Tác giả |
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 21 of 45: Đă gửi: 03 April 2004 lúc 10:17am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi tin chắc rằng dưới sự d́u dắt của một vị sư như Ngài, tôi không thể nào thất bại. Sáng ngày hôm ấy, khi trở về lớp học, tôi làm một người học tṛ rất lăng trí. Tôi để tư tưởng vẫn vơ đâu đâu, và bởi đó vị gia sư lại có dịp thỏa măn cái khuynh hướng sử dụng gậy gộc một cách thẳng tay! Tôi nhận thấy các giáo sư đă tỏ ra nghiêm khắc một cách quá đáng. Nhưng để tự an ủi, tôi nghĩ rằng dầu sao tôi đến đây là để học. Đó là lư do v́ sao tôi đầu thai trở lại, tuy rằng hồi đó tôi không được biết rơ tôi cần phải học lại những ǵ. Ở Tây Tạng, người ta tin tưởng rất mạnh nơi sự luân hồi. Họ tin rằng một người đă đạt tới một tŕnh độ tâm kinh nào đó, có thể chọn lựa sống trên một cơi giới khác, hoặc trở lại thế gian để học hỏi thêm hay để giúp đỡ kẻ khác. Có khi một nhà hiền giả đă hỏi phải thực hiện một sứ mạng nhất định trong đời ḿnh nhưng lại qua đời trước khi hoàn thành sứ mạng. Trong trường hơp đó, người ta tin rằng nhà hiền giả có thể tái sinh trở lại thế gian để hoàn tất công việc đă bỏ dở trong kiếp trước, dưới điều kiện là công việc ấy sẽ hữu ích cho nhân loại. Không mấy ai có thể nhờ người khác truy ra những tiền kiếp của ḿnh, việc ấy đ̣i hỏi một vài ấn chứng, tổn phí nhiều tiền bạc và mất nhiều th́ giờ. Những người nào cũng như trường hợp của tôi có những ấn chứng đó được gọi là những vị "Hóa Thân" (người đă tiến hóa cao, t́nh nguyện đào thai trở lại cơi trần ngay sau khi chết, để thực hiện một sứ mạng tâm linh cao cả). Những vị này hồi c̣n trẻ được dạy dỗ theo một kỷ luật vô cùng khắc khổ, giống như trường hợp của tôi, nhưng về sau đến lúc trưởng thành họ được sự kính trọng của tất cả mọi người. Về phần tôi, người ta sẽ dành cho tôi một sự huấn luyện đặc biệt nhằm tăng cường những kiến thức của tôi về khoa Huyền Môn. Để làm ǵ? Hồi đó, tôi chưa được biết rơ lư do. Những cú roi giáng xuống như mưa làm tôi giật ḿnh, và đưa tôi trở về thực tế. - Thằng ngốc! Đồ gàn! Những ư nghỉ đen tối nào đă lọt vào trong cái sọ dày đặt của mi? May cho mi v́ đă đến giờ dự lễ nếu không, chắc là mi c̣n bị ăn đ̣n! Kèm theo lời mắng mỏ ấy, vị giáo sư thịnh nộ đá vào đít tôi một đá nên thân và bước nhanh ra khỏi lớp học. Một bạn đồng môn của tôi nói: - Bạn đừng quên rằng trưa nay là tới phiên chúng ta phải làm công tác dưới bếp, tôi hy vọng chúng ta có thể vô bao đầy món Tsampa. Công tác làm bếp rất cực nhọc, v́ những vị sư giám thị đối xử với chúng tôi như những kẻ nô lệ. Không có vấn đề nghỉ ngơi sau hai giờ công tác nặng nhọc đó. Làm bếp xong, chúng tôi phải trở lại lớp học ngay. Đôi khi người ta giữ chúng tôi ở lại bếp quá lâu nên chúng tôi đến lớp học trễ giờ. Khi chúng tôi đến nơi th́ vị giáo sư nổi trận lôi đ́nh phân phát cho chúng tôi một loạt những cú roi, gậy như mưa tấc, không để cho chúng tôi có chút mảy may cơ hội để biện hộ cho sự trễ giờ đó! Công tác đầu tiên của tôi trong nhà bếp suưt nữa cũng là công tác cuối cùng. Theo những hành lang lót đá, chúng tôi đi đến nhà bếp... không chút hứng khởi trong ḷng. Một sư săi nét mặt rất cáu kỉnh đứng đợi chúng tôi ở ngoài cửa. Khi vừa thấy chúng tôi đến, y kêu to: - Mau lên, thật là một lũ lười biếng và vô dụng. Mười đứa đầu tiên hăy vô nấu các nồi "Xúp de"! Tôi lọt nhằm số mười, tôi bèn đi cùng với những thiếu sinh khác xuống bếp do một cầu thang nhỏ. Dưới nhà bếp nóng kinh khủng. Trước mặt chúng tôi, những bếp ḷ phát ra những tia lửa đỏ. Nhiên liệu đốt ḷ là phân con Yak phơi khô và ép thành từng bánh tṛn, được chất lên từng đống lớn gần bên các chảo đun. Vị sư săi chỉ huy việc nấu bếp quát lớn: - Hăy vác xuổng lên và xúc phân khô đổ vô ḷ! Tôi chỉ là một đứa trẻ mới lên bảy tuổi lẫn lộn trong đám thiếu sinh mà đứa trẻ nhất cũng không dưới tuổi mười bảy. Tôi chỉ vừa đủ sức giơ cái xuổng lên toan xúc phân cho vào ḷ th́ tôi vô ư thế nào làm lật cái chảo nước đang sôi lên hai bàn chân của vị sư săi. Y thét lên trong cơn thịnh nộ, nắm lấy cổ họng tôi xoay một ṿng... và loạng choạng té ngă. Tôi nhảy ra phía sau, nhưng tôi cảm thấy đau nhói kinh khủng và ngửi thấy mùi da thịt cháy khét. Tôi đă té ngă trên một cây sắt đầu nướng đỏ từ trong bếp ḷ văng ra. Thét lên v́ đau đớn, tôi ngă lăn giữa những tro than cháy âm ỉ. Phần trên đùi bên trái của tôi, gần chỗ xương háng bị cháy đến tận xương, chỗ da thịt bị phỏng ấy đă để lại cho tôi một vết thẹo trắng, mà hiện nay c̣n làm cho tôi khó chịu. Chính vết sẹo ấy về sau đă làm cho người Nhật nh́n ra được tôi Một cơn náo loạn đă diễn ra sau đó. Những sư săi khác từ khắp nơi vội vàng chạy đến. Người ta mau mau đỡ tôi đứng dậy giữa đám tro tàn. Tôi bị những vết phỏng khắp thân ḿnh nhưng nặng nhất là vết thương ở bắp đùi. Người ta mau cơng tôi lên những tầng lầu trên, ở đó, một vị Lạt Ma y sĩ cố gắng chữa trị vết phỏng để cố cứu lấy cái chân tôi. Thỏi sắt nướng đó là một vật dơ bẩn và để dính lại trong vết thương những mạt cưa sắt rỉ sét. Vị y sĩ phải moi trong vết thương để lấy ra những miếng sắt vụn này, cho đến khi vết phỏng được rửa sạch trơn. Kế đó, y sĩ rịt thuốc lên vết thương và băng bó cẩn thận. C̣n những vết phỏng nhẹ ở khắp thân ḿnh th́ y sĩ thoa lên một chất thuốc nước làm bằng chất dược thảo nó làm cho tôi bớt đau rất nhiều. Sự đau đớn, nhức nhối vẫn âm ỉ và tôi tưởng chắc là sẽ không c̣n sử dụng chân trái của tôi được nữa. Khi đă băng bó xong, vị Lạt Ma y sĩ gọi một sư săi khiêng tôi vào một gian pḥng bên cạnh và đặt tôi nằm trên nệm. Một vị sư già bước vào ngồi dưới đất ở bên cạnh giường tôi và bắt đầu đọc kinh cầu nguyện. Tôi thầm nghĩ: "Thật là tốt đẹp thay mà cầu nguyện ơn trên che chở cho tôi sau khi tôi vừa bị một tai nạn!" Sau cái kinh nghiệm bản thân về sự đau đớn cực h́nh này, tôi quyết định sẽ sống một cuộc đời đức hạnh. Tôi nhớ đến một bức tranh vẽ cảnh địa ngục, trong đó một quỷ sứ hành h́nh một nạn nhân bằng cách lấy dùi sắt nhọn nướng đỏ đốt thân h́nh y ở gần chỗ mà tôi bị phỏng. Có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng trái với đều mà họ vẫn tưởng các sư săi là những kẻ ác ôn. Nhưng sư săi là ǵ? Ở xứ Tây Tạng, danh từ đó áp dụng cho mọi người phái nam sống trong một tu viện Lạt Ma Giáo, dẫu cho họ không phải là người tu. Hầu như bất cứ người nào cũng có thể trở nên sư săi. Một trẻ thiếu nhi thường được gởi vào một tu viện để trở nên "Sư săi" mà nó không cần được hỏi ư kiến. Đôi khi, đó là một người trưởng thành đă chán công việc đi chăn cừu và muốn có một mái nhà ấm cúng để đụt sương tuyết khi tiết trời lạnh lẽo sụt xuống đến bốn mươi độ dưới số không. Khi đó, y xin làm sư săi trong tu viện. Không phải v́ lư tưởng tôn giáo mà v́ y muốn tự đảm bảo lấy ít nhiều tiện nghi vật chất. Các tu viện dùng những "Sư săi" đó như những người lao công để làm những công tác xây cất, cày bừa hay quét dọn. Ở những nơi khác th́ những người đó được gọi là nô bộc hay bằng một danh từ tương tự. Phần nhiều những người đó đă sống một cuộc đời rất khổ nhọc: Sống ở những vùng cao nguyên từ ba ngàn đến bảy ngàn thước bề cao, không phải là một cuộc đời dễ chịu. Đối với người Tây Tạng, th́ một "Sư săi" chỉ có nghĩa là một người như mọi người thường. Họ dùng danh từ Trappa để chỉ những người tu sĩ. Những vị Lạt Ma (Lama) là những bậc cao tăng, thuộc một cấp đẳng cao. Đó là những bậc đạo sư, hay tôn sư. Thí dụ như Lạt Ma Minh Gia Đại Đức sẽ là vị tôn sư của tôi, và tôi sẽ là đệ tử của người. Kế đó, ở cấp đẳng cao hơn nữa là những vị sư trưởng. Không phải tất cả những vị này đều đảm trách việc trông coi một tu viện; nhiều vị nắm giữ những chức vụ cao trong chính phủ hoặc đi ta bà từ tu viện này đến tu viện khác. Có đôi khi một vị Lạt Ma lại ở cấp đẳng cao hơn vị sư trưởng; mọi sự đều tùy nơi những hoạt động của người. Những người được coi như là những vị "Hóa Thân" (người ta đă chứng minh rằng đó là trường hợp của tôi) có thể được chỉ định làm chức sư trưởng vào năm mười bốn tuổi, sau khi đă vượt qua một cuộc thi rất khó khăn. Những vị này thường là nghiêm khắc nhưng không hung dữ và không bao giờ bất công. Một thí dụ khác về sư săi là trường hợp các sư săi cảnh binh. Nhiệm vụ duy nhất của họ là duy tŕ trật tự, họ không có phận sự ǵ trong việc tế tự, lễ bái ở các đề chùa, họ chỉ cần có mặt để xem mọi việc có xảy ra đúng theo quy tắc luật lệ không. Họ thường rất hung tợn cũng như phần nhiều các sư săi nô bọc như đă nói ở trên (nhưng không v́ thế mà họ làm giảm uy tín của các tu viện). Người ta không thể lên án một vị giám mục v́ ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm vườn ấy sẽ trở nên một ông thánh chỉ v́ y làm tôi tớ cho một vị giám mục! Trở lại vấn đề tôi bị phỏng lửa khi đi làm công tác dưới bếp. Hiệu lực của chất thuốc vừa tan dần, tôi hồi tỉnh lại và cảm thấy như ḿnh bị lột da. Trong cơn mê sảng tôi tưởng tượng dường như một ngọn đuốc đang cháy được đặt vào một cái lỗ trống trong bắp đùi bên trái của tôi. Thời giờ trôi qua. Tôi lắng nghe những tiếng động trong tu viện: Vài loại âm thanh đă quen thuộc đối với tôi, nhưng có nhiều loại khác mà tôi không nhận ra là những tiếng động ǵ. Toàn thân tôi bị rung chuyển v́ những cơn đau điếng dữ dội. Tôi nằm sấp trên bụng nhưng những vết phỏng cũng lan rộng đến phía trước của thân ḿnh tôi. Tôi nghe một tiếng động nhẹ: Có người đến ngồi gần bên tôi. Một giọng đầy thiện cảm và nhân từ của Minh Gia Đại Đức nói th́ thầm bên tai tôi: - Con hỡi, chắc là con bị đau lắm. Thôi hăy ngủ đi. Vài ngón tay nhẹ nhàng lướt trên lưng tôi dọc theo xương sống, nhẹ lướt thêm nữa và thêm nữa. Thế rồi... tôi mê man ngủ thiếp đi. Một vầng mặt trời êm ấm chiếu rạng ngời trước mặt tôi. Tôi thức dậy và chớp mắt liên hồi. Tư tưởng đầu tiên đến với tôi khi tôi vừa chợt tỉnh là h́nh như có người đá tôi vài đá v́ tôi đă ngủ quá lâu. Tôi định nhảy xuống giường để hối hả đi dự buổi lễ sáng nhưng tôi bèn té ngửa ra sau, khắp ḿnh mẩy đau nhức như rần. Th́ ra đó là cơn mê sảng... Chân trái tôi đau quá. Một giọng dịu hiền ưu ái nói với tôi: - Lâm Bá, con hăy nằm yên. Hôm nay con có thể nghỉ. Tôi quay đầu nh́n lại lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng tôi đang nằm trong pḥng của Minh Gia Đại Đức, c̣n Sư Phụ th́ ngồi gần bên tôi. Người nhận thấy sự ngạc nhiên của tôi và mỉm cười: - Tại sao con ngạc nhiên? Phải chăng là một việc thường t́nh mà hai người bạn ở gần bên nhau khi một người bị đau ốm? Tôi đáp bằng một giọng ră rời mệt mỏi: - Nhưng sư phụ là một vị Lạt Ma cao cả, c̣n con chỉ là một đứa trẻ nhỏ. - Lâm Bá, chúng ta đă cùng nhau đi một đoạn đường rất dài trong những kiếp trước. Hiện giờ con chưa nhớ lại được điều đó nhưng ta nhớ rơ, v́ chúng ta đă sống rất gần bên nhau trong những kiếp vừa qua. C̣n bây giờ con cần phải nghỉ ngơi để lấy lại sức. Chúng ta sẽ điều trị bắp chân con cho mau lành, con đừng lo ǵ cả! Tôi liên tưởng đến cái bánh xe luân hồi sinh tử và nghĩ đến những điều răn trong kinh thánh của xứ tôi: "Người tâm hồn quảng đại sẽ được sống một cuộc đời giàu sang không bao giờ dứt, c̣n kẻ hèn tiển ít róng sẽ không bao giờ được sự ưu ái, từ tâm. Người có quyền thế hăy sống một cách quảng đại với những kẻ khác đến nhờ vả ḿnh. Y hăy nh́n xa để thấy con đường dài của sự luân hồi sinh tử.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 22 of 45: Đă gửi: 04 April 2004 lúc 11:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Sự giàu sang luân chuyển như những bánh xe, nay nó thuộc về người này, mai nó thuộc về người khác. Kẻ hành khất ở kiếp này có thể trở nên một vị vương hầu ở kiếp sau, c̣n vị vương giả ngày nay có thể trở nên kẻ ăn mày trong một tương lai xa gần". Khi đó tôi hiểu một cách chắc chắn không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, mặc dầu trong cơn đau đớn thể xác và mặc dầu tuổi tôi c̣n nhỏ, rằng Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi là một tâm đức và tôi có thể tin tưởng lời giáo huấn của người. Rơ ràng là sư phụ tôi biết rơ rất nhiều điều về tôi, nhiều hơn rất xa những ǵ mà tôi có thể biết được. Tôi rất nóng ḷng muốn làm việc chung với người và tôi quyết định rằng tôi sẽ là một người đệ tử gương mẫu. Tôi cảm thấy một cách rơ rệt rằng giữa chúng tôi có một sự đồng thanh đồng khí rất chặt chẽ và tôi lấy làm cảm kích sự xoay vần của định mệnh nó đă đặt tôi dưới sự hướng dẫn d́u dắt của người. Tôi quay đầu nh́n ra ngoài cửa sổ. Những tấm nệm của tôi đang nằm được đặt trên một cái bàn để cho tôi có thể nh́n thấy bên ngoài. Cảnh vật rất là hùng tráng. Đằng xa, ở bên ngoài những nóc nhà chen chúc nhau phía dưới cửa sổ của tôi, thành phố Lhassa vươn ḿnh dưới ánh nắng mặt trời, với những ngôi nhà nhỏ sơn màu lợt xinh xắn. Trong thung lũng, con sông Kỳ Giang uốn khúc giữa những cánh đồng xanh tươi nhất thế giới. Những dăy núi xa tít chân trời ửng màu đỏ sậm với những đỉnh núi đội tuuết trắng phau. Trên những ngọn núi gần hơn, những vết màu vàng lóng lánh chen chút nhau trên sườn núi, đó là nóc của những tu viện. Bên tay trái, điện Potala nhô lên cao như một ngọn núi biệt lập. Về phía tay mặt, một cụm rừng nhỏ trong đó rải rác những đền chùa và trường học. Đó là địa phạn của vị Thiên Giám Quan, một nhân vật quan trọng mà vai tṛ duy nhất trong đời là tạo nên một nhịp cầu giao cảm giữa cơi trần gian vật chất và cơi giới vô h́nh, và tiên tri điều họa phúc của quốc gia. Dưới mắt tôi, trên sân mặt tiền, những sư săi thuộc các cấp đi qua lại không ngớt. Vài vị trong số đó, những người sư săi lao công, mặc áo màu nâu sậm. Một nhóm thiếu sinh của tu viện ở xa mặc áo trắng. Những sư săi cao cấp cũng có mặt ở đó, đều mặt áo màu đỏ sậm, với mảnh yểm tâm bằng lụa vàng, chỉ rằng họ thuộc thành phần viên chức tối cao của chính phủ. Một vài vị cưỡi ngựa hay cưỡi lừa. Những người thường dân th́ cưỡi ngựa đủ màu c̣n các sư săi bắt buộc phải cưỡi trắng. Tất cả những cảnh tượng đó là cho tôi quên cả hiện tại. Điều làm cho tôi quan tâm hơn hết là làm sao cho chóng b́nh phục để có thể sử dụng hai chân của ḿnh. Ba ngày sau, người ta cho rằng tốt hơn tôi nên ngồi dậyvà thử đi đứng xem sao. Chân trái tôi c̣n cứng đơ và làm cho tôi rất đau đớn. Chỗ vết phỏng đă sưng lên và có mủ v́ những mảnh sắt vụn rĩ sét mà người ta khong thể gắp ra được. V́ tôi không thẻ đi đứng một ḿnh, người ta làm cho tôi một cây nạng gỗ để tôi dùng mà đi một chân, tôi đi nhún nhẩy cũng như con chim bị thương. Toàn thân tôi vẫn c̣n những vết phỏng và những chỗ phồng da nhung chân trái tôi làm cho tôi đau đớn nhiều hơn các chỗ khác.Tôi không thể ngồi được mà phải nằm nghiêng bên mặt hoặc nằm sấp tôi không thể dự các buổi lễ cầu nguyện hay đi đến lớp học nên Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi dạy tôi học tại tư thất từ sáng đến chiều. Người tuyên bố hài ḷng về những kiến thức mà tôi thu thập được trong thời "Niên thiếu" của tôi, người nói: - Nhưng, nhiều điều trong những kiến thức đó chỉ là những kỷ niệm mà con đă mang theo từ những kiếp trước.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 23 of 45: Đă gửi: 08 April 2004 lúc 10:55am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỜI SỐNG TRONG TU VIỆN
Hai tuần lễ trôi qua những vết phỏng của tôi đă gần khỏi. Cái chân tôi c̣n làm cho tôi hơi đau nhưng càng ngày càng bớt dần. Tôi yêu cầu được áp dụng thời khắc biểu như thường lệ v́ tôi thấy cần phải cử động đôi chút. Tôi được phép ngồi tùy ư hoặc nằm sấp trên bụng. Người Tây Tạng ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa, nhưng tôi không thể ngồi như vậy v́ chân tôi c̣n đau. Ngày đầu tiên tôi trở lại lớp học để gặp lại các bạn cũ, th́ có công tác làm bếp vào buổi trưa. Tay cầm một tấm bảng đá tôi có phận sự kiểm điểm những bao lúa mạch nha sấy. Lúa mạch nha được trải lên những tảng đá hâm nóng đến bốc khói: Cái nồi "Xúp de" mà tôi đă làm lật đỗ đến bị phỏng, được đặt ở phía dưới. Khi đă trải đều lúa mạch nha trên những tảng đá, người ta mới đóng cửa và nhóm thiếu sinh chúng tôi đi qua hành lang đến một văn pḥng, tại đây người ta xay giă lúa mạch nha đă sấy xong. Cối xay là một cối đá h́nh ống loa lật ngược, vành tṛn đường kính độ một thước sáu tấc. Ḷng cối xay có chạm khắc những đường lồi lơm để giữ lúa. Một tảng đá vĩ đại cũng h́nh ống loa, nhưng đặc ruột đặt vào ḷng cối để nghiền nát lúa. Tảng đá này được nâng bằng một cái đ̣n tay bằng gỗ mà thời gian đă làm cho trơn bóng, ở hai đầu cái đ̣n tay này có gắn chặt các đ̣n tay nhỏ hơn giống như những cây căm của một bánh xe không có vành. Lúa mạch nha sấy được đổ vào cối đá, rồi các sư săi và những trẻ thiếu nhi mới nắm lấy những cây căm bánh xe để vận chuyển khối tảng đá nặng đến hàng mấy tấn. Khi tảng đá đă xoay ṿng th́ công việc không c̣n nặng nhọc lắmvà chúng tôi cùng cất tiếng hát hợp xướng. Ít nhất tại đây tôi có thể hát mà không bị bắt tại trận! Nhưng làm vận chuyển tảng đá này là cả một công tŕnh khó nhọc. Tất cả mọi người đều phụ giúp một tay trợ lực. Kế đó phải để ư coi chừng nó luân chuyển luôn luôn không lúc nào ngừng. Những số lượng mạch nha sấy được đổ thêm vào cối và lúa sấy xong thoát ra ngoài ở phần dưới cối. Chính thứ lúa xay này được trải một phần nữa lên nhưng tảng đá nóng để sấy lại là chất liệu căn bản để là món Tsampa. Mỗi người chúng tôi đều đem theo trong ḿnh một ít Tsampa đủ ăn trong một tuần hay nói đúng hơn là một số lúa mạch nha đă xay nát và sấy lại. Đến bữa ăn, chúng tôi lấy ra một phần nhỏ đựng sẵn trong cái bọc da và đổ vào những cái chén riêng của ḿnh. Sau khi đổ thêm trà pha bơ chúng tôi dùng ngón tay trộn đều và nhồi cho đến khi nó trở thành một thứ bánh, rồi mới ăn. Qua ngày hôm sau, công tác làm bếp gồm có việc nấu trà bơ. Ở gian pḥng khách của nhà bếp có đặt một cái chảo đụn khổng lồ với dung lượng sáu trăm bảy mươi lăm lít. Chảo đụn này đă được lau chùi bằng cát và trở nên sạch bóng như c̣n mới. Từ sáng sớm, chảo đụn này đă được chứa nước đến phân nửa và nấu sôi lên sùng sục. Chúng tôi có phận sự đi lấy những bánh trà đă phơi khô và đập tan ra thành từng mảnh vụn. Trà này được ép cứng lại thành từng bánh lớn h́nh vuông như viên gạch, mỗi bánh cân nặng từ bảy đến tám kg, được chở từ Trung Hoa hay Ấn Độ đến Lhassa bằng đường bộ xuyên qua các truyền núi. Những mảnh vụn vừa đập ra được ném vào chảo nước đang sôi. Một sư săi thêm vào đó một tảng muối cục thật lớn, một sư săi khác bỏ thêm vô một muối hóa chất (bicarbonnate de soude). Khi tất cả đều sôi sục người ta mới đổ thêm vào từng mảng bơ làm bằng sữa của con Yak, và để lửa cháy trong ḷ suốt nhiều giờ. Trà trộn với bơ này có một giá trị dinh dưỡng rất tốt và dùng thêm với món Tsampa nó có đầy đủ chất bổ dưỡng để cho người Tây Tạng sống được quanh năm. Công việc khó nhọc nhất là giữ cho lửa cháy trong. Thay v́ dùng phân củi người ta dùng phân con Yak phơi khô làm chất nhiên liệu để đốt lửa. Chất nhiên liệu này luôn luôn được dự trữ quanh năm thành một lượng dùng không bao giờ cạn. Phân ḅ đốt cháy tỏa ra một mùi vị rất chát và nồng nặc. Chúng tôi bị bắt buộc phải làm những công tác này không phải là v́ thiếu nhân công mà là v́ muốn xóa bỏ tối đa mọi sự phân biệt giai cấp. Chúng tôi nghĩ rằng con người chỉ có một kẻ thù ấy là sự chia rẽ, cách biệt. Làm việc bên cạnh một người, nói chuyện cởi mở với y hăy, có dịp thông cảm với y rồi th́ y sẽ không là một kẻ thù của ta nữa. Ở Tây Tạng mỗi năm một lần, những vị quan to hay chức sắc có quyền thế từ bỏ quyền hành của ḿnh trong một ngày, và bất cứ một thuộc hạ nào của họ cũng có quyền nói lên những ǵ y cảm nghĩ trong ḷng nếu một vị Sư Trưởng tỏ ra lạm quyền hống hách, người ta sẽ nói lên một cách công khai và nếu sự phiền trách đó là đúng th́ người khiếu nại sẽ không bị một sự trừng phạt nào. Phương pháp đó tỏ ra rất hiệu quả nên sự lạm dụng quyền hành cũng rất ít khi xảy ra. Nó đảm bảo một sự công b́nh xă hội, để cho những người thuộc viên ở cấp dưới có cơ hội phát biểu những cảm nghĩ của họ đối với những kẻ có quyền thế. Chúng tôi phải làm việc nhiều trong lớp học và ngồi xếp hàng dưới đất. Khi giảng bài và viết trên bảng đen th́ vị giáo sư đứng trước mặt học tṛ. Nhưng khi chúng tôi làm bài th́ ông giáo sư đi rảo đằng sau lưng chúng tôi, thành thử chúng tôi phải làm việc cẩn thận v́ chúng tôi không biết ông ta đang ŕnh đứa nào! Ông ta không lúc nào rời cây gậy, một cây gậy mập như cây dùi cui mà ông ta không ngần ngại "sử dụng" trên bất cứ bộ phận nào trên thân thể chúng tôi: Vai, đầu, lưng, không kể đến những bộ phận "cổ điển". Ông ta không cần phân biệt đó là chỗ nào, miễn là những cú gậy gộc đó đánh thật đau. Chúng tôi học rất nhiều về môn toán pháp, môn này là một kỷ luật cần thiết để đoán khoa chiêm tinh. Khoa chiêm tinh Tây Tạng thật vậy không có ǵ là ngẫu nhiên t́nh cờ, nó được thiết lập trên những nguyên tắc khoa học. Tôi phải học nhiều về khoa chiêm tinh v́ môn này là tối cần thiết trong việc hành nghề y khoa. Một y sỹ nên điều trị bệnh nhân theo từng hạng người, sự phân hạn này là do khoa chiêm tinh quy định. Điều trị theo nguyên tắc đó là tốt hơn cho đơn kê thuốc một lư do mơ hồ là thuốc ấy đă chữa khỏi bệnh cho một người khác. Bên cạnh những bản đồ chiêm tinh rất lớn treo trên tường, c̣n có những bản đồ khác vẽ h́nh những thảo dược. Những bản đồ này được thay đổi luôn luôn mỗi tuần và chúng tôi phải biết rơ tất cả mọi loại cỏ thuốc. Sau này, những cuộc xuất hành sẽ được tổ chức để đi hái thuốc, nhưng chúng tôi chỉ được tham dự những cuộc ngao du đó khi nào chúng tôi đă có những kiến thức sâu rộng, để người ta có thể tin tưởng rằng chúng tôi sẽ không hái lầm những loại cỏ xấu. Những chuyến đi hái thuốc đem đến cho chúng tôi những ngao du rất thoải mái dễ chịu tạm quên được cuộc đời phẳng lặng buồn chán của tu viện. Có những chuyến đi kéo dài đến ba tháng; đó là những cuộc xuất hành lên vùng thượng du, một vùng bao bọc xung quanh bởi những dăy núi có tuyết phủ quanh năm, bề cao từ sáu ngàn đến tám ngàn thước trên mực nước biển, nơi đó những vùng băng tuyết xen lẫn với những thung lũng xanh tươi với khí hậu ôn ḥa nhờ bởi những suối nước nóng. Trong vùng này người ta có một kinh nguyện độc nhất trên đời. Người ta chỉ cần đi một quăng đường dài năm mươi thước để trải qua một khí hậu lạnh đến bốn mươi độ dưới không, đến một khí hậu nóng bốn mươi lăm độ trong bóng mát. Vùng này của xứ sở Tây Tạng không ai được biết, chỉ trừ một thiểu số các sư săi. Tu viện của chúng tôi được nổi bởi kỷ luật khắc khổ và nột nền giáo dục chặt chẽ. Một số lớn các sư săi từ các tu viện khác đến đây từ giă chúng tôi để đi đời sống dễ chịu hơn. Chúng tôi coi họ như những kẻ thất bại với chúng tôi là những người thuộc thành phần ưu tú. Nhiều tu viện không có buổi lễ khuya; các sư săi đi ngủ sớm vào lúc tối và thức dậy trời đă sáng. Chúng tôi khinh thường họ như những kẻ yếu hèn, thấp kém v́ tuy rằng chúng tôi bất măn với quy tắc quá khắc khổ của tu viện, chúng tôi lại không bằng ḷng cho quy tắc đó bị sửa đổi, nếu nó đưa chúng tôi tới hậu quả là hạ thấp chúng tôi xuống tŕnh độ kém hèn của kẻ khác. Kế đó là phải loại trừ những kẻ yếu. Chỉ có những người rất khỏe mạnh mới trở về sau những cuộc xuất hành lên vùng thượng du lạnh như băng tuyết; ngoại trừ những sư săi ở tu viện Chakpori, không có ai dám đi lên đó. Các vị đạo sư, vốn đầy minh triết quyết định loại bỏ nhưng người không thể chịu đựng được cuộc sống kham khổ, trước khi họ có dịp làm liên lụy đến kẻ khác. Trong năm học đầu tiên chúng tôi hầu như không có lúc nào nghỉ ngơi, giải trí hay có dịp vui chơi thỏa thích. Mỗi giây phút của chúng tôi đều dành cho sự học và làm việc. Một điều mà tôi c̣n biết ơn các vị sư, là các Ngài đă dạy chúng tôi phương pháp sử dụng trí nhớ. Phần nhiều người Tây Tạng có trí nhớ tốt, nhưng riêng phần chúng tôi là sinh viên y khoa, học để trở thành các tu sỹ kiêm y sỹ, th́ chúng tôi cần biết tên và đặc tính của nhiều loại dược thảo cùng cách biến chế và sử dụng các loại cỏ thuốc. Chúng tôi cũng cần hiểu biết tường tận khoa chiêm tinh và thuộc làu tất cả các kinh điển Phật Pháp. Một phương pháp tập luyện trí nhớ đă được thực nghiệm trải qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi ngồi trong một gian pḥng có những tủ lớn chứa đựng hằng muôn ngh́n hộc tủ. Mỗi hộc tủ có dán nhăn hiệu bên ngoài, có in chữ khá lớn dễ đọc từ chỗ chúng tôi ngồi. Mỗi đề tài học tập mà chúng tôi đă thụ huấn được sắp hạng trong mỗi hộc tủ thích nghi. Chúng tôi phải h́nh dung rơ ràng trong trí mỗi đề tài vào vị trí nhất định của mỗi học tủ. Với ít nhiều công phu tập luyện, người ta có thể đi vào gian pḥng bằng tư tưởng một cách rất dễ dàng mở đúng phóc các hộc tủ ḿnh muốn và lấy ra các tài liệu ḿnh t́m kiếm cùng với những đề tài liên quan. Các vị giáo sư đặc biệt nhấn mạnh với chúng tôi hiểu sự cần thiết có một trí nhớ được tập luyện thuần thục. Họ vấn nạn chúng tôi một cách ráo riết với mục đích duy nhất là thử thách trí nhớ của chúng tôi. Những câu hỏi đó không có một sự mạch lạc hay liên lạc v́ với nhau, để cho không có một ḍng tư tưởng liên tục nào giúp chúng tôi trả lời được dễ dàng. Những câu hỏi đó thường liên quan đến những đoạn bí hiểm trong cách kinh điển tôn giáo, chen lẫn với những câu hỏi đứt đoạn về các loại dược thảo. Kẻ nào quên sẽ bị trừng phạt nặng nề: Không có trí nhớ là một tội ác không thể dung thứ, phải bị trừng trị nghiêm khắc. Chúng tôi lại không có nhiều thời giờ để suy nghĩ mà phải trả lời ngay tức khắc. Chẳng hạn như giáo sư hỏi học tṛ: - Con hăy nói lại hàng thứ năm, trang mười tám trong quyển thứ bảy của bộ kinh Kangyur. Hăy mở hộc tủ... xem hàng chữ đó là ǵ? Trừ phi người ta có thể trả lời ngay trong mười giây đồng hồ, tốt hơn là nên giữ im lặng, v́ sự trừng phạt c̣n khốc liệt hơn nếu trả lời sai, dẫu cho sự sai lầm nhỏ nhặt đến đâu. Dầu sao, đó cũng là một phương pháp rất tốt và rất hữu hiệu để tập luyện trí nhớ. Chúng tôi không thể có thường xuyên những sách vở tham khảo ở bên cạnh ḿnh, v́ sách của chúng tôi gồm những tờ giấy đóng lại trong những cái b́a bằng gỗ, thường đo đến một thước chiều dài và bốn tấc tây chiều ngang, là những vật quá kềnh càng. Về sau, tôi nhận thấy rằng thật là một điều tối ưu quan trọng mà có một trí nhớ tốt. Trong năm đầu, chúng tôi bị ngăn cấm không đuợc rời khỏi tu viện. Những người nào vi phạm sẽ bị đóng cửa không cho vào khi họ trở về. Luật lệ này chỉ được áp dụng ở tu viện Chakpori là nơi mà kỷ luật gắt gao đến nỗi người ta sợ rằng nếu để cho chúng tôi ra ngoài, th́ chúng tôi sẽ không trở lại lần nữa. Riêng về phần tôi, tôi nh́n nhận rằng có lẽ tôi cũng trốn biệt luôn không trở lại, nếu tôi có chỗ nào khác để dung thân! Tuy nhiên, sau một năm, chúng tôi đă quen với đời sống ở tu viện.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 24 of 45: Đă gửi: 11 April 2004 lúc 10:34am | Đă lưu IP
|
|
|
. Trong năm đầu tiên đó, chúng tôi không được phép chơi các môn giải trí; người ta bắt buộc chúng tôi làm việc không ngừng, điều này giúp cho họ loại trừ những đứa trẻ thể chất yếu đuối, không chịu nổi sự căng thẳng thần kinh tột độ. Sau những tháng học khó khăn đó, chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi hầu như đă quên mất cả sự chơi bời tiêu khiển. Những môn thể dục điền kinh có mục đích tăng cường sức chịu đựng dẻo dai của chúng tôi, và có một sự công dụng thực tế cho chúng tôi sau này. Khi tôi gần lên tám tuổi. Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi, cho tôi biết rằng theo sự giải đoán của các nhà chiêm tinh, th́ sau ngày sinh nhật của tôi, sẽ là ngày thuận lợi để cho tôi bắt đầu luyện thần nhăn. Tôi không cảm thấy lo ngại ǵ cả, v́ tôi biết rằng sư phụ tôi sẽ có mặt tại chỗ và tôi hoàn toàn đặt tin tưởng nơi người. Như sư phụ tôi đă nhắc nhở nhiều lần cho tôi biết, khi tôi mở được thần nhăn, tôi sẽ có thể nh́n thấy rơ chân tướng của mọi người mọi vật. Theo khoa Huyền Môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ bên ngoài do cái linh hồn, hay "Chân Ngă", điều khiển mọi tác động trong giấc ngủ và sau khi chết. Con người sinh ra trong một thể xác yếu đuối bất toàn để học hỏi kinh nghiệm và tiến bộ ở cơi trần. Khi y ngủ, con người trở về một cơi giới khác, linh hồn thoát ra ngoài thể xác vật chất và phảng phất trên cơi ấy tuy rằng nó c̣n dính liền với thể xác bởi một "Sợi dây bạc" (Cordon magnétique: Sợi dây từ khí, làm bằng chất dỉ thái, mắt phàm không nh́n thấy được. Nó long lanh như màu bạc, nối liền thể xác với linh hồn, có thể kéo dài đến vô tận khi linh hồn phiêu diêu trên cơi trung giới trong giấc ngủ). Sợi dây bạc này chỉ đứt đoạn vào lúc chết. Những giấc mộng là những kinh nghiệm sống trên cơi trên trong khi ngủ. Khi linh hồn trở về nhập vào thể xác, sự giật ḿnh thức giấc làm méo mó xiêu vẹo kư ức của giấc mộng, trừ phi người ta đă trải qua một sự huấn luyện đặc biệt, bởi đó "Giấc mộng" có thể trở nên dị kỳ đối với người thức giấc. Nhưng vấn đề này sẽ được giải thích đầy đủ hơn ở một chương sau khi tôi tường thuật lại những kinh nghiệm cá nhân của tôi trên địa hạt này. Cái hào quang bao bọc xung quanh thể xác, mà bất cứ ai cũng có thể tập luyện để nh́n thấy với một vài điều kiện, chỉ là phản ảnh của nguồn sinh lực ở bên trong con người. Chính cái hào quang đó, cùng với nhiều điều khác nữa, là những sự vật vô h́nh huyền bí mà việc mở thần nhăn sẽ giúp cho tôi nh́n thấy rơ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 25 of 45: Đă gửi: 11 April 2004 lúc 10:36am | Đă lưu IP
|
|
|
TÔI MỞ THẦN NHĂN
Ngày sinh nhật của tôi đă đến. Ngày đó tôi được tự do không phải đi đến lớp học hay đi dự lễ. Vào lúc sáng sớm, Minh Gia Đại Đức có nói với tôi: - Lâm Bá, hôm nay con hăy vui chơi thỏa thích. Chúng ta sẽ đến t́m con chiều nay. Kể từ chiều hôm đó tôi bế môn nhập thất trong một gian pḥng nhỏ, và không được bước ra khỏi pḥng trong suốt ba tuần lễ. Trong thời gian đó không ai được bước ra khỏi pḥng để kiếm tôi trừ ba vị Lạt Ma cao cấp trong đó có Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Ba vị Lạt Ma mỗi ngày đều đến vào đúng giờ để chỉ dẫn cho tôi một phép luyện bí truyền để mở thần nhăn. Trong khi đó, người ta cho tôi ăn uống rất ít, chỉ vừa đủ duy tŕ sự sống. Sau ba tuần lễ khổ luyện dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, tôi đă đạt tới sự thành công. Sư phụ tôi bèn nói: - Lâm Bá, từ nay con đă thật sự trở thành một cao đồ trong môn phái của chúng ta. Kể từ nay cho đến suốt đời con, con sẽ nh́n thấy rơ chân tướng của mọi người chứ không phải là chỉ nh́n thấy cái bề ngoài của họ mà thôi. Lần đầu tiên trong đời tôi, thật là một kinh nghiệm lạ lùng mà nhận thấy rằng ba vị Lạt Ma đều được bao phủ chung quanh ḿnh bằng một ánh hào quang vàng chói như ánh lửa. Về sau, tôi mới hiểu rằng đó là nhờ ba vị đă có một đời sống tinh khiết và không phải ai cũng có được một hào quang tốt đẹp như thế, mà trái lại phần đông người đời có một cái hào quang với một h́nh dạng và màu sắc khác hẳn. Khi tôi đă phát triển được cái nhăn quang thần thông đó, tôi phát hiện được những rung động khác nữa xuất phát từ trung tâm hào quang của con người. Kế đó, tôi có thể đoán biết t́nh trạng sức khỏe của một người bằng cách nh́n xem màu sắc và h́nh dáng cái hào quang của y. Cũng y như thế, bằng cách nh́n xem sự thay đổi màu sắc trong hào quang của một người, tôi có thể biết rằng người ấy nói thật hay nói dối. Thần nhăn của tôi, tuy vậy không phải chỉ dùng để quan sát thân thể của một người mà thôi. Người ta c̣n cho tôi một bầu thủy tinh mà tôi thường dùng để quan sát bằng thần nhăn và bây giờ tôi vẫn c̣n giữ. Những bầu thủy tinh này không phải là những vật nhiệm màu ǵ cả mà chỉ là những khí cụ mà thôi. Cũng như một ống kính hiển vi hay viễn vọng kính, do những định luật tự nhiên cho phép ta nh́n thấu những sự vật mà lúc b́nh thường ta không nh́n thấy được, th́ một bầu thủy tinh cũng vậy. Nó có tác dụng như một trung tâm để sử dụng con mắt thần, nó giúp cho người ta có thể đột nhật vào cơi giới tiềm thức của mọi vật và nh́n thấy những sự vật diễn biến trong quá khứ hay tương lai xuất hiện trong đó. Mọi loại thủy tinh không phải đều thích hợp với tất cả mọi người. Có người thu hoạch được kết quả tốt hơn với loại thủy tinh khoán thạch, có người lại thích hợp với một bầu pha lê. Những người khác nữa dùng một bồn nước lạnh bằng ve chai hoặc một đĩa tṛn màu đen huyền. Nhưng dầu người ta sử dụng một kỹ thuật nào, th́ các nguyên tắc vẫn là một. Sau khi tôi đă hoàn tất việc luyện thần nhăn một cách an toàn, các vị Lạt Ma quyết định rằng tôi có thể rời khỏi gian pḥng mà tôi đă nhập thất và trở về với cuộc sống b́nh thường, nhưng tôi sẽ dành phân nửa thời giờ của tôi bên cạnh Minh Gia Đại Đức để cho sư phụ tôi sẽ tăng cường sự học đạo của tôi bằng một vài phương pháp. C̣n phân nữa thời gian kia sẽ dành cho những buổi học và buổi lễ cầu nguyện, không phải v́ cái giá trị giáo dục của những buổi ấy mà là để cho tôi có một sự hiểu biết quân b́nh về mọi sự. Ít lâu sau đó, khoa thôi miên cũng sẽ được sử dụng để dạy đạo cho tôi. Nhưng c̣n bây giời th́ tôi chỉ nghĩ đến vấn đề... ăn! Tôi đă phải ăn uống rất khắc khổ trong gần ba tuần và nay tôi phải ăn trả đũa để bù lại. Tôi bèn hối hả từ biệt các vị Lạt Ma với ư nghĩ duy nhất trong đầu tôi. Nhưng ra ngoài hành lang, tôi nh́n thấy một bóng người bao phủ trong một đám khói xanh, với những vết lớn màu đỏ chói như lửa cùng khắp thân ḿnh. Tôi bèn kêu lên một tiếng thất thanh và hối hả thối lui về pḥng. Các vị Lạt Ma nh́n tôi một cách ngạc nhiên; tôi có vẻ gần như ngất xỉu v́ sợ hăi và nói: - Một người đang cháy như bó đuốc ở ngoài hành lang. Minh Gia Đại Đức chạy phóng ra ngoài. Khi sư phụ trở lại pḥng. Người vừa mỉm cười vừa nói: - Lâm Bá, đó chỉ là một người lao công đang nóng giận, hào quang của y giống như một đám khói xanh, v́ tŕnh độ tiến hóa của y c̣n thấp. Những vết lửa màu đỏ là những tư tưởng nóng giận. Con có thể đi ra một cách an toàn để tới pḥng ăn v́ chắc con đă đói lắm! Thật là một kinh nghiệm vô cùng lư thú khi tôi gặp lại những bạn học cũ mà trước kia tôi vẫn tưởng rằng tôi biết quá rơ, nhưng sự thật th́ tôi chưa biết ǵ về họ cả. Nay tôi chỉ cần nh́n họ để đọc những tư tưởng thầm kín, t́nh thương chân thành, sự ganh tị hay sự thờ ơ lănh đạm của họ đối với tôi. Không phải chỉ nh́n những màu sắc trên hào quang của mỗi người mà biết tất cả, người ta c̣n phải tập giải đoán ư nghĩa của những màu sắc đó nữa. Để thực tập vấn đề này, sư phụ tôi và tôi cùng ngồi ở một chỗ vắng vẻ, từ nơi đó chúng tôi có thể quan sát những người đi đường bước vào cổng đền. Minh Gia Đại Đức nói với tôi: - Lâm Bá, con hăy nh́n người kia đang đi tới... con có nh́n thấy chăng một đường chỉ màu đang rung động ở phía trên quả tim của y? Màu ấy và sự rung động ấy là triệu chứng của bệnh đau phổi! Sư phụ lại b́nh phẩm về một người lái buôn: - Con hăy nh́n những lằn ngang đang cử động và những đốm, vết đang chớp lập ḷe trên hào quang của y... người lái buôn này đang nghĩ rằng y có thể lừa bịp những sư săi ngu ngốc kia, và y nhớ rằng y đă có lần thành công như vậy. Chỉ v́ tiền bạc, người ta không lùi bước trước một hành vi ti tiện nào! Hoặc về một người khác nữa: - Lâm Bá, con hăy nh́n vị sư già kia. Đây là một vị sư săi chân tu, nhưng y lại hiểu kinh điển một cách quá chật hẹp, g̣ bó sát nghĩa từng chữ từng câu. Con có nhận thấy chăng màu vàng trên hào quang của y đă phai lợt? Đó là v́ y chưa đủ tiến hóa đúng mức để có thể suy luận lấy một ḿnh. Và như thế, chúng tôi tiếp tục quan sát để thực tập hằng ngày. Nhưng chính trong khi tiếp xúc với những người đau ốm, bệnh tật về thể xác cũng như tinh thần, mà tôi mới nhận thấy năng khiếu Thần Nhăn là vô cùng hữu ích. Một buổi chiều, Sư phụ nói với tôi: - Sau này, ta sẽ dạy con nhắm Con Mắt Thần tùy ư muốn, v́ thật là một điều khổ sở là phải luôn luôn nh́n thấy trước mắt những cảnh tượng buồn thảm, bất toàn của người đời. Nhưng bây giờ, con hăy sử dụng năng khiếu đó thường xuyên, cũng như con sử dụng đôi mắt phàm. Thầy sẽ chỉ cho con cách mở hay nhắm Con Mắt Thần một cách dễ dàng cũng như hai con mắt kia. Những truyện thần thoại của xứ Tây Tạng quả quyết rằng trong quá khứ đă có một thời kỳ mà nhân loại, nam hay nữ, đều có thể sử dụng Con Mắt Thần. Đó là thời kỳ mà đấng Thần linh đến quả địa cầu và sống lẫn lộn với người trần gian, khi con người hăy c̣n chất phác, hồn nhiên và tâm hồn trong sạch. Nhưng về sau, loài người đă mở mang trí khôn, bèn sinh ra kêu căng ngạo mạn và xúc phạm đến Thánh Thần. Để trừng phạt tội xúc phạm này, nhăn quang thần thông của họ bị thu hồi. Kể từ đó, trải qua nhiều thế kỷ, một thiểu số người vừa lúc mới sinh ra đă có năng khiếu Thần Nhăn. Những người nào có năng khiếu ấy một cách tự nhiên, có thể tăng cường quyền năng của họ lên gấp ngàn lần nhờ bởi một phép luyện bí mật, cũng như trường hợp của tôi. Lẽ tất nhiên, một quyền năng đặc biệt như thế phải được sử dụng một cách cẩn mật và vô cùng thận trọng. Một ngày nọ, vị Sư Trưởng cho gọi tôi vào gặp ngài và nói: - Con hỡi, nay con đă sở hữu một quyền năng mà phần đông nhân loại không có. Con chỉ nên sử dụng nó để làm việc thiện, chớ hề dùng nó cho mục đích ích kỷ. Quyền năng ấy được ban cho con để giúp đỡ kẻ khác, chứ không phải để mưu lợi cho riêng ḿnh. Nhờ Thần Nhăn, có nhiều điều sẽ được tiết lộ cho con, nhưng dầu cho con học hỏi được điều ǵ, con cũng không được tiết lộ cho người khác biết, nếu những lời nói của con có thể làm cho họ đau khổ hay làm thay đổi chiều hướng cuộc đời của họ. V́, con hỡi, mỗi người phải tự ư chọn lựa con đường của ḿnh. Dầu cho con nói với họ điều ǵ, họ cũng vẫn đi theo con đường của họ. Con hăy giúp đỡ những kẻ bệnh tật và những người đau khổ, nhưng con đừng nói ǵ có thể làm đổi hướng cuộc đời của một người.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 26 of 45: Đă gửi: 13 April 2004 lúc 11:10am | Đă lưu IP
|
|
|
TÔI YẾT KIẾN PHẬT SỐNG TÂY TẠNG
Một buổi sáng thứ hai, Minh Gia Đại Đức cho tôi biết rằng cuộc viếng thăm điện Potala của chúng tôi đă được định vào cuối tuần. Người nói: - Chúng ta phải tập dượt cho quen với các nghi lễ. Buổi tŕnh diện của con phải diễn ra một cách thật hoàn toàn. Gần lớp học của chúng tôi, có một ngôi đền nhỏ bỏ hoang, trong đó có một pho tượng của đức Đạt Lai Lạt Ma, kích thước lớn bằng một người thật. Sư phụ tôi nói: - Lâm Bá, con hăy nh́n ta đây. Ta sẽ chỉ dẫn cho con những ǵ cần phải làm. Con bước vào, hai mắt nh́n xuống đất, như thế này. Con đi tới chỗ này và quỳ xuống trước mặt đức Đạt Lai Lạt Ma khi c̣n cách xa Ngài độ chừng một thước rưỡi. Con hăy le lưỡi (phong tục chào hỏi của người Tây Tạng) ra để chào Ngài và cúi đầu xuống, một lần, hai lần và ba lần. Vẫn quỳ gối và cúi đầu, con đặt chiếc khăn lên, nhưng vẫn cúi đầu để cho Ngài có thể đặt một khăn choàng của Ngài lên cổ của con. Con đếm từ một cho đến mười, để khỏi phạm lỗi v́ vội vàng hấp tấp, rồi con ngẩng mặt lên và đi thụt lùi cho đến chiếc nệm đầu tiên c̣n bỏ trống chưa ai ngồi. Tôi theo dơi sự chỉ dẫn của Sư phụ, người tỏ ra rất thông thạo v́ đă quen thuộc nghi lễ ấy từ lâu. Người lại nói: - Bây giờ, một lời khuyên. Trước khi đi thụt lùi lại phía sau, với một cái liếc nh́n mau lẹ và kín đáo, con hăy t́m ra vị trí của chiếc nệm gần nhất. Không nên để vướng chân vào đó rồi bắt buộc phải nhảy nhổm một cái để khỏi phải té găy cổ! Người ta dễ bị vấp ngă trong một lúc hồi hộp kích động như thế. Bây giờ dến phiên con dượt lại... Con hăy làm lại cho đúng. Tôi buớc ra ngoài và Sư phụ tôi vỗ tay ba cái để ra hiệu cho tôi bắt đầu. Tôi hăm hở xông tới, nhưng Sư phụ liền chặn tôi lại. - Lâm Bá! Đây không phải là một cuộc chạy đua! Hăy đi tới một cách chậm răi thung dung hơn. Con hăy điều chỉnh bước đi bằng cách niệm câu thần chú: Om Mani Padme Hum. Như vậy, con sẽ bước vào một cách khoan thai như một vị tăng lữ trẻ tuổi, thay v́ sải như ngựa đua trong vùng đồng bằng Tsang Po! Tôi lại bước ra lần nữa, để bắt đầu đi vào một cách "Khoan thai" hơn! Đến trước pho tượng, tôi quỳ xuống, tiếp tục tiến tới trên hai đầu gối, và le lưỡi ra chào theo kiểu Tây Tạng. Ba lần vái chào của tôi chắc hẳn là hoàn toàn gương mẫu, mà tôi có thể lấy làm tự hào! Nhưng, rủi thay, tôi lại quên cái khăn choàng cổ! Thành thử, tôi phải bước ra ngoài lần thứ ba để tái diễn nghi thức này lại từ đầu. Lần này, tôi làm đúng phép và đặt cái khăn choàng lên hai bàn chân của pho tượng. Sau đó, tôi đi thụt lùi đến một chiếc nệm một cách không khó khăn lắm, và ngồi xuống nệm theo tư thế liên hoa. Mỗi buổi sáng, tôi phải biểu diễn lần chót trước mặt vị Sư Trưởng. Ngài xem xong bèn nói: - Cuộc tŕnh diễn của con thật hoàn hảo, đó là một cái vinh dự lớn cho Sư phụ con, tức Minh Gia đạo huynh của ta! Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lên đường đến điện Potala. Tu viện của chúng tôi trực thuộc điện Potala về mặt quản trị hành chánh, tuy rằng vị trí của nó biệt lập với các dinh thự chính của điện. Nó vừa là một nơi tu viện vừa là trường Y Khoa. Vị Sử Trưởng của viện cũng là vị y sĩ tuy thân của đức Đạt Lai Lạt Ma. Với chức vụ này, người rất bận rộn v́ vấn đề quan trọng không phải là chữa bệnh cho vị Quốc Vương, mà giữ ǵn cho Ngài được có sức khỏe. Bởi vậy, vị Sử Trưởng phải chịu trách nhiệm về mọi sự đau yếu dầu chỉ là thoáng qua, của đức Quốc Vương. Tuy vậy, người không phải muốn khám sức khỏe của Quốc Vương lúc nào tùy ư; người phải đợi đến khi đức Đạt Lai Lạt Ma thật sự nhuốm bệnh mới được gọi vào! Nhưng sáng ngày hôm ấy, tôi không nghĩ đến những nỗi lo âu của vị Sử Trưởng, những mối lo âu của tôi cũng đă quá đủ. Dưới chân đồi, chúng tôi hướng về điện Potala, giữa một đám đông gồm có những du khách và người mộ đạo đi hành hương. Những người này đến từ khắp mọi nơi trong xứ Tây Tạng để chiêm ngưỡng cung điện của đức Phật Sống, một danh hiệu thường dùng để gọi đức Đạt Lai Lạt Ma. Dẫu cho họ chỉ thấy Ngài trong một cái nh́n thoáng qua, họ cũng được hài ḷng mà trở về với niềm tin tưởng rằng công lao khó nhọc của chuyến đi hành hương xa xôi này đă được đền bù tưởng thưởng gấp trăm lần! Nhiều người hành hương đă đi bộ trên đương trường suốt nhiều tháng để đến yết kiến đức Phật Sống. Trong đám đông có lẫn lộn những nông dân, những nhà vương gia quư tộc, những mục đồng, lái buôn và những người bệnh nan y, hy vọng t́m thấy phép màu ở thủ đô Lhassa để chữa họ khỏi bệnh. Họ đi chật ních các đường sá, v́ tất cả đều đi ṿng quanh điện Potala, một quăng đường ṿng dài đến chín cây số. Có người ḅ bốn cẳng, những người khác nằm dài sơng sượt dưới đất, lại đứng lên, để rồi lại nằm mọp sát đất lần nữa, và lại tiếp tục như vậy cho đến khi giáp ṿng ṭa cung điện của đức Phật Sống. Những người bệnh tật bước đi khập khiễng trên những cây nạng gỗ hoặc do bạn bè thân thuộc nâng đỡ. Khắp nơi người ta thấy những người bán dạo rao hàng giải khát gồm có trà pha bơ và những thức ăn đủ loại. Người ta cũng có thể mua những bùa niệt, những linh vật hộ phù đă được truyền phép bởi một đấng "Hóa Thân." Những nhà tướng số đạo mạo ngồi bên đường xem số cho những người hành hương mê tín. Những người viết thuê bán những tờ cấp bằng chứng minh rằng thân chủ họ đă đến viếng thủ đô Lhassa và tất cả những nơi thánh địa. Chúng tôi đi xuyên qua đám rừng người mà không dừng bước v́ đầu óc chúng tôi chỉ nghĩ đến cuộc yết kiến đức Phật Sống. Tư thất của đức Đạt Lai Lạt Ma tọa lạc trên nóc điện Potala, v́ theo phong tục bổn xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn Ngài. Một cầu thang vĩ đại xây bằng đá, bề rộng gần bằng một đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. Nhiều vị chức sắc hay quan to trong triều đ́nh cưỡi ngựa lên cầu thang này để khỏi phải đi bộ nhọc mệt. Chúng tôi gặp nhiều vị cưỡi ngựa như thế trên con đường đi lên nóc điện. Điện Potala là một ṭa cung điện độc lập xây trên một ngọn đồi. Đó là cơ quan đầu năo để giải quyết tất cả mọi công việc chính trị và tôn giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia, mục tiêu của tất cả tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng. Bên trong ṿng thành của cung điện, trong những ṭa nhà của Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những khối vàng ṛng, vô số những bao đựng ngọc ngà châu báu và những bảo vật quư giá của thời đại cổ xưa nhất. Những ṭa lâu đài dinh thự đă được xây cất đến nay không quá ba thế kỷ rưỡi, nhưng được dựng lên trên nền móng của một ṭa cung điện cũ. Ngày xưa, một pháo đài kiên cố ngự trị trên đỉnh núi. Ngọn núi này xưa kia vốn là một hỏa diệm sơn, có chứa đựng trong ḷng nó một hang động khổng lồ, với những đường hầm tỏa ra tứ phía. Một trong những đường hầm này đưa đến một cái hồ ngầm ở dưới mặt đất. Chỉ có một số rất ít những người được ưu đăi mới được đi đến đó, hoặc được biết về cái hồ này. Đây nói về lúc chúng tôi trèo lên cầu thang của điện Potala vào một buổi sáng đẹp trời. Sau cùng chúng tôi đă lên tới tột đỉnh cầu thang. Khi vừa thấy Sư Phụ tôi, những sư săi cảnh binh thân h́nh cao lớn lực lưỡng, có phận sự canh gác bên ngoài bèn mở cánh cửa lớn thếp vàng. Chúng tôi tiếp tục bước lên đến một điểm cao tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt Lai Lạt Ma của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện tại, và thư thất của Ngài. Một bức màn to lớn màu nâu dệt bằng lông con yak che khuất lối vào. Bức màn vén lên, chúng tôi bước vào một gian pḥng lớn, có những con rồng lớn bằng sứ màu xanh chầu ở phía ngoài cửa. Những màn che trướng rủ đẹp lộng lẫy, trên đó có thêu tranh vẽ các cảnh tượng tôn giáo và những cảnh trong chuyện thần thoại cổ xưa bao phủ các vách tường. Trên những bàn thấp, có bày những bảo vật và đồ cổ rất quư giá, những pho tượng các vị thần và nữ thần trong Thần Thoại Tây Tạng, và những đồ vật trang trí khác. Trên một cái kệ, gần một hành lang nhỏ hẹp có màn che khuất, được đặt quyển sách ghi danh hiệu các nhà thế gia vọng tộc trong xứ. Tôi có ư nghĩ muốn được phép mở ra và nh́n thấy danh sách của gia đ́nh nhà tôi để tăng thêm ḷng tự tín! Ngày hôm ấy, ở một chốn cung điện thâm nghiêm như vậy, tôi cảm thấy ḿnh vô cùng nhỏ bé và vô nghĩa. Mới lên tám tuổi, tôi đă không c̣n những ảo tưởng, và tôi tự hỏi không biết những lư do nào đă khiến cho vị Nguyên Thủ quốc gia gọi tôi vào gặp Ngài. Tôi biết rằng một cuộc hội kiến như vậy có ư kiến đặc biệt, và theo ư tôi, nó sẽ mở màn cho một loạt những công phu học hỏi, làm việc và thử thách. Một vị Lạt Ma mặc áo đỏ, có mảnh lụa yểm tâm vàng phủ lên vai và trước ngực, bước đến đàm đạo với Minh Gia đại đức. Sư Phụ tôi có vẻ rất quen thuộc đối với mọi người trong điện Potala, cũng như ở bất cứ nơi nào mà tôi cùng đi viếng chung với người. Tôi nghe vị Lạt Ma ấy nói: - Đức Thái Tuế rất thích thú và muốn nói chuyện riêng với y.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 27 of 45: Đă gửi: 16 April 2004 lúc 10:42am | Đă lưu IP
|
|
|
Sư Phụ tôi day lại phía tôi và nói: - Đây là lúc con vào tŕnh diện, ta sẽ chỉ cửa cho con bước vô. Con hăy lập lại những ǵ con đă tập dượt suốt tuần lễ vừa rồi. Sư Phụ dắt tôi đến một cánh cửa và nói nhỏ bên tai tôi: - Con đừng e ngại ǵ cả... Bây giờ, con hăy vào đi. Sau khi vỗ vai tôi một cái để khích lệ tinh thần, Sư Phụ đứng nh́n tôi. Tôi bước vào: ở cuối gian pḥng rộng vô biên, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba, tức vị Phật Sống Tây Tạng đang ngự tại đó. Ngồi trên một chiếc nệm bằng lụa màu vàng nghệ, Ngài mặc đồ trang phục thông thường của các vị Lạt Ma, ngoài ra cái mũ lón màu vàng, có hai cánh tḥng xuống tận vai. Ngài vừa cầm một quyển sách đặt xuống bàn bên cạnh chỗ ngồi. Đầu cúi xuống, tôi từ từ tiến tới. Khi chỉ có cách Ngài độ hai thước, tôi quỳ xuống, le lưỡi ra vái chào Ngài ba lần, và tiến tới trên hai đầu gối, tôi dặt trên hai bàn chân ngài cái khăn choàng bằng lụa mà Minh Gia Đại Đức đă cho tôi. Để đáp lễ, đức Phật Sống nghiêng về phía tôi và đặt một khăn choàng mới của ngài trên hai cườm tay tôi, chớ không đặt trên cổ tôi theo nghi lễ cổ truyền. Khi đó, tôi cảm thấy trong ḷng rối loạn, với ư nghĩ là tôi phải đi thụt lùi đến chiếc nệm gần nhất, v́ tôi nhận thấy những chiếc nệm đều đặt ở rất xa chỗ tôi đứng. Đức Đạt Lai Lạt Ma mới bắt đầu nói: - Những nệm đó đều quá xa để cho con phải đi thụt lùi. Con hăy quay lại nửa ṿng và lấy một chiếc đem lại gần đây để chúng ta có thể nói chuyện với nhau. Tôi tuân lệnh làm y theo và trở lại trước mặt ngài với một chiếc nệm. Ngài nói: - Con hăy đặt chiếc nệm trước mặt ta và ngồi xuống. Khi tôi đă an tọa, Ngài mới nói: - Ta đă nghe nói nhiều điều lạ lùng về phần con. Con bẩm sinh ra với năng khiếu Thần Nhăn tự nhiên, và năng khiếu ấy đă được phát triển do một phép luyện bí mật. Ta có một hồ sơ về tiền kiếp của con, cùng với những lời tiên tri của các chiêm tinh gia. Cuộc đời của con sẽ khổ nhọc lúc đầu, nhưng nó sẽ được thành công mỹ măn. Con sẽ đi chu du khắp nơi trên thế giới, biết được nhiều xứ lạ mà con chưa hề nghe nói đến bao giờ. Con sẽ chứng kiến bao nhiêu cảnh chết chóc, tàn phá và một sự bạo tàn khủng khiếp vượt ngoài sức tưởng tượng. Con đường của con sẽ rất dài và gian khổ, nhưng nó sẽ thành tựu tốt đẹp như đă tiên liệu từ trước. Tại sao người nói với tôi những điều này, mà tôi đă thuộc ḷng từ lâu, không sót một chữ, kể từ năm tôi lên bảy? Tôi cũng biết rằng sau khi tốt nghiệp nghành y khoa và giải phẫu ở Tây Tạng, tôi sẽ đi tu nghiệp thêm ở Trung Hoa. Nhưng đức Phật Sống vẫn tiếp tục nói chuyện. Ngài căn dặn tôi nên giữ ǵn, không nên biểu lộ quyền năng hay nói về các vấn đề bản thể hoặc linh hồn, khi tôi sống ở các nước Tây Phương. Ngài nói: - Ta đă từng đi qua Ấn Độ và Trung Hoa. Ở những nước ấy, người ta có thể bàn luận về những Chân Lư trừu tượng siêu h́nh, nhưng ta đă gặp nhiều người đến từ các nước Tây Phương. Họ không có sự nhận định về các giá trị tâm linh như chúng ta, họ chỉ biết có thương mại với bạc vàng. Các nhà bác học của họ nói: "Các người hăy chỉ cho chúng tôi thấy sự có thật của linh hồn. Hăy đưa nó ra cho chúng tôi xem, để chúng tôi có thể sờ mó, cân lường và nh́n thấy phản ứng của nó đối với chất át xít. Hăy chỉ cho chúng tôi thấy cơ cấu tế bào của nó, cùng những phản ứng hóa chất của nó. Chúng tôi cần một bằng chứng, một bằng chứng cụ thể..." Họ sẽ nói với con như vậy, mà không biết rằng với cái thái độ tiêu cực và nghi ngờ đó, họ đă tiêu hủy tất cả mọi dịp may để có được cái bằng chứng mà họ đ̣i hỏi... Thôi, chúng ta hăy uống trà chứ... Ngài gơ nhẹ một cái vào cái cồng nhỏ bằng đồng, và ra lệnh cho một vị Lạt Ma, người này liền trở lại ngay khi đó với trà bơ và bánh kẹo nhập cảng từ bến Ấn Độ. Trong khi chúng tôi dùng trà bánh, đức Phật Sống nói chuyện với tôi về xứ Ấn Độ và Trung Hoa. Ngài cũng nói rằng Ngài muốn tôi phải học ráo riết và ngài sẽ chọn những vị đạo sư đặc biệt để huấn luyện cho tôi. Không thể tự chủ được sự bồng bột của tuổi trẻ, tôi nói luôn: - Bạch Thái Tuế, chắc không ai giỏi hơn Minh Gia Đại Đức, Sư phụ của con! Đức Đạt Lai Lạt Ma nh́n tôi một lúc, rôi phát tiếng cười lớn. Có lẽ chưa có ai đă từng nói với Ngài bằng một giọng như thế, đừng nói chi đến một đứa trẻ mới lên tám tuổi. Sự thẳng thắn của tôi dường như làm cho Ngài thích thú, Ngài nói: - Như vậy, theo ư con, Minh Gia Đại Đức là người giỏi nhất trên đời này? Con hăy nói cho ta biết con nghĩ thế nào về Đại Đức. Hử, con gà tre con cứng cựa! - Vạn bạch Thái Tuế, Ngài đă nói rằng năng khiếu Thần Nhăn của con là một quyền năng ít có. Như vậy, con xin bẩm Ngài rằng Minh Gia Đại Đức là người tài ba lỗi lạc nhất mà con đă gặp! Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa cười lớn vừa gơ vào cái cồng đặt bên cạnh Ngài. Vị Lạt Ma hầu cận lúc này lại bước vào, Ngài nói: - Hăy mời Minh Gia Đại Đức vào. Minh Gia Đại Đức bước vào và vái chào đức Phật Sống. Ngài phán: - Hỡi Minh Gia đạo hữu, ông hăy lấy một chiếc nệm và lại ngồi đây. Người đệ tử trẻ của ông vừa nói chuyện với tôi về ông đấy. Tôi hoàn toàn tán đồng sự xét đoán của y. Sư Phụ ngồi xuống gần bên tôi. Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nói: - Ông đă đảm trách việc huấn luyện cho Lâm Bá. Vậy ông hăy sắp đặt việc học của y thế nào tùy ư. Ông sẽ hỏi tôi những văn thư ủy quyền mà ông cần dùng. Thỉnh thoảng, tôi sẽ gặp lại Lâm Bá sau này. Ngài day về phía tôi và nói: - Con đă chọn lựa đúng đấy. Sư Phụ con là một bạn cũ của ta lúc thiếu thời và là một bậc danh sư về khoa Huyền Môn. Sau khi đă trao đổi vài lời, chúng tôi đứng dậy vái chào từ biệt đức Đạt Lai Lạt Ma. Nh́n sắc diện của người, tôi đoán rằng trong thâm tâm, Minh Gia đại đức rất bằng ḷng về tôi và về cái ấn tượng mà tôi đă gây ra trong buổi yết kiến vị Nguyên Thủ. Người nói: - Chúng ta sẽ ở lại đây vài ngày, và sẽ viếng thăm vài nơi trong cung điện. Ở tầng dưới, có những dăy hành lang và những gian pḥng kín chưa từng có chân người bước đến kể từ hai thế kỷ nay. Ở đó, con sẽ học hỏi được nhiều điều về huyền sử của xứ Tây Tạng. Một trong những vị Lạt Ma hầu cận đức Phật Sống đến gặp chúng tôi và cho biết rằng có hai pḥng đă được dành sẵn cho thầy tṛ chúng tôi trên nóc điện Potala. Nói xong, người đưa chúng tôi đến nơi. Tôi lấy làm vô cùng hứng khởi mà thấy gian pḥng của tôi nh́n thẳng xuống thủ đô Lhassa và vùng đồng bằng chung quanh. Vị Lạt Ma lại nói: - Đức Thái Tuế có ra chỉ thị hăy để cho hai vị quư khách được đi lại tự do và mở rộng hết các cửa cho quư vị. Sư Phụ khuyên tôi hăy nằm nghỉ giây lát. Cái thẹo do vết phỏng ở đùi bên trái hăy c̣n làm cho tôi đau đớn khó chịu, và tôi phải đi khập khễnh. Có lúc người ta đă lo sợ rằng không khéo tôi sẽ bị phế tật suốt đời. Tôi bèn nằm nghỉ trong một giờ, cho đến khi Sư Phụ trở lại với trà và vài thức ăn. Người nói: - Lâm Bá, đây là vài món quà sáng để con dùng tạm đỡ ḷng. Thức ăn ở đây rất ngon, chúng ta hăy thưởng thức tự nhiên. Tôi không cần sự thúc giục nào nữa để tuân lệnh Sư Phụ. Khi chúng tôi đă ăn xong, Sư Phụ đưa tôi đến một gian pḥng ở phía bên kia nóc diện. Tôi thấy làm lạ mà thầy ở các cửa sổ đều có lót kính. Tôi chưa từng nh́n thấy cửa kính bao giờ. Nhưng chưa phải là hết. Sau khi mở các cửa sổ, Sư Phụ tôi c̣n đưa cho tôi xem một cái ống bằng đồng có bao da, giống một cái kèn không có loa. Đó là lần đầu, tôi được thấy một cái ống nḥm để nh́n xa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đă đem từ Ấn Độ về đây nhiều ống nḥm dài ngắn đủ cỡ mà Ngài rất thích dùng để ngắm nh́n phong cảnh. Cũng chính ở điện Potala, mà lần đầu tiên trong đời, tôi nh́n thấy h́nh bóng tôi phản chiếu trong một tấm gương, nhưng không nhận ra người trong gương, một đứa trẻ nhỏ xanh xao, với một cái thẹo lớn ở giữa trán và một cái mũi hơi lồi! Có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng một xứ không có cửa kính, ống nḥm và gương soi như Tây Tạng chắc sẽ là một xứ lạ lùng, nhưng thật ra dân tộc xứ này không hề mong ước có những thứ ấy. Họ cũng không cần dùng tới các loại xe cộ. Các loại xe dùng để phục vụ tốc lực và cái gọi là "Văn minh." Từ lâu họ đă hiểu rằng đời sống doanh thương là một cuộc đời quá ư náo động để có thể dành thời giờ cho việc tu dưỡng tâm linh. Từ bao nhiêu ngh́n năm về trước, người Tây Tạng đă từng khám phá những bí quyết của các hiện tượng Thần Nhăn, thần giao cách cảm và những hiện tương siêu h́nh khác. Nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng có thể ngồi ḿnh trần trên tuyết lạnh và làm tan ră băng tuyết chỉ bằng quyền năng của ư chí. Các vị ấy cũng có thể khinh thân nhẹ bổng lên không trung, nhưng họ không bao giờ dùng những quyền năng đó để biểu diễn trước công chúng. Một vị danh sư Tây Tạng luôn luôn đặt các đệ tử trước những cuộc thử thách để biết chắc rằng họ xứng đáng được truyền thụ những bí thuật thần thông
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 28 of 45: Đă gửi: 19 April 2004 lúc 10:12am | Đă lưu IP
|
|
|
Bởi đó, những quyền năng siêu nhiên không bao giờ được biểu diễn một cách hời hợt, vô trách nhiệm, mà chỉ được truyền dạy trong ṿng bí mật cho những đệ tử thật xứng đáng. Những quyền năng đó không có ǵ là nhiệm mầu, mà chỉ là kết quả của việc áp dụng một vài định luật thiên nhiên. Ở Tây Tạng, có người cần phải sống lẫn lộn với người đời để tự trau dồi và tự tu luyện bản thân, có người lại càng từ bỏ cuộc đời thế gian để sống ẩn dật trong âm thầm. Những người này t́m đến những tu viện hẻo lánh trên non cao núi thẳm, tại đây họ ở trong một xà lim hay gian pḥng nhỏ hẹp, với những vách tường bằng đá đôi khi dầy đến hai thước, để ngăn chận cho mọi tiếng đông cho khỏi lọt vào từ bên ngoài. Khi người tu sĩ đă quyết định nhập thất ở nơi đó, người ta mới khóa chặt cửa vào, và y sẽ sống trơ trọi một ńnh trong gian pḥng bằng đá ấy, không ánh sáng, không bàn ghế, không có ǵ cả. Mỗi ngày một lần, y được cung cấp đồ vật thực do một cái lỗ trống kín đáo, xuyên qua đó không hề có ánh sáng hay tiếng động nào lọt vào. Tới kỳ nhập thất kéo dài trong ba năm ba tháng và ba ngày, trong khi đó y sẽ thiền định về ư nghĩa của cuộc đời và bản thân của con người. Thể xác của y không được rời khỏi pḥng bất cứ v́ lư do nào. Một tháng trước khi chấm dứt cuộc nhập thất, nóc pḥng của y được soi một lỗ nhỏ để lọt vào một tia ánh sáng lờ mờ. Kế đó lỗ nhỏ ấy sẽ được nới rộng lần lần để cho đôi mắt người tu sĩ tập quen trở lại với ánh sáng mặt trời, chứ nếu không, y sẽ bị mù ḷa khi y bước ra khỏi pḥng. Có nhiều trường hợp rất thường xảy ra, là sau vài tuần sống trở lại cuộc đời thế tục, các tu sĩ ấy lại quay trở về nơi nhập thất của họ và ở luôn ở đó cho đến măn đời. Một cuộc đời như thế không phải là khô khan hay vô ích như người ta có thể tưởng. Con người là một linh hồn, có tiềm năng sinh hoạt ở một cơi giới khác hơn cơi trần. Một khi đă giải thoát khỏi sự trói buộc của thể xác, y có thể đi chu du khắp nơi trong vũ trụ càn khôn và giúp đời bằng sức mạnh tư tưởng của ḿnh. Ở Tây Tạng, người ta biết rằng tư tưởng là những âm ba rung động của tinh lực. Vật chất chỉ là tinh lực đông đặc lại. Một tư tưởng, nếu biết điều khiển đúng cách và kết tinh lại, có thể làm di chuyển một đồ vật. Nếu biết điều khiển nó theo phương pháp thần giao cách cảm, người ta có thể làm cho một người khác ở cách xa cảm nhận được ư nghĩ của ḿnh và hành động một cách thích nghi theo ư ḿnh muốn. Việc học Đạo của tôi không cần có sự nhập thất dài hạn trong một gian pḥng u tối. Nó được thực hiện theo một phương pháp đặc biệt, nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, theo lệnh dạy khẩn thiết của đức Đạt Lai Lạt Ma. Chương tŕnh học Đạo của tôi gồm những vấn đề thuộc về khoa Huyền Môn mà tôi không tiện nêu ra trong một quyển sách dành cho đại chúng. Tôi chỉ có thể nói rằng tôi được thụ huấn về nhiều vấn đề mà phần đông các tu sĩ không thể học cho hết được trong thời gian suốt cả một đời người. Cuộc viếng thăm điện Potala của tôi có liên hệ đến phần đầu của sự huấn luyện nói trên. Những kho vật dụng của điện Potala chứa đầy những pho tượng rất quư giá, những kinh sách cổ và những tranh vẽ trên tường tŕnh bày những đề tài tôn giáo. Trải qua nhiều thế kỷ, những tặng phẩm quư giá từ các nơi trên thế giới được gửi đến điện Potala để cống hiến cho các vị Đạt Lai Lạt Ma trong quá khứ. Hầu hết những phẩm vật này đều chất trong những pḥng đặc biệt, tại đây tôi đă trải qua nhiều giờ nh́n các đồ phẩm vật ấy một cách thích thú bằng nhăn quang thần thông để biết thâm ư của những người tặng quà. Đó là một tài liệu xác đáng để biết những tư tưởng thầm kín của người đời. Khi tôi xác định những ấn tượng mà một phẩm vật đă gây ra cho tôi, Sư Phụ tôi lật một quyển sách và thuật cho tôi nghe lịch sử từ thuở sơ khai của nó cho đến bây giờ. Tôi lấy làm hứng khởi mà nghe Sư Phụ khen tặng tôi: - Khá khen cho con, Lâm Bá, con đă có những tiến bộ hiển nhiên, không thể chối căi. Trước khi rời khỏi điện Potala, chúng tôi xuống thám hiểm một trong những đường hầm. Người ta cho tôi biết rằng c̣n những con đường hầm khác sẽ được chỉ cho tôi sau này. Mỗi người cầm một ngọn đuốc, chúng tôi rón rén cẩn thận bước xuống một cầu thang dài vô tận, đưa xuống những ngơ ngách giao thông mà hai bên vách đều bằng đá. Tôi được biết rằng những đường hầm này sở dĩ có là bởi một cơn địa chấn và núi hỏa diệm sơn gây nên từ nhiều ngàn năm nay. Trên vách, tôi nh́n thấy những h́nh kỷ nà rất lạ lùng và những h́nh vẽ các hoạt cảnh mà tôi không nhận ra là h́nh ǵ. Tôi nôn nao muốn đến xem cái hồ ở dưới ḷng đất, mà tôi nghe nói rằng vị trí của nó nằm ở chỗ cuối cùng của một hang nghách và cái hồ ấy rộng đến nhiều cây số vuông. Sau cùng, chúng tôi đi đến một đường hầm, lúc đầu c̣n nhỏ hẹp, nhưng nó trở nên rộng lớn lần lần, cho đến khi những ṿm cao của nó ch́m hẳn trong bóng tối, ngoài tầm ánh sáng của các ngọn đuốc. Đi độ chừng một trăm thước, chúng tôi đă đến bờ hồ, nước đọng và đen như mực, đến nỗi người ta có cảm giác rằng đó không phải là hồ nuớc mà là một cái lỗ không đáy đen ng̣m. Không một gợn sóng nhỏ hay một vết nhăn trên mặt hồ, cũng không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng chết người. Ánh sáng các ngọn đuốc chiếu lóng lánh trên tảng đá đen ng̣m ở dưới chân chúng tôi. Một cái ǵ chiếu sáng trên vách đá. Tôi bước lại gần nh́n xem th́ thấy vách đá có chứa đựng một mạch vàng lớn từ năm đến bảy thước bề dài. Ngày xưa, nhiệt độ cao đă làm chảy mạch vàng này, vàng đă tan ră ra như chất sáp lỏng của một ngọn đèn bạch lạp, rồi sau đó đă trở nên nguội dần và đông đặc lại. Minh Gia Đại Đức phá tan sự im lặng: - Cái hồ này thông ra đến con sông Tsang Po, cách đây sáu mươi cây số. Cách đây đă lâu, một nhóm sư săi mạo hiểm kết bè, đốt đuốc và trèo ra khơi. Họ trèo ra xa đến hàng bao nhiêu cây số trên mặt hồ hoàn toàn xa lạ, không định hướng, và sau cùng họ đến một chỗ mà mặt hồ nới rộng ra, đến nỗi không c̣n nh́n thấy ṿm đá ở trên đầu và vách đá ở hai bên nữa. Họ vẫn tiếp tục trèo mà không biết phải theo hướng nào... Tôi vừa nghe vừa h́nh dung cảnh tượng lúc ấy, dường như tôi cũng đang ngồi trên bè với các sư săi. Sư Phụ nói tiếp: - Họ đă đi lạc mà không thể nào t́m ra phương hướng được nữa. Th́nh ĺnh, chiếc bè lật nghiêng, đuốc của họ bị một ngọn gió thổi tắt, và họ chới với giữa cảnh tối đen như mực. Họ bám víu lấy chiếc bè, xoay ṿng trên mặt hồ giữa đêm tối, bàng hoàng kinh sợ và đă bắt đầu có người nhuốm bệnh. Chiếc bè bị gió cuốn đi mau đến nỗi những ngọn sóng nhỏ tràn lên bè và làm cho họ bị ngâm nước lạnh thấu xương. Mỗi lúc bè càng trôi mau hơn, dường như có một bàn tay vô h́nh lôi cuốn họ đi vào chỗ chết. Cuộc phiêu lưu đó đă kéo dài bao lâu, họ cũng không biết v́ họ đă mất cả ư niệm về thời gian. Không có một ánh sáng nào chung quanh, bóng tối dày đặc và đen kịt dường như chưa hề có bao giờ trên mặt đất. Chiếc bè tre bị sóng dập gió vùi, những ngọn gió mạnh như vũ băo thổi rít lên từng chập, bè lật nghiêng, họ bị lật nhào và ch́m dưới đáy nước. Vài người chỉ có đủ thời giờ để hít một hơi thở. Những người khác thở không kịp. Những người sống sót trôi dạt bềnh bồng cho đến khi họ nh́n thấy một ánh sáng xanh lợt, mờ mờ và mỗi lúc càng tỏ rạng. Sau cùng, họ trôi dạt vào bờ dưới ánh nắng mặt trời. Hai vị sư săi đă tấp vào bờ, thân h́nh đầy những vết máu và vết bầm dập, ngất ngư như người hấp hối. Ba người khác đă biệt mất tăm hơi, không để lại dấu tích. Suốt nhiều giờ, họ nằm sơng sượt trên mặt đất, trước nanh vuốt của Tử Thần, giữa sự sống và cái chết. Sau cùng, một người hồi tỉnh lại và mở mắt nh́n quanh. Điều mà y nh́n thấy làm cho y xúc động muốn xỉu. Đằng xa, nhô lên ngọn đồi của điện Potala, chung quanh có những con yak đang ăn cỏ trên những cánh đồng xanh tươi. Ư nghĩ đầu tiên đến với họ là: Chắc có lẽ họ đă chết và họ đang ở trên một cơi trời Tây Tạng. Ngay khi đó họ nghe có tiếng chân người bước đến gần: đó là một kẻ mục đồng đang cúi xuống nh́n họ. Người mục đồng này vừa vớt lên mảng tre tàn của chiếc bè tàn mà y nh́n thấy trôi lênh đênh trên sông Tsang Po. Khi y được nghe câu chuyện kể lại và biết rằng họ là các sư săi, người mục đồng bèn đi đến điện Potala để báo động và t́m những chiếc cáng để khiêng họ về. Kể từ khi đó, ít có người mạo hiểm đi trên hồ, nhưng người ta biết rằng có những ḥn đảo nhỏ ở trong đó, mà một đă được thám hiểm. Điều mà người ta t́m thấy trên ḥn đảo đó, con sẽ được biết vào lúc nhập môn. Tôi nghe nói vậy, liền mong ước được thả bè đi trên hồ ngay lập tức! Sư Phụ nh́n tôi và cười: - Thật vậy, đó là một kinh nghiệm lư thú, nhung cần ǵ phải nhọc sức đi đến nơi khi người ta có thể đi thám hiểm nơi đó dễ dàng bằng cách "Xuất vía?" Con có thể thực hiện điều đó, Lâm Bá, và trong vài năm con có thể cùng ta đi thám hiểm cái hồ ấy rồi góp phần hiểu biết của con vào phần kiến thức mà chúng ta đă có về vấn đề này. Nhưng bây giờ th́, con hỡi, con c̣n phải học hỏi rất nhiều. Ánh lửa trên ngọn đuốc của chúng tôi sắp tắt, và tôi tưởng rằng chúng tôi chắc sẽ phải đi ṃ trong đêm tối như những người mù. Lúc sắp trở về, tôi nghĩ rằng chúng tôi đă quá vô tâm đến nỗi không đem theo thêm vài ngọn đuốc để thắp nối. Ngay lúc đó, Minh Gia Đại Đức tḥ tay vào một lỗ trống ẩn dấu trên vách đá, lấy ra những ngọn đuốc mới rồi thắp nối theo những cây đuốc đă tàn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 29 of 45: Đă gửi: 21 April 2004 lúc 10:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Người nói: - Chúng ta có dự trữ sẵn đuốc ở đây, v́ thật khó mà t́m thấy đường về trong bóng tối. Bây giờ, chúng ta lên đường! Chúng tôi đi lần ṃ một cách vất vả khó nhọc theo những đường hầm lên dốc, thỉnh thoảng ngừng lại để thở và nh́n những tranh vẽ trên vách. Tôi không hiểu ư nghĩa những h́nh vẽ này là như thế nào. Trái lại, Sư Phụ tôi rơ ràng là đă rất thành thạo về những h́nh ảnh đó và người đi lại trong các đường hầm tối đen này một cách quen thuộc như ở nhà. Tôi linh cảm ở chỗ này hẳn là có điều ǵ bí mật và định thối lui lại để t́m cách khám phá ra cái cửa bí mật của con đường hầm này, nhưng giọng nói của Sư Phụ gián đoạn ḍng tư tưởng của tôi: - Lâm Bá, con lẩm bẩm như một ông già! Chỉ c̣n vài nấc thang nữa, là chúng ta sẽ thấy lại ánh sáng mặt trời. Khi lên tới nóc điện, ta sẽ chỉ cho con thấy chỗ mà các sư săi ngày xưa đă ngoi lên mặt đất sau cuộc thám hiểm của họ. Khi chúng tôi lên tới nóc điện Potala, Sư Phụ làm theo lời hứa, và tôi đă muốn phóng lên lưng ngựa phi nước đại trên sáu chục cây số để nh́n xem chỗ ấy tận mắt. Nhưng Sư Phụ tôi nói rằng không có ǵ khác hơn là cảnh vật mà tôi đă nh́n thấy trong ống nḥm. Lối thoát lên mặt đất của cái hố này vốn nằm dưới mực nước rất sâu và không có ǵ để ghi dấu cho biết nó nằm chỗ nào, trừ ra một cḥm cây được trồng ở phía trên do lệnh truyền của đức Đạt Lai Lạt Ma trong kiếp trước của Ngài. Qua ngày hôm sau, Thầy tṛ chúng tôi sửa soạn để trở về tư tưởng viện Chakpori. Chúng tôi không vội vàng lắm v́ chúng tôi cảm thấy được nghỉ ngơi thoải mái tại điện Potala. Trước khi lên đường, tôi bước nhanh lên nóc điện để ngắm nh́n phong cảnh một lần cuối cùng. Xuyên qua cái ống nḥm nh́n về nóc tư tưởng viện Chakpori, tôi thấy một thiếu nhi sơ cơ đang nằm dài trên sân thượng để đọc sách, thỉnh thoảng lại ngừng đọc để ném những viên sỏi nhỏ lên cái đầu trọc của các sư săi đang đi qua lại ở sân dưới. Trong ống nḥm tôi nh́n thấy nụ cười ranh mănh của y, khi y vội vàng ẩn núp để tránh những cái nh́n ngạc nhiên mà các nạn nhân của y phóng lên trời. Nhân dịp này, tôi cảm thấy băn khoăn lo sợ v́ chắc hẳn là đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nh́n thấy chính tôi có nhiều lần đùa nghịch giống y như vậy! Kể từ khi đó, tôi quyết định giới hạn những sự nghịch ngợm tinh quái của tôi ở những góc nhà của tu viện mà người ta không nh́n thấy được từ trên nóc điện Potala. Giờ lên đường đă điểm. Chúng tôi từ giă và cám ơn các vị Lạt Ma đă giúp cho thời gian lưu trú ngắn ngủi của chúng tôi tại đây được thoải mái và dễ chịu. Chúng tôi cũng tỏ ḷng ưu ái cảm tạ viên Huỳnh Môn Quan của đức Đạt Lai Lạt Ma, là người thủ kho lương thực, đă phân phát trà bánh và kẹo mứt ngon có tiếng nhập cảng từ bên Ấn Độ cho chúng tôi dùng tự do tùy thích. Viên Huỳnh Môn Quan chắc hẳn là có thiện cảm với tôi, v́ lúc từ giă, người c̣n đưa tặng cho tôi một món quà ngon mà tôi không ngần ngại đút vào miệng nhai liền khi đó. Sau khi ăn uống no đầy đủ lấy sức, chúng tôi bắt đầu đi xuống cầu thang lớn để trở về tu viện. Chúng tôi vừa xuống được nửa cầu thang, th́ nghe những tiếng gọi giật lại, những sư săi đi ngang qua đó ra dấu cho chúng tôi hăy quay đầu nh́n lại phía sau. Một sư săi hộc tốc chạy xuống cầu thang vừa thở dốc và chuyển giao một thông điệp cho Minh Gia Đại Đức. Sư Phụ tôi nói: - Lâm Bá, con hăy đợi ta ở đây, ta đi sẽ không lâu. Kế đó, người quay lưng đi trở lên cầu thang. Tôi bèn đi dạo chơi thơ thẩn một ḿnh, nh́n xem phong cảnh, và ngắm nh́n ngôi nhà cũ của tôi ở đằng xa. Tôi đang miên man nghĩ đến những kỷ niệm xưa, th́ vừa quay đầu trở lại, tôi suưt nữa th́ té ngửa khi tôi thấy cha tôi cưỡi ngựa chạy về phía chỗ tôi đứng. Đúng vào lúc mà tôi nh́n cha tôi, th́ người cũng thấy tôi. Cha tôi hơi nghiêng đầu tới trước để xem cho rơ khi người nhận ra tôi. Nhưng cha tôi đi ngang qua trước mặt tôi mà không nh́n tôi nữa. Tôi cảm thấy ḷng buồn vô hạn. Tôi nh́n theo cha tôi đi ra xa. Tôi gọi theo: "Cha!" Nhưng người vẫn tiếp tục thong thả cưỡi ngựa đi luôn dường như người không nghe tiếng tôi gọi. Tôi rơm rớm nước mắt và run lên v́ xúc động. Nếu lúc ấy tôi đứng giữa đám đông người, th́ tôi đă tự chuốc lấy một điều bẽn lẽn, hổ thẹn trước công chúng, và nhất là lại ở trên cầu thang của điện Potala! Với một ư chí làm chủ bộ thần kinh đa cảm của ḿnh, nó làm chính tôi cũng phải ngạc nhiên, tôi ngẩng mặt lên và nh́n về phía thành phố Lhassa. Nửa giờ sau, Minh Gia Đại Đức đă trở xuống với hai con ngựa và nói với tôi: - Lâm Bá, hăy mau lên ngựa, chúng ta phải đi mau đến viện Séra, v́ một trong các vị sư già mới bị tai nạn. Nhận thấy ở mỗi bên yên ngựa đều có treo một bao da, tôi đoán rằng đó là những bao đựng đồ của y Sư Phụ trên đường Lingkhor, chúng tôi săi ngựa qua trước nhà của tôi; những người hành hương và hành khất đều tránh qua một bên đường. Không bao lâu, chúng tôi đến tu viện Séra, tại đây đă có một nhóm sư săi đă đứng đợi chúng tôi. Chúng tôi xuống ngựa, mỗi người cầm một bao y cụ trong tay; khi ấy một vị sư đưa chúng tôi vào một pḥng tại đây có một vị lăo tăng đang nằm thoi thóp. Vị lăo tăng có sắc mặt nhợt nhạt như ch́, nguồn sinh lực của ông dường như đă sắp tàn. Minh Gia Đại Đức gọi đem nước sôi; nồi nước sôi đă sẵn sàng, người bèn bỏ vào đó vài nhúm dược thảo. Trong khi tôi quậy nồi nước sôi cho ngấm thuốc, Sư Phụ tôi khám bệnh cho vị lăo tăng và được biết vị này vừa bị té vỡ sọ từ trên cao xuống đất. Một cái xương dẹp trên đầu bị trật khớp đè lên óc, làm ông ta bất tỉnh nhân sự. Khi nồi nước thuốc đă nguội bớt, chúng tôi dùng một ít để rửa trán của người bệnh. Sư Phụ cũng lấy nước thuốc ấy để rửa tay và ngâm những đồ y cụ giải phẫu vào nồi thuốc để khử trùng. Nhờ công dụng của chất thuốc ấy, vết thương của ông lăo không c̣n rỉ máu nhiều. Kế đó, Sư Phụ lấy trong nồi thuốc ra hai cái gắp bằng bạc, đầu dẹp và có răng cưa. Người cẩn thận dùng hai cái gắp ấy lật miếng da đầu bị rách lên, đỡ lấy cái xương sọ bị trật khớp và đặt nó nằm ngay trở lại vị trí cũ. Xong, người nói: - Cái xương sẽ tự nó hàn gắn vào khớp trở lại như thường, và không c̣n đè lên óc nữa. Người lại rửa vết thương với chất nước thuốc, và đặt lại chỗ cũ cái mảng da đầu đă đặt lên lúc năy. Xong rồi người mới may kín vết thương bằng lông bờm ngựa trụng nước sôi, đắp thuốc lên và băng lại cẩn thận. Sau khi bộ óc ông ta được giải tỏa khỏi miếng xương sọ đè lên trên, vị lăo tăng đă bắt đầu lấy sức lại và cảm thấy khỏe dần. Chúng tôi đặt thêm vài chiếc gối dưới lưng để cho ông ta có thể ngồi nhổm dậy một cách thoải mái. Tôi rửa sạch các đồ y cụ, rồi lau bằng một miếng giẻ đă khử trùng và sắp lại cẩn thận trong hai cái bao da. Khi tôi rửa tay, vị lăo tăng mở mắt ra và nở một nụ cười yếu ớt khi ông ta nhận ra Minh Gia Đại Đức đang ngồi bên cạnh giường. Ông lăo nói: - Tôi biết chỉ có ông là người duy nhất có thể cứu được tôi, v́ thế tôi đă gửi một thông điệp bằng tư tưởng đến điện Potala. Sứ mạng của tôi ở thế gian chưa hoàn tất, v́ vậy nên tôi chưa sẵn sàng rời bỏ thể xác. Sư Phụ tôi chăm chú nh́n ông lăo và đáp: - Sư ông sẽ chóng khỏi. Chỉ cần chịu đựng vài ngày khó nhọc nữa, một hay hai cơn nhức đầu, rồi sau đó sư ông sẽ b́nh phục lại sức khỏe và làm việc như b́nh thường. Tuy nhiên, trong khi ngủ, phải có một người trực một bên để giữ cho sư ông đừng nằm dài. Nội trong ba hay bốn ngày nữa, là sư ông sẽ thoát nạn. Tôi bước lại gần cửa sổ. Thật là một điều lư thú mà nh́n xem cách sinh hoạt của các sư săi của một tu viện khác. Sư Phụ bước đến gần tôi và nói: - Bây giờ, ta sẽ đưa con đi viếng thăm một cộng đồng sư săi sinh hoạt rất khác hẳn với tư tưởng viện của chúng ta. Sau khi đă giao người bệnh cho một vị Lạt Ma săn sóc, chúng tôi bước ra ngoài hành lang. Tu viện này không được ǵn giữ sạch sẽ như tư tưởng viện Chakpori. Kỷ luật cũng không được nghiêm ngặt lắm: Các sư săi đi lại tự do tùy ư. So với tư tưởng viện của chúng tôi, th́ các thánh điện của họ không được săn sóc lau chùi tươm tất; mùi nhang khói ở đây cũng nồng nặc hơn. Từng nhóm trẻ con chơi ở ngoài sân: ở Chakpori, th́ giờ này chúng phải làm việc ráo riết. Tu viện này hoàn toàn thiếu trật tự, sạch sẽ và kỷ luật mà tôi vẫn thường coi như là những điều luật căn bản. Sư Phụ tôi hỏi: - Lâm Bá, con có muốn ở lại tu viện này và sống một cuộc đời dễ dăi tự do như họ chăng? Tôi đáp: - Bạch Sư Phụ, chắc chắn là không. Con nghĩ rằng họ chỉ là một tập đoàn người man rợ. Sư Phụ bật cười: - Thế mà ở đây có tất cả bảy người man rợ, và như vậy là hơi nhiều! Chỉ cần có một thiểu số người bê bối là đủ làm cho cả một tập đoàn phải mang tiếng, con biết không? Một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều biết rơ, là tu viện của chúng tôi có một kỷ luật gắt gao nhất, c̣n ở hầu hết những tu viện khác th́ kỷ luật rất là lỏng lẻo. Ở những nơi đó, nếu một sư săi muốn giải đăi, lười biếng, th́ y được tự do lười biếng mà không ai nói ǵ. Tu viện Séra, c̣n biết dưới cái tên riêng là "Trại Hoa Hường," ở cách điện Potala năm cây số và là một thành phần của nhóm cộng đồng tu viện gọi là "Tam Đỉnh Viện." Trong cộng đồng này th́ tu viện Drebung với dân số không dưới mười ngh́n sư săi, là tư tưởng viện lớn nhất. Kế đó là tu viện Séra với độ chừng bảy ngàn năm trăm sư săi, và sau hết là tu viện Ganden với gần sáu ngh́n sư săi. Tất cả ba tu viện này đồ sộ nguy nga như những thành phố thật sự, với những đường sá, trường học, đền thờ và tất cả những cơ quan, dinh thự quản trị hành chánh cần thiết. Những sư săi cảnh binh xuất xứ từ những vùng Kham đi tuần pḥng thường xuyên ở các đường phố. Nhưng bây giờ th́ chắc là quân Trung Công đă thay chân của họ! Tu viện Chakpori tuy nhỏ nhưng có thế lực rất lớn. Với tư cách là một Y Viện, nó cũng là Trung Tâm Y Khoa của quốc gia, và có một số đại diện quan trọng trong Hội Đồng Chánh Phủ. Ở tu viện Chakpori, người ta dạy cho chúng tôi môn vơ thuật Tây Tạng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 30 of 45: Đă gửi: 24 April 2004 lúc 10:28am | Đă lưu IP
|
|
|
Không phải tất cả các tu viện đều có dạy môn vơ thuật này. Trong tu viện của chúng tôi, môn vơ thuật ấy được sử dụng để tập luyện cho các thiếu sinh biết tự vệ, làm chủ những phản ứng tự nhiên của ḿnh, làm tê liệt giác quan của một người v́ mục đích giải phẫu y khoa, và để có thể di chuyển một cách an toàn trong những vùng nguy hiểm nhất. Thật vậy, với tư cách là những vị Lạt Ma y sĩ, chúng tôi luôn luôn phải di chuyển đến tận những vùng hiểm trở, xa xôi, đầy những sự bất trắc, hiểm nghèo. Vơ sư Tzu, như đă nói trước đây, là một chuyên viên về môn vơ thuật tự vệ, có lẽ là vị vơ sư giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Ông đă dạy tôi tất cả những ǵ ông biết, với một tinh thần trách nhiệm và chỉ để lấy làm hài ḷng v́ đă làm tṛn bổn phận của một vơ sư. Phần nhiều những người đă trưởng thành và thành niên đều biết một vài thế vơ sơ đẳng để hộ thân, nhưng về phần tôi, tôi đă tập luyện những thế vơ đó từ khi mới lên bốn tuổi. Chúng tôi nghĩ rằng môn vơ thuật này chỉ dùng để tự vệ và tự làm chủ lấy ḿnh, chứ không nên dùng để biểu diễn trên vơ đài như những tay thí vơ chuyên nghiệp. Ở Tây Tạng, người ta thường nói rằng một người giỏi vơ và có sức mạnh có thể rất ôn ḥa hiền lành, c̣n những sự phô trương khoác lác là đặc tính của kẻ yếu. Với môn điểm huyệt, người ta có thể làm tê liệt giác quan của một người, nó có tác dụng như việc chụp thuốc mê để làm cho y không c̣n biết đau đớn khi cần phải giải phẫu, nắn lại khớp xương bị trật, hay nhổ răng chẳng hạn. Người ta có thể làm cho một người trở nên bất tỉnh nhân sự, mà y không hay biết ḿnh đă bị điểm huyệt, và vài giờ hay vài phút sau đó, y sẽ thức tỉnh và vẫn sáng suốt như cũ mà không bị một ảnh hưởng nào. Có điều lạ, là một người bị điểm huyệt lúc y đang nói chuyện, bị bất tỉnh và ngủ mê đi, đến khi thức tỉnh dậy y lại tiếp tục câu nói bị đứt đoạn từ lúc đầu. V́ môn điểm huyệt này vô cùng lợi hại như vậy, nên môn vơ thuật tự vệ và điểm huyệt bí truyền của Tây Tạng chỉ được truyền thụ cho những môn đồ đă trải qua những cơn thử thách vô cùng gắt gao. Hơn nữa, để cho được cẩn mật và an toàn đến mức tuyệt đối, họ c̣n chịu một vài phép dẫn dụ bằng khoa thôi miên, để cho họ không thể nào lạm dụng quyền năng về sau này. Một tu viện Lạt Ma ở Tây Tạng không phải chỉ là một nơi trú ngụ của những người có chí hướng về đương tu hành, đó cũng là một thành phố tự trị với những cơ quan quản trị nội bộ và những nơi giải trí, tiêu khiển. Ở đó có cả những hí viện để tŕnh diễn những màn kịch nghệ tôn giáo và văn hóa truyền thống. Những sư săi nhạc công luôn luôn sẵn sàng biểu diễn tài nghệ để giúp vui và để chứng tỏ rằng không một cộng đồng tu viện nào khác có những nhạc công tài giỏi như họ. Những sư săi có tiền của riêng có thể mua sắm các thức ăn, quần áo, đồ xa xỉ phẩm và sách vở trong các cửa tiệm. Những vị nào muốn tiết kiệm có thể gửi tiền vào những tài ngân khố, hoạt động giống như các ngân hàng. Tất cả những cộng đồng sinh hoạt trên thế giới đều không khỏi có những kẻ bất lương phạm pháp. Trong tu viện Lạt Ma Giáo, những kẻ bất lương này bị các sư săi cảnh binh bắt giữ và đưa ra một ṭa án riêng để xử tội họ một cách công b́nh. Nếu xét ra họ phạm pháp, họ sẽ phải đền tội trong khám đường của tu viện. Trong tu viện, có những trường học để cho mỗi đứa trẻ có thể thọ lănh một nền giáo dục thích nghi với tính chất cùng trí khôn của chúng. Người ta giúp đỡ những đứa học tṛ ưu tú để xây dựng cho chúng một tương lai, nhưng ở phần nhiều các tu viện, trừ tu viện Chakpori, những học tṛ lười biếng được tự do chơi bời, ngủ nghê hay dùng thời giờ để ngồi không và mơ mộng. Thật vậy, người ta nghĩ rằng v́ người ta không thể nào ảnh hưởng đến cuộc đời của kẻ khác, nên tốt hơn là hăy để cho họ vớt vát lại thời giờ đă mất trong một... Kiếp sau! Ở tu viện Chakpori th́ không thế, và người nào không tiến bộ sẽ bị mời đi nơi khác, đến những chỗ mà kỷ luật được dễ dàng lỏng lẻo hơn. Trong tu viện của chúng tôi, thường có những khách viếng thăm, những người lái buôn hoặc sư săi, họ được lưu trú trong khách sạn của tu viện, và lẽ tất nhiên là cũng phải trả tiền. Không phải tất cả các sư săi đều sống độc thân. Những người nào nghĩ rằng t́nh trạng độc thân không thuận tiện cho đời sống tinh thần của họ, được tự do gia nhập vào môn phái "Mũ Đỏ" Dugpas, những người trong môn phái này được phép lập gia đ́nh. Nhưng đó chỉ là một thiểu số. Trong giới tu hành, cấp lănh đạo được tuyển chọn trong số những tu sĩ đă lập nguyện sống độc thân, thuộc về môn phái "Mũ Vàng" Gelugpas. Trong những tu viện "Cộng đồng nam nữ, " các sư săi và ni cô làm việc sát cánh với nhau và gồm thành một tập đoàn hoàn toàn có tổ chức, với một bầu không khí thường là ḥa dịu hơn những tu viện chỉ đặc biệt dành riêng cho phái nam. Sau khi đă đi quan sát mọi nơi ở Trại Hoa Hường, chúng tôi trở lại thăm vị sư săi già. Trong hai tiếng đồng hồ, bệnh t́nh của ông ta đă thuyên giảm rơ rệt, và ông ta đă có đủ sức để chú ư đến cảnh vật chung quanh. Ông ta đă có thể lắng tai chăm chú nghe Minh Gia Đại Đức mà ông ta có vẻ rất quư mến. Sư Phụ nói với ông lăo: - Bây giờ chúng tôi phải đi, nhưng tôi sẽ để lại cho sư ông một ít dược thảo. Tôi sẽ đưa chỉ thị rơ ràng cho vị sư săi có bổn phận săn sóc sư ông. Sư Phụ đưa cho ông lăo ba cái bọc nhỏ mà người lấy ra trong cái bao da. Ba bọc thuốc nhỏ này sẽ giúp cho ông lăo được hoàn toàn b́nh phục và thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần. Ra đến sân ngoài, chúng tôi thấy một sư săi nắm dây cương hai con ngựa đă chực sẵn. Chúng tôi lên ngựa và cho ngựa đi từ từ chậm bước. Trại Hoa Hường chỉ cách con đường Lingkhor có sáu cây số. Tôi không có ư định đi ngang qua nhà cũ của tôi. Sư Phụ tôi có lẽ đọc được tư tưởng của tôi, v́ người nói: - Chúng ta sẽ đi qua đường để ra khu chợ. Chúng ta không có ǵ phải gấp rút. Ngày mai sẽ là một ngày khác mà chúng ta c̣n phải sống. Khi ra đến khu chợ búa với những phố phường đông đảo, với các cửa hàng của người Tàu buôn bán tấp nập, tôi thầm nghĩ: - A! Lần cuối cùng khi tôi đi đến đây, tôi là một người tự do, khi ấy tôi chưa phải học để trở thành tu sĩ. Tôi chỉ ước mong thời gian qua chỉ là một giấc mộng mà tôi có thể quên hết khi tôi thức tỉnh! Sau khi đă đi qua đường cái, chúng tôi rẽ về phía tay mặt để đến cầu Ngọc Bích. Sư Phụ day qua phía tôi và nói: - Như vậy, con vẫn không muốn trở thành tu sĩ phải chăng? Đó thật là một cuộc đời đáng sống, con biết không? Đến cuối tuần này, những sư săi sẽ xuất hành như mọi năm để đi hái thuốc trên núi. Thầy không để con đi với họ năm nay. Con sẽ ở lại đây, và chúng ta sẽ làm việc chung với nhau, để cho con có thể thi đậu kỳ thi tuyển các sư săi ưu tú Trappa vào năm mười hai tuổi. Thầy đă dự định đem con theo trong một chuyến xuất hành về sau này lên những vùng Thuợng Du, tại đó có mọc những loại dược thảo rất hiếm. Chúng tôi vừa ra khỏi làng Sho và sắp đến gần Pargo Kaling, ở cửa tây thành Lhassa, th́ một kẻ hành khất đứng nép vào tường và rên rỉ: - Thưa bác sĩ Lạt Ma, xin ngài làm phước đừng chữa khỏi bệnh cho tôi v́ nếu tôi lành mạnh, tôi sẽ không c̣n phương tiện để kiếm ăn! Sư Phụ có vẻ buồn man mác khi chúng tôi bước qua cửa thành và nói: - Ở đâu cũng thấy những kẻ ăn mày. Họ làm cho xứ sở của chúng ta mang tiếng xấu ở ngoại quốc. Ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, khi thầy đến đó với đấng "Khôn Lường," người ta nói chuyện về những người ăn mày ở xứ Tây Tạng, nhưng họ không ngờ rằng vài người trong số đó lại rất giàu. Dầu sao, có lẽ sau việc thực hiện lời tiên tri về Năm Con Cọp Sắt (tức 1950, quân Trung Cộng xâm chiếm xứ Tây Tạng), những kẻ ăn mày sẽ bị bắt buộc phải làm việc. Chừng đó, Lâm Bá, trong hai thầy tṛ chúng ta không ai c̣n ở lại xứ nhà để chứng kiến việc ấy. Con sẽ sống ở ngoại quốc, c̣n thầy th́... đă trở về cơi Thượng Giới. Tôi cảm thấy ḷng buồn vô hạn với ư nghĩ rằng có ngày Sư Phụ mến yêu sẽ từ biệt tôi và không c̣n sống trên mặt đất này nữa. Hồi đó, tôi chưa biết rằng cơi đời này chỉ là hư ảo, một loạt những thử thách, một trường học lớn để cho ta rèn luyện tâm tính. Trên đường về, tôi liên tưởng đến những người đi hái thuốc. Mỗi năm, một nhóm sư săi của tu viện Chakpori lên núi hái thuốc về phơi khô và dự trữ trong những bao da không thấm nước. Miền núi non xứ Tây Tạng là nơi mà thiên nhiên dành cho con người một kho dược thảo phong phú dồi dào bất tận. Tôi thầm nghĩ rằng ḿnh có thể vắng mặt trong chuyến xuất hành năm nay, và hăy chuẩn bị tinh thần để đi lên miền Thượng Du huyền bí khi nào Sư Phụ xét ra cần thiết. Các nhà chiêm tinh đă tiên đoán tôi sẽ thi đậu một cách dễ dàng, nhưng tôi biết rằng tôi phải học rất nhiều. Thật vậy, sự thành công chỉ được hứa hẹn với tôi với điều kiện tất yếu là tôi phải tự ḿnh gặt hái lấy nó bằng sự làm việc. Về phương tiện tinh thần, trí năo, ít nhất tôi cũng đă phát triển bằng một thiếu niên muời tám tuổi, v́ tôi vẫn luôn luôn chung đụng tiếp xúc với những người lớn tuổi hơn tôi và tôi đă phải tự lực tháo vát mọi chuyện trong mọi trường hợp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ái!!! Hội viên

Đă tham gia: 09 April 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 13
|
Msg 31 of 45: Đă gửi: 24 April 2004 lúc 12:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính chào Soida!
"Hành tŕnh về phương đông" được Soida khổ công ghi lại cho những ai chưa từng được biết đến ( Trong đó có
Ái), Ái rất cám ơn sự nhiệt t́nh tận tâm của Soida, đă giúp cho ái hiểu biết thêm thuật tu luyện của các vị Đạt Ma. Qua đó Ái có cảm giác giảm bớt tính Sân Si và trong ḷng có ư phục thiện ...01 lần nữa xin cám ơn
Rất trân trọng những ǵ Soida đă làm.
-----------------------------------------
Chào bạn gù!
Thâm ư của bạn khi đọc xong bài của Soida, làm cho Ái đây suy nghĩ ḥai không ra. Nếu đó là ư tốt th́ xin bạn hăy nói ra để mọi người cùng hiểu.
C̣n ngược lại...xin bạn đừng làm như thế.
Chân thành góp ư
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 32 of 45: Đă gửi: 24 April 2004 lúc 11:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chân thành cám ơn lời động viên của bạn
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 33 of 45: Đă gửi: 27 April 2004 lúc 10:37am | Đă lưu IP
|
|
|
TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT
Dưới đây là một vài chi tiết về nền văn minh của xứ Tây Tạng, nó có thể khêu gợi sự thích thú của quư độc giả. Nền tôn giáo Tây Tạng là một h́nh thức biến thiên của Phật Giáo, nhưng nó không có một danh hiệu rơ ràng để có thể định nghĩa hoặc dịch ra. Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác nhất là Lạt Ma Giáo (Lamaisme), mà người Tây phương đă từng biết. Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật Giáo ở chỗ nó căn cứ trên niềm hy vọng, c̣n Phật Giáo đối với họ như một tôn giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Dầu sao đi nữa, có một điều chắc chắn là người Tây Tạng không tin nơi sự hiện diện của một vị Thượng Đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho toàn thể nhân loại. Từ bao nhiêu thế kỷ về trước, các dân tộc phương Đông đă biết rơ về các mănh lực huyền bí và những định luật thiên nhiên. Thay v́ phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền linh ấy, bởi lư do rằng người ta không thể cân lường hay quan sát phản ứng của chúng dưới ảnh hưởng các hóa chất trong pḥng thí nghiệm, những bậc danh sư bên phương Đông đă cố gắng tăng gia kiểm soát của họ đối với những mănh lực thần bí vô h́nh. Thí dụ như họ đă chú ư đến những kết quả thu lượm được do bởi năng khiếu Thần Nhăn. Nhiều người cho rằng điều ấy không thể nào có được: Họ chẳng khác nào như những người mù từ thuở lọt ḷng mẹ, nói rằng vốn không có thi giác, bởi v́ họ không hề có kinh nghiệm về cái giác quan đó! Làm sao họ có thể hiểu được rằng một vật có thể được nh́n thấy ở cách xa trong không gian, trong khi không hề có một sự tiếp xúc nào giữa vật ấy và đôi mắt của con người? Thể xác con người được bao phủ bằng một lớp vỏ như sương mù muôn màu ngh́n sắc: đó là cái hào quang. Những vị có Thần Nhăn nh́n vào hào quang của một người, có thể quan sát các màu sắc đó mà suy ra t́nh trạng sức khỏe, đức hạnh và tŕnh độ tiến hóa của người ấy. Cái hào quang ấy là sự phát huy, sự biểu hiện của một luồng khí lực từ bên trong, tức Chân Ngă, hay linh hồn con người. Đầu người ấy cũng được bao trùm bởi một ṿng hào quang xuất phát từ cái khí lực đó. Đến lúc chết, th́ cái hào quang ấy tắt hẳn: Linh hồn đă rời khỏi thể xác và phiêu diêu trên một cơi giới khác để bước qua một giai đoạn sinh hoạt mới. Khi đó, nó trở thành một cái "Bóng" phất phơ, có lẽ là bởi v́ nó c̣n hoang mang bởi sự xúc động mạnh khi nó được giải tỏa ra khỏi cái xác thân vật chất. Có thể rằng nó không hoàn toàn ư thức được những ǵ đă xảy ra. Bởi đó, các vị Lạt Ma có bổn phận giúp đỡ những người hấp hối và giảng giải cho họ nghe những giai đoạn ở bên cửa tử mà họ sẽ trải qua. Chứ nếu không, th́ linh hồn của họ sẽ bám víu lấy cơi trần do bởi những dục vọng của xác thịt c̣n chưa được thỏa măn. Vai tṛ của các vị tăng lữ cắt đứt những sợi dây trói buộc đó. Người Tây Tạng thường có những cuộc hành lễ cầu siêu để d́u dắt những vong linh người chết. Sự chết không làm cho người Tây Tạng sợ sệt, họ nghĩ rằng một vài nghi thức cẩn mật có thể giúp đỡ rất nhiều để cho linh hồn bước qua cơi giới bên kia một cách dễ dàng. Cần phải vạch một lộ tŕnh nhất định và rơ ràng, và điều khiển những tư tưởng của người hấp hối một cách thích nghi. Những cuộc lễ cầu siêu này được cử hành trong một ngôi đền dưới sự hiện diện của chừng độ ba trăm sư săi. Một nhóm bốn hay năm vị Lạt Ma có thần thông, có thể giao cảm với cơi vô h́nh, ngồi thành ṿng tṛn ở chính giữa, và đối diện với nhau. Trong khi các sư săi tụng niệm dưới sự điều khiển của một vị Sư Trưởng, các vị Lạt Ma cố gắng tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vong linh phiêu dạt, vất vưởng trong cơi vô h́nh. Những lời cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng thật khó mà dịch ra cho đúng nghĩa, nhưng tôi cũng xin được dịch đại khái như sau: - Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ vô định ở cơi bên kia cửa tử. Âm dương cách trở, người sống và người chết đều sống ở những cơi giới cách biệt nhau. Những gương mặt người chết có thể được nh́n thấy ở đâu? Ở đâu người ta có thể nghe được giọng nói của họ. Cây nhang đầu tiên được đốt lên để kêu gọi những linh hồn lạc lơng và chỉ đường cho họ. - Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ lạc lơng không người d́u dắt. Bầu thế giới này là một ảo ảnh. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng. Hữu sinh hữu diệt, vật ǵ có lúc sinh ra ắt phải có lúc chết. Chỉ có Phật pháp là con đường duy nhất đưa đến đời sống trường tồn vĩnh cửu. Cầu cho vong hồn các người siêu sinh tịnh độ. Cây nhang thứ nh́ được đốt lên để kêu gọi những vong hồn lạc lơng và để chỉ đường cho họ. - Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những bậc vua chúa oai quyền hống hách của thế gian, các người đă ngự trị trên những dăy giang san của thiên hạ. Triều đại của các người chỉ tồn tại có một thời nhưng những tiếng kêu rên siết của dân tộc các ngươi không bao giờ dứt. Do ḷng tham vọng chinh phục đất đai, các ngươi đă làm cho máu chảy thành sông, và những tiếng thở than của những kẻ bị trị c̣n làm rung chuyển cây cối, thấu đến trời xanh. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ. Một cây nhang thứ ba được đốt lên để kêu gọi vong hồn các bậc đế vương, cùng những nhà độc tài của thiên hạ và để chỉ đường cho họ. Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những kẻ bạc ác bất nhân và những kẻ trộm cướp của thế gian, các ngươi đă gây nên tội ác đối với kẻ đồng loại và ngay trong ḷng các người không có sự bằng an. Linh hồn các ngươi vất vưởng không nơi nương tựa và công lư không có ngự trong tâm của các ngươi. Cầu cho linh hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ... Một cây nhang thứ tư được đốt lên để kêu gọi vong hồn những kẻ tội lỗi đang phất phơ dật dờ trong cô quạnh. - Hăy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những nàng kỹ nữ các chốn lầu xanh của thế gian, những người buôn hương bán phấn mà tội lỗi của các bọn đàn ông đă làm cho ô uế, nay đang đi lang thang vô định trong cơi u minh tăm tối. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ. Cây nhang thứ năm được đốt lên để kêu gọi vong hồn các người đàn bà tội lỗi, sa đọa, để d́u dắt và giải thoát cho họ khỏi những sự trói buộc của thế gian... Trong bóng tối ban đêm tỏa khói hương nghi ngút, những ngọn đèn bơ loe lét làm rung rinh những bóng đen ở phía sau các pho tương thếp vàng. Sự căng thẳng càng tăng: Các vị Lạt Ma đang tập trung tư tưởng để giao cảm với những vong hồn đă chết nhưng chưa được giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc với cơi giới phàm trần. Những sư săi mặc áo tràng màu đỏ ngồi sắp từng hàng đối diện với nhau, cất giọng ngân nga tụng niệm những bài sinh cầu siêu cho các vong hồn. Cuộc lễ tiếp diễn với những lời chỉ thị đưa ra cho các vong hồn và nhịp độ của những lời cầu siêu tụng niệm cũng trở nên thưa dần, cho đến khi mọi tiếng động, mọi âm thanh đều dứt hẳn, và tất cả đều đắm ch́m trong im lặng. Trong lúc thức tỉnh, linh hồn con người dính liền với thể xác và không thể tách rời ra ngoài, trừ phi y đă có trải qua một sự tập luyện về vấn đề này. Khi chúng ta ngủ, chỉ có thể xác là cần sự nghỉ ngơi, c̣n linh hồn th́ thoát ra ngoài và bước vào cơi giới tinh thần, cũng như một đứa trẻ trở về nhà vào lúc chiều, sau giờ tan học. Linh hồn được nối liền với thể xác bằng "sợi dây bạc" nó có thể kéo dài đến vô tận. Sợi dây bạc này vẫn tồn tại luôn luôn khi nào thể xác c̣n sống; đến lúc chết, nó bị gián đoạn để cho linh hồn bước vào một cuộc đời mới trên cơi giới tinh thần, cũng như đứa hài nhi bị cắt rún để tách rời khỏi mẹ nó. Đối với đứa hài nhi, sự sinh ra đời có nghĩa là chấm dứt sự sống được bảo bọc che trở trong bụng mẹ. Đối với một linh hồn, sự chết có nghĩa là tái sinh trong một cơi tâm linh tự do hơn. Khi sợi dây bạc chưa bị cắt đứt, linh hồn được tự do chu du khắp nơi trong giấc ngủ của thể xác, hoặc ngay cả trong lúc thức tỉnh nếu người ta đă có trải qua một sự luyện tập đặc biệt. Sự chu du của linh hồn trong giấc ngủ tạo nên những giấc mộng, nó là những ấn tượng được chuyển di do sự trung gian của sợi dây bạc. Trong cơi giới tâm linh, vốn không có "Thời gian", v́ ư niệm về thời gian chỉ có ở cơi phàm trần hạ giới, bởi đó đôi khi những giấc mộng dài và phức tạp dường như chỉ diễn ra trong không đầy một giây đồng hồ. Một kinh nghiệm mà có lẽ ai cũng đă trải qua, là gặp trong giấc mộng một người quen ở cách ta rất xa, có thể ở cách đến muôn dặm trùng dương, ở chỗ tận cùng của thế giới, và nói chuyện với người ấy. Một thông điệp có thể đă được chuyển giao và khi thức giấc, người ta có cái cảm giác rất rơ rệt là: Có một cái ǵ mà ḿnh phải nhớ. Đôi khi, người ta nhớ rằng đă gặp trong mộng một người bạn hay một người thân thích trong khi họ ở rất xa, mà người ta không ngạc nhiên mà nhận được tin của họ ít lâu sau đó. Đối với những người không luyện tập, th́ trí nhớ của họ thường bị đảo lộn và kết quả là họ chỉ thấy những giấc mông vô lư hay những cơn ác mông. Ở Tây Tạng, người ta thường đi chu du khắp nơi không phải bằng thuật khinh thân, mà bằng cách xuất hồn, một kỹ thuật mà họ đă hoàn toàn nắm vững. Bằng phương pháp xuất hồn, linh hồn rời khỏi thể xác và vẫn dính liền với nó bằng sợi dây bạc, trong khi đó người ta tự do di chuyển khắp nơi tùy ư muốn trong cơi vô h́nh với tốc lực của tư tưởng. Khả năng xuất hồn cũng gọi là xuất thần hay xuất vía, để đi chu du nơi cơi Trung giới, là một việc rất thông thường ở xứ Tây Tạng. Những người mới bắt đầu áp dụng thử phương pháp này thường hay bị xúc động mạnh, đó là do sự thiếu tập luyện. Có thể rằng mỗi người đă có lần cảm thấy ḿnh lướt nhẹ trong giấc ngủ để rồi sau đó, không có lư do ǵ đáng kể, tự nhiên họ giật ḿnh bừng tỉnh dậy một cách đột ngột. Hiện tượng đó là do bởi sự xuất thần một cách quá mau chóng, sự chia ly quá đột ngột giữa thể xác với thể vía, làm cho sợi dây bạc bị chùn lại và thể vía tái nhập vào thể xác một cách quá mănh liệt. Sau khi bừng tỉnh dậy, người ta c̣n có cái cảm giác khó chịu hơn nữa. Linh hồn phất phơ ở phía trên cái thể xác rất xa, cũng ví như một quả bong bóng được thả lên trên không ở đầu cuối một sợi dây. Th́nh ĺnh, một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn như một tiếng đông mạnh, làm cho nó nhập vào thể xác một cách quá mau. Đương sự giật ḿnh tỉnh giấc và có cái cảm giác kinh khủng như từ trên cao té xuống vực thẳm và vừa tỉnh dậy kịp thời. Sự chu du trên cơi Trung giới một cách hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh và hoàn toàn ư thức mọi việc xảy ra, là một khả năng của hầu hết tất cả mọi người. Người ta chỉ cần có một sự luyện tập thích nghi, nhưng trong những giai đoạn đầu tiên, họ cần phải luyện tập ở một nơi vắng vẻ để không sợ bị ai quấy rầy. Cần nói rơ là trừ phi có sự chỉ dẫn của một vị đạo sư lăo luyện, người ta có thể bị hoang mang, kinh ngạc. Trên thực tế, sự tập luyện này không nguy hiểm, nhưng không phải là không có sự va chạm hay xúc động mạnh, nếu thể vía rời khỏi hay nhập vào thể xác không đúng lúc. Những người yếu tim không nên tập luyện phương pháp này, bởi v́ nếu có người nào đột nhiên bước vào pḥng khi họ đang tập, th́ thể vía hay sợi dây bạc của họ có thể bị náo động và điều đó thật vô cùng nguy hiểm. Sự va chạm đó có thể làm cho đương sự chết bất đắc kỳ tử và có những hậu quả rất phiền phức: Linh hồn y sẽ bị bắt buộc đầu thai trở lại ngay để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn ở cơi trần trước khi bước qua giai đoạn tiến hóa kế tiếp... Người Tây Tạng tin rằng thuở xưa kia, trước thời kỳ sa đọa của con người, nhân loại có thể đi chu du bằng cách xuất hồn, sử dụng Thần Nhăn, thực hành khoa thần giao cách cảm và phép khinh thân. Sự sa đọa này, theo chúng tôi hiểu, là do con người đă lạm dụng những quyền năng thần bí, những phép thuật thần thông để thực hiện những mục đích ích kỷ thay v́ để giúp ích cho sự tiến hóa chung của nhân loại. V́ sự lạm dụng đó, nên ngày nay nhân loại đă bị mất hết tất cả những quyền năng quư báu kể trên. Người Tây Tạng quả quyết rằng người ta có thể tiên đoán những việc có thể xảy ra trong tương lai. Khoa tiên tri là một khoa học, và một khoa học chính xác. Họ cũng tin ở khoa Chiêm Tinh. Những "Ảnh hưởng của tinh tú" chỉ là những vũ trụ tuyến do những bầu tinh tú phản chiếu xuống địa cầu, và chịu sự "Tô mầu" hoặc sự thay đổi bởi những bầu tinh tú này. Ai cũng biết rằng với một cái máy ảnh và ánh sáng mặt trời, người ta có thể chụp ảnh. Vài loại kính lọc ánh sáng, nếu đặt trước ống kính thu ảnh, có thể giúp cho người ta có được những tấm ảnh với hàng trăm loại màu sắc đặc biệt, cũng y như thế, những vũ trụ tuyến ảnh hưởng đến con người bằng nhiều cách khác nhau đến vô cùng tận tùy theo tác động của những bầu tinh tú khi phản chiếu vũ trụ tuyến xuống quả Địa Cầu. Kể từ thế kỷ thứ mười một trở về sau, tất cả những vấn đề chính sự quan trọng ở xứ Tây Tạng đều được quyết định bằng khoa Chiêm Tinh. Cuộc xâm lăng của quân đội Anh năm 1904 đă được tiên tri một cách chính xác. Người ta có ghi chép lời tiên tri này bằng chữ Tây Tạng, mà bản dịch như sau: "Năm Con Rồng bằng Gỗ (Mộc Long). Trong nửa năm đầu Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ được b́nh yên, sau đó những kẻ xâm lăng hiếu chiến sẽ tiến vào lănh thổ. Quân địch rất đông, nạn binh đao gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải lâm chiến. Đến cuối năm, sẽ có sứ giả ḥa b́nh và chiến tranh sẽ chấm dứt." Lời tiên tri này bắt đầu có trước năm 1850, nói về t́nh h́nh năm 1904, tức năm Con Rồng Gỗ. Đại tá Younghusband, tư lệnh quân đội Anh, có xem thấy bản văn lời tiên tri này ở thủ đô Lhassa. Nói về vấn đề tiên tri, có người đă hỏi tôi: "Tại sao tôi không tránh khỏi cạm bẫy và thử thách gian lao nó chờ đợi tôi, khi mà những điều đó đă được tiết lộ cho tôi biết trước?" Tôi chỉ có thể trả lời rằng: "Nếu người ta có thể tránh khỏi những tai nạn, đau khổ đă được tiết lộ cho ta biết trước, th́ việc ấy chứng tỏ những lời tiên tri đó là sai!"
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 34 of 45: Đă gửi: 29 April 2004 lúc 10:59am | Đă lưu IP
|
|
|
Những lời tiên tri, đều căn cứ trên sự "có thể xảy ra" của một vài sự việc, chứ không có nghĩa là con người phải chịu một cái định mệnh khắt khe, bất di dịch mà y không có tự do ư chí để sửa đổi. Trái lại, con người có thể sử dụng ư chí của ḿnh một phần nào. Thí dụ một người kia muốn đi từ Tân Đề Li đến Hoa Thịnh Đốn, lẽ tất nhiên y biết rơ khởi điểm và mục tiêu cuộc hành tŕnh. Nếu y chịu khó thăm ḍ trên bản đồ, y sẽ biết được những điểm then chốt mà y sẽ đi ngang qua trên một lộ tŕnh ngắn và tiện lợi nhất. Tuy rằng y cũng có thể dùng một lộ tŕnh khác, nhưng điều này không phải là sáng suốt khôn ngoan, v́ nó sẽ làm mất nhiều thời giờ và tổn phí tiền bạc. Cũng y như thế, trong trường hợp một chuyến từ Paris đến Marseille chẳng hạn, một người tài xế khôn ngoan sẽ thăm ḍ trên bản đồ và noi theo một lộ tŕnh đă vạch sẵn bởi một tổ chức du lịch. Như vậy, y sẽ có thể tránh khỏi những con đường gồ ghề lồi lơm; hoặc nếu y bắt buộc phải theo những con đường này và không thể làm sao hơn, th́ y sẽ biết trước để giảm bớt tốc lực và để tránh khỏi tai nạn. Khoa tiên tri cũng có tác dụng giống như vậy. Tuy nhiên, noi theo những con đường êm ái, dễ dàng, không phải luôn luôn là một điều tốt. Là một Phật tử, tôi tin ở định luật Luân Hồi và tôi tin rằng người ta sinh ra ở cơi trần là để "Học hỏi kinh nghiệm”. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ, nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ có một mục đích duy nhất là trau rèn và thử thách chúng ta để cho ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan, và minh triết hơn. Nhờ những lời tiên tri mà tôi được biết trước cuộc đời tôi, đó đă là nhiều lắm. Nhưng vẫn c̣n nhiều điều bí hiểm, thí dụ như những lời tiên tri về xứ Tây Tạng: Tại sao xứ ấy lại bị nạn ngoại xâm? Một xứ êm đềm, yên tĩnh, chỉ có sự ước mong duy nhất là phát triển trên địa hạt tâm linh, tại sao lại phải chịu nạn ấy? Tại sao những nước khác lại thèm muốn chiếm đoạt lănh thổ đất đai của chúng tôi, và đặt dân tộc xứ này dưới cái ách nô lệ? Ước vọng duy nhất của người Tây Tạng là được sống trong ḥa b́nh và tự do. Tuy vậy, người ta lại trông cậy nơi tôi để đi sang nước Trung Hoa, là một nước sẽ xâm lăng xứ Tây Tạng trong tương lai, để chữa trị và săn sóc thương bệnh binh trong một cuộc chiến tranh c̣n chưa bắt đầu! Dưới đây là một vài biến cố quan trong trong lịch sử xứ Tây Tạng trong số những biến cố quan trọng khác đă được tiên tri một cách chính xác: Năm 1910, cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa; năm 1911, cuộc Cách Mạnh Trung Hoa và Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập; cuối năm 1911, quân đội Trung Hoa bị đánh bật ra khỏi Tây Tạng; năm 1914, cuộc Thế Chiến Thứ Nhất; 1933, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trần; năm 1935; đức Đạt Lai Lạt Ma tái sinh trở lại; năm 1950; quân Trung Cộng xâm xứ Tây Tạng. Một nhà ngoại giao Anh là Sir Charless Bell đă thấy tất cả những lời tiên tri này ở Lhassa. Tất cả nghị lực trẻ trung của tôi đều hướng về một mục tiêu duy nhất: Làm sao thi đậu một cách vẻ vang vào kỳ thi sắp tới. V́ ngày lễ sinh nhật mười hai tuổi của tôi đă sắp đến, nên tôi học bớt lại từ từ. Tôi đă trải qua những năm học ráo riết về các môn Chiêm Tinh, Y Khoa, Giáo Lư, Sinh Ngữ Tây Tạng và Trung Hoa, và Toán Pháp. Ngày thi đă đến. Đúng sáu giờ sáng, tôi đến pḥng thi với độ mười lăm thí sinh khác. Mỗi thí sinh được đưa vào một pḥng nhỏ hẹp, đặt dưới sự canh gác thường xuyên của các sư săi "Cảnh binh" đi tuần ở ngoài hành lang. Mỗi ngày chúng tôi phải làm bài luận hoặc giải đáp các câu hỏi về một trong sáu môn học kể trên. Trong sáu ngày liên tiếp, chúng tôi bắt đầu làm bài từ sáng sớm cho đến chiều, một vị sư săi đem cho chúng tôi trà pha bơ và tsampa mỗi ngày ba lần. Phần thi các bài viết chấm dứt vào chiều ngày thứ sáu, kế đó chúng tôi được nghỉ vài ngày. Ba ngày sau, những bài viết đă được chấm xong, mỗi thí sinh phải ra trước hội đồng giám khảo để trả lời những câu về những điểm yếu kém của họ. Phần thi sát hạch chiếm trọn hết một ngày. Ngày hôm sau, tất cả mười sáu thí sinh tề tựu lại vũ đường để biểu diễn môn quyền thuật. Mỗi thí sinh phải đấu vơ với ba thí sinh khác. Những thí sinh yếu kém nhất sẽ bị loại rất mau, rồi đến lượt những thiếu niên khác, và sau cùng chỉ c̣n lại một ḿnh tôi thủ đài. Sự thành công này là nhờ sự huấn luyện vơ nghệ dưới sự chỉ dẫn của vơ sư Tzu, mà hồi nhỏ tôi vẫn cho là bất công và bạo tàn. Ít nhất tôi đă được chấm hạng nhất về môn quyền thuật. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được nghỉ để lấy lại sức, và ngày kế đó mới là ngày tuyên bố kết quả. Tôi và bốn thí sinh khác được chấm đậu: Chúng tôi đă trở nên những giáo sĩ kiêm y sĩ. Minh Gia Đại Đức, mà tôi không gặp trong suốt mùa thi cử, cho gọi tôi lại. Người lộ vẻ vui mừng trên nét mặt, và nói với tôi khi tôi đến tŕnh diện trước mặt người: - Lâm Bá, khá khen cho con v́ con đă đậu đầu. Vị Sử Trưởng đă gởi một phúc tŕnh đặc biệt cho đấng Thậm Thâm. Người muốn đề nghị với Ngài phong cho con chức Lạt Ma ngay lập tức, nhưng ta đă chống lại việc ấy. Thấy tôi hơi có vẻ bất măn, Sư Phụ tôi nói thêm: - Tốt hơn con hăy cố gắng học hỏi thêm và đạt tới quả vị ấy bằng khả năng của chính ḿnh. Nếu con lănh tước vị Lạt Ma ngay bây giờ, con sẽ bỏ lăng sự học và sau này con sẽ thấy rằng sự học của con có một tầm quan trọng rất lớn. Tuy nhiên, ta cho phép con ở căn pḥng kế bên, v́ con chắc chắn sẽ thi đậu kỳ thi tuyển các vị Lạt Ma khi thời giờ sẽ đến. Quyết định của Sư Phụ thật rất hữu lư. Dầu sao, tôi chỉ mong mỏi được vâng lời người một cách tuyệt đối. Tôi rất cảm động mà thấy rằng sự thành công của tôi cũng là sự thành công của người và Sư Phụ lấy làm vô cùng hân hạnh mà làm thầy của một đứa trẻ đậu đầu trên các môn khảo thí. Vài ngày sau đó, một thư tín viên cưỡi ngựa phi nước đại đem cho tôi một thông điệp của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài gởi lời khen tặng tôi về việc tôi vừa thi đậu và ra chỉ thị rằng kể từ nay tôi được đối xử như một Lạt Ma. Tôi sẽ được mặc áo như các vị Lạt Ma mà thụ hưởng mọi quyền hạn và đặc ân dành cho chức vị ấy. Ngài cũng đồng ư với Sư Phụ tôi, để cho tôi khảo thí vào năm mười sáu tuổi, v́ theo lời Ngài viết trong thơ: "Như vậy con sẽ học hỏi thêm những đề tài mà có lẽ con sẽ bỏ dở nếu con được tấn phong ngay bây giờ, và nhờ đó con sẽ mở mang những kiến thức của con cho thêm sâu rông." Thế là tôi đă trở nên một vị Lạt Ma. Tôi thuộc về thành phần ưu tú, thành phần của những bậc "Thượng Nhân." Những điều này cũng có những sự bất lợi: Trước kia, tôi phải giữ ba mươi hai giới luật của Ḍng Tu Sĩ, điều mà tôi vẫn coi như là một con số đáng e ngại. Khi đă trở nên một vị Lạt Ma, tôi phát hiện một cách kinh khủng rằng số giới của cấp đẳng này lên tới hai trăm năm mươi ba. Và ở tu viện Chakpori, một vị Lạt Ma chân chính phải giữ hết tất cả bấy nhiêu giới luật đó, không bỏ sót một giới luật nào? C̣n sự làm việc? Chúng tôi phải làm việc nhiều nhưng chúng tôi cũng không thiếu những sự vui về tinh thần và những cuộc chơi tiêu khiển. Thật là một niềm hạnh phúc rất lớn mà được sống gần những người như Minh Gia Đại Đức, mà tư tưởng duy nhất trong đời là gieo sự Bằng An và phụng sự nhân loại. Thật cũng là một phần thưởng tinh thần mà được nh́n thấy trước mắt cái phong cảnh êm đềm, với một thung lũng xanh tươi, cây cối xầm uất; với những con sông rạch màu nước xanh dương uốn khúc quanh co theo những dăy núi đồi ngoạn mục; với những ngọn tháp vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, những tu viện cổ kính bám chặt trên các sườn núi cheo leo hiểm trở, và chiêm ngưỡng với một ḷng tôn kính những mái bầu bằng vàng của điện Potala ở gần bên và những nóc nhà sặc sỡ dọc theo bờ sông Jo Kang ở xa hơn về phía đông. T́nh đồng môn của các vị Lạt Ma trong tu viện, ḷng ưu ái của các sư săi, mùi hương trầm quen thuộc phưởng phất trong các đền thờ, tất cả những thứ đó là cái bối cảnh hằng ngày của cuộc đời tu sĩ, và đó cũng là một cuộc đời đáng sống. C̣n những khó khăn, chướng ngại th́ cũng có rất nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Ở trong mọi tập thể cộng đồng, luôn luôn vẫn có những phần tử không thông cảm, những kẻ đố kỵ ganh ghét. Ở tu viện Chakpori, những kẻ ấy thật t́nh chỉ là một thiểu số. Kể từ đó, các vị Lạt Ma và sư săi trong tu viện đều đối xử với tôi một cách lễ độ, cung kính. "Cung Kính" là bởi v́ tôi là học tṛ của Minh Gia Đại Đức, một nhân vật trọng yếu được toàn thể mọi người đều yêu mến, bởi v́ tôi được nh́n nhận như một vị "Hóa Thân." Đối với quư vị độc giả muốn biết bằng cách nào người Tây Tạng có thể nhận ra một vị Hóa Thân, tôi xin tŕnh bày vài điểm sơ lược dưới đây: Cách cư xử khác thường của một đứa trẻ nhỏ có thể làm cho cha mẹ nó nghĩ rằng nó có khả năng cao hơn mức trung b́nh hay những kỷ niệm đặc biệt nào đó mà người ta không thể giải thích được một cách hợp lư. Trong trường hợp đó, cha mẹ nó đến tŕnh với vị Sư Trưởng của tu viện ở gần nhất, vị này mới chỉ định một ủy ban có nhiệm vụ đến xem xét đứa trẻ. Trước hết, ủy ban này lấy một lá số Chiêm Tinh hay Tử Vi cho đứa trẻ, sau đó mới xem tướng mạo và t́m ấn chứng trên khắp thân h́nh nó. Thí dụ như đứa trẻ có những chỉ tay đặt biệt trên hai bàn tay, hoặc những ấn chứng trên bả vai hay chân. Nếu đứa trẻ có những ấn chứng đó, người ta t́m cách truy ra tiền kiếp nó. Có thể rằng các vị Lạt Ma sẽ nh́n ra được nó, như trong trường hợp của tôi, và khi đó người ta mới đặt nó trong một cuộc thử thách xem nó có nh́n ra được chăng những đồ vật dụng riêng của nó hồi kiếp trước. Cuộc thử thách này được thực hiện khi đứa trẻ mới lên ba tuổi. Người ta nghĩ rằng với tuổi đó, c̣n quá non dại để có thể bị ảnh hưởng bởi những ǵ cha mẹ nó có thể nói cho nó biết. Nếu thử vào lúc nó c̣n trẻ hơn nữa th́ lại càng hay. Cha mẹ đứa trẻ không được dự vào cuộc thử thách, mà nó phải chọn lựa chín món đồ vật trong số ba chục món khác. Chỉ chọn sai hai món cũng bị loại, nếu đứa trẻ chọn đúng không sai món nào, th́ nó được nh́n nhận như một vị Hóa Thân, được nuôi dưỡng và giáo dục một cách đặc biệt. Khi nó lên bảy tuổi, người ta nói cho nó biết những lời tiên tri về cuộc đời tương lai của nó. Người ta cho rằng với tuổi đó, nó hoàn toàn có thể hiểu được ư nghĩa rơ ràng hay ẩn giấu của những lời tiên tri đó. Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi có thể quả quyết đúng y như vậy
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 35 of 45: Đă gửi: 01 May 2004 lúc 10:50am | Đă lưu IP
|
|
|
TÔI TRỞ VỀ NHÀ
Nhân dịp ngày lễ Logsar, tức ngày lễ đầu năm của Tây Tạng, nhà nhà đều quét dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng lịch sự. Ngày rằm tháng riêng, đức Đạt Lai Lạt Ma xuất hành đi lễ bái ở ngôi đền Jo Kang. Khi cuộc lễ chấm dứt, ngài bắt đầu đi diễn hành một ṿng lớn trên con đường Barkhor (tức con đường đi ṿng quanh ngôi đền Jo Kang và dinh Quốc Hội), đi ngang qua trước chợ và đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễn hành kết thúc, sự trang nghiêm, trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa, hưởng lạc. Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đă thi hành xong bổn phận đối với các đấng Thần minh, th́ giờ phút ăn chơi, tiêu khiển đă diểm. Trên những đài từ mười đến mười lăm thước bề cao, người ta đặt những mô h́nh nổi khổng lồ đúc bằng bơ có tô màu, để triển lăm những cảnh tượng huyền thoại rút trong các kinh thánh. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng chân lại để chiêm ngưỡng trước mỗi mỹ phẩm tŕnh bày và ban giải thưởng hàng năm cho những tác phẩm khéo nhất. Những giải thưởng này sẽ được chuyển giao cho các tu viện đă triển lăm những mỹ phẩm ưu tú. Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích chơi môn giải trí này, mà chúng tôi cho là ngây ngô và phiền phức, giống như những cuộc đua ngựa không người cưỡi trên vùng đồng bằng Lhassa. Cuộc diễn hành những pho tượng khổng lồ của các nhân vật Thần Thoại làm cho chúng tôi thích thú hơn. Những pho tượng này gồm một cái sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm cái thân ḿnh, bên trong ruột trống rỗng, có gắn một cái đầu rất lớn làm theo một kiểu rất tự nhiên. Bên trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt, có gắn những ngọc đèn bơ; ánh đèn rung rinh lập ḷe làm cho cặp mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động. Những sư săi cao lớn lực lượng, chân đi trên hai cây cà khêu bề cao ba thước, chui vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễn hành như những người khổng lồ. Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai nạn dị kỳ. Có khi một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường lộ, trong khi đó, những kẻ bất hạnh này đành phải đánh đu giữ thăng bằng trên một chân; có khi cả hai cây cà khêu đều trượt tới v́ đường trơn trợt. Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị rung chuyển quá mạnh và lật đổ, ngọn lửa bắt cháy thiêu pho tượng, th́ đó mới là một thảm kịch thực sự! Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề cử mang pho tượng đức Phật, bề cao đo tới tám thước tây. Trong khi tôi đi cà khêu bên trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện vào chân tôi, và những con mọt bay vần vũ chung quanh ḿnh tôi v́ bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được lấy từ trong kho ra. Khi tôi vừa bước đi vài bước khập khễnh trên hai cây cà khêu, bụi trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà mỗi lần hắt hơi đều hăm doạ sự thăng bằng của tôi một cách rất nguy hiểm. Mỗi lần hắt hơi làm thân h́nh tôi rung chuyển, lại làm cho t́nh trạng bất ổn của tôi càng trầm trọng thêm v́ những ngọn đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn những giọt bơ nóng chảy xuống cái sọ dừa cạo trọc của tôi, và... V́ cạo trọc nên nó càng "Nhậy cảm" hơn. Khi trời nóng bức một cách kinh khủng. Tôi bị ngộp thở muốn đứng tim v́ hít phải hàng mùi lụa cũ, mốc meo của chiếc áo cà sa bị cất giữ trong kho đă lâu ngày, tôi bị vây khốn bởi những đám mối mọt bay vần vũ như điên chung quanh tôi, và tôi bị phỏng rát da đầu v́ bơ nóng của các ngọn đèn; t́nh của tôi lúc ấy vô cùng bi đát! Cái lỗ nhỏ khoét ở giữa thân ḿnh pho tượng để nh́n ra ngoài lại không ngang với cặp mắt tôi. Tôi không thể nào điều chỉnh lại cái chi tiết quan trọng đó, mà không buông rớt hai cây cà khêu! Thành thử, tôi chỉ nh́n thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước tôi, và xét về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, th́ đủ biết rằng kẻ bất hạnh này cũng không thoải mái sung sướng ǵ hơn tôi lúc ấy! Nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma đang nh́n chúng tôi, và chúng tôi phải tiếp tục diễn hành trong t́ng trạng đó, vừa bị ngộp thở vừa bị ngốn hết phân nửa cái sọ dừa! Chắc hẳn là tôi đă sút mất vài kư lô trong ngày hôm đó! Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi: - Lâm Bá, con đă tŕnh diễn rất khéo. Con có thể trở nên một tài tử thiện nghệ! Tôi phải giữ kín không thổ lộ cho ông ta biết rằng những cử chỉ mà tôi đă làm cho ông ta thích thú, thật ra là hoàn toàn ngoài ư muốn của tôi, và kể từ đó, tôi không bao giờ đi diễu hành trong pho tượng nữa! Năm sáu tháng sau cuộc "Tŕnh diễn" đó, một cơn giông băo th́nh ĺnh nổi dậy, cuốn hết những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc ấy tôi cùng với một thiếu niên sơ cơ đang ngồi trên nóc tu viện và sắp đặt lại những viên ngói để sửa chữa chỗ bị dột. Cơn giông làm tôi bị hất rơi xuống một nóc nhà khác độ sáu bảy thước thấp hơn, và từ đó cơn gió thổi mạnh, cuốn tôi đi măi, làm cho tôi lại rơi một lần nữa xuống đất gần đường Lingkhor từ một bề cao độ chừng một trăm thước. Ở phía dưới là một vùng ao đầm, ẩm thấp, tôi rơi xuống một vũng nước sâu, nước cao ngập khỏi đầu. Tai nạn này làm cho tôi xúc động và mất b́nh tĩnh. Khi tôi cố gắng ngoi lên khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói ở khuỷu tay và ở bả vai bên trái. Tôi ḅ trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và lết đi một cách khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt. Bị té đau, không đủ sáng suốt để suy nghĩ ǵ nữa, tôi chỉ có một ư nghĩ: Trở về tu viện càng sớm càng hay. Như một người mù, tôi bước tới một cách chập choạng, mỗi bước đi lại vấp ngă; dọc đường tôi gặp những sư săi vừa chạy tới để xem kết quả tai nạn đă xảy ra cho tôi và đứa trẻ kia. Nhưng đứa trẻ này đă chết v́ té xuống những chỗ có tảng đá gồ ghề. Các sư săi khiêng tôi vào pḥng. Sư phụ tôi khám nghiệm bệnh t́nh của tôi và nói: - Ồ, tội nghiệp cho những trẻ nhỏ này! Đáng lẽ người ta không nên để chúng ra ngoài khi thời tiết như vầy! Kế đó, người nh́n tôi vào tận mắt: - Lâm Bá, con hỡi! Một cánh tay và một xương đ̣n gánh bị gẫy... Phải nắn xương lại tức khắc. Con sẽ đau đớn, nhưng thầy sẽ làm cách nào cho con chỉ đau tối thiểu mà thôi. Sư phụ vừa nói, và trước khi tôi ư thức được việc ǵ xảy ra, người đă nắn lại cái xương đ̣n gánh bị trặc và đặt lại cho đúng khớp. Khi Sư Phụ nắn chỗ khuỷu tay bị gẫy, tôi cảm thấy đau hơn, nhưng không lâu, v́ người đă mau ráp cái xương bị trặc vào đúng khớp của nó. Ngày đó, tôi nằm yên một chỗ không cử động, qua ngày hôm sau, Sư Phụ đến gặp tôi và nói: - Con đă bớt đau và có thể tiếp tục sự học, không nên bê trễ. Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau ngay trong pḥng này. Cũng như tất cả mọi người, con cảm thấy e ngại khi phải học những đề tài mới... Thầy sẽ giúp con bớt e ngại đó bằng phương pháp thôi miên. Sư Phụ đóng các cửa sổ, và gian pḥng đắm ch́m trong bóng tối. Chỉ có những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư Phụ bèn đặt tôi vào trạng thái giấc ngủ thôi miên. Tôi đă ngủ thiếp đi trong nhiều giờ. Khi tôi thức tỉnh, tôi nh́n thấy xuyên qua cánh cửa sổ mở, cảnh vật ban đêm hiện ra chập chờn trong thung lũng. Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ chiếu lập ḷe ở các cửa sổ trong điện Potala và ở chung quanh các vách tường rào: Người sư săi có phận sự túc trực ban đêm đang đi canh tuần. Tôi cũng nh́n thấy ở dưới chân đồi, thành phố Lhassa đang vươn ḿnh trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, Sư Phụ tôi bước vào và nói: - À, con đă thức tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đă nhận thấy cơi Trung giới vui đẹp đến nỗi con muốn kéo dài cuộc ngao du trên đó. Thầy chắc rằng bây giờ con đă đói, phải chăng? Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật t́nh tôi đang đói bụng. Người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống lấy sức, Sư Phụ nói với tôi: - Trong trường hợp thông thường, th́ có lẽ con đă chết v́ tai nạn vừa qua, nhưng khoa chiêm tinh đă nói rằng cuộc đời con chỉ kết thúc trong nhiều năm sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của những người mọi da đỏ (Mỹ Quốc). Trong giờ phút này, các sư săi đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ thiếu nhi vừa từ giă chúng ta. Nó đă chết ngay trong lúc tai nạn. Những người bước qua cơi giới bên kia cửa tử làm cho tôi mong ước số phận của họ. Kinh nghiệm của tôi đă giúp cho tôi nhận định rằng những cuộc ngao du trên cơi Trung giới thật rất là thú vị. Nhưng tôi nhớ lại rằng tuy không ai thích cái trường học ở thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi... Cuộc đời trên thế gian là ǵ, nếu không phải là một trường học? Và đó là một trường học rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: "Trong trường học này, tôi đă bị gẫy mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục học nữa!" Trong hai tuần lễ, sự học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết hơn lúc b́nh thường. Người ta nói rằng đó là để cho tôi quên đi, đừng nghĩ đến cái xương gẫy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những chỗ trặt xương đă được hàn gắn lại như cũ, nhưng tôi cảm thấy khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn c̣n thấy đau. Một buổi sáng, vừa bước vào pḥng, tôi thấy Minh Gia Đại Đức đang đọc một bức thơ. Sư Phụ ngước mắt nh́n tôi và nói: - Lâm Bá, chúng ta có một gói dược thảo để gởi tặng cho thân mẫu của con. Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng ngày mai, và con có thể ở lại nhà trọn ngày. Tôi đáp: - Con chắc rằng cha con không muốn gặp con. Cha con không nh́n con ngày nọ, khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu thang của điện Potala. - Đó là một việc rất thông thường. Cha con biết con vừa có cái hân hạnh được đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến. Bởi vậy, người không thể nói chuyện với con trong khi vắng mặt Thầy, v́ chính đấng Khôn Lường đă đích thân phú thác gửi gấm con cho Thầy vậy. Sư Phụ nh́n tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói: - Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đă đi Gyangtsé trong vài ngày. Qua ngày hôm sau, Sư Phụ chăm chú nh́n tôi từ đầu đến chân và nói: - Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề, và điều đó rất quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một khăn choàng cổ, con đừng quên rằng con là một vị Lạt Ma, là người phải tôn trọng mọi quy tắc. Trước kia, con đi bộ đến đây. Bây giờ, con hăy cưỡi một trong những con ngựa bạch quư nhất của tu viện để trở về nhà. Con hăy cưỡi con ngựa của thầy, nó đang cần phải vận động. Sư Phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một cái khăn choàng bằng lụa theo truyền thống để tỏ ḷng cung kính. Tôi nh́n kỹ cái khăn choàng một cách hoài nghi, v́ không nên để cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà biếu. Sau cùng, tôi quyết định cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra trước khi tới nhà cha mẹ tôi. Tôi giục ngựa xuống chân đồi và noi theo con đường Lingkhor như thường lệ. Sau khi đi độ nửa giờ, trải qua nhiều con đường ở ngoại ô thành phố, tôi nh́n thấy ở đằng xa cái cổng lớn của nhà tôi. Khi các gia nô nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi cho ngựa đi qua cổng để vào tận sân nhà với một hy vọng thầm kín rằng tôi sẽ không bị té rớt xuống yên ngựa. Rất may mắn, một người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây cương trong khi tôi nhảy xuống đất. Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi: Chúng tôi bèn trao đổi khăn choàng một cách lễ nghi trịnh trọng. Y nói: "Thưa ngài Lạt Ma y sĩ và đại gia công tử, xin công tử hăy ban ân huệ cho gia đ́nh và toàn thể nhân viên cư ngụ trong nhà này." Tôi đáp: - Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức khỏe trường cửu. - Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lệnh cho tôi đưa công tử vào. Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn đường (làm như tôi không biết đường đi một ḿnh), tôi rút cái khăn choàng ra và phủ ngoài cái bao da một cách cẩn thận. Chúng tôi bước lên lầu trên để vào pḥng khách của mẹ tôi. Tôi thầm nghĩ: "Người ta không bao giờ để cho tôi đến đây khi tôi c̣n nhỏ." Nhưng ư ngĩ đó liền nhường chỗ cho ư muốn mănh liệt là chạy vắt gị lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng pḥng khách của mẹ tôi đầy những khách... đàn bà! Trong khi tôi c̣n đang lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, th́ mẹ tôi đă bước đến gần và tiếp đón tôi trước: - Đại đức Lạt Ma, hỡi con, đấng Khôn Lường đă ban danh dự cho con rất nhiều. Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được nghe chính miệng con kể lại cái vinh dự ấy. Tôi đáp: - Thưa mẫu thân, những quy luật trong ḍng tu ngăn cấm con không được tiết lộ những ǵ ngài đă nói với con. Minh Gia Đại Đức có truyền cho đem kính dâng mẹ bao dược thảo này cùng với một khăn choàng bằng lụa. - Hỡi con yêu quí, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng xa xôi để được nghe chuyện trong cung điện của đấng Thậm Thâm và nghe nói chuyện về ngài. Phải chăng ngài vẫn thường xem những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử dụng một thứ kính có thể xuyên qua vách tường nhà?
|
Quay trở về đầu |
|
|
tranganh Hội viên

Đă tham gia: 04 January 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 352
|
Msg 36 of 45: Đă gửi: 01 May 2004 lúc 11:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
Hay quá soida ơi, tranganh t́m mùa quyển này lâu rồi mà không biết nó ở đâu. Tên tiêng anh có phải là Journey to the East không ạ? Soida biết ở đâu chỉ cho tranganh với nhé. Tranganh cám ơn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 37 of 45: Đă gửi: 02 May 2004 lúc 10:32am | Đă lưu IP
|
|
|
To: Tranganh
Tôi mua cuốn sách này đă lâu, nên không biết bây giờ các hiệu sách có c̣n bán không - Tiếng Anh th́ tôi rất dốt, nên không biết người ta dịch thế nào. Nhưng bạn có thể đọc cuốn sách đó ở đây mà không tốn một đồng nào cả. Đây là một trong những tôn chỉ của diễn đàn này. Chỉ mong mọi người hăy xây dựng, giúp đỡ lẫn nhau để diễn đàn ngày càng phát triển , hơn nữa các kiến thức cha ông ta để lại không bị mai một.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 38 of 45: Đă gửi: 02 May 2004 lúc 10:37am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi đáp: - Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt Ma sĩ nghèo, vừa mới xuống núi, và thật là không xứng đáng để nói chuyện về đức Chưởng Giáo của ḍng tu chúng con. Con chỉ là một kẻ chuyển giao thư tín mà thôi. Lúc ấy, một thiếu phụ bước đến gần tôi và nói: - Đại Đức Lạt Ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây! Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, v́ chị tôi đă trở nên một thiếu nữ dậy th́, nở nang trọn vẹn và... hấp dẫn. Tôi cảm thấy e dè sợ hăi. Tất cả là tám hay chín vị phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá nhiều đối với tôi. Những người nam phái th́ tôi đă biết cách xử thế, c̣n đối với họn c̣n nữ giới... Họ nh́n tôi với những cặp mắt ṭ ṃ, dường như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Tôi chỉ c̣n có một giải pháp: Thoát thân. Tôi nói: - Thưa mẫu thân, con đă chuyển giao thông điệp và quà tặng của Sư Phụ con xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận hằng ngày. Con hăy c̣n đau và con có nhiều việc phải làm. Nói xong, tôi chào từ giă tất cả các quan khách, và quay lưng đi mau với một tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. V́ quản gia đă trở lại văn pḥng của người, và một người giữ ngựa dắt ngựa đến cho tôi. Tôi nói: - Anh hăy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, v́ tôi mới bị găy xương ở tay và vai, và tôi không thể lên yên ngựa một ḿnh. Người giữ cửa mở cổng để tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất hiện trên bao lơn và nh́n theo sau lưng tôi. Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ nh́n tôi vào tận mắt và hỏi: - Lâm Bá, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao? Tôi đáp: - Bạch Sư Phụ, ở nhà, con gặp một toán phụ nữ muốn nghe chuyện đấng Thậm Thâm và muốn biết những ǵ ngài đă nói với con. Con đáp rằng trong ḍng tu của chúng ta nghiêm cấm con tiết lộ cho họ nghe bất cứ chuyện ǵ. Và con đă chạy thoát thân... Sư Phụ hăy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều trố mắt nh́n con như cọp ŕnh mồi! Sư Phụ tôi phát tiếng cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự vui vẻ của Sư Phụ th́ người lại càng cười gịn giă hơn nữa. Người nói: - Đấng Khôn Lường muốn biết con có muốn ở lại tu viện suốt đời hay con c̣n nghĩ đến việc trở về với gia đ́nh. Đời sống tu viện đă làm đảo lộn mọi quan niệm của chúng tôi về đời sống xă hội; hồi đó tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ lùng mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp: - Gia đ́nh con là ở đây. Con không muốn trở về nhà. Tất cả những bà mệnh phụ ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ trơn bóng làm cho con phát ngấy... Và họ nh́n con với một vẻ mặt lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể ở làng Sho trước một con trừu trúng giải nhất trong một cuộc triển lăm nông nghiệp! Họ thốt ra những tiến kêu chát chúa và những màu sắc trên thể vía của họ thật là... Dễ sợ! Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng bảo con trở về nhà nữa! Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng đức Đạt Lai Lạt Ma rất chú ư đến tôi, và đă quyết định cho tôi trở về nhà một hai ngày mỗi khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân trong gia đ́nh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 39 of 45: Đă gửi: 02 May 2004 lúc 10:39am | Đă lưu IP
|
|
|
TÔI SỬ DỤNG THẦN NHĂN
Một buổi sáng, tôi đang lúc rảnh rang, Minh Gia Đại Đức đến t́m tôi và nói: - Chúng ta hăy đi chơi một ṿng. Thầy có một việc để cho con làm. Tôi rất vui mừng với ư nghĩ được đi dạo chơi với Sư Phụ. Chúng tôi xuống dưới chân đồi, và sau khi đi ṿng quanh nhiều đường phố ở thủ đô Lhassa, chúng tôi đi ngang qua trụ sở của Phái Bộ Ngoại Giao Trung Hoa. Sư Phụ tôi vừa đi vừa nói: - Một phái đoàn Trung Hoa vừa mới đến, như thầy vừa nói chuyện với con. Chúng ta hăy nh́n qua mỗi nhân viên phái đoàn để xem họ là người như thế nào. Ấn tượng của tôi đầu tiên rơ ràng là không thuận lợi. Ở bên trong trụ sở của phái bộ, các nhân viên Trung Hoa đi bách bộ qua lại trong các pḥng, vẻ mặt tự đắc, hoặc đang lui cui mở các rương trắp, và các thùng đồ đạc. Tôi nhận thấy họ có một số khí giới khá nhiều, đủ để vơ trang một đạo binh nhỏ. Vóc người nhỏ thó của tôi cho phép tôi mở một cuộc "Do thám" dễ dàng hơn một người lớn. Thật vậy, tôi đă lén ḅ lại gần một cửa sổ mở, xuyên qua đó tôi có thể ŕnh xem họ cho đến khi một người trong bọn họ ngẩng đầu lên. Khi người ấy nh́n thấy tôi, y nổi giận thốt lên một câu nguyền rủa bằng tiếng...Trung Hoa, có tính cách xúc phạm đến tổ tiên của tôi. Y nh́n quanh t́m một vật ǵ để ném tôi, nhưng tôi rút lui trước khi y có thể hạ thủ. Trên đường về, tôi nói với Minh Gia Đại Đức: - Sư Phụ biết không, họ có những vầng hào quang màu đỏ! Và họ có một lối vung dao găm rất dễ sợ! Sư Phụ tôi có vẻ trầm tư trên suốt con đường về. Sau buổi ăn chiều, người nói với tôi: - Thầy đă suy nghĩ nhiều về phái đoàn Trung Hoa, và thầy sẽ đề nghị với đấng Khôn Lường (một trong những danh từ sùng kính để chỉ đức Đạt Lai Lạt Ma) hăy sử dụng năng khiếu Thần Nhăn của con. Trong trường hợp đó, con có thể quan sát họ xuyên qua một bức b́nh phong được chăng? Tôi đáp: - Nếu Sư Phụ nghĩ rằng con có thể, th́ chắc chắn con sẽ làm được. Tôi không gặp Sư Phụ tôi suốt cả ngày hôm sau; qua ngày kế đó, người để tôi làm việc suốt buổi sáng và sau buổi ăn trưa, người nói với tôi: - Lâm Bá, trưa nay chúng ta sẽ đi chơi một ṿng. Đây là một cái khăn choàng tốt hảo hạng. Không phải cần có thần thông mới biết rằng chúng ta sẽ đi đâu. Con có mười phút để chuẩn bị, rồi sau đó hăy đến gặp thầy. Thầy cần phải nói trước với vị Sử Trưởng. Một lần nữa, chúng tôi lại noi theo con đường cheo leo đi xuống chân núi. Một con đường tắt xuyên qua sườn núi phía tây nam đưa chúng tôi đến vườn Ngọc Uyển gần bên điện Potala rất mau chóng. Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích khu vườn này, tại đây Ngài thường đến thượng ngoạn trong những giờ nhàn rỗi. Trong vườn Ngọc Uyển có một cái hồ sen nhân tạo rất đẹp, với hai cù lao, trên mỗi cù lao có dựng lên một nơi nhà mát để nghĩ hè. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường đến những cù lao trên hồ sen này, tại đây Ngài tham thiền nhiều giờ mỗi ngày. Bên trong vườn Ngọc Uyển, có dinh trại của toán Ngự Lâm Quân gồm độ năm trăm người có phận sự bảo vệ an ninh cho Ngài. Đó là nơi tôi cùng với Sư Phụ tôi đến viếng lần đầu tiên trong ngày hôm đó. Sau khi đă đi qua những khu vườn sầm uất, chúng tôi bước qua một cánh cửa rất đẹp đưa vào một khoảnh vườn bên trong. Những thứ chim đủ loại lông cánh đủ màu sặc sỡ đang ăn dưới đất. Chúng không màng nh́n thầy tṛ tôi, nên chúng tôi cũng không muốn làm quấy rầy chúng. Mặt hồ phẳng lặng chiếu sáng như một tấm gương trong. Con đường lót đá đă được quét vôi trắng và chúng tôi noi theo để đi tới cái cù lao xa nhất, tại đây đấng Khôn Lường đang đắm ch́m trong một cơn thiền định thâm sâu. Khi chúng tôi bước đến gần, Ngài ngước mắt lên và mỉm cười với chúng tôi. Chúng tôi liền qú xuống, đặt cái khăn choàng dưới chân Ngài và Ngài mời chúng tôi ngồi xuống trước mặt. Kế đó Ngài gơ chuông để ra hiệu cho một vị Lạt Ma hầu cận dâng trà, một thủ tục thông thường trước khi bắt đầu mọi câu chuyện. Trong khi chờ đợi, Ngài nói chuyện với tôi về những loài thú cầm của Ngài nuôi trong vườn Ngọc Uyển và hứa sẽ cho tôi xem sau này. Vị quan hầu cận dâng trà xong, vừa lui ra th́ đức Đạt Lai Lạt Ma nh́n tôi và nói: - Đạo hữu Minh Gia có nói cho biết rằng con không ưa những hào quang của phái đoàn Trung Hoa. Người nói rằng tất cả bọn họ đều có mang đầy đủ khí giới. Trong các cuộc thử thách bí mật hay công khai trước đây, năng khiếu Thần Nhăn của con đă tỏ ra chính xác và không hề lầm lẫn. Vậy con nghĩ sao về những người ấy? Câu hỏi của Ngài làm cho tôi bối rối. Tôi không thích nói cho ai nghe trừ phi với Sư Phụ tôi, những ǵ tôi nh́n thấy trong hào quang của thiên hạ, và những màu sắc ấy có ư nghĩa ǵ đối với tôi. Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu một người không thể nh́n thấy và tự diễn đạt lấy ư nghĩa các hào quang ấy cho riêng ḿnh th́ điều đó có nghĩa là người ấy không có cái định mệnh được biết những ǵ tôi biết. Nhưng làm sao tôi dám nói điều ấy với vị Nguyên Thủ quốc gia? Nhất là một vị Nguyên Thủ không có năng khiếu Thần Nhăn? Tôi bèn đáp: - Vạn bạch Thái Tuế, con rất vụng về trong việc nh́n xem hào quang của người khác, và bởi đó con không đủ tư các cách xứng đáng để bày tỏ một ư kiến nào hết. Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, v́ đấng Thậm Thâm lại nói tiếp: - Con thuộc về thành phần những người bẩm sinh ra đă có những khả năng thiên phú. Những khả năng đó đă được phát triển nhờ sự luyện tập theo các pháp môn bí truyền. Con có bổn phận phải nói. Con đă được nuôi nấng dạy dỗ chỉ v́ mục đích đó mà thôi. Ta nghe đây. - Vạn bạch Thái Tuế, những nhân viên trong phái đoàn Trung Hoa đều có những ư đồ rất xảo trá quỷ quyệt. Những màu sắc trong hào quang của họ biểu lộ một ư địng lường gạt và phản bội. Tôi không nói nhiều nữa, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ hai ḷng. Ngài nói: - Tốt lắm, con đă lập lại đúng y như những lời con đă nói với đạo hữu Minh Gia. Ngày mai, con sẽ đứng núp phía sau tấm b́nh phong này và con sẽ quan sát phái đoàn Trung Hoa khi họ đến đây. Chúng ta cần biết rơ ư đồ của họ. Con hăy núp ngay bây giờ thử xem có ai nh́n thấy không? Tôi bèn tuân lệnh đứng núp sau b́nh phong, các sư săi nô bộc cũng rời những con sư tử đá chận thêm ở phía ngoài để cho tôi được hoàn kín đáo. Người ta thử tập dượt qua một lần cuộc viếng thăm này, những vị Lạt Ma đóng vai tṛ của phái đoàn Trung Hoa. Họ cố gắng t́m ra chỗ tôi ẩn núp. Tôi nh́n thấy tư tưởng của một người trong bọn: - Nếu ḿnh t́m thấy nó, ḿnh sẽ được thăng thưởng; Nhưng rốt cuộc y cũng chẳng được ǵ, v́ y nh́n về phía khác. Sau cùng, đấng Thậm Thâm tỏ ư hài ḷng và gọi tôi. Sau vài phút nói chuyện, Ngài dặn chúng tôi hăy trở lại vào ngày hôm sau v́ phái đoàn Trung Hoa sẽ t́m cách bắt buộc Ngài kư một hiệp ước. Với ư nghĩ đó, chúng tôi từ biệt Ngài và trở về tu viện Chakpori. Ngày hôm sau vào khoảng mười một giờ, chúng tôi đă có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp đón tôi với một nụ cười và nói rằng tôi phải ăn uống trước đă (điều này lúc nào tôi cũng sẵn sàng!) trước khi vào núp phía sau tấm b́nh phong. Theo lệnh Ngài, người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn thịnh soạn, với những đồ thực phẩm nhập cảng từ bên Ấn Độ, mà tôi chưa được biết tên gọi là ǵ. Điều mà tôi biết, là lần đầu tiên tôi được ăn một bữa ăn lạ miệng và hoàn toàn khác hẳn với các món ăn cũ rích là trà bơ, tsampa và củ cải; sau khi đă ăn uống no ḷng, tôi cảm thấy hăng hái hơn để có thể đương đầu với cái viễn cảnh phải ngồi yên bất dộng trong một thời gian. Sự ngồi yên bất đông hoàn toàn, điều kiện tất yếu của môn thiền định, không có ǵ là khó khăn đối với các vị Lạt Ma. Từ thủa ấu thơ, nói đúng ra là từ năm tôi lên bẩy, người ta đă tập cho tôi ngồi yên không cử động trong nhiều giờ. Để thực tập, người ta đặt một cái đèn thắp bằng bơ lên đầu tôi và tôi phải ngồi trong tư thế liên hoa cho đến khi chất bơ trong đèn đă cạn, tức là suốt mười hai giờ. Như vậy, ngồi yên không cử động suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ không phải là một điều khó. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng ngồi trong tư thế liên hoa đối diện với tôi, trên một chiếc ngai độ hai thước cao hơn mặt đất. Ngài ngồi yên không cử động; tôi cũng vậy. Th́nh ĺnh, những tiếng kêu và nhiều tiếng chào bằng tiếng Trung Hoa từ đằng xa vọng đến tai chúng tôi, sau đó tôi nghe nói rằng y phục của phái đoàn Trung Hoa có nhiều chỗ độn lên rất khả nghi, và người ta đă phải lục soát trong ḿnh họ để tước khí giới. Sau đó, dưới sự hướng dẫn của quân ngự lâm, họ được đưa vào nội cung và chừng tôi nh́n thấy họ noi theo con đường lót đá đi đến trước tư dinh. Một vị Lạt Ma cao cấp cất tiếng ngân nga: Om! Mani padme Hum, nhưng phái đoàn Trung Hoa, thay v́ phải lập lại câu châm ngôn ấy như nghi lễ bắt buộc, đă đáp lễ bằng tiếng Trung Hoa: - A Di Đà Phật! Từ chỗ tôi ẩn núp, tôi nh́n thấy hào quang của họ chiếu sáng. Tôi quan sát những màu sắc xám lợt thỉnh thoảng lại phóng ra những tia màu đỏ bầm, biểu lộ những ḍng tư tưởng oán ghét, hận thù. Hào quang của họ có những lằn và những vệt ngang màu rất xấu xa, chớ không có những màu sắc trong sáng và tinh khiết của những tư tưởng thanh cao. Những hào quang màu sắc đục ngầu và xấu xí của họ biểu lộ những tâm hồn đầy dục vọng vật chất và tội lỗi. Đó chính là những người được diễn tả rất đúng bởi câu sáo ngữ "Khẩu Phật, tâm xà." Tôi nh́n đức Đạt Lai Lạt Ma, hào quang của Ngài biểu lộ sự buồn rầu, v́ Ngài đang nhớ lại cái thời kỳ xa xưa khi Ngài lưu vong sang sứ Trung Hoa. Tác phong của Ngài làm cho tôi rất cảm mến; xứ Tây Tạng chưa hề có một vị Quốc vương xứng đáng hơn Ngài. Ngài có một tính chất cương nghị, thậm chí có khi rất nóng nảy, v́ có những tia đỏ xẹt ngang qua hào quang của Ngài, nhưng lịch sự sẽ nhắc nhở rằng Ngài là vị Đạt Lai Lạt Ma cao cả nhất mà Ngài đă từng quên ḿnh trọn vẹn trong công việc phụng sự xứ sở. Tôi có một ḷng kính yêu thật sự đối Ngài và trong ḷng tôi Ngài chiếm được một ưu thế ngay sau Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi. Cuộc hội kiến kéo dài mà không mang lại một kết quả hữu ích, v́ những người ấy đến đây không phải với tư cách là bạn mà là thù. Họ có những ư nghĩ đă định sẵn, cùng những phương pháp để thực hiện những ư đồ của họ. Họ muốn chiếm thêm đất đai lănh thổ, điều khiển nền chánh trị của Tây Tạng, và trên hết là... Vàng! Vàng đă từng là mục tiêu tham vọng của họ tự muôn đời, vàng có đến hằng bao nhiêu trăm tấn ở Tây Tạng, ở xứ này nó được coi như một loại kim khí linh thiêng. Theo sự tín ngưỡng của dân bản xứ, đào mỏ t́m vàng tức là làm mất đi cái khí thiêng của xứ sở, xúc phạm đến Thần Linh, nên không ai có ư định làm việc ấy. Ở Tây Tạng có những sông rạch ở đó người ta có thể đăi cát lấy vàng do gịng nước cuốn trôi xuống từ trên núi. Trong vùng Chang Tang, tôi đă thấy vàng đọng lại như cát ở các bờ suối. Thứ vàng này đem nấu tan ra, sẽ dùng làm đồ trang trí các đền thờ, v́ loại kim khí linh thiêng này tự nhiên là để dùng vào những mục đích linh thiêng. Những ngọn đèn thắp bằng bơ cũng làm toàn bằng vàng. Nhưng có điều là chất vàng quá mềm nên sau một thời gian các đồ dùng đều méo và mất h́nh thể một cách dễ dàng. Diện tích xứ Tây Tạng lớn gấp bảy lần nước Pháp. Nhiều vùng rộng lớn vẫn chưa được thám hiểm và tôi được biết rằng ở đó người ta t́m ra rất nhiều vàng, bạc và uranium. Người Tây Tạng không bao giờ để cho người Tây Phương t́m đến các mỏ khoáng chất trong xứ họ, mặc dầu có những vận động ráo riết của những người này, v́ họ có một câu châm ngôn cổ nói rằng: "Ở đâu có người Tây Phương, là ở đó có chiến tranh." Trong quyển sách này, khi tôi nói đến những cái kèn vàng, đĩa vàng, và "Thi hài bọc vàng", xin độc giả đừng nên quên rằng ở Tây Tạng, vàng không phải là một loại kim khí hiếm có mà là loại kim khí linh thiêng. Xứ Tây Tạng có thể là một kho tài nguyên phong phú vô tận mở rộng cửa cho toàn thể thế giới nếu nhân loại chịu hợp nhất và làm việc trong nền ḥa b́nh, thay v́ tự tiêu diệt lấy nhau trong cái ảo vọng tranh giành thế lực. Một buổi sáng, tôi đang ngồi chép một bản kinh bút tự để đưa cho thợ khắc chữ, th́ Minh Gia Đại Đức đến t́m tôi và nói: - Lâm Bá, con hăy gác lại việc ấy. Đấng Khôn Lường có cho gọi chúng ta đến vườn Ngọc Uyển để quan sát cái hào quang của một người ngoại quốc đến từ thế giới Phương Tây. Con hăy đi mau, v́ Ngài muốn nói chuyện riêng với chúng ta trước khi tiếp khách. Không cần đem theo khăn choàng và không cần nghi lễ chi cả. Con chỉ cần sửa soạn đi gấp, thế thôi! Tôi nh́n Sư Phụ một giây và đáp: - Bạch Sư Phụ, để con vào thay áo, rồi con sẽ sẵn sàng. Tôi không mất nhiều thời giờ để sửa soạn y phục chỉnh tề. Chúng tôi bước ra khỏi tu viện và trong giây lát chúng tôi đă có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Nhưng quân canh gác vừa xua tay định bảo chúng tôi đi chỗ khác chơi, nhưng khi họ nh́n ra Minh Gia Đại Đức, họ liền thay đổi thái độ ngay tức khắc và mau mắn dẫn đường đưa chúng tôi vào nội cung
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 40 of 45: Đă gửi: 03 May 2004 lúc 11:16am | Đă lưu IP
|
|
|
tại đây đức Đạt Lai Lạt Ma đă ngồi sẵn chờ đợi chúng tôi. Không có khăn choàng để làm lễ ra mắt, tôi cảm thấy tôi có vẻ vụng về lúng túng v́ tôi không biết dùng hai bàn tay tôi làm ǵ? Đấng Thậm Thâm vừa mỉm cười nh́n chúng tôi và nói: - Minh Gia hăy an tọa, và con nữa, Lâm Bá. Quư vị đă không mất nhiều thời giờ. Chúng tôi ngồi xuống và đợi Ngài mở lời trước. Ngài ngồi tĩnh tọa và định tâm trong một lúc, dường như để sắp đặt những tư tưởng của Ngài cho có trật tự. Kế đó, Ngài nói: - Trước đây đă lâu, quân mọi lông đỏ (người Anh) đă xâm chiếm xứ sở chúng ta. Khi đó ta đi qua Mông Cổ, giai đoạn đầu của một chuyến viễn du dài hạn. Năm Canh Tuất (1910), quân Trung Hoa lại xâm lăng xứ chúng ta, cuộc xâm lăng này là hậu quả trực tiếp của cuộc tấn công của quân Anh. Lần này ta lại lên đường qua Ấn Độ và chính trong dịp đó ta đă gặp vị sứ thần Anh Quốc mà ta sẽ tiếp kiến ngày hôm nay. Ta nói những điều đó là để cho con, Lâm Bá, v́ Minh Gia đă tháp tùng theo ta trong những dịp xuất ngoại đó. Người Anh đă hứa hẹn với ta nhiều điều mà tốt cuộc họ không giữ lời hứa. Hôm nay, ta muốn biết xem người sứ giả này có thành thật hay không. Lâm Bá, con sẽ không hiểu những lời nói của ông ta; như vậy, những lời ấy sẽ không ảnh hưởng ǵ đến con. Con hăy đứng núp sau tấm b́nh phong này, con có thể quan sát mọi sự mà không ai biết. Con hăy nh́n xem hào quang của ông ta và đưa ra nhận xét của con như Sư Phụ con đă dạy. Bây giờ, Minh Gia đạo hữu hăy chỉ chỗ trú ẩn cho Lâm Bá, v́ y đă quen thuộc với sự chỉ dẫn của đạo hữu hơn là của ta, và ta tin chắc rằng y coi đạo hữu c̣n cao hơn vị Đạt Lai Lạt Ma nữa ḱa! Núp phía sau b́nh phong, tôi không ngớt nh́n chung quanh, quan sát các loài chim và các nhánh cây đẩy đưa theo chiều gió. Thỉnh thoảng tôi lén nhai vài miếng tsampa mà tôi đă đem theo. Th́nh ĺnh có tiếng động mạnh của cánh cửa vườn trong: Những vị Lạt Ma mặc áo vàng trong nhóm các quan hầu cận của đức Đạt Lai Lạt Ma bước vào cùng với một người da trắng ăn mặc một cách thật lố bịch dị kỳ. Tôi phải khó khăn lắm mới giữ được sự yên tĩnh, v́ tôi bật cười đến chết mất thôi. Người ấy dáng cao lớn và hơi gầy. Ông ta có mái tóc trắng, cặp lông mày thưa, đôi mắt rất sâu, và một đôi môi khép chặt, có vẻ đanh thép. Nhưng c̣n bộ y phục của người này! Nó được cắt trong một loại hàng màu xanh đậm, phía trước có một hàng nút bằng đồng bóng loáng. Bộ y phục này chắc hẳn là công tŕnh của một thợ may rất dở, v́ cái cổ áo quá lớn đến nỗi người ta phải lật nó ra ngoài, ngoài ra lại c̣n vài miếng vải vuông vá lên hai bên hông. Tôi tự hỏi có phải chăng người Tây Phương cũng ăn mặc vá từng miếng như áo cà sa của các sư săi bên phương Đông theo gương đức Phật ngày xưa? Xin nói thêm rằng hồi đó, tôi chưa biết ǵ về cái cổ áo lật (rờ ve) và cái túi áo tây! Ở Tây Tạng, những người nho nhă không phải là dân lao động đều mặc áo rộng, tay rất dài che lấp cả hai bàn tay. Trái lại, tay áo của người sứ giả này rất ngắn và chỉ dài đến cườm tay thôi. Tôi thầm nghĩ: - Tuy vậy, chắc người này không phải là một bác thợ cầy v́ hai bàn tay của ông ta có vẻ rất mềm mại. Có lẽ là ông ta không biết cách ăn mặc, thế thôi... Cái áo của ông ta chỉ dài đến nửa thân ḿnh. Tôi thầm nghĩ chắc là ông ta nghèo lắm. Quần của ông ta mặc quá chật và rơ ràng là quá dài, v́ gấu quần lại vén ngược lên. Tôi tự nghĩ: - "Trong bộ y phục này, chắc hẳn là ông ta cảm thấy lúng túng trước mặt đấng Thậm Thâm." Tôi lại tự hỏi rằng không biết có người nào cũng vừa tầm thước với ông, có thể cho ông ta mượn đỡ một bộ y phục thích đáng. Khi đó, tôi nh́n hai bàn chân ông ấy. Thật là một điều rất lạ lùng: Hai bàn chân ông ta bị nhốt trong một vật rất dị kỳ màu đen và bóng loáng dường như là được bao phủ bằng một lớp nước đá! Những vật này thật là khác hẳn với những đôi ủng bằng nỉ của người Tây Tạng chúng tôi thường dùng. Tôi chưa hề thấy bao giờ những vật dị kỳ như thế! Tôi ghi nhận những màu sắc trên hào quang của ông ta, cùng với sự kết luận của tôi. Vị sứ thần đôi khi nói chuyện bằng tiếng Tây Tạng, với một giọng khá đúng đối với một ngoại quốc, rồi lại thốt ra một tràng âm thanh lạ lùng mà tôi chưa hề nghe bao giờ. Về sau, người ta mới nói cho tôi biết rằng đó là tiếng Anh. Khi ông ta tḥ tay vào cái túi vá ở bên hông và lấy ra một mảnh vải trắng nhỏ, tôi lấy làm ngạc nhiên. Dưới đôi mắt kinh ngạc của tôi, ông ta đưa mảnh vải trắng ấy lên trước mũi và miệng phát ra một tiếng động giống như tiếng kèn. Tôi thầm nghĩ: - "Chắc hẳn đó là một cách chào đấng Khôn Lường!" (Người Tây Tạng không có thói quen dùng khăn tay.) Ông ta "Chào" xong, liền cẩn thận đút mảnh vải trắng vào chỗ cũ. Kế đó, ông ta đưa tay vào bên trong áo rồi lấy ra nhiều tờ giấy thuộc một loại mà tôi chưa hề thấy bao giờ. Thứ giấy bên Tây Tạng hơi dầy, nhám và màu vàng, c̣n loại giấy này trắng mỏng và láng. Tôi tự hỏi: - "Làm sao người ta có thể viết trên một tờ giấy như vậy? Không có ǵ trên đó để giữ lại cây viết ch́, v́ giấy trơn quá!" Khi đó, người khách lấy ra một cây viết và viết lên trên giấy những hàng chữ nguệch ngoạc không thể tưởng tượng. Tôi cho rằng ông ta không biết viết, có lẽ ông ta chỉ làm bộ cho có dáng vậy thôi! Ông ta chắc chắn là có tật nên bắt buộc phải ngồi trên một tấm gỗ đặt trên bốn chân, và để hai chân tḥng xuống đất. Xương sống ông ta chắc bị tật nên ông ta phải dựa lưng vào hai mảnh gỗ đóng chặt vào phía sau chỗ ngồi. Tôi cảm thấy động ḷng thương hại ông ta: Không những quần áo ông ta chật hẹp và ngắn cũn cỡn trông thật buồn cười, ông ta không biết viết và thỉnh thoảng lại làm ra vẻ lịch sự bằng cách thổi một tiếng vào một thứ kèn bằng vải, mà ông ta lại c̣n không thể ngồi vững vàng như mọi người, mà phải dựa lưng cho đỡ mỏi và để hai chân tḥng xuống lủng lẳng trong khoảng không! Ông cử động luôn luôn, ngồi chéo chân rồi lại bỏ chân xuống. Th́nh ĺnh, tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà thấy ông ta đưa chân trái lên, bàn chân chĩa thẳng về phía đức Đạt Lai Lạt Ma, một cử chỉ vô cùng hỗn láo và vô lễ đối với người Tây Tạng. Nhưng có lẽ ông ta chợt nghĩ ra điều đó, v́ ông ta lại đổi qua tư thế khác. Đấng Thậm Thâm dành cho ông ta một sự tiếp đăi trọng hậu bằng cách cũng ngồi trên một cái ghế gỗ, và cũng để hai chân tḥng xuống như ông ta. Vị sứ giả này có một cái tên rất lạ Charles A. Bell, có nghĩa là "Cái chuông." Những màu sắc trên hào quang của ông ta biểu lộ một t́ng trạng sức khỏe suy kém: Có lẽ khí hậu của sứ này không hợp với thể chất của ông ta. Ông ta dường như thật t́nh muốn giúp đỡ, phụng sự, nhưng theo những màu sắc trên hào quang cho thấy th́ ông ta hiển nhiên là không muốn làm một việc mạo hiểm có thể liên lụy đến thân danh ḿnh, nếu ông ta làm mất ḷng chính phủ Anh. Ông ta muốn áp dụng một chính sách nào đó, nhưng v́ chính phủ Anh không chịu nghe theo, nên ông ta chỉ c̣n cách là hy vọng rằng tương lai sẽ chứng minh cho sự thiện chí của ḿnh. Chúng tôi đă có những tài liệu chính xác về vị sứ thần Charles Bell. Chúng tôi đă thu nhập được những dữ kiện cần thiết, ngày sinh tháng đẻ, cùng những điểm quan trọng trong đời ông ta, nói tóm lại là tất cả những ǵ có thể giúp cho chúng tôi tiên đoán được tương lai của ông ta. Các nhà Chiêm Tinh đă phát hiện rằng trong một tiền kiếp, ông ta đă sống ở Tây Tạng và trong kiếp đó ông ta đă mong ước được đầu thai qua bên Tây Phương, với hy vọng là sẽ góp phần vào công việc tạo nên nhịp cầu thông cảm giữa Đông phương và Tây phương. Gần đây, có người cho tôi hay rằng chính ông ta nói đến vấn đề ấy trong một tác phẩm của ḿnh. Chúng tôi tin chắc rằng nếu ông ta có thể ảnh hưởng đến chính phủ Anh như ư ông ta muốn, th́ sau này đă không xảy ra cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng này đă được tiên tri từ trước, và những lời tiên tri bao giờ cũng được thực hiện. Chính phủ Anh có vẻ rất ngờ vực: Họ sợ rằng xứ Tây Tạng sẽ liên minh với Nga Xô, điều này thật không có lợi cho họ chút nào. Anh Quốc từ chối không chịu kư một hiệp ước với Tây Tạng và đồng thời cũng không muốn cho xứ này thiết lập những bang giao thân hữu với những nước khác. Xứ Sikkim, xứ Bhutan, và các nước khác đều có thể kư hiệp ước với Anh Quốc, nhưng Tây Tạng th́ không. Bởi đó, người Anh bắt đầu tháo mồ hôi hột lo thảo kế hoạch để xâm chiếm lănh thổ xứ Tây Tạng. Sứ giả Charles Bell có mặt tại chỗ vẫn biết rằng chính phủ Tây Tạng không hề muốn liên kết với bất cứ một quốc gia nào. Họ chỉ muốn sống tự do, độc lập, và tránh mọi tiếp xúc với người ngoại quốc, v́ những người này trong quá khứ chỉ có đem lại cho họ những tai họa tàn phá và đau khổ. Đấng Khôn Lường tỏ vẻ rất hài ḷng khi tôi tŕnh bày những điều nhận xét của tôi, sau khi sứ giả Bell đă lui gót. Nhưng Ngài chỉ nghĩ đến việc bắt tôi phải làm việc nhiều hơn. Ngài nói: - À, phải đấy, chúng ta cần phát triển khả năng của con nhiều hơn nữa. Khả năng đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều khi con sống ở các xứ phương xa. Chúng ta sẽ để cho con thụ huấn bằng một phương pháp thôi miên ráo riết hơn, để cho con được thâu nhập một số kiến thức tối đa. Ngài gơ chuông gọi quan hầu cận và nói: - Ta muốn gặp Minh Gia Đại Đức. Hăy mời người vào ngay lập tức. Vài phút sau, Sư Phụ tôi đă khoan thai bước đến. Tôi tự hỏi ai là người có thể hối thúc Sư Phụ tôi đi mau! Nhưng v́ đức Đạt Lai Lạt Ma coi Sư Phụ tôi như một bạn hữu, nên Ngài không muốn hối thúc người. Sư Phụ ngồi gần bên tôi, trước mặt đấng Thậm Thâm. Một người hầu cận mau mắn dâng trà và vài món thực phẩm của Ấn Độ. Khi chúng tôi đă an tọa đức Đạt Lai Lạt Ma cất tiếng nói: - Hỡi Minh Gia đạo huynh, đạo huynh đă không lầm, v́ Lâm Bá rất giỏi. Y có thể tiến bộ hơn nữa, và nhất định phải tiến. Vậy Đạo huynh hăy lấy mọi quyết định cần thiết để cho y được một sự thụ huấn nhanh chóng và toàn hảo đến mức tối đa. Đạo huynh hăy sử dụng mọi tất cả mọi phương tiện có sẵn, v́, như chúng ta thường được cho biết trước, những ngày đen tối và tai họa dồn dập sẽ đến với sứ sở chúng ta, nên chúng ta cần có một người tài giỏi có thể biên soạn những bộ kinh sách Huyền Môn cổ truyền. Như thế, hằng ngày tôi càng bận rộn hơn với nhiều công việc. Từ đó, tôi thường được gọi gấp vào điện để "Nhận xét" những hào quang các vị thượng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi đă trở nên một nhân vật quen thuộc của điện Potala và vườn Ngọc Uyển. Ở điện Potala, tôi có thể sử dụng những ống viễn vọng kính mà tôi rất thích. Một trong những ống kính này, một loại kính lớn để xem thiên văn dựng trên một cái giá có ba chân, làm tôi thích thú nhất và tôi đă từng trải qua nhiều giờ để quan sát mặt trăng và các bầu tinh tú cho đến khuya. Cùng với Minh Gia Đại Đức, tôi thường đến Lhassa để nh́n xem nhân vật của thủ đô. Với những năng khiếu thần thông siêu đẳng và những kinh nghiệm rộng răi của Sư Phụ về người và vật, người có thể kiểm sát được những nhận xét của tôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|