu hành tất cả các pháp không khiếp nhược.

-     Sao gọi là Tâm Cú Mèo?. Là tâm thưởng ngớ chỉ trong đêm tối.

- Sao gọi là Tâm quạ?. Là Tâm nhớ nghĩ đế sự kinh sợ ở khắp mọi nơi

     - Sao gọi là Tâm La Sát?. Là tâm phát khở điều chẳng lành trong các việc làm

-     Sao gọi là tâm Châm Chích?. Là Tâm phá khởi tánh nghĩ xấu, ở khắp mọi nơi.

-     Sao gọi là Tâm Hang?. Là Tâm thuận tu theo pháp muấ rút vào hang.

-     Sao gọi là Tâm gió?. Là tâm có tánh phát khởi ở các xứ.

-     Sao gọi là Tâm Nước?. Là tâm thuận tu tẩy sạch tất cả các pháp chẳng lành

-     Sao gọi là Tâm Lửa?. Là tâm nóng chảy hừng hực.

-     Sao gọi là Tâm Bùn?. (bản chử phạn thiếu phần giải thích).

-     Sao gọi là Tâm hiển-Sắc?. Là tâm giống như tánh các hiển sắc

-     Sao gọi là Tâm Ván?. Là tâm thuận tu theo pháp tuỳ lượng xả bỏ các pháp lành khác.

-     Sao gọi là Tâm Mê?. Lá tâm chấp khác, nghĩ khác.

-     Sao gọi là Tâm Uống Thuốc Độc?. Là tâm thuận tu theo pháp không có phần sanh.

-     Sao gọi là Tâm Trói Buột?. Là tâm có tánh muốn trú nơi ràng buột của bản ngă, ở khắp nơi.

-     Sao gọi là Tâm Cùm?. Là tâm có tánh bắt buộc hai chân phải đứng yên.

-     Sao gọi là Tâm Mây?. Là tâm thường nhớ nghĩ đến sự mưa xuống

-     Sao gọi là Tâm Ruộng?. Là tâm thường lo việc cho bản thân.

-     Sao gọi là Tâm Ruộng Muối?. Là tâm nhớ nghĩ, lại thêm sự nhớ nghĩ.

-     Sao gọi là Tâm Di Lê?. Là tâm thường tư duy, có tánh vươn lên cao.

-     Sao gọi là Tâm Biển Cả?. Là tâm thường thọ dụng tự thân như vậy mà trụ.

-     Sao gọi là Tâm Không?. Là tâm có tánh trước quyết định.

-     Sao gọi là Tâm Thọ Sanh?. Là tâm được sanh đồng tánh với các hành nghiệp đă có tu tập.

-     Sao gọi là Tâm Khỉ Vượn?. ( theo bản phạn thiếu tâm này ).

Bí mật chủ! (Năm tâm phiền năo căn bản: Tham, Sân,Si, Mạn, Nghi) kể tính lại 1,2,3,4,5 lần thành ra phàm có 160 Tâm. Vượt lên trên 3 vọng chấp của thế gian th́ sanh tâm Xuất Thế Gian. Nghĩa là hiểu rơ như thế th́ chỉ có Uẩn Vô Ngă. Nhưng, c̣n phải tu hành Căn, cảnh, Giới phải nhổ gốc Nghiệp, Phiền năo căn bản, Chủng tử vô minh, sanh 12 nhâ duyên, ĺa các Tông kiến lập,… để đến chỗ lặng sâu là chỗ mà tất cả ngoại đạo điều không thể biết được. Trước khi Phật diễn nói, nó xa ĺa tất cả mọi sự sai lầm.

Bí mật chủ! Tâm Xuất Thế gian kia, nó trụ trong Uẩn có Tuệ theo đó sanh ra. Đối với các Uẩn, nếu có phát khởi tâm xa ĺa sự đắm nhiễm th́ các quans át các Uẩn như bọt nước, như bong bóng nổi, như thân cây chuối, như cảnh nước dợn dưới nắng,…Các ảo như vậy để được giải tháo. Có nghĩa là : Uẩn, Xứ, Giới, Năng chấp, Sở chấp đều xa ĺa pháp tánh; như vậy, chứng được sự tịch nhiên giới, gọi là Tâm Xuất Thế gian. Bí mật chủ! Tâm ấy xa ĺa lưới nghịêp phiền năo, tám tâm Thuận, Nghịch, nối tiếp nhau; đó là Hạnh Du kỳ, vượt qua một kiếp.

Lại nữa, Bí mật chủ! Hạng Đại thừa phát Tâm vô duyên thừa, tức là Tánh Pháp Vô Ngă. Tại sao vậy? như sự tích xưa của họ, họ tu hành như thế; họ quan sát Uẩn, A lại da, biết Tự tánh như ảo, như cảnh nước dợn dưới nắng, như tiếng vang, như ṿng tṛn lửa, ( do 1 chấm lửa xoay tṛn) như thành càn thát bà. Bí mật chủ! Họ xả Vô ngă như thế, Tâm chủ Tự tại, biết Tự tâm vốn không sanh. tại sao vậy?, tại v́ ranh giới trước, sau, của Tâm đều không thể (có) được. Như vậy là biết tánh của Tự Tâm, là vượt quá hai kiếp của hạnh Du Kỳ.

Lại nữa, Bí mật chủ! Môn Chân Ngôn của chư vị Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát, qua vô lượng vô số trăm ngh́n câu chi na kiếp, tích tụ Vô lượng công đức trí tuệ, thảy đều thành tựu. Tịnh Tâm Bồ Đề là chổ quy y của trời và người thế gian; nó hơn hẳn bản địa của tất cả Thanh văn, Bích chi Phật. Thích đề hoàn nhân,… gầ gũi, kính lạy Người có Tâm ấy. Tâm đó là Tánh Không, ĺa tất cả Căn, Cảnh, Không, có Tướng, không có cảnh giới, vượt các hư luận, b́nh Đẳng với Hư Không, Vô biên, tất cả phật, Pháp đều dựa vào đó mà nối tiếp sanh, ĺa giới Hữu Vi, Vô Vi, ĺa mọi sự tạo tác, ĺa mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ư, Sanh Tâm hoàn toàn không có Tự Tánh. Bí mật chủ! Hành địa Tín giải quan sát 3 Tâm: Vô lương Tuệ Ba la mật Quán Trí nhiếp Pháp. Địa Tín giải không có đối ( tuyệt đối), không có lượng, chẳng có thể nghĩ bàn; kiến lập 10 tâm sanh Trí Vô Biên. Tất cả các điều mà Ta ( Phật) đă nói, đều dựa vào đó mà được. Bởi thế, bậc Trí giả nên suy tư về địa Tín giải của Nhất Thiết Trí, lái vượt được 1 kiếp, lê trụ ở địa vị ấy. Vậy là được 1 trong 4 phần, khi đă qua địa Tín giải.

Lúc bấy giờ, Ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: “ Bạch Thế Tôn! nguyện cầu Đức Thế Tôn diễn nói Tướng Tâm, Bồ tát được bao nhiêu loại Vô úy xứ? Nghe hỏi như vậy rồi, Đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phán với Ngài Kim Cang Thủ rằng. Hăy lắng nghe! Hăy hết sức khéo nhớ nghĩ! Bí mật chủ! Phàm phu ngu đồng nào tu các nghịêp lành, hại nghiệp chẳng lành, sẽ được Thiện Vô uư. Nên biết Ngă như thật th́ sẽ được Thân Vô Úy . nếu đối với Thủ uẩn, thấy chỗ nhóm họp của chúng nó là Ngă thân, bèn quán các tượng mà tự xă th́ xẽ được Vô Ngă Vô úy. nếu hại Pháp, trụ không duyên th́ sẽ được Pháp Vô Ngă Vô Úy. Nếu trong tất cả các Uẩn, Giớ, Xứ, năng chấp, Sở chấp, Ngă, Thọ mệnh, … và Pháp Vô duyên không, Tự tánh không tánh, mà sanh trí không này, th́ sẽ được Nhất thiết Pháp Tự Tánh b́nh Đẳng Vô úy. (được sự Vô uư giữa tất cả các Pháp tự tánh B́nh đẳng, là không có tánh nào cả).
Bí mật chủ! Nếu như Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát với môn Chân ngôn, mà quan sát sâu 10 câu duyên sanh th́ sẽ thông đạt tác chứng nơi sự thực hành môn chân ngôn. Những ǵ là 10? Đó là như ảo, như dợn nước dưới ánh nắng, Như mộng, như ảnh, như thành Càn thát bà, như tiếng vang, như trăng đáy nước, như bóng nước nỗi, như hoa đốm giữa hư Không, như ṿng tṛn lửa.

Bí mật chủ! Môn chân ngôn của chư bồ tát tu hành Bồ tát nên Quán thế nào? Sao gọi là Ảo?. Là Pháp chú thuật, dùng sức thuốc thành ra có Năng tạo, Sở tạo, các loại sắc tượng, bởi nó lừa gạt con mắt, cho thấy những sự việc chưa từng có: xoay trở sanh ra nhau, đi lại khắp 10 phương. Nhưng sự thật là chúng nó chẳng đi, v́ sao vậy? v́ tánh chúng nó vốn tịnh. Như vậy, Chân ngôn cũng Ảo. Tŕ tụng thành tựu có thể sanh ra tất cả.

- Lại nữa,Bí mật chủ! Dợn nước dưới ánh nắng, tánh nó là không. Nó dựa vào vọng tưởng của Người đời, thành ra có chuyện để đàm luận. Như vậy, tướng Chân ngôn chỉ là giả danh

           - Lại nữa, Bí mật chủ! Như cảnh thấy trong mộng: ban ngày thấy cướp, rồi la hét kinh sợ, chỉ trong chốt lát mà thấy mấy năm dài, những cảnh khác lạ, nhận chịu sướng khổ. Lúc tỉnh dậy hết thải đều không. Nên biết rằng: Hành môn Chân ngôn cũng giống như mộng vậy.

           - Lại nữa, Bí mật chủ! Lấy ảnh làm thí dụ th́ hiểu rơ Chân ngôn có thể phát sanh Tất địa, như mặt soi gương th́ thấy h́nh tượng của mặt. Tất địa của Chân ngôn, nên biết nó cũng như vậy.

- Lại nữa, Bí mật chủ! Lấy thành Càn thát bà làm thí dụ th́ hiểu rơ sự Thành tựu của Cung tất Địa

           - Lại nữa, Bí mật chủ! Lấy tiếng vang làm thí dụ th́ hiểu rơ Âm thanh của Chân ngôn; như duyên vào âm thanh mà có tiếng vang, th́ Chân ngôn kia cũng như bóng trăng vậy; chư vị Tŕ minh nên nói như thế

           - Lại thế, Bí mật chủ! Như khi trời mưa xuống có bóng nước nổi lên. Các loại h́nh biến hoá của Tất Địa Chân ngôn, nên biết: cũng vậy.

-     Lại nữa, bí mật chủ! Như trong Hư không, không có chúng sanh, không có Thọ mạng, tác giả của chúng cũng bất Khả Đắc. Chỉ v́ Tâm mê loạn mà sanh ra các loại vọng kiến như thế.

        - Lại nữa, Bí mật chủ! Ví như lúc lửa sắp tàn, nếu có người cầm một đóm lửa trong tay rồi quơ tṛn như Hư không th́ thấy một ṿng lửa. Bí mật chủ! Nên biết rơ các câu Đại thừa, các câu nói về Tâm, các câu vô Đẳng Đẳng, các câu Tất Định, các câu Chánh Đẳng Giác, các câu Sanh Tâm Đại Thừa có thứ lớp, là như thế đó; khiến sẽ được Pháp tài đầy đủ, sẽ làm xuất sanh các loại Công xảo Đại Trí, biết khắp tất cả Tướng Tâm như thật.



Phần Thứ Ba

PHÂN TÍCH PHẦN GIÁO LƯ TRONG PHẦN I
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 36 of 52: Đă gửi: 12 January 2006 lúc 4:57am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Anh Pháp Vân, ở Msg 33 ở trang trên bị lỗi font nhiều, ví dụ "ô" thành "ơ" và "ó" thành "ĩ" em xin phép sửa lại và đăng lại cho dễ đọc:

Msg 33 of 35: Đă gửi: 10 January 2006 lúc 5:26pm

Phần thứ hai :
DỊCH PHẨM I KINH ĐẠI NHẬT

“Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Kinh”
Phẩm I : NHẬP MÔN CHÂN NGÔN, TRỤ TÂM.


Tôi nghe như vầy : một thời Đức Bạt Già Phạm trụ tại cung Pháp giới Kim Cang rộng lớn của Như Lai gia tŕ. Tất cà các vị tŕ Kim Cang đều hội họp đông đủ. Như Lai tín giải du hư thần biến, sanh lầu các lớn làm bằng bửu vương, cao không có bờ giữa, được trang hoàng bằng những đại-diệu bửu vương, có Thân Bồ Tát làm Tạng Sư Tử

Tên Kim Cang của Chư vị là :
              Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang.
              Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang.
              Hư Không Sanh Chấp Kim Cang.
              Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang.
Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang.
Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng Chấp Kim Cang.
Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang.
Na La Diên Lực Chấp Kim Cang.
Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang.
Diệu Chấp Kim Cang.
Thắng Tấn Chấp Kim Cang.
Vô Cấu Chấp Kim Cang.
Nhẫn Tấn Chấp Kim Cang.
Như Lai Giáp Chấp Kim cang.
Như Lai Cứu Sanh Chấp Kim Cang.
Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang.
Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang.
Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang.
Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ.

Chư Vị Thượng thủ như thế, với chúng Tŕ Kim Cang nhiều bằng số bụi nhỏ của 10 cơi Phật cùng hội họp với Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ tát, Diệu Kiết Tường Bồ Tát, Trừ Nhất thiết Cái Chướng Bồ Tát …….., chư Đại Bồ Tát như thế vây quay sau trước Đức Phật để nghe diễn nói Pháp. Pháp ấy là Ngài gia tŕ vượt quá 3 thời của Như Lai, gọi là Pháp môn “ Thân Ngữ Ư B́nh Đẳng Cú”

Lúc bấy giờ, nhờ sức gia tŕ của Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai mà Bồ Tát Phổ Hiền làm Thượng thủ, như Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ làm Thượng Thủ, Phấn Tấn Thị Hiện Thân trang nghiêm tạng Vô tận, phấn tấn thị hiện Ngữ, Ư B́nh đẳng trang nghiêm tạng Vô tận. Như vậy, chẳng phải từ Thân Phật Tỳ Lô Giá Na, hoặc Ngữ, hoặc Ư sanh, tất cả các chỗ sanh khởi đều mất, các bờ mé đều không thể được, thế mà tất cả Thân nghiệp, tất cả Ngữ nghiệp, tất cả Ư nghiệp, tất cả Xứ, tất cả Thời, đối với giới Hữu t́nh, Đức Tỳ Lô Giá Na đều diễn nói Cú pháp đạo Chân ngôn, lại thị hiện h́nh tượng dung mạo của các Bồ Tát Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ …. phổ biến khắp 10 phương, diễn nói Cú pháp Thanh tịnh, đạo Chân ngôn. Từ lúc mới phát Tâm cho đến 10 Địa, thứ lớp đời này đầy đủ, Nghiệp duyên sanh thêm lớn, Chủng tử Nghiệp thọ của các loại Hữu t́nh được diệt trừ, lại có mầm giống sanh khởi.

Bấy giờ, Ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đang ngồi giữa chúng hội, bạch Phật rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Sao gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, được Nhất thiết Trí Trí ? Được cái Nhất thiết Trí Trí ấy, v́ Vô lượng chúng sanh chia bày rộng nói tùy theo các loại thú, các loại tính dục, các loại đạo phương tiện; diễn nói Nhất thiết Trí Trí, hoặc nói thừa Thanh văn, hoặc nói thừa Duyên giác, hoặc nói Đại thừa, hoặc nói 5 thông trí, hoặc nguyện sanh lên các cơi Trời, hoặc sanh vào Nhân gian, và các loài Rồng, Dạ xoa, Càn Thát Bà, cho đến nói Pháp, sanh Ma Hầu La Già. Nếu có chúng sanh muốn được Phật độ, liền hiện Thân Phật, hoặc hiện Thân Thanh văn, hoặc hiện Thân Duyên giác, hoặc Thân Bồ Tát, hoặc Thân Phạm Thiên, hoặc Thân Tỳ Sa Môn, Na La Diên, cho đến Thân Ma Hầu La Già, Thân Người hay chẳng phải Người ……; đối với mỗi một trụ ở các uy nghi khác nhau mà nghe đồng một ngôn âm, như vậy là Nhất Thiết Trí Trí chỉ nói có một vị, đó là vị giải thoát của Như Lai.

Bạch Thế Tôn ! Giống như Hư không ĺa tất cả các phân biệt và không phân biệt; như vậy Nhất Thiết Trí Trí cũng ĺa tất cà các phân biệt, không phân biệt và không không phân biệt.

Bạch Thế Tôn ! Thí như đại địa là chỗ dựa nhờ của chúng sanh th́ Nhất Thiết Trí Trí cũng như vậy, đó là chỗ dựa nhờ của Trời, Người, A Tu La.
Bạch Thế Tôn ! Ví như lửa thiêu đốt tất cả các cây củi mà không chán đủ th́ Nhất Thiết Trí Trí cũng như thế, nó thiêu đốt tất cả củi Vô trí mà không chán đủ.

Bạch Thế Tôn ! Thí như giải trừ tất cả các bụi bặm, th́ cũng như thế Nhất Thiết Trí Trí trừ khử tất cả các bụi phiền nảo.

Bạch Thế Tôn ! Dụ như nước là chỗ vui chơi của tất cả chúng sanh, th́ Nhất Thiết Trí Trí cũng như thế : nó làm lợi lạc cho chư Thiên và Người đời.

Bạch Thế Tôn ! Trí tuệ như thế, lấy ǵ làm nhân ? cái ǵ làm căn ( gốc rể ) . Cái ǵ cứu cánh ?

Đức Phật Tỳ Lô Giá Na phán với Ngài Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ rằng : “ Lành thay, lành thay Chấp Kim Cang. Lành thay, Kim Cang Chủ. Ngươi hỏi ta các ư nghĩa như thế, th́ hăy lắng nghe. Ngươi khởi ư rất lành ! Nay ta nói điều ấy”.

Ngài Kim Cang Thủ thưa rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Con nguyện muốn vui nghe”.

Đức Phật liển nói : “ Tâm Bồ Đề làm Nhân, ḷng Bi làm gốc rể, Phương tiện làm Cứu Cánh”.

Bí Mật Chủ, Bồ Đề là thế nào ?

-     Là biết Tự tâm như thật.

Bí Mật Chủ ! A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ) Pháp ấy, cho đến một chút ít, cũng không có ǵ để được tại sao?

- Tại v́ Tướng Hư không là Bồ Đề, không có người tỉnh biết, cũng không có sự mở biết tại sao ?. Tại v́ Bồ Đề không có Tướng. Bí Mật Chủ ! Các Pháp không Tướng, là Tướng Hư không.

Bấy giờ, Ngài Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Ai t́m cầu Nhất Thiết Trí ? Ai v́ Bồ Đề thành Bậc Chánh Giác ? Ai phát khởi cái Nhất Thiết Trí ấy ?”.

Phật dạy : Bí Mật Chủ ! Tự Tâm t́m cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí tại sao ? Tại v́ bổn tánh Thanh tịnh. Tâm chẳng tại trong, chẳng tại ngồi, chẳng ở khoảng giữa. Tâm chẳng có thể được ( Bất Khả Đắc ). Bí mật chủ ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng phải Xanh, chẳng phải Vàng, chẳng phải Đỏ, chẳng phải Trắng, chẳng phải Hồng, Tía , chẳng phải Sắc Nước trong, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tṛn, chẳng vuông, chẳng sáng,chẳng tối, chẳng phải Nam,chẳng phải Nữ,chẳng phải chẳng Nam, Nữ. Bí Mật Chủ! Tâm chẳng phải đồng tánh với cơi Dục, chẳng phải đồng tánh với cơi Sắc, chẳng phải đồng tánh với cơi Vô Sắc, chẳng phải Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càng Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, chẳng phải đồng tánh với Người, Phi Nhơn, các Thú. Bí mật Chủ! Tâm chẳng trú Nhăn giới, chẳng trú Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư giới, chẳng phải Kiến ( thấy), chẳng phải hiển hiện tại sao?. tại v́ Tướng Tâm Hư Không, ĺa các sự phân biệt, không phân biệt. Sở dĩ như vậy là tại làm sao? Đồng tánh Hư Không tức đồng tánh với Tâm, đồng tánh với Tâm, tức đồng với Bồ Đề. Tâm, Hư Không giới với Bồ Đề là 3 món không hai. 3 món ấy lấy Bi làm gốc rễ, phương tiện Ba La Mật đầy đủ. Bởi vậy, này Bí Mật Chủ! Ta nói các Pháp như thế, khiến cho chúng Bồ Tát các ông, Tâm Bồ Đề Thanh Tịnh hiểu biết Tự Tâm. Bí Mật Chủ tính loại Nam, tính loại Nữ, muốn hiểu biết Bồ Đề, hăy nên hiểu Tự Tâm như thế.

Bí Mật Chủ! Biết Tự Tâm là thế nào?. – Là biết rằng, nếu chia cắt, hoặc hiển Sắc, hoặc h́nh Sắc, hoặc Cảnh giới nếu là Sắc, nếu là Thọ, Tưởng, Hành, Thức; nếu là Ngă, Ngă- sở; nếu là Năng-chấp, Sở-chấp; nếu là Thanh tịnh, nếu là giới, nếu là Xứ, cho đến trong tất cả các phần đoạn, cầu chẳng có thể có được.

Bí mật Chủ! Môn “ Bồ Tát Tịnh Bồ Đề Tâm” này gọi là Sơ Pháp minh đạo. Bồ Tát Trụ ở đó là tu học th́ chẳng phải siêng năng, cực khổ lâu dài mà liền được Tam Muội “ Trừ tất cả chướng ngại ngăn che”. Nếu được Tam Muội ấy, ắt cùng với chư Phật và Bồ Tát được “Đồng Đẳng Trú”, sẽ phát hiện 5 món Thần Thông, được Vô lượng Ngôn ngữ âm Đa La Ni, biết hành trạng của tâm chúng sanh, được chư Phật hộ tŕ, tuy ở nơi sanh tử mà không bị đắm nhiễm, v́ Pháp giới chúng sanh mà chẳng từ bỏ công lao cực nhọc để thành tựu trụ với Vô vi, thông đạt Chánh kiến, xa ĺa Tà kiến.

Lại nữa, Bí mật chủ! Bồ Tát trụ Tam Muội “ trừ tất cả các Chướng” này, nhờ sức tin hiểu, chẳng phải siêng tu lâu dài mà đầy đủ tất cả Phật Pháp. Bí mật chủ lấy cốt yếu mà nói th́ người Thiện Nam. kẻ Thiện Nữ như thế, thành tựu được Vô lượng công đức.

Anh PhapVan em xin phép được đăng lại bài này ở 1 box khác: KINH ĐẠI NHẬT

Sửa lại bởi QuangQuy : 13 January 2006 lúc 2:28am
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 37 of 52: Đă gửi: 15 January 2006 lúc 8:15am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

QuangQuy thân mến,

Anh cảm ơn em đă sửa lại!- Em đăng lại ở 1 box khác đi, nhưng nếu em ghi: KINH ĐẠI NHẬT th́ lại không đúng với tựa đề của quyển sách “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật”, v́ chỉ có phẩm 1 là dịch đủ c̣n các phẩm khác chỉ giới thiệu tượng trưng. Để anh biếu em KINH ĐẠI NHẬT khi đó th́ em mới đủ. Em nên lấy tên là "Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật" cho đúng nguyên bản.
Chúc em an vui, tự tại!
PhapVan    
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 38 of 52: Đă gửi: 15 January 2006 lúc 8:36am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Phần Thứ Ba

PHÂN TÍCH PHẦN GIÁO LƯ TRONG PHẦN I



    I. ĐỀ MỤC CỦA PHẨM I.

     Bản thích luận nói: “ Nhập môn Chân ngôn trụ Tâm”, theo bản chữ Phạn th́ có 2 đề mục:

·     Một là hạnh tu Chân ngôn

·     Hai là Nhập môn Chân ngôn, Trụ tâm.

Nhưng thiết nghĩ rằng: Nghiă “Nhập, trụ” đă bao hàm nghĩa “ Tu Hạnh” cho nên bỏ bớt đề mục thứ nhất, cho bớt phiền phức.

Kế đó Bản Thích Luận giải nghĩa thành ngữ Chân ngôn như sau: “ Chữ Phạn ( Mạn Đát La) là chân ngữ, Như ngữ, tức nghĩa Âm chẳng đối, chẳng khác, đó là lời Chân-thực hay Chân-ngôn”. Chân ngôn là một trong Tam Mật của Pháp Thân Đức Tỳ Lô Giá Na, mỗi một của 3 Mật nhất thiết phải đi theo 2 Mật kia.

Bản Thích Luận giải thích Tam Mật như sau: “ Nhập môn Chân ngôn lược có 3 sự: (1) là Thân mật, (2) là Ngữ mật, (3) là Tâm mật”. Hành giả dùng 3 phương tiện đó để tự tịnh 3 nghiệp (Thân nghiệp, Ngữ nghiệp, Ư nghiệp), nhận được sức gia tŕ tam mật của Như Lai, cho đến có thể trong đời này, đầy đủ 10 Địa Ba La Mật, chẳng cần phải trải qua nhiều kiếp tu đủ các hạnh đối trị”.

Từ phẩm thứ hai trở đi, kinh tŕnh bày cách thức dùng tam mật để làm nẩy nở các công đức và Nhất thiết Trí Trí, Vô Sinh, đang ở trong Ta, trong mọi lúc. C̣n phẩm hiện tiền được coi như là một bản tóm lược mở đầu của giáo lư ấy Phẩm này tổng luận Đại ư của kinh.

Ư nói: Tự tâm của chúng sanh, tức là Nhất thiết Trí Trí ( cái Trí của tất cả các Trí). Người biết tất cả hoàn toàn phù hợp với thực tại, được gọi là Nhất thiết trí. Chính trong ư nghĩa này, mà ở đây, người ta dạy cho chư Bồ Tát cách thức làm thế nào vào môn Chân ngôn để tạo ra được Tâm Bồ Đề trong tự Tâm. Chính trong Tâm họ có đủ Vạn Hạnh. Họ thấy trong Tâm họ thực trạng Đại Niết bàn, họ tạo ra trong Tâm họ các phương tịên cứu độ chúng sanh, họ làm cho Thanh tịnh và Trang nghiêm “Phật quốc” trong Tâm họ. Từ Nhân đến quả, đề dùng cái gọi là “ không có chỗ trụ mà trụ tâm”. Cho nên nói rằng: “Đây là Phẩm nhập môn Chân ngôn, trụ Tâm”.

II. PHÂN TÍCH TỔNG QUÁT TOÀN PHẨM

Đức Đại Tỳ Lô Gía Na, trong cung Kim Cang Pháp Gíơi, có vô số Quyến thuộc vây quanh, Ngài thuyết giảng cho họ nghe, măi măi trong ba thời, cái Pháp B́nh Đẳng của tam Mật.

Người ta phân biệt Nội quyến thuộc với Đại quyến thuộc. Nội quyến thuộc tượng trưng cho các công đức của Như Lai Trí, Đại quyến thuộc đại diện cho các công năng của Đức Từ Bi cải hoá chúng sanh.

Trong kinh, Nôi quyến thuộc gồm có 19 vị Chấp kim Cang. Một trong các vị này tóm thâu nơi Ngài ngôi vị của tất cả các vị khác, đó là Ngài Kim Cang Thủ. Ngài chủ tŕ Tam Mật siêu nhiên và kỳ diệu của Đức Đại Tỳ Lô Giá Na, cho nên Ngài được gọi là Bí mật chủ. Với tư cách là đại diện cho chúng sanh, chính Ngài đă liên tục hỏi Phật.

C̣n Đại quyến thuộc th́ có 4 Bồ tát làm đại diện, đó là các Ngài Phổ Hiền, Từ Thị, Diệu Kiết Tường và Trừ Nhất Thiết cái chướng Bồ Tát. Riêng biệt th́ Ngài Phổ Hiền đại diện cho tính phổ quát của Tâm Bồ Đề; Ngài Từ Thị đại diện cho Khoa nói Pháp, Ngài Trừ Nhất Thiết Cái chướng đại diện cho Công năng diệt trừ tất cả các Chướng ngại.

Thời nói Pháp hướng về chủ đề nào?. Trong kinh, vấn đề đă đặt ra là sự B́nh Đẳng của Thân, Ngữ, Ư. Về chủ đề này, Bản Thích Luận có nói: “ Ba hành vi của Như Lai, bất kỳ thuộc về loại nào, chúng nó đếu có mục đích là biểu hiện rơ cái thực tại đứng đầu và cùng cực. Đó là Thân tương đương với Ngữ, Ngữ tương đương với Ư. Nó giống như Đại dương trải rộng khắp nơi, vẫn có chung một vị mặn như nhau… Sức gia tŕ của Tam Mật Thân, Ngữ, Ư là cửa vào. Người ta có thể nói rằng sự B́nh Đẳng của Thân và Mật ấn, Sự b́nh đẳng của Ngữ là Mật chú, sự b́nh đẳng của Ư là sự Quán tưởng. Tam mật là phương tiện để đạt đến sự thấy rơ Báo thân gia tŕ. Mà Báo thân gia tŕ đó là Thân hiện hữu cùng khắp của Đức Tỳ Lô Giá Na, và Thân hiện hữu cùng khắp đó chẳng là ǵ khác, ngoài cái Trí Thân B́nh đẳng của hành giả. Bởi vậy, Người ngự trong thừa này, đi mà không đi, đến mà không đến, đó là định thức, được gọi là B́nh đẳng, nhưng tất cả những ai đă thâm nhập Nó th́ không có thâm nhập, cũng không bị thâm nhập. V́ vậy, người ta gọi nó là B́nh đẳng. Giáo lư về sự B́nh đẳng là ư chính của kinh này”.

Nội dung của Phẩm này có thể phân tích như sau:
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 39 of 52: Đă gửi: 17 January 2006 lúc 2:46am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Nội dung của Phẩm này có thể phân tích như sau:

     1.Ba Đinh Thức: Giải thích sự tiến bộ của hành giả, từ khi phát Tâm Bồ Đề đến lúc thành Phật, có thể so sánh với

2/ Bồ-Đề và Nhất-Thiết Trí Trí : Định nghĩa Bồ-Đề và Tâm Bồ-Đề là hai thực thể đồng nhất với Nhất-thiết Trí Trí.

     3/ Cửu Cú (9 câu) : Là một sự Tế-phân (chia nhỏ) Tam Cú.

     4/ Tam Thập Chủng Ngoại-Đạo (Ngoại đạo có 30 loại) : Để xác định cách thức làm nẩy nở Tâm Bồ-Đề, bằng sự thấy rơ các lỗi lầm của Ngoại đạo, trong vấn đề Chấp Ngă, phá sự Chấp Ngă làm ngăn trở việc nẩy nở đó.

     5/ Tám Tâm nối tiếp nhau (Bát Tâm Tương Tục) : Giải thích cách thức kẻ phàm phu ngu-đồng (ngu dại như trẻ thơ) bắt đầu làm việc lành, trên b́nh diện thế nhân, rồi nhờ sự tin tưởng vào Chư Thiên mà đánh thức tinh thần Tôn-giáo.

     Các giai đoạn phát triển đức tin được so sánh với sự tăng trưởng của thực vật, từ lúc hạt giống nẩy mầm đến khi kết thành quả tốt, được đem dùng. Tám Tâm đó là :

-     Tâm ăn chay, được so sánh với hạt giống tốt.
-     Tâm bố thí cho người thân được so sánh với giống nẩy mầm.
-     Tâm bố thí cho người chẳng thân
-     Tâm dâng cho người có đức được so sánh với giống lá.
-     Tâm hiến cho các bậc tôn túc được so sánh với hoa nở.
-     Tâm nuôi dưỡng họ được so sánh với thành quả.
-     Tâm giữ giới được so sánh với Chủng-tử được thọ dụng
-     Tâm cúng dường vững chắc được so sánh với Tâm anh đồng.

6/ Sáu mươi Tâm : Là những Tâm tốt mà c̣n nhiều phàm tánh, nó phát triển dần dần, nhưng không ngừng bị khuấy động bởi những ư niệm có thể sai lạc chiều hướng phát triển đúng. V́ vậy, phải tự xét biết để xả bỏ các tâm niệm quấy đó. Văn kinh kể rơ 60 Tâm đó.

7/ Ba kiếp : Nhờ loại bỏ mọi lỗi lầm Thế-gian trở thành Xuất Thế-gian, Tâm vào Phật-giáo bằng đường lối Tiểu-Thừa. Từ đó, nó qua Đại-Thừa Hiển giáo, và sau cùng nó thâm nhập Mật giáo.

8/ Mười Địa : Kể các giai đoạn mà người hành tŕ Chân-ngôn phải vượt qua.

9/ Sáu Vô-Úy : Nhờ tập theo Tam Mật, người hành Chân ngôn dần dần theo dơi được sự phát triển Tâm Bồ-Đề của ḿnh.

10/ Mười câu Duyên sanh : Các Pháp do Duyên sanh được so sánh với 10 thí dụ là :

1- Như ảo     2- Như dợn nước dưới nắng.
3- Như cảnh mộng.     4- Như ảnh trong gương.
5- Như thành Càn-thát-bà.     6- Như tiếng vang.
7- Như Trăng đáy nước     8- Như bong bóng nước.
9/ Như hoa đốm giữa hư không     10/ Như ṿng tṛn lửa.

Gặp các Pháp do Duyên sanh, đều dùng 10 thí dụ để Quán, nhờ vậy mà chỗ chứng chuyển sâu thêm, Tâm sẽ dần Thanh-tịnh, không bị các Pháp (Duyên sanh) làm cho xao động. (Quan sát 10 thí dụ đó gọi là dùng 10 câu Duyên sanh). Sau đây là những Chương giải thích mấy điểm trọng yếu nói trên.

III. BA ĐỊNH THỨC HAY BA CÂU.

Ngài Kim-Cang Thủ tán thán Trí-Tuệ của Như-Lai, nên hỏi Phật : “ Cái ǵ Cứu cánh của Nhất-thiết Trí Trí ? ”.

Đức Phật đáp : “ Tâm Bồ-Đề là Nhân, Đại-Bi là gốc rễ. Phương tiện cứu độ là Cứu cánh của Nhất-thiết Trí Trí”. Đó là 3 Định thức được nêu ra.

Bản Thích-Luận nói : “ Toàn bộ giáo lư của Phật được tóm tắt trong 3 Định thức ấy”. Và Hoằng-Pháp Đại-Sư trong tập “Hồng tự nghĩa” (Ư nghĩa của Chủng-tử Tự HÙM) của ông, ông cũng tuyên bố rằng : “ Các kinh, nhất là kinh Đại-Nhật và kinh Kim-Cang Đảnh, chẳng dạy điều ǵ khác, ngoài Ba Định-thức, nói Tâm Bố-đề là Nhân, Đại-Bi là Gốc rễ, Phương tiện là Cứu cánh”. Để tóm tắt những ǵ đă được khai triển và qui kết mọi sự phân chia, người ta có thể nói rằng : “ Tất cả các giáo lư chỉ là Ba Định thức kia. Ba Định thức ấy tự chúng nó cô động lại trong vần HÙM… Cả khi có đến hàng ngàn quyển kinh, hàng vạn quyển Luận, cũng không có ǵ ở ngoài Ba Định thức và vần HÙM duy nhất”.

Kinh Đại-Nhật dạy Tâm Bồ-Đề Thanh- tịnh Bất sinh, nơi chúng ta, phải nẩy nở như thế nào, và bằng cách nào, chúng ta có thể đạt được Quả Phật. Pháp giáo ấy được tóm tắt trong Ba Định thức. Bằng cách so sánh, bản Thích-Luận mối tương quan giữa các câu trong 3 Định thức như sau, Tâm Bồ-đề như hạt giống phải nhờ có 4 Đại (đất, nước, gió, lửa), ḷng Đại-Bi như rễ, từ hạt giống nảy sinh, các phương tiện như trái cây là kết quả của sự tiến hóa trong giới thực vật.

Mọi câu chuyện của giáo lư nhà Phật đều nhắm đạt được quả Phật, hay quả Bồ-Đề. Nguồn gốc đầu tiên của quả Bồ-Đề là Tâm Bồ-Đề thanh-tịnh, bất sinh nơi mỗi một chúng ta, và luôn luôn đồng nhất nơi Phật và chúng sanh. Điều khác nhau sâu sắc duy nhất giữa Phật và chúng sanh, đó là Phật đă chứng thực rằng Tâm Bồ-Đề nơi Ngài đă được hiện thực, c̣n chúng ta th́ phải đánh thức cái Tâm ấy nơi chúng ta để được thành Phật. V́ vậy, bản Thích-luận nói : “ Tâm Bồ-Đề là ḷng tin chắc thanh-tịnh trong trắng”.

Nhưng, một khi ḷng tin chắc trong trắng ấy đă được dánh thức, chúng ta c̣n phải củng cố và phát triển Tâm Bồ-Đề của chúng ta, giống như hạt giống cần nước, phân, sự chăm sóc, và ánh sáng mặt trời ,v.v. Để đâm rễ, mọc chồi. Như vây là người ta giải thích đến câu thứ hai của Định thức, bởi lấy ḷng Đại-Bi làm gốc rễ.

Bản Thích-luận xét : Ḷng Đại-bi ở đây có liên quan đến Tâm hồi hướng. Khi hành giả dâng một phẩm vật, như Hương Hoa, hay Tự Xoa với Hương bột th́ chính là với Tâm Bồ-Đề Thanh tịnh hiện hữu ở mười phương, họ ước mong cho các món đó biến thành đám mây hương để cúng dường chư Phật, chính là họ phát Tâm Dại-Bi muốn hồi hướng công đức cúng dường ấy cho tất cả chúng sanh để cho họ thoát khổ, để cho họ được một niềm vui vô tận. Nhờ hiệu lực của Thiện căn, nhờ sức gia tŕ của Như-Lai, và nhờ thường lực của Pháp-giới, tất cả hành vi tốt mà chúng ta có thể làm được, đều qui tụ lại để làm cho chúng sanh làm nấy nở khắp nơi các gốc rễ của Đại-Bi.v.v…

Câu thứ hai của ba Định thức được ứng dụng trong sự thực hành Tam Mật mà mục đích hẳn nhiên là để đạt được quả vị Phật. Nhưng chư Bồ- Tát Đại- Thừa chỉ có thể hiện thực sự giải thoát cho ḿnh bằng cách đảm bảo sự giải thoát cho tất cả chúng sinh, bởi v́ cái Ta ( ở đây) đồng nhất với cái Không Ta, cho nên trong khi ta t́m sự Chứng Ngộ, điều thiết yếu là phải t́m sự thiết yếu cho kẻ khác. Chính cái định thức “ lấy Đại – Bi làm gốc rễ”, muốn nói lên điều đó, cho nên trong thực hành Tam-Mật, mọi ảo tưởng đều bị đẩy xa, để cho tánh Bồ - Đề hiển hiện trong tự thể chơn thật của nó, và đồng thời người ta đang ở trong thực trạng dẫn dắt tất cả chúng sanh đến Quả - Vị - Phật. Chính đó là ư nghĩa của Định thức thứ ba, nói “ phưong tiện giải thoát là cứu cánh”

Bản Thích- luận giải thích Định thức đó như sau: “ Vô số cách thực hành( dẫn đến cứu cánh ) trong sự hoàn măn của chúng nó, khiến Ta không thể thêm ǵ vào đó được nữa, cho phép( chúng ta) hoàn tất mọi công việc một cách trọn vẹn bằng cách tuỳ thuận theo mọi trường hợp của chúng sanh…Quả Nhất - Thiết Trí Trí là từ tất cả các cách thực hành ấy mà ra, chính đó là cái mà người ta gọi là phương tiện”

Như vậy ba định thức kia nhất thiết phải thuộc về sự phát triển Tâm - Bồ Đề thanh - tịnh, bất sinh ở nơi chúng ta. Sự phát triển ấy lại chia làm 5 giai đoạn, tương ứng với 5 Chủng – tử Tự, theo như bản đồ Cổ truyền. Sự Sớ - chú Mật – giáo thiết lập, giữa lược đồ của ba định thức với lược đồ 5 giai đoạn tiến triển Chủng tử Tự A ( gọi A là Tự Ngũ chuyển
), một bản tương ứng như sau:

Ba Định thức       Năm giai đoạn   Chủng Tử tự
Bồ-Đề Tâm(Nhân)     Phát Tâm       A
Đại–Bi(Gốc rễ)      Tu Hành        À
Phương tiện(C.cánh) Bồ-Đề      &n bsp;  Am
                      Niết bàn      Ah
                      Phương tiện    Amh

IV. BỒ ĐỀ VÀ NHẤT THIẾT TRÍ.


Sửa lại bởi phapvan : 17 January 2006 lúc 2:51am
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 40 of 52: Đă gửi: 20 January 2006 lúc 6:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

IV. BỒ ĐỀ VÀ NHẤT THIẾT TRÍ.

Phần 3 định thức gồm có một giai đoạn giải thích Tâm Bồ đề .Một câu hỏi được đặt ra Bồ - Đề là ǵ ? Định nghĩa nó như sao ?

Kính nói : “ Bồ -Đề là thế nào ? – Là biết Tự Tâm như thật ’’

Bản Thích - Luận tân thân câu ấy ,nói : ‘’ Đó là khai thị kho báu công đức của Như Lai”.Pháp cùng cực, rất sâu, tinh tế và vi diệu, mà không ai có thể giải thích đựợc, ngoài bậc có Nhất - thiết Trí, Pháp ấy từ đâu mà được? Tự nơi Tự Tâm của hành giả vậy.

Nếu quan sát đúng đắn Tự Tâm, hành giả có thể chứng nhận nó và nhận ra nó rơ ràng. Làm vậy gọi là hiện thực Bồ - Đề. Bởi v́, thực ra, nó chẳng ở nơi khác, chẳng nhờ người khác mà được. Và nếu người ta hỏi Bồ - Đề chẳng phải là ǵ khác ngoài Tâm của chúng sanh, th́ tại sao, trong ṿng Luân hồi sanh tử, chúng sanh không thể thành Phật được?. Chúng ta đáp rằng: “ Tại v́ họ không biết Tam họ một cách đúng đắn, như thật( Yathàbhùta)”. Kế đó, Kinh giải thích Tánh của Bồ Đề và so sánh nó với Hư – Không.

Kinh nói: Tánh của Bồ - Đề là Tánh của Hư – Không. Nó không có Năng – tri, cũng không có Sở - tri ( người hiểu biết và sự vật đựoc hiểu biết) tại sao?. Tại v́, Bồ - Đề không có Tướng.

Về điều này, Bản Thích – luân nói: “ Ví như Hư – Không cùng khắp nơi, rốt ráo thanh - tịnh, cho nên ĺa hết thảy các Tướng, không động, không phân biệt, chẳng có thể thay đổi, chẳng có thể phá hoại được”. Bởi v́ Tánh của Hư – Không có một phần ít tưong tợ với tánh đức của Tâm Bồ - Đề Vô Tướng. Lại nữa, như Hư – Không xa ĺa các hư luận phân biệt, cho nên không có Tưóng tri giác, không có Tưóng hiểu biết. Bởi vậy, điều quan trọng là phải biết rằng: “ Tâm Bồ - Đề của chư Phật Tự chứng, nó cũng như vậy. chỉ có Tâm Tự chứng Tâm, Tâm Tự giác Tâm, trong đó, không có Pháp Tri giác, không có người tri giác”.

Bản dịch của Tây Tạng diễn đạt các khái - niệm ấy một cách giản dị và rơ ràng: “ Bồ - Đề không tánh với Hư – Không. Trong Bồ - Đề, không hề có chủ thể, hay đối tượng, dưới bất cứ một h́nh thài nào”.

Ngài Kim – Cang Thủ lại hỏi Đức Phật: Ai t́m cầu Nhất - Thiết Trí Trí?. Ai nhờ Bồ - Đề mà thành bậc Chánh - Đẳng Giác?. Ai phát khởi cái nhất - thiết Trí Trí ấy?.

Trong Tâm Bồ - Đề, người ta có thể phân biệt chủ thể tim cầu và một đối tượng bị t́m cầu ( đó là Nhất - Thiết Trí Trí ). Nhưng, theo Mật giáo th́ không có t́nh trang nhị - nguyên như thế. Tâm Bồ Đề th́ Bất sinh nơi mọi chúng sanh, và Nhất - Thiết Trí Trí của Chư Phật th́ vốn thực hoà đồng.

Bản Thích - luận nói: “ Tâm Bồ - Đề chỉ là Nhất - Thiết Trí Trí. Nhất Thiết Trí Trí đúng đắn là Tâm Bồ - Đề th́ trong đó, ai là người Năng - cầu?. Ǵ là chỗ Sở - cầu?. Vả lại ngoài Tâm không hề có Pháp nào? vậy th́ ai có thế phát khởi Tâm Bồ - Đề và làm cho nó đạt đến Quả - vị rốt ráo?”.

Đức Phật đáp rằng: “ Bí - mật-chủ! Tự Tâm t́m cầu Bồ - Đề và Nhất - Thiết Trí Trí tại sao?. Tại v́ Bổn – Tánh thanh- tịnh”.

Về câu trả lời ấy, bản Thích luận nói: “ Tâm chơn thật của tất cả chúnh sanh là Bồ - Đề. Dù có Phật, hay không có phật, nó vẫn luôn Thanh - tịnh và Trang – nghiêm. Nhưng, bởi v́ chúng ta không tự biết ḿnh một cách đúng đắn như thật. Cho nên, do tác dụng của phiền năo chúng ta cảm thấy đau khổ, ê chề. Phải biết rằng, không có Pháp nào ở ngoài Tâm Ta, Hành – nhơn Du – già, hay kẻ quán chân lư của Tam Mật có thể thấy cái trạng thái thực của Tâm. Cái trạng – thái thực của Tâm, chính là Bồ - Đề Vô – Tưóng, người ta cũng gọi nó là Nhất - thiết Trí Trí”.

Kế đó, kinh giải thích cái thực trạng Vô - Tướng của Tâm như sau: “ Tâm chẳng tại 6 Xứ bên trong, chẳng tại ngoài( chúng sanh), chẳng ở khoảng giữa. Như – Lai Ứng Chánh – đẳng Giác chẳng phải Xanh, chẳng phải Vàng, chẳng phải Đỏ, chẳng phải Trắng….Tâm chẳng phải đồng tánh với cơi Dục Tâm, chẳng phải đồng tánh với cơi Sắc chẳng phải đồng tánh với cơi vô Sắc …tại sao? Tại v́ Tướng Tâm Hư – Không, ĺa các sự phân biệt, không phân biệt…Đồng Tành Hư – Không tức đồng tánh với Tâm, tức đồng với Bồ - Đề. Tâm Hư – Không Giới với Bồ - Đề là ba món không hai”.

Nói chung, đoạn trên giải thích Tâm Bồ - Đề, thuộc về định thức thứ nhất “ Tâm Bồ - Đề là Nhân”. Kế đó kinh nói thêm: “ Ba món đó lấy Đại – bi là gốc rễ, Phương tiện Ba – la - mật làm cứu cánh”. Đó là hai Định thức thứ hai và thứ ba. Sau cùng, để kết luận, kinh tiếp tục : “ Bí-mật-chủ ! Ta nói các Pháp như thế, chính là để cho chúng Bố-Tát các ông, nhờ Tâjm Bồ-Đề Thanh-tịnh mà hiểu biết Tự Tâm. Bí-mật-chủ ! Người Thiện Nam, kẻ Thiện Nữ, muốn hiểu biết Bồ-Đềm hăy nên hiểu biết Tự Tâm như thế”.

Khi tuyên thuyế kinh Đại-Nhật, mục đích của Phật là mở cho chúng ta thấy (khai thị) “Sự thật về Tâm”. Thật thế, từ đầu đến cuối, kinh này vẫn giải thích : “ Thế nào là Tâm như thật của tất cả chúng sanh ?”.

V. BA KIẾP
Song song với giáo lư về 3 Định thức, có giáo lư về 3 kiếp cũng là một trong các điều quan trọng nhất của Phẩm I.

Kinh nói: “Bí mật chủ! ( Năm Tâm phiền năo căn bản: Tham, Sân,Si, Mạn, Nghi) kể tính lại 1,2,3,4,5 lần ( nhân 2 lên 5 lần) thành ra phàm phu có 160 tâm. Vượt lên trên 3 từng vọng chấp của thế gian th́ sanh tâm xuất thế gian. Và ở đoạn 1 sau, kinh nói: “ Bí mật chủ! Chính cái Tâm ban đầu ( Sơ tâm) như thế, Phật nói đó là Nhân thành Phật. V́ vậy, đối với nghiệp phiền năo th́ được giải thoát, mà chỗ dựa của phiền năo th́ vẫn đủ, cho nên thế gian phải tôn phụng, thường nên cúng dường”.

Đoạn này chứng tỏ rằng hành nhơn Du – già, khi bỏ các lỗi lầm phải vượt qua 3 giai đoạn : Đây là căn bản của phưong pháp Mật – giáo để mau đựoc thành Phật.

Ba giai đoạn hay 3 A – tăng Kỳ kiếp, có nghĩa là 3 thời kỳ mà người ta không thể đo tính được. Theo Hiển giáo mà giải thích th́ phải vượt qua 3 A- tăng Kỳ kiếp mới thành bậc Chánh giác. Theo Mật giáo th́ một Kỳ kiếp là một từng vọng chấp từ thô, đến tế, rồi đến hết sức vi - tế, là 3 từng. Người ta có thể vượt qua 3 từng vọng chấp đó trong khoảng một niệm, để đạt quả Phật.

Bản Thích - luận nói: Danh từ : “ Tâm xuất thế gian” ứng hợp với Tâm Bồ - Đề của người đă vượt qua 3 từng vọng chấp, làm nảy sinh Tâm xuất Thế - Gian. Người vượt qua qua được 3 kiếp là Người tư hạnh Du – già. Trong tiếp Phạn th́ chữ “ Kiếp ba” có 2 nghĩa : 1 là thời phần, 2 là vọng chấp. Theo ư nghĩa thông thường th́ sau 3 A- tăng Kỳ kiếp mới thành Phật. Nhưng theo sự hiểu biết trong Mật giáo th́ vượt qua một kiếp là tập theo hạnh Du – già để vượt qua 1 từng vọng chấp thô: đó là 160 Tâm và các phiền năo khác: thế là qua A – tăng Kư kiếp thứ nhất. Kế đến, vượt qua một từng vọng chấp Vi - tế, cũng là 160 Tâm…đó là qua A – tăng Kỳ kiếp thứ hai. Bây giờ người tu Hạnh Chân ngôn chỉ c̣n vượt qua từng vọng chấp nữa, gọi là rất Vi - tế, nghĩa là cũng dứt bỏ 160 Tâm với các phiền năo khác th́ có thể đạt đến Sơ Tâm của Trí -Tuệ Phật.

Bởi vậy, người ta có thể nói rằng: Ba A – tăng Kỳ kiếp chẳng là ǵ khác, ngoài sự thành tựu Bồ - Đề. Nếu chỉ trong một đời Người mà vượt được 3 từng vọng chấp th́ bấy giờ, người ta thành Phật chỉ trong một liếp sống thôi, cần ǵ phải biện luận thời gian của một kiếp, theo ư nghĩa thời hạn?

Chú ư nói rằng: Trong tiếng Phạn, chữ “ Kiếp ba” thường không có ư nghĩa là “ Vọng chấp” mà “ Kiếp – ba – na” hay “ pani - kiếp – ba(na) có thể hiểu là “ tưởng tượng sai quấy” ( hay vọng tưởng). Chính là để tổng hợp Hiển - giáo với Mật – giáo mà người luận giải đă suy tưởng ra ư nghĩa của chữ “Kiếp ba” là “ Vọng chấp”: Điều này là một chứng tích bất ngờ, cho ta thấy sự tiến hoá của giáo - lư Mật – Tông tại Trung - Quốc.

Trong bản dịch của Tây - Tạng, chữ “Kiếp ba” được giữ nguyên ư nghĩa của nó : “ Bí - mật - chủ! Đă như vậy rồi th́ gấp đôi lên 1,2,3,4,5 lần ( 5 căn bản phiền năo) th́ có 160 Tâm của Người thế gian, vượt qua 3 kiếp, người ta làm nảy sinh Tâm - Xuất - Thế - gian”

Dù sao đi nữa th́ danh từ “ Ba kiếp” cũng chính là 3 giai đoạn mà người hành Chân Ngôn phải vượt qua, khi họ đẩy xa các Phiền năo đen tối, đă bao phủ và làm cho u ám sự sáng chói của Tâm Bồ - Đề Thanh - tịnh uyên – nguyên. Kiếp thứ nhất, phải chiến thắng các vọng chấp thô làm mờ ám sự sáng chói của Tâm Bồ - Đề thanh - tịnh, khi nó bắt đầu toả sáng. Kiếp thứ hai, phải chiến thắng các vọng chấp tế, c̣n bao phủ Tâm Bồ - Đề khi nó đang nảy nở. Kiếp thứ ba, phải chiến thắng các vọng chấp, thuộc loại rất tinh tế, đang c̣n làm mờ sự sáng chói của Đại – trí trong sự toả sáng trọn vẹn của nó.

Sự phân chia ra 3 kiếp, hiểu như thế, cũng có thể ứng dụng vào 3 giai đoạn của Hiển giáo. Thật vậy, sự vọng chấp thô của kiếp thứ nhất, phải dẹp bỏ với giáo lư Vô Ngă, hay là sự trống rỗng của một cá vị trong Năm Uẩn. Sự vọng chấp tế nhị hơn của kiếp thứ 2, phải được tiêu trừ, với giáo lư về sự trống rỗng không của mọi pháp trong chính năm Uẩn ( v́ các pháp ấy chỉ là sự biến đổi của A - lại –da). Sang kiếp thứ 3 th́ phải bỏ hết mọi vọng chấp về sự tin tưởng có tính lưỡng nguyên giữa Chủ thể với Đối tượng, và cuối cùng là thừa nhận sự rỗng vắng trọn vẹn, sự không có tự tánh của mọi pháp và của chính Tâm Ta.

Căn cứ vào các dữ kiện chứa trong kinh và trong bản Thích - luận, người ta có thể thừa nhận rằng:

-     Kiếp thứ nhất, tương ứng với Giáo lư Tiểu - thừa
-     Kiếp thứ hai, tương ứng với Giáo lư Đại - thừa
-     Kiếp thứ ba, tương ứng với Giáo lư Mật – tông

Nhưng trong bản phân loại giáo lư của Hoằng – Pháp - Đại Sư th́:

-     Kiếp thứ nhất tương ứng với Tiểu - thừa
-     Kiếp thứ hai tương ứng với 3 thừa ( Tiểu, Trung, Đại)
-     Kiếp thứ ba tương ứng với Nhất - thừa, bắt đầu hiểu Mật – giáo.

VI. MƯỜI ĐỊA    
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 

<< Trước Trang of 3 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.8281 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO