Tác giả |
|
Kiem Soat 007 Hội viên

Đă tham gia: 07 June 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 163
|
Msg 121 of 134: Đă gửi: 16 June 2004 lúc 6:00am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào anh DaoKy, có thể cho 00...7 hỏi một chút không? về việc anh nói bên trên, là cây cỏ nhận thức chỉ ở không gian 1 chiều đó? Như ḿnh ở không gian 3 chiều, nên không thể nhận ra được những ǵ xảy ra ở chiều thứ 4 (cố chắc cũng không được), vậy sao cây cỏ nó biết được ḿnh định làm ǵ nó mà nó sợ được?
Cám ơn các bài viết của anh làm 000 nhận ra được nhiều điều mới mẻ
|
Quay trở về đầu |
|
|
daoky Hội viên


Đă tham gia: 06 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 502
|
Msg 122 of 134: Đă gửi: 17 June 2004 lúc 2:10am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào Bạn Kiểm Sóat 007 thân mến!
Thật ra DaoKy có viết gi những điều ǵ mới đâu? Tất cả cái ấy đều xưa như trái đất ấy mà!
Tất cả con người cũng như các loài khác đều phải phấn đấu sinh tồn như một trạng thái tất nhiên. Các loài hạ đẳng th́ đấu tranh thiếu tư duy, nhưng chúng nó cái "Giác" tức là biết mà không phải suy lường như chúng ta, con vật sợ chết, c̣n thực vật nó cũng cảm nhận được sự nguy hiểm nên có những phản ứng điển h́nh như "cây cỏ Mắc Cở", trạng thái chúng xếp lá lại chinh là để tự vệ đưa những cành gai ra để nhầm de doạ những kẻ muốn ăn nó, hoặc loài hoa Hồng, cây Dứa .v.v.
Trong những cuộc thí nghiệm khoa học cận tâm linh gần đây ở Pháp, người ta tạo được máy chụp được các lớp siêu thể ở người, Động vật và kể cả thực vật nửa! Họ nhận thấy có những cơ thể mờ bao bọc bên ngoài cơ thể chính( Bạn có thể t́m đọc quyển "Bàn Tay Ánh Sáng", tác giả th́ DaoKy quên mất tên rồi!).
Có một điều này chúng ta hảy nghiệm : "Tư Tưởng tạo thành sóng năo xuyên suốt các chiều không gian 1 => 4...đó là cái không ngăn ngại ở phần hửu h́nh của chúng ta. Cũng như Dao Ky viết trong "Thế giới Bí ẩn" theo Khoa học cận tâm linh và Thần học cổ đă cho chúng ta khái niệm về " Linh Hồn " và sự thành h́nh của vũ trụ từ những hạt nguyên tử trường tồn Âm Dương. Nó thâm nhập vào hửu chất để tiến hoá dần trở nên vạn vật, nên phần hạt nguyên tử trường tồn ấy nó phải tạo thích hợp cho từng hoá thân của nó, trong đẳng cấp của nó. Ngay cả khi bạn làm một con người hửu t́nh, hửu tri giác th́ bạn biết bên trong có bao nhiêu loài cộng sinh với bạn không?
Ngoài những loài hửu h́nh kư sinh,và có loại vô h́nh thuộc loại Tinh Linh kư sinh nó đang ăn uông cùng bạn hằng ngày, cũng thúc đẩy tánh dục của bạn hằng ngày thế bạn có nhận ra không?
Chúng ta là những chúng sinh bất toàn muốn cầu học những cái ǵ tốt dẹp để tâm linh tiến hoá lên bậc thượng thiện trí thức !
Hơn nửa những ǵ khoa học vật lư hữu vi chúng ta cũng có giới hạn! Những ǵ chúng ta nói khẳng định hôm nay có thể ngày mai đă sai lệch một ít nhiều, vạn vật biến Dịch. Muốn thoả măn "trí thức", nên chúng đi từ khởi điểm của Triết lư cái "không" như trong tôn giáo đă nói! Từ đây mới t́m hiểu về hửu chất con người. Triết học hay tiến xa hơn là Khoa học cận tâm linh, cho nên một "phạm trù" cố gắng thoả măn những đ̣i hỏi mong muốn hiểu biết của con người, nó không phải chỉ là món hàng xa xỉ hửu chất mà bạn phải mua trong cửa hàng, nhưng nó thật cần thiết cho dới sống hằng ngày của những ai muốn đi sâu vào những ǵ bí ẩn và t́m hiểu khám phá thế giới Tâm Linh.
Nhà văn hào nổi tiếng của Anh Quốc nói :"-NHân loại sống thích hợp với triết lư về đời sống và tư tưởng vũ trụ thế giới của họ. Sự thật, ngay cả những con người nào không có chút tư tưởng ǵ, không thể sống mà không tin một thứ siêu h́nh? Sự lựa chọn đến với chúng ta, không phải sự siêu h́nh hay không siêu h́nh, mà ư thức chọn lựa sự siêu h́nh Đúng đắn, hay là siêu h́nh về Tà vạy!"
Bạn Kiểm Soát 007 thân mến!
Những ǵ DaoKy viết ra đây nếu được quư bạn cảm thông hiểu được th́ đó cũng là cái may cho DaoKy, v́ nếu như có nhu cầu th́ là một chuyện, c̣n không nhu cầu là một chuyện:
"-Hảy chuẩn bị tiếp nhận trong khi bạn nhu cầu"
Marcelle Auclair.
Cảm ơn bạn đă quan tâm bài viết. Chúc bạn một ngày vui vẻ trên diển đàn. Thân mến.
DaoKy
__________________ Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
|
Quay trở về đầu |
|
|
tieu son Hội viên

Đă tham gia: 16 June 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 8
|
Msg 123 of 134: Đă gửi: 17 June 2004 lúc 4:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chao Thanh quyen,
xin cho hoi, co phai nhung nguoi ban ma` Thanh quyen nhac dden dang tu phap mon Q.A voi ngai THVTS phai khong?
Cam on
Tieu son
__________________ Tieu son
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thanh Quyen Hội viên

Đă tham gia: 20 December 2003 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 207
|
Msg 124 of 134: Đă gửi: 17 June 2004 lúc 6:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vâng, dúng vậy
|
Quay trở về đầu |
|
|
daoky Hội viên


Đă tham gia: 06 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 502
|
Msg 125 of 134: Đă gửi: 22 June 2004 lúc 8:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Hi all!
Tieuson đả hỏi
Thanh Quyen
"-xin cho hoi, co phai nhung nguoi ban ma` Thanh quyen nhac dden dang tu phap mon Q.A voi ngai THVTS phai khong?
Cam on
Tieu son"
Thưa các bạn dù các bạn tu Pháp Môn nào, Tôn Giáo nào, chúng ta đều tiến đến sư thăng hoa tâm linh, về ngoại h́nh có chấp tướng, thí dụ: người trược quá, người kia trong sạch!!! Đó những điều chấp tướng c̣n phân biệt, tuy nhiên các Pháp đều dộ thoát chúng sanh. Nếu chúng ta thấy các Pháp đều binh đẳng th́ tất không c̣n có sự phân chấp thanh trược.
Pháp nào cũng chỉ là phương tiện cho hành giả, nhưng chỉ có những người hành pháp thoát hay không thoát là do chính bản thân của họ ma thôi!
Vài hàng góp lời chúc các bạn vui vẻ. Thân mến.
DaoKy
__________________ Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
|
Quay trở về đầu |
|
|
Ngoc_Phong Học Viên Lớp Phong Thủy


Đă tham gia: 12 January 2004 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 494
|
Msg 126 of 134: Đă gửi: 22 June 2004 lúc 12:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào chị ThanhQuyen,
Chị cho NP tò mò hỏi pháp môn Q.A thật sự nguyên chữ là gì vậy chị? Còn ngài THVTS viết nguyên chữ ra sao vậy chị? Mục đích của môn này tu để được xuất hồn như phái Vô Vi phải không chị?
Vài hàng thắc mắc. Chúc chị 1 ngày vui vẽ.
NP
Thân
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thanh Quyen Hội viên

Đă tham gia: 20 December 2003 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 207
|
Msg 127 of 134: Đă gửi: 24 June 2004 lúc 5:07am | Đă lưu IP
|
|
|
chào Ngọc Phong,
Hôm nay mới rănh để trả lời NP. Câu hỏi thiệt khó trả lời, v́ chị hiện nay không phải là môn đồ của pháp môn Quán Âm, tuy đọc sách nhiều nhưng chưa thọ pháp và thực hành. Nói về lư thuyết th́ cũng khó mà nói cho hết ư của pháp môn, cũng giống như nếu ai hỏi đạo Phật là ǵ th́ làm sao tóm gọn cái tinh hoa của đạo Phật trong vài ḍng được.
Thôi chị nói tắt vài ḍng cho em có khái niệm, rồi em muốn t́m hiểu sâu hơn th́ em có thể PM cho tieu son, bạn này sẽ cho em biết thêm những điều hay ẩn tàng trong pháp môn, hoặc sẽ chỉ cho em website để em vào đó tự t́m hiểu thêm.
Theo như chị biết th́ pháp môn này thiền định hàng ngày theo 1 phương pháp đựơc hướng dẫn, sử dụng con mắt thứ ba để câu thông với lực lượng vạn năng của vũ trụ, để học hỏi trau giồi tâm linh, mục tiêu cuối cùng vẫn là khám phá chân ngă để thể nhập làm một với vũ trụ muôn loài. Muốn dễ nhập định th́ điều kiện tiên quyết là phải quyết tâm giữ ngũ giới của Đức Phật dạy, và c̣n nhiều cách nữa để thân khẩu ư thanh tịnh. Ngoài ra, vị Thầy pháp môn này c̣n dạy học tṛ rất nhiều điều thực tế ngoài đời để gạt bỏ những vướng bận của ngoại cảnh, như không phê b́nh chỉ trích bới xấu kể lể chuyện nhà người, không tranh căi hơn thua, chăm lo cuộc sống gia đ́nh v.v...
Chị không thực hành thiền nên không biết pháp môn này có xuất hồn hay không, nhưng h́nh như mục đích tối hậu cũng như Phật Giáo, là quay vào nội tâm để khám phá chân ngă của ḿnh.
Chỉ vài ḍng th́ không nói hết được đâu, chị cũng sợ nói nhiều rồi nhiều khi nói trật th́ phiền lắm. Dĩ nhiên pháp môn nào cũng là phương tiện giúp hành giả nhưng tu chứng hay không là do tâm của người tu nữa, như anh DaoKy đă nói ở trên.
Em có thể mượn thư viện cuốn "The Tiger's Fang" của Paul Twitchell. Cuốn này của 1 người phương Tây tu theo Mật tông Tây Tạng, viết lại kinh nghiệm thiền định của ḿnh, những cảnh giới kinh nghiệm học hỏi ḿnh đă trải qua khi ngồi thiền, v.v... mà các bạn chị nói là rất giống với những thể nghiệm khi ngồi thiền của họ.
Nếu em c̣n thắc mắc, em cứ PM cho tiêu son hoặc chị th́ chị sẽ hỏi bạn chị và cho biết địa chỉ website để em t́m hiểu thêm.
Thân ái
|
Quay trở về đầu |
|
|
tieu son Hội viên

Đă tham gia: 16 June 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 8
|
Msg 128 of 134: Đă gửi: 24 June 2004 lúc 11:59am | Đă lưu IP
|
|
|
Chao TQ
Phap mon nay khong day nguoi ta xuat hon. Neu co xuat hon di đay đi đó, thi đo cung chi la su trung hop, hay kinh nghiem tam linh trong luc thien đinh ma thoị Theo nhu Tieuson đuoc biet thi phap mon Q.A nay tu thoi xa xua, co the noi la khoang vaì ngan` nam ve truoc cung la phap mon Nhĩ Can Vien Thong cua Ngai Van Thu Su Loi Bo Tat day cho nguoi ta vaò thoi đọ Vao thoi đo, Ngai Quan The Am Bo tat cung tu phap mon nay va đa thanh Phat, cho nen moi goi là QTABT, va moi khi minh niem phat thi hay niem Nam mo Quan The Am Bo Tat la nhu vay đó, chu khnog phai ten that cua Ngaì la Quan The Am do cha me đat ten cho Ngai luc moi sinh ra nhu vay (theo tieuson nghi nhu vay).
TS
__________________ Tieu son
|
Quay trở về đầu |
|
|
DaoTran Hội viên


Đă tham gia: 30 June 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 102
|
Msg 129 of 134: Đă gửi: 30 June 2004 lúc 5:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Hi all!
Trong vũ trụ có hai lực:
Thứ nhất là Am Thanh, thứ 2 là Ánh Sáng chúng h́nh thành bởi những tầng số chấn động va chạm, bùng nổ sau đó phát tán năng lượng:
-Tạo thành Âm Thanh do bước sóng thấp.
-Tạo thành Ánh sáng khi bước sóng tăng cao nhanh .
Người xưa đă khám phá được đặc t́nh ấy của vũ trụ, nên khi huân tu th́ họ hướng về cái lư chung nhất của vũ trụ!
-Con Người và vũ trụ là ṭan đồ năng lượng.
Tóm lại trong vũ trụ tất cả mọi hiện tượng đều do những vật chất vi tế mà ngày nay khoa hoc nói về Trường năng lượng gồm Sóng và Hạt...
Sửa lại bởi DaoTran : 30 June 2004 lúc 5:17am
__________________ Đường Trần thong thả dạo mà chơi.
Học lấy đau thương để biết
đời!
Mỗi cuộc vô thư
|
Quay trở về đầu |
|
|
DaoTran Hội viên


Đă tham gia: 30 June 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 102
|
Msg 130 of 134: Đă gửi: 30 June 2004 lúc 5:22am | Đă lưu IP
|
|
|
Nên pháp Quán Âm cũng dựa trên phương pháp bức xạ năng lượng trong bản thể dể đạt Âm Thanh và Ánh sáng...
Tuy thế không chỉ riêng Pháp Môn Quán Âm mà thôi mà tất cả các Pháp Tôn giáo khác cũng đạt được như thế!
V́ vạn Pháp Quy Tông đó là định luật và minh triết của vũ trụ...
__________________ Đường Trần thong thả dạo mà chơi.
Học lấy đau thương để biết
đời!
Mỗi cuộc vô thư
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thanh Quyen Hội viên

Đă tham gia: 20 December 2003 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 207
|
Msg 131 of 134: Đă gửi: 30 June 2004 lúc 10:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào Dao Tran,
Dao Tran viết hay quá, mói doc th́ Q tuỏng là anh DaoKy v́ va*n phong gần giống, nếu không phải th́ có lẽ là tu tuỏng của 2 ngụi dao dộng cùng tần số.
Dao Tran có thể chia xẻ hiểu biết, nói thêm về phần mà Dao Tran dă viết. Q rất quan tâm t́m hiểu về dề tài này la*'m.
Cám on nhiềụ
Thân ái
|
Quay trở về đầu |
|
|
daoky Hội viên


Đă tham gia: 06 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 502
|
Msg 132 of 134: Đă gửi: 30 June 2004 lúc 11:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào các bạn!
DaoTran đă viết:
"Trong vũ trụ có hai lực:
Thứ nhất là Am Thanh, thứ 2 là Ánh Sáng chúng h́nh thành bởi những tầng số chấn động va chạm, bùng nổ sau đó phát tán năng lượng:
-Tạo thành Âm Thanh do bước sóng thấp.
-Tạo thành Ánh sáng khi bước sóng tăng cao nhanh .
Người xưa đă khám phá được đặc t́nh ấy của vũ trụ, nên khi huân tu th́ họ hướng về cái lư chung nhất của vũ trụ!
-Con Người và vũ trụ là ṭan đồ năng lượng.
Tóm lại trong vũ trụ tất cả mọi hiện tượng đều do những vật chất vi tế mà ngày nay khoa hoc nói về Trường năng lượng gồm Sóng và Hạt..."
Không ngờ có người cũng hiểu như DaoKy trân trọng.
__________________ Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
|
Quay trở về đầu |
|
|
daoky Hội viên


Đă tham gia: 06 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 502
|
Msg 133 of 134: Đă gửi: 03 August 2004 lúc 10:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGŨ VỊ GIÁO CHỦ
trong ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
Con cọp tượng trưng năm Dần, đó là năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn khởi khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Đạo Cao Đài, để giáo hóa nhơn sanh tu hành trong buổi đời Mạt kiếp, và Đức Chí Tôn giao cho Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo chấm thi đậu rớt, mà môn thi là : Công Đức (Công quả và Đạo đức).
" Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một Trường Công đức cho các con nên đạo." (TNHT. I. 27)
" Vì vậy Thầy hằng nói cùng các con rằng : Một Trường thi Công quả. Các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc Thế Giới thì phải đi tại cửa nầy mà thôi." (TNHT. I. 34)
Người nào thiếu công đức thì bị đánh rớt, phải ở lại cõi trần học hỏi thêm để tiến hóa và sẽ tham dự vào một Hội thi mới sau nầy. Cho nên tượng hình Đức Di-Lạc Vương Phật ngự trên lưng cọp có ý nghĩa là kể từ năm Bính Dần (1926), là thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lạc được Đức Chí Tôn giao trọn quyền phong thưởng Vạn linh và điều hành toàn bộ sự Tiến hóa trong Càn khôn Thế giới.
- Hàng ngang bên trên : Đức Lão Tử, Giáo chủ Tiên giáo; Đức Phật Thích Ca, Giáo chủ Phật giáo; Đức Khổng Tử, Giáo chủ Nho giáo.
- Hàng ngang kế dưới là Tam Trấn Oai Nghiêm : Đức Quan Âm Bồ Tát, Đức Lý Thái Bạch, Đức Quan Thánh Đế Quân.
Hàng thẳng đứng ở giữa, từ trên xuống dưới : Đức Phật Thích Ca, Đức Lý Thái Bạch, Đức Chúa Jésus (Gia Tô Giáo chủ), Đức Khương Thượng Tử Nha (Giáo chủ Thần đạo).
******
TIỂU SỬ ĐỨC DI LẠC VƯƠNG PHẬT
Đức Di-Lạc Vương Phật (Giáo chủ Hội Long Hoa)
Di-Lạc, Phật giáo gọi là Di-Lặc, do phiên âm từ tiếng Phạn : Maitreya, dịch Hán văn là Từ Thị. Từ Thị nghĩa là : Dòng lành, dòng Phật, vì Phật lấy Từ Bi làm gốc.
Vậy Di-Lạc là Từ Thị. Thuở xa xưa lâu đời, Ngài Từ Thị gặp Phật, liền phát tâm tu hành, chứng phép Từ Thị Tam Muội. Từ ấy đến nay, Ngài lấy chữ Từ làm họ của mình.
Vương Phật là Phật vua, tức là vị Phật thay mặt Đức Chí Tôn làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Di-Lạc Vương Phật là vị Phật tương lai, giáng sanh xuống cõi trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, đắc đạo tại cội cây Long Hoa, làm Giáo chủ Đại Hội Long Hoa, thay mặt Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn khôn Thế giới và Vạn linh.
Trong Kinh Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho 2 Bài Kinh : Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh, nhờ đó chúng ta biết được nhiệm vụ và quyền hành của Đức Di-Lạc Vương Phật.
Khi Ngài làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới thì gọi Ngài là Đức Di-Lạc Vương Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sanh (năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng) thì gọi Ngài là Di-Lạc Vương Bồ Tát. Theo lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp trong Con đường Thiêng liêng Hằng sống : Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Đức A-Di-Đà Phật giao quyền lại cho Đức Di-LạcVương Phật chưởng quản Cực Lạc Thế Giới, nên Đức Di-Lạc Vương Phật hiện nay ngự tại cửa Kim Tự Tháp, dưới tàn cây dương tối cổ ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới, còn Đức A-Di-Đà Phật vào ngự trong Lôi Âm Tự và Đức Phật Thích Ca ngự tại Kim Sa Đại điện trong Kim Tự Tháp.
Kim Tự Tháp tại Kinh đô Cưc Lạc Thế Giới có hình giống như Kim Tự Tháp bên Ai Cập, nhưng mình nó lại tròn, có nhiều từng, nhiều nấc, có rất nhiều chư Phật ngự trên đó, mỗi vị có liên đài riêng.
Bài Di-Lạc Chơn Kinh cho biết Đức Di-Lạc Vương Phật cai quản 2 từng Trời : Hỗn Nguơn Thiên và Hội Nguơn Thiên, là 2 từng thứ 12 và thứ 11, nằm kế bên trên Hư Vô Thiên, và bên dưới Hư Vô Thiên là Cửu Trùng Thiên.
Bài Kinh Đại Tường cho biết Đức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, có nhiệm vụ thực hiện các điều sau đây do Đức Chí Tôn giao phó :
- 1. Tái sanh sửa đổi Chơn truyền và Thâu các đạo hữu hình làm một :
Đức Phật Di-Lạc sẽ giáng sanh xuống cõi trần để sửa đổi và chỉnh đốn các giáo lý chơn truyền của các Đấng Giáo chủ thời Nhị Kỳ Phổ Độ để lại, đã bị người đời canh cải sai lạc rất nhiều, đồng thời gom tất cả tín ngưỡng tôn giáo trên hoàn cầu thống nhứt lại làm một mối, để có một tín ngưỡng chung, cùng nhìn nhận Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu là hai Đấng Cha Mẹ chung thiêng liêng của toàn nhơn loại.
- 2. Khai cơ Tận độ, Cửu tuyền diệt vong : Đức Di-Lạc Vương Phật mở ra một cơ quan Tận độ chúng sanh, đóng cửa Địa ngục, giải phóng các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả và lo tu hành để được cứu vớt trong sự Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.
3. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị và Trường thi Tiên, Phật, duợt kiếp khiên :
Đức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo Trường thi công đức, tuyển lựa các ngôi vị Thần Thánh Tiên Phật để đưa vào tham dự Đại Hội Long Hoa do Ngài làm Giáo chủ.
- 4. Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn :
Đức Di-Lạc Vương Phật thay mặt Chí Tôn để tạo lập lại đời Thượng Nguơn Thánh đức, dân chúng hiền lương tôn thờ đạo đức, sống hòa bình trong một xã hội đại đồng trong giềng bảo sanh của Thượng Đế.
- Vào đời nhà Tùy, Ngài hóa thân là Tăng Can.
- Vào đời Ngũ Đại, Ngài là Bố Đại Hòa Thượng.
- Vào đời Lục Triều, Ngài hóa thân là Phó Đại Sĩ.
Trong 3 lần hóa thân, nổi tiếng nhứt là Bố Đại Hòa Thượng. Dân chúng vẽ hình, đúc tượng theo hình ảnh của Bố Đại Hòa Thượng, có vóc dáng như Ông Địa, miệng cười toe toét, chung quanh có 6 đứa con nít đang chọc ghẹo.
Sau đây, xin kể lại 2 sự tích : Tăng Can và Bố Đại Hòa Thượng.
I. TĂNG CAN.
Vào đời nhà Tùy bên Tàu, có một Ông sư gọi là Tăng Can, cất một cái am bên cạnh chùa Quốc Thanh để ở. Không ai biết gốc tích của Ông sư nầy ở đâu, chỉ biết Ông lúc Ông đến cất am. Ông thỉnh thoảng đi thuyết giáo nơi nầy nơi nọ. Có nhiều lúc Ông cỡi cọp đi về am khiến chúng tăng trong chùa Quốc Thanh hoảng sợ.
Có lần Ông ôm về một đứa bé gởi nuôi trong chùa Quốc Thanh đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một Ông ăn mặc rách rưới từ trong núi tuyết đi ra, tên gọi Hàn Sơn, cũng đến ở chùa. Hàn Sơn và Thập Đắc được người trong chùa xem như hai gã ăn mày. Khi chúng tăng ăn cơm xong thì 2 người mới ăn những thức ăn còn thừa lại. Khi ngủ thì chỉ được ngủ ngoài hành lang. Có lúc cao hứng thấy 2 người làm thơ, nhưng những bài thơ đó đọc lên không ai hiểu được ý nghĩa.
Một hôm, sau cơm trưa, chúng tăng đi nghỉ hết, hai người đi vào chỗ thờ, một người thì leo lên ngồi trên cổ Đức Văn Thù Bồ Tát, còn người kia thì leo lên ngồi trên vai Đức Phổ Hiền Bồ Tát. Một vị tăng tình cờ đi vào Chánh điện phát hiện ra việc nầy, vội chạy đi báo cho Hòa Thượng trụ trì biết và chư tăng đến lôi 2 người xuống, quở mắng đủ điều về tội bất kính.
Lúc đó Ông Tăng Can đã tịch. Quan Huyện sở tại mắc một chứng bịnh nan y, Ông nằm chiêm bao thấy Ông Tăng Can hiện đến, tự xưng là Phật Di-Lạc, bảo quan Huyên muốn hết bịnh thì hãy đến đảnh lễ Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, xin 2 vị đó ban cho Ông phương thuốc trị dứt bịnh, mà muốn đảnh lễ 2 vị Bồ Tát đó thì phải vào chùa Quốc Thanh, hỏi 2 người tên là Hàn Sơn và Thập Đắc, vì đó là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân.
Sáng ngày, quan Huyện liền đi đến chùa Quốc Thanh như lời báo mộng, đòi gặp 2 vị Hàn Sơn và Thập Đắc. Hòa Thượng trụ trì và chúng tăng trong chùa rất ngạc nhiên, không biết tại sao quan Huyện lại có vẻ kỉnh trọng 2 người ăn mày đó thế. Hòa Thượng buộc lòng gọi 2 người ấy ra. Hai vị liền nắm tay đi ra. Vừa thấy 2 vị, quan Huyện quì mọp xuống lạy.
Hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc đồng cười nói :
- Cái Lão Tăng Can bày đặt làm cho ta bại lộ rồi. Nói rồi, 2 vị cỏng nhau chạy tuốt vô rừng mất dạng.
Quan Huyện mới thuật lại điềm chiêm bao của Ông cho vị Hòa Thượng và chúng tăng trong chùa nghe, mới biết : Tăng Can là Đức Di-Lạc Bồ Tát hóa thân, còn 2 vị Hàn Sơn và Thập Đắc là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát hóa thân.
II. BỐ ĐẠI HÒA THƯỢNG.
Bố Đại Hòa Thượng là một vị sư trọng tuổi có mang một túi vải lớn. (Bố Đại là cái túi vải lớn). Không ai biết tên tuổi và gốc gác của Ông, chỉ thấy Ông luôn luôn mang một cái túi vải lớn bên mình nên đặt ra gọi như vậy. Ai cho gì, Ông cũng bỏ vào cái túi vải đó, đến chỗ gặp con nít đông thì Ông dừng lại, lấy tất cả đồ trong túi vải ra, rồi bày trò chơi vui đùa với lũ trẻ.
Ông có thân hình khác người thế tục, trán nhăn, mặt tròn, bụng lớn, mập mạp, luôn luôn mặc áo phạch ngực, miệng lúc nào cũng cười vui. Ông thường trú tại chùa Nhạc Lâm, huyện Phong Hóa, tỉnh Châu Minh. Mỗi khi đi đường, Ông luôn luôn mang theo cái túi vải lớn và một cây tích trượng, không bao giờ rời xa 2 vật ấy. Lại còn có 18 đứa con nít nhỏ thường đeo đuổi bên Ông để chọc ghẹo mà Ông vẫn cười hề hề, không phiền trách chi cả, đứa thì móc lỗ mũi, đứa dùi lỗ tai, đứa chọc vô rún, đứa móc miệng, đứa bịn mắt, vv. . . Mười tám đứa con nít đó là Lục căn, Lục trần, Lục thức, ở trong tịnh trí của Ông mà hiện ra do thần thông quảng đại của Ông. Nhưng người đời sau họa hình hay làm tượng Đức Phật Di-Lạc, họ bớt lại chỉ còn 6 đứa con nít, tượng trưng Lục căn, bởi vì chính Lục căn làm cho con người vọng động phải bị chìm đắm trong vòng luân hồi sanh tử, mà cũng chính Lục căn làm cho con người đắc đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Thời đó là đời Ngũ Đại sau đời nhà Đường, nước Tàu chia làm 5 nước : Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, kéo dài từ năm 907 đến năm 960. Thiền Tông bấy giờ rất mạnh. Một hôm, có một vị Thiền sư phái Thảo đường hỏi Bố Đại Hòa Thượng :
- Đại ý Phật pháp là thế nào ?
Bố Đại Hòa Thượng đang quảy cái bị trên vai, Ngài liền để xuống rồi đứng yên.
Thiền sư hỏi tiếp :
- Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên chăng ?
Ngài lại xách túi vải mang lên vai rồi đi. Hai cử chỉ ấy là 2 câu trả lời của Ngài. Ngài để cái bị xuống là ý nói buông tất cả, xả bỏ tất cả, đừng chấp cái gì hết kể cả Phật pháp. Buông tất cả rồi đứng yên là để tâm thanh tịnh, rồi quảy bị lên vai và đi là tự tại, là ung dung của bực thoát trần.
Khi Bố Đại Hòa Thượng ở xứ Mân Trung thì có một cư sĩ họ Trần thấy Ngài làm nhiều việc thần kỳ, nên đãi Ngài rất trọng. Lúc Ngài gần từ giã Ông Trần để đi qua xứ Lưỡng Chiết thì Ông cư sĩ muốn rõ tên họ của Ngài, bèn hỏi rằng :
- Thưa Hòa Thượng, xin cho tôi biết họ của Ngài, sanh năm nào và xuất gia đã bao lâu rồi ?
Ngài bèn đáp rằng :
- Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ, ta chính họ Lý, sanh ngày mùng 8 tháng 2. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải nầy để độ đời đó thôi. Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết.
Trần cư sĩ nghe vậy thì thưa rằng :
- Hòa Thượng đi đây, nếu có ai hỏi việc chi thì xin Ngài trả lời làm sao cho hợp lý, chớ tùy thuận theo người thì không khỏi bàng nhơn dị nghị tiếng thị phi. Ngài liền đáp bằng bài kệ :
Ghét thương phải quấy biết bao là,
Xét nét lo lường giữ lấy ta.
Tâm để rổng thông thường nhịn nhục,
Bữa hằng thong thả phải tiêu ma.
Nếu người tri kỷ nên y phận,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa.
Miễn tấm lòng nầy không quái ngại,
Tự nhiên chứng đặng lục ba la.
Trần cư sĩ lại hỏi :
- Bạch Hòa Thượng, Ngài có pháp hiệu chi không ?
Bố Đại Hòa Thượng lại đáp bằng bài kệ :
Ta có cái túi vải,
Rổng rang không quái ngại,
Mở ra khắp mười phương.
Thâu vào quán tự tại. Trần cư sĩ lại hỏi tiếp :
- Ngài có đem hành lý gì theo không ?
Ngài liền đáp bằng một bài kệ nữa :
Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa,
Mắt xanh xem người thế,
Mây trắng hỏi đường qua. .
Trần cư sĩ hỏi tiếp :
- Đệ tử rất ngu muội, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật ? Ngài đáp bằng bài kệ :
Phật tức tâm, tâm tức Phật,
Mười phương thế giới là linh vật,
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật. .
Trần cư sĩ nói :
- Hòa Thượng đi lần nầy nên ở chùa, chớ nên ở nhà thế gian. Ngài lại đáp rằng :
Ta có nhà Tam bảo,
Trong vốn không sắc tướng,
Chẳng cao cũng chẳng đê,
Không ngăn và không chướng.
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng,
Người trí biết rõ ràng,
Ngàn đời không tạo đặng,
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường. .
Trần cư sĩ nghe rồi thì lấy làm lạ, liền đảnh lễ Ngài mà thưa rằng :
- Xin Hòa Thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với đệ tử đặng tỏ dấu đệ tử hết lòng cung kính. Xin Ngài từ bi hạ cố. Đêm ấy, Bố Đại Hòa Thượng ngụ tại nhà Trần cư sĩ, đến khi đi thì Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa như vầy :
Ta có một thân Phật,
Có ai đặng tường tất,
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc,
Chẳng có chút đất bùn,
Không phai màu thể sắc,
Thợ vẽ vẽ không xong,
Kẻ trộm trộm chẳng mất.
Thể tướng vốn tự nhiên,
Thanh tịnh trong vặc vặc,
Tuy là có một thân,
Phân đến ngàn trăm ức. .
Khi Ngài đến quận Tứ Minh, Ngài thường ở nhà Ông Tưởng Tôn Bá. Ngài có khuyên Ông nầy nên trì niệm Câu chú : " Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa". Ông Bá nghe lời, luôn luôn trì niệm Câu chú nầy, trong lúc ngồi hay nằm đều niệm, nên người ta gọi Tưởng Tôn Bá là Ma Ha Cư sĩ.
Có một bữa nọ, Ngài cùng Ma Ha Cư sĩ ra tắm ở khe nước Trường đình. Khi Ngài đưa lưng cho Ma Ha cư sĩ kỳ cọ giùm thì ông nầy thấy nơi lưng Ngài có 4 con mắt rực rỡ chói lòa, lấy làm kinh dị vô cùng. Ông đảnh lễ Ngài và nói rằng :
- Hòa Thượng là một vị Phật tái thế.
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng :
- Ngươi chớ tiết lậu. Ta với ngươi vốn có nhân duyên rất lớn, rồi đây ta sẽ từ biệt ngươi mà đi, chớ nên buồn rầu. Khi trở lại nhà, Ngài hỏi Ma Ha cư sĩ :
- Ý ngươi muốn giàu sang không ?
Ma Ha cư sĩ thưa rằng :
- Vả chăng, sự giàu sang như mây nổi, như giấc chiêm bao, nên tôi nguyện cho con cháu đời đời được miên viễn mà thôi. Ngài thọc tay vào túi vải lấy ra cái hộp, trong đó đựng cái túi nhỏ và một sợi dây, đưa tặng Ma Ha cư sĩ, nói rằng :
- Ta tặng ngươi mấy vật nầy mà từ biệt. Song ta căn dặn ngươi phải gìn giữ kỹ lưỡng mà làm biểu tín những việc hậu vận của ngươi. Ma Ha cư sĩ lãnh mấy món ấy mà chẳng hiểu được ý gì. Cách vài bữa sau, Bố Đại Hòa Thượng trở lại hỏi rằng :
- Nhà ngươi hiểu được ý ta không ?
Cư sĩ thưa rằng :
- Thưa Ngài, đệ tử thiệt chẳng rõ.
- Đó là ta muốn cho con cháu của ngươi ngày sau cũng như mấy vật ta tặng đó vậy. Cái hộp là thể thân xác của ngươi, cái túi nhỏ là cái tâm, sợi dây là ý để liên lạc với Phật về mặt vô hình. Ngươi đã hiểu giàu sang là mây nổi, kiếp sống là chiêm bao, vậy nên thành ý. Nói rồi Ngài liền từ giã đi ngay.
Đến sau, quả nhiên con cháu của Ma Ha cư sĩ đều được vinh hoa phú quí, hưởng lộc nước đời đời.
Bố Đại Hòa Thượng trở về chùa Nhạc Lâm. Đến ngày mùng 3 tháng 3, năm thứ 3 niên hiệu Trinh Minh, Ngài không bịnh chi cả, ngồi trên bàn thạch gần mái chùa Nhạc Lâm, làm một bài kệ :
Di-Lạc chơn Di-Lạc,
Phân thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhơn,
Thời nhơn tự bất thức.
Nghĩa là :
Di-Lạc thật Di-Lạc,
Phân thân thành muôn ức,
Thường thường dạy người đời,
Người đời tự không biết.
Làm bài kệ xong thì Ngài nhập diệt.
Nhắc lại, ở vùng nầy có Ông Trần đình Trưởng, thấy Bố Đại Hòa Thượng hay khôi hài mà không lo sự gì cả, nên mỗi lần gặp Ngài thì hay buông lời diễu cợt, rồi giựt cái túi vải đem đốt. Hễ bữa nay đốt rồi thì hôm sau lại thấy Ngài mang cái túi vải như cũ. Ông lại giựt và đem đốt nữa, thì hôm sau vẫn thấy Ngài mang cái túi vải đó. Ông Trần lấy làm lạ nên đem lòng kính phục và chẳng dám chế diễu nữa.
Nay thấy Ngài nhập diệt rồi, Ông Trần đình Trưởng lo mua áo quan để tẫn liệm Ngài, cốt ý chuộc tội với Ngài, nhưng đến chừng khiêng quan tài đi chôn, người rất đông mà khiêng cái quan tài không nổi. Trong bọn ấy có người họ Đồng, ngày thường vẫn tỏ lòng tôn kính Ngài, khi thấy việc linh hiển như vậy liền vội vã đi mua cái áo quan khác mà đổi, liệm thi hài của Ngài vào áo quan mới. Khi khiêng đi chôn thì cảm thấy nhẹ phơi phới. Ai nấy đều kinh sợ, và đem lòng cung kính. Người trong quận lập hội lớn, lo xây tháp cho Ngài tại núi Phong sơn.
Các vị Tổ Sư Thiền Tông Phật giáo Trung Hoa chọn ngày Vía Đức Phật Di-Lạc vào ngày đầu năm, mùng 1 Tết Nguyên đán hằng năm với ý nghĩa là :
- Hình ảnh phúc hậu và nụ cười cởi mở của Đức Phật sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho gia đình suốt năm.
- Đức Phật Di-Lạc là vị Phật tương lai, vị Phật trong niềm hy vọng của mọi người để lập đời Thượng nguơn Thánh đức, mà ngày mùng 1 Tết là ngày hy vọng, là ngày chúc tụng lẫn nhau được mọi điều tốt đẹp và thành công.
Thời kỳ khởi đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lạc chưa giáng sanh xuống cõi trần, Ngài còn ở Cung Trời Đâu Suất. Ngài chỉ thỉnh thoảng giáng cơ để giáo hóa nhơn sanh. Sau đây xin trích một bài Thánh giáo của Đức Di-Lạc Vương Phật giáng cơ trong Thánh giáo sưu tập :
THI :
DI -LẠC THIÊN TÔN giáng cõi trần,
Chào chư Thiên mạng, bực nguyên nhân.
Mừng chung thiện tín hàng tâm đạo,
Để nghiệm lời đây đạo đức phân.
Nầy chư môn đồ ! Đương giữa lúc thế trần đau khổ, ách nước nạn dân, chư môn đồ đã là những thành phần giác ngộ, tìm Đạo học Đạo để tu thân và đem Đạo dìu dẫn người đời. Đó là chư môn đồ làm đúng theo lòng Thượng Đế. Cõi đời là tạm bợ, hãy nương vào đây để lập công bồi đức, chớ đừng xem đây là cõi thiệt vĩnh cửu trường tồn, rồi đắm say trần lụy, quên mất căn xưa, không ngày trở lại ngôi xưa vị cũ.
Một xã hội loài người muốn hưởng cảnh đất Thuấn Trời Nghiêu, thái bình thạnh trị, cần phải có đa số con người lương thiện để xây dựng xã hội đó.
Chư môn đồ ngày nay đang dấn thân vào nghiệp duyên trần cấu, chịu sự trả quả chung của dân tộc, đừng bi quan, đừng thối chí, hãy nươn cảnh ấy mà tu thân hành thiện, tự giải thoát cho mình và giúp người khác cùng giải thoát. Hằng ngày, Bần đạo thấy đa số nhơn sanh bá tánh đến trước Chánh điện lễ bái kỉnh thành, hiến dâng lễ vật, nghĩ thiệt là tội nghiệp. Thương thay cho lòng mê muội của nhơn sanh còn quá nặng ! Có mấy ai thấy được mặt Di-Lạc Thiên Tôn bao giờ chưa ? Bần đạo chắc là chưa ai thấy, chỉ có lời truyền tụng hoặc huấn dụ xuyên qua đàn cơ cùng Thánh giáo.
Sự tạc tượng thờ đó là do lòng kỉnh thành của nhơn sanh thiện tín để cụ thể tướng và thể hiện lòng kỉnh thờ đối với bậc trọn lành đem Đạo cứu đời. Thương hại cho người đời còn lầm tưởng rằng : Đem lễ vật hiến dâng lễ bái để cầu xin một việc tư riêng sẽ được Bần đạo hộ trì giúp đỡ ! . . . . .
- Sự lễ bái, cúng lạy, quì mọp, ngoài ý nghĩa trịnh trọng thi lễ với Phật Trời, lại còn có ý nghĩa câu thúc thân mình trong sự khó khăn để trừ bớt nghiệp thân.
- Tịnh khẩu hoặc niệm Phật, tụng kinh để trừ bớt nghiệp khẩu.
- Nhắm mắt tham thiền hoặc ngó ngay vào tượng Phật hoặc ngọn nhang, ngọn đèn để trừ bớt nghiệp nhãn.
- Tham thiền định ý, khép chặt không cho tư tưởng suy nghĩ vẩn vơ phóng túng để trừ bớt nghiệp ý.
- Thiền định, không chấp nhận mọi tiếng động vào tai để trừ bớt nghiệp nhĩ.
Tóm lại, tất cả những điều ấy là những phương pháp trợ người tu hành được yên ổn trả dứt nghiệp cũ, không gây nghiệp mới và tạo thêm âm chất để làm vốn liếng sản nghiệp vô hình cho kiếp lai sanh hoặc cho bên kia thế giới. Người tu hành nhờ rất nhiều phương pháp để trợ duyên, đừng quá chú trọng những hình thức đó tưởng là để Trời Phật thương rồi cho thành Chánh quả !
Mặc áo đạo để được nghiêm chỉnh, không nói, không dám làm điều trái đạo, làm cho thân thể mình mất mỹ thuật như thí phát, áo bã nâu sòng, chơn không đi dép, đó là ngăn chận sự quyến rũ của tha nhân mà quấy rầy, không được an thân hành Đạo, ăn chay ăn lạt cho nhiều để thể hiện lòng bác ái hy sinh : Bác ái với loài vật, không nỡ giết chúng để nuôi mình sống, hy sinh sự thèm thuồng rượu ngon thịt béo để làm chủ được Thất tình Lục dục.
Đó là phương tiện cần kíp cho người tu và cũng đừng chú trọng đến đó là được thành Chánh quả. Nói cho rõ hơn, ăn chay, niệm Phật. cúng lạy, hiến dâng, áo bã nâu sòng, là những phương tiện, không lấy đó làm đề tài chính để thành Chánh quả. Nhưng muốn thành Chánh quả, phải có những phương tiện đó gắn bó bên mình từ nội tâm đến ngoại thể.
Chư môn đồ ơi ! Kỳ nầy là kỳ Đại Ân Xá, ai tu hành cũng dễ đắc quả vị, mà cũng chính thời kỳ nầy là thời kỳ hoàng kim, khoa học tiến bước vượt bực. Những chủ thuyết hiện sinh đang tràn ngập thị trường sách báo, những vật chất xa hoa đua đòi thụ hưởng cũng dễ quyến rũ hấp dẫn. Vì vậy, cũng chính thời kỳ nầy là thời kỳ dễ sa đọa, làm tiêu tán bổn chơn linh, nguyên nhân khó trở lại.
Đa số môn đồ tín hữu đều có lòng mong vọng ngày Long Hoa Đại Hội, Phật Vương ra đời cầm quyền thưởng phạt. Ý niệm đó cũng tốt, nhưng muốn được Phật Vương ban thưởng, ngay từ bây giờ, hãy làm những phương tiện, phương pháp hành đạo mà Bần đạo vừa dạy khuyên. Có làm đúng được, ví như làm bài trúng, sẽ thi đậu trong kỳ chung cuộc của Đại Hội Long Hoa.
Còn điều quan trọng nữa sau đây : Tất cả những môn đồ tín hữu, hoặc con chiên của Trời, của Phật, của Chúa, vv… hãy vì lòng Đạo mà thương yêu đoàn kết, quây quần với nhau thành một khối vĩ đại để kết tụ khối tinh thần đạo đức vĩ đại, thường xuyên liên giao thân hữu, thăm viếng để trao đổi học hỏi đạo lý thuần chơn. Hễ đạo đức thắng thì Ma Vương Tà mị thối. Ngược lại, nếu đạo đức còn chia rẽ là đạo đức thối, ắt Ma Vương Tà mị thắng.
Nhớ đạo đức nơi đây có nghĩa là thuần túy tôn giáo. Có thuần túy tôn giáo mới thuận lòng Trời, hạp lòng người, mới mong thế gian được đạo đức bảo tồn trong kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp nầy. THĂNG. "
Trong những ngày Đại lễ Khai Đạo Cao Đài tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm Tự Gò Kén (Tây Ninh), có trưng bày đôi liễn do Đức Chí Tôn ban cho :
Di-Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo,
Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.
Nghĩa là :
Đức Phật Di-Lạc, 700.000 năm, rộng mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Đức Phật Thích Ca, 25 thế kỷ (2.500 năm), chấm dứt việc lập nền Phật giáo.
xem trang sau
__________________ Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
|
Quay trở về đầu |
|
|
daoky Hội viên


Đă tham gia: 06 March 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 502
|
Msg 134 of 134: Đă gửi: 03 August 2004 lúc 10:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGŨ VỊ GIÁO CHỦ
trong ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
ĐỨC PHẬT THÍCH CA
(Giáo chủ Phật giáo)
Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, gọi tắt là Đức Phật Thích Ca, thế danh Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha) có nghĩa là người được toại nguyện, họ Cồ-Đàm (Gotama), sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya).
Ngài được sanh ra vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 623 trước Chúa Giáng sinh, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini), ở thủ đô Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, gần biên giới xứ Népal ngày nay. (Về sau nầy, Đại Hội Phật giáo Thế giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tṛn 15-4-âm lịch, và bên Phật giáo làm Đại lễ Phật đản vào ngày 15-4-âl nầy.). Ngài là vị Hoàng tử con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya).
Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu Ma-Da từ trần, trở về Cung Tiên. Em Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay thế người chị ruột, nuôi dưỡng Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta khôn lớn.
Hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta lớn lên, hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa, để sau nầy lên nối ngôi vua cha trị v́ đất nước. Thái tử lại là người thông minh xuất chúng, nên Ngài trở thành một người văn vơ toàn tài.
Khi lên 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài. Trong suốt 13 năm chung sống sau hôn lễ, Thái tử hoàn toàn sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cửa cung điện.
Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem thế giới bên ngoài và có thể tiếp xúc với dân chúng. Ngài chứng kiến được những nỗi vất vả khổ cực của kiếp sống con người phải lo làm lụng t́m phương sanh sống. Chúng sanh cũng v́ sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.
Một ngày khác, Thái tử c̣n chứng kiến được các cảnh khổ như : Già yếu, ốm đau, chết chóc biệt ly.
Vậy th́ đời sống của con người có chi là sung sướng ? Ngài nghĩ rằng chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên ngôi vua trị v́ Thiên hạ th́ nghèo đói, Ngài không cần lo, nhưng c̣n già yếu, ốm đau, rồi chết th́ không ai tránh khỏi được. Ngài âm thầm lập chí t́m phương giải khổ cho nhơn sanh. T́nh cờ, Ngài gặp được một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư. Ngài đến gần vị tu sĩ ấy để hỏi chuyện, được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy ḷng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm cho chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để trước là giải thoát cho chính ḿnh, sau là giải thoát cho chúng sanh. Nghe vậy, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta rất hoan hỷ và nhứt quyết sẽ làm như vị tu sĩ ấy. Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử có ư muốn đi tu th́ nhà vua không bằng ḷng, t́m đủ mọi cách để ngăn cản Thái tử.
Giữa lúc ấy th́ Công chúa Gia-Du-Đà-La, vợ của Thái tử vừa sanh được một hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng trước việc nầy, mà lại than rằng : "Lại thêm một sợi dây trói buộc.". Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là : Ra-Hầu-La (Rahula, tiếng Phạn có nghĩa là Trở ngại).
Ngày mùng 7 tháng 2, năm Thái tử được 29 tuổi, trong lúc vợ con và quan binh trong Hoàng thành ngủ mê sau một buổi tiệc tùng ca xướng tưng bừng, Thái tử gọi quan hầu cận là Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) để Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng, t́m thầy học đạo tu hành.
Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó, nó đưa Thái tử vượt Hoàng cung, đến một nơi cách kinh đô rất xa. Thái tử tự ḿnh cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa-Nặc, bảo đem về tŕnh với phụ vương, rồi đưa ngựa Kiền trắc cho Xa-Nặc cỡi trở về triều. Thái tử cổi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi vào núi tu hành.
Vua Tịnh Phạn sai các quan Đại Thần đi t́m Thái tử, khuyên nhủ Thái tử trở về triều, nhưng không thể lay chuyển được ư chí kiên quyết của Thái tử. Thái tử t́m đến một Đạo sĩ lỗi lạc, tên là Alarama Kalama để xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama, nhưng cảm thấy chưa toại nguyện. Ngài xin từ giă và t́m đến một Đạo sĩ trứ danh khác là Uddaka Ramaputta để xin học Đạo. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh.
Ngài nhận thấy rằng không ai có thể dẫn dắt Ngài đến thành tựu v́ những vị mà Ngài đă học vẫn c̣n nhiều vướng mắc, chưa thoát khỏi vô minh. Từ đó Thái tử không t́m thầy học đạo nữa, mà tự ḿnh đến chỗ thanh vắng để tự suy nghĩ t́m ṭi chơn lư.
Ngài gặp được nhóm 5 tu sĩ mà Ông Kiều Trần Như đứng đầu theo ủng hộ Ngài để Ngài thực hành một lối tu vô cùng khổ hạnh. Sau 6 năm tu khổ hạnh như thế, thân ḿnh của Ngài chỉ c̣n da bọc xương, hơi thở yếu ớt, gần như cái chết sắp đến với Ngài, mà Ngài vẫn chưa đạt được cứu cánh. Bỗng nhiên có một Ông tiều đến gần chỗ Ngài đang thiền định, mang theo một cây đàn, lên dây đàn, đàn một khúc rất hay, đến lúc hay nhất th́ dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều nối lại dây đàn, lên dây cho đúng, rồi lại đàn, đàn đến khúc hay nhất th́ dây đàn lại đứt. Đứt rồi lại nối, nối rồi lên dây trở lại và đàn. Làm 3 hiệp như vậy.
Thái tử đang tŕ định phải bực bội tỉnh hồn than rằng :
- Ông đàn th́ hay mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay th́ dây đứt, cái hay ấy phải hết mùi, rất đáng tiếc.
Ông tiều liền đáp rằng :
- Cái đàn của tôi cũng như cái tu của Ngài. Dây đàn tôi lên cao quá, nên đến chỗ hay th́ đứt th́ cái hay của tiếng đàn chẳng hữu ích chút nào; c̣n cái tu của Ngài, nếu cái cao siêu huyền bí đạt được cơ bất diệt đi nữa th́ nó cũng phải chết theo Ngài, c̣n chi hữu ích cho đời. Tôi cũng lấy làm tiếc vậy. Lăo tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong Kinh cho rằng Ông tiều ấy là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử).
Thái tử suy nghĩ măi lời nói của Ông tiều, liền tỉnh giác, biết ḿnh lầm theo lối tu khổ hạnh, làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần. Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh, cũng như 6 năm trước đây, Ngài đă dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng. Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ th́ Ngài đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rơ rằng, đó chính mới là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không quá khắc khổ, gọi là Trung đạo.
Ngài nhứt định từ bỏ lối tu khổ hạnh. Ngài mệt nhọc lần bước đến bờ sông Ni-Liên-Thiền, xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngă vào một cội cây bất tỉnh. May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột t́m đến cúng dường, thấy một Ông đạo đang nằm thoi thóp tại gốc cây, nàng liền đỡ dậy, rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lănh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần được phục hồi, tinh thần bắt đầu sảng khoái.
Ngài cảm ơn nàng thiện nữ (nàng tên là Suyata), rồi Ngài t́m đến một gốc cây Bồ đề to lớn, cành lá sum suê, trăi cỏ làm nệm, ngồi tham thiền, phát đại thệ rằng : "Nếu không thành đạo th́ nhứt định không rời khỏi chỗ ngồi nầy".
Trải qua 49 ngày đêm thiền định, Ngài liền ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, t́m được con đường giải thoát chúng sanh thoát ṿng luân hổi khổ năo. Ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, Thái tử được 35 tuổi, lấy hiệu là : Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa quyết định truyền bá giáo pháp của Ngài, v́ Ngài nghĩ rằng : Như Lai đă khó khăn lắm mới chứng ngộ được giáo pháp ấy. Người đời c̣n mang nặng tham ái sân hận, không thể hiểu được, v́ giáo pháp ấy đi ngược ḍng tham ái, giáo pháp rất thâm diệu, khó mà nhận thức được.
Đấng Thượng Đế lo ngại Đức Phật Thích Ca không chịu đem giáo pháp của Ngài truyền dạy cho nhơn sanh, nên truyền lịnh cho vị Phạm Thiên Vương đến yêu cầu Phật truyền bá giáo pháp cứu độ chúng sanh.
Đức Phật Thích Ca nhận lời và tuyên bố : " Cửa vô sanh bất diệt đă mở cho chúng sanh. Hăy để ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng."
Trong lúc đó th́ nhóm Ông Kiều Trần Như 5 người thấy Thái tử bỏ lối tu khổ hạnh ép xác, ăn uống trở lại, cho là Thái tử trở về lối sống lợi dưỡng, th́ 5 vị ấy thất vọng, từ bỏ Thái tử, không ủng hộ Ngài nữa, và họ đi đến vườn Lộc giả. Đức Phật Thích Ca thầm nghĩ, cũng tội nghiệp cho 5 Ông nầy, v́ đă theo ủng hộ Phật trong một thời gian dài, gần 6 năm. Nay Ngài đă đắc đạo Vô thượng Bồ đề, Ngài cũng nên đến độ 5 Ông nầy trước tiên.
Đức Phật vận thần thông để t́m xem nhóm 5 Ông nầy đang ở đâu, th́ biết 5 Ông đang ở vườn Lộc giả xứ Bénarès. Đức Phật liền đi đến đó. Nhóm 5 Ông định không đảnh lễ Ngài v́ cho rằng Ngài đă qui phàm, nhưng khi Đức Phật đến gần, với vẻ oai nghi đầy từ bi, khiến 5 Đạo sĩ đổi thái độ, ra đảnh lễ Đức Phật.
Đức Phật Thích Ca thuyết cho 5 Ông nghe Giáo pháp Tứ Diệu Đế. Đây là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho 5 vị được nghe, cả 5 vị liền giác ngộ, đắc quả A-La-Hán, trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Nhóm 5 vị nầy có tên lần lượt là : Kiều Trần Như, A-Xá-Bà-Thệ, Ma-Ha-Bạt-Đề, Ma-Ha-Câu-Lợi, Thập-Lực-Ca-Diếp.
Đây là lần đầu tiên, Đức Phật chuyển diệu pháp luân, nói pháp Tứ Diệu Đế, giáo pháp căn bản của Phật giáo. Bắt đầu từ đây có đủ Tam Bảo Phật giáo : Đức Phật Thích Ca là Phật Bảo, giáo pháp Tứ diệu Đế là Pháp Bảo, 5 vị Tỳ Kheo đệ tử đầu tiên của Phật là Tăng Bảo. Ấy là ngôi Tam Bảo đầu tiên của thế gian.
Đức Phật Thích Ca cùng 5 vị Tỳ Kheo đi khắp nơi thuyết pháp, độ được hằng vạn đệ tử xuất gia, đủ các hạng người trong tất cả giai cấp ở Ấn Độ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, quan dân, hay vua chúa.
Những sự kiện quan trọng trong công cuộc hoằng hóa của Đức Phật là :
- Độ được 3 anh em Ca-Diếp-Ba đang tu theo đạo thờ Thần lửa. Ba Ông nầy có 1000 đệ tử, cùng qui y theo Phật.
- Độ được 2 Ông Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên, nguyên là 2 học giả của phái Lục sư ngoại đạo.
- Độ được Quốc vương Tần-Bà-Sa-La của nước Ma-Kiệt-Đà. Quốc vương đă kính tin Phật pháp, lại khuyến khích dân chúng qui y Phật pháp. Nhà vua cho xây dựng Tịnh Xá rộng răi trong nội thành để thỉnh Phật và chư tăng thuyết pháp thường xuyên.
- Độ được vị Phú Trưởng giả Cấp-Cô-Độc. Ông nầy kiến lập một ṭa Tịnh Xá cao rộng tôn nghiêm, gọi là Kỳ-Thọ Cấp-Cô-Độc Viên, để Đức Phật và chư Tăng giảng đạo.
- Độ được Phụ vương của Phật là vua Tịnh Phạn và quyến thuộc của Đức Phật.
Đức Phật Thích Ca chọn ra được 10 vị đại đệ tử xuất sắc nhất của Phật giáo, kể tên ra sau đây :
1. Xá Lợi Phất
2. Mục Kiều Liên
3. Đại Ca Diếp
4. 4. A Nan
5. A Na Luật
6. 6. Phú Lâu Na
7. Tu Bồ Đề
8. 8. Ưu Ba Ly
9. Ca Chiên Chiên
10. La Hầu La.
Đức Phật lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni :
Sau khi vua Tịnh Phạn qua đời, Hoàng Hậu Maha Pajapati (là mẹ nuôi, mà cũng là d́ ruột của Đức Phật) cầu xin Đức Phật cho hàng phụ nữ được xuất gia tu hành. Đức Phật liền từ chối ngay mà không cho biết lư do. Bà Maha Pajapati đă 3 lần khẩn cầu như thế, nhưng Đức Phật đều từ chối.
Ông Ananda, cũng 3 lần dùng hết cách để cầu xin Đức Phật cho phụ nữ xuất gia, nhứt là đối với Bà mẹ nuôi của Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn cương quyết từ chối. Đến lần thứ 4, Đức Phật mới chấp thuận.
Lư do từ chối của Đức Phật là :
" Trong Luật Tạng có ghi mấy lời của Đức Phật như vầy : Nền Chánh pháp của Ta, đáng lẽ trụ thế 1000 năm hoặc lâu hơn nữa, nhưng trót v́ Ta đă cho hàng phụ nữ xuất gia, nên nền Chánh pháp bị giảm bớt, chỉ trụ thế 500 năm mà thôi." (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung C̣n, trang 376, quyển 1 : Chánh Pháp).
Theo đó th́ chúng ta thấy rằng, nếu chấp thuận cho hàng phụ nữ xuất gia học Phật tu hành, lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni th́ Chánh pháp của Phật sớm bị sửa cải, chỉ kéo dài được 500 năm mà thôi, thay v́ được 1000 năm nếu không thâu nhận phụ nữ xuất gia.
Nhưng trước sự quyết tâm chân thành của Bà mẹ nuôi, với ḷng từ bi bác ái của Phật, Đức Phật không nỡ bỏ Nữ phái mà không lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, mặc dầu biết rằng việc nầy làm cho thời kỳ Chánh pháp của Phật giảm đi một nửa, chỉ kéo dài 500 năm.
" Khi Đức Phật cho thành lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Ngài đă tiên đoán những hậu quả và lưu ư :
Nầy Ananda, nếu Nữ giới không được chấp thuận thoát ly thế tục để khép ḿnh vào nếp sống không nhà cửa trong khuôn khổ của Giáo pháp và Giới luật mà Như Lai đă công bố th́ đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu sẽ tồn tại lâu dài. Nhưng Nữ giới đă được phép sống đời không nhà cửa th́ đời sống xuất gia và Giáo pháp cao siêu chỉ tồn tại phân nửa thời gian. " (Trích Đức Phật và Phật Pháp, của Đại Đức Narada, trang 152).
Sau khi Đức Phật lập Giáo Hội Tỳ Kheo Ni, Bà Maha Pajapati tu đắc quả A-La-Hán, được liệt vào hàng cao hạ có nhiều kinh nghiệm nhứt, không thua bên Nam phái. Công Chúa Da-Du-Đà-La (vợ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta) cũng xuất gia tu hành, đắc quả A-La-Hán. Trong hàng Tỳ Kheo, Bà Da-Du-Đà-La đứng đầu những vị đắc Đại Thần Thông, và Bà nhập diệt lúc 78 tuổi. Đức Phật đi khắp nơi trong miền Bắc Ấn Độ thuyết pháp được 45 năm mới nhập Niết Bàn, hưởng thọ 80 tuổi.
Trong Hội Linh Sơn trước đây, Đức Phật chọn Ma-Ha Ca-Diếp tức là Đại Ca-Diếp làm người kế vị cho Ngài điều khiển Giáo Hội. Hôm đó, Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên cao và im lặng. Cả hội chúng đều ngơ ngác không hiểu, chỉ có Ma-Ha Ca-Diếp đắc ư mĩm cười (gọi là Đức Phật niêm hoa, Ca-Diếp vi tiếu).
Đức Phật bảo Ma-Ha Ca-Diếp : " Ta có Chánh Pháp Nhăn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lư truyền riêng, nay Ta giao phó cho ngươi. Ngươi khéo ǵn giữ Chánh pháp nầy, truyền măi đừng cho dứt, đến sau truyền lại cho A-Nan." Rồi Đức Phật nói kệ :
Pháp bổn pháp vô pháp,
Pháp vô pháp diệc pháp,
Kim phó vô pháp thời,
Pháp pháp hà tằng pháp
Nghĩa là :
Pháp gốc pháp không pháp,
Pháp không pháp cũng pháp,
Nay khi trao không pháp,
Mỗi pháp đâu từng pháp.
Khi nghe tin Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài Ma-Ha Ca-Diếp từ núi Kỳ-Xà-Quật liền đến thành Câu-Thi-Na làm lễ hỏa táng thi hài Đức Phật, lấy Xá lợi của Phật chia làm 8 phần phân phát cho 8 nơi, kiến tạo đài tháp phụng thờ :
1. Câu-Thi-Na
2. Pa-Bà
3. Giá-La
4. La-Ma-Già
5. Ca-Tỳ-La-Vệ
6. Tỳ-Lưu-Đề
7. Tỳ-Xá-Ly
8. Ma-Kiệt-Đà.
Đức Phật Thích Ca trong Đạo Cao Đài : Đức Phật Thích Ca là Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Đạo Phật từ đó truyền đến nay được hơn 2500 năm.
Ngày nay thuộc Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đạo Cao Đài. Lúc ban sơ, Đức Phật Thích Ca có giáng cơ dạy đạo như sau : Ngày 8 tháng 4 năm Bính Dần (1926).
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Chuyển Phật Đạo,
Chuyển Phật Pháp,
Chuyển Phật Tăng,
Qui nguyên Đại Đạo.
Tri hồ chư chúng sanh ?
Khánh hỷ ! Khánh hỷ ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ : Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu !
Ngă vô lự Tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. " (TNHT. I. 14)
Bài giáng cơ bằng chữ Nho trên của Đức Phật Thích Ca, diễn Nôm ra sau đây : Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển Phật đạo, Phật pháp, Phật tăng, qui nguyên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chư chúng sanh có biết chăng ?
Vui mừng ! Vui mừng ! Được hội vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ : Chư Thần Thánh Tiên Phật quá mừng nên phát ra tiếng cười lớn. Ta không c̣n lo lắng về 3 đường luân hồi khổ sở. Khá tùng theo lời dạy bảo của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi là Đấng Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Đức Phật Thích Ca có giáng cơ ban cho 2 Bài kinh rất quan trọng là : Kinh Đại Tường và Di-Lạc Chơn Kinh. Hai Bài kinh nầy cho chúng ta biết, Đức Phật Thích Ca đă giao quyền giáo hóa lại cho Đức Phật Di-Lạc trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, nên Đức Phật Thích Ca vào ngự nơi Kim Sa Đại điện trong Lôi Âm Tự, và Đức Phật Di-Lạc ngự tại Kim Tự Tháp ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới nơi cơi thiêng liêng. C̣n Đức Phật A-Di-Đà, trước đây là Giáo chủ CLTG, nay cũng giao quyền lại cho Đức Phật Di-Lạc, và Ngài cũng vào ngự nơi Lôi Âm Tự. (Vào Lôi Âm kiến A-Di).
Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, tại Ṭa Thánh Tây Ninh cũng như tại các Thánh Thất địa phương, đều có thiết Đại Lễ cúng Vía Đức Phật Thích Ca, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại tiểu sử và công đức của Ngài.
ĐỨC LĂO TỬ
(Giáo chủ Tiên giáo)
Đức Lăo Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng trần vào thời nhà Thương bên Tàu.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ, c̣n gọi là Đức Thái Thượng Đạo Quân, là Đấng do khí Tiên Thiên hóa sanh thuở chưa tạo Thiên lập Địa.
Tiên Thiên Khí hóa,
Thái Thượng Đạo Quân.
(Kinh Tiên giáo)
Đức Thái Thượng Đạo Tổ là Ông Thủy Tổ của Đạo Tiên. Ngài có pháp lực vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cơi trần để độ những người có duyên phần, khi trở về cơi Thượng Thiên. Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, Đức Thái Thượng hiện xuống cơi trần rất nhiều lần, kể ra sau đây :
Vào thời Thái cổ nước Tàu :
- Đời Thiên Hoàng Thị, Ngài là Bàn Cổ.
- Đời Địa Hoàng Thị, Ngài là Vạn Pháp Thiên Sư.
- Đời Nhơn Hoàng Thị, Ngài là Đại Thanh Tử.
· Vào thời Thượng cổ, cũng ở nước Tàu :
- Đời vua Phục Hy, Ngài là Huất Hoa Tử.
- Đời vua Thần Nông, Ngài là Xích Tùng Tử.
- Đời vua Huỳnh Đế, Ngài là Quảng Thành Tử.
- Đời vua Thiếu Hạo, Ngài là Tùy Ưng Tử.
- Đời vua Chuyên Húc, Ngài là Xích Tinh Tử.
- Đời vua Nghiêu, Ngài là Vụ Thành Tử.
- Đời vua Thuấn, Ngài là Y Thọ Tử.
- Đời vua Hạ Vơ, Ngài là Chân Hành Tử.
- Đời vua Thành Thang, Ngài là Tích Tắc Tử.
Đến đời vua Vơ Đinh nhà Thương (1324 trước Tây lịch), Đức Thái Thượng Đạo Tổ mới giáng sanh xuống trần là Lăo Tử. Việc giáng sanh của Ngài rất huyền diệu phi thường.
Theo truyền thuyết kể lại, vào đời vua Bàn Canh nhà Thương (1461 trước Tây lịch), có một nàng con gái gọi là Ngọc Nữ vừa được 8 tuổi, con của một gia đ́nh đạo đức, ra chơi sau vườn, thấy trên cây lư có một trái chín thật ngon, cô liền hái ăn. Ăn xong, cô cảm thấy mỏi mệt và có thai. Cha của Ngọc Nữ thấy sự lạ kỳ, liền toán quẻ Âm Dương, đoán biết có một vị Đại Tiên giáng trần trong bụng con gái của ḿnh, nên mừng rỡ và nuôi con gái rất kỹ.
Nàng Ngọc Nữ chịu mang thai như vậy măi cho đến già mà không đẻ. Đến năm Ngọc Nữ 80 tuổi, tức là đă mang thai ngót 72 năm, lúc đó đă qua 3 đời vua nhà Thương là : Vua Bàn Canh, vua Tiểu Tân, vua Tiểu Ất, và bắt đầu đời vua Vơ Đinh (1324 trước Tây lịch), Bà Ngọc Nữ thấy trăng tỏ, bèn đi dạo chơi nơi vườn. Khi đi ngang cội cây lư ngày xưa th́ đứa con từ trong bụng theo nách mẹ nhảy ra ngoài. Bà Ngọc Nữ giựt ḿnh kinh hăi, coi lại nách ḿnh liền lại như thường. Đứa con nhảy ra, đă ở trong bụng mẹ 72 năm nên đầu tóc bạc trắng, nên mới gọi là Lăo Tử (Con già). Lúc đó là giờ Sửu ngày 15 tháng 2 âm lịch năm Canh Th́n.
Lăo Tử chỉ cây Lư bảo rằng đó là họ của Ngài. Ngài xưng hiệu là Lăo Đam, tự là Bá Đương, lại mỗi bên tai có 3 lỗ nên c̣n gọi Ngài là Lư Nhĩ. Ngài có miệng rộng, răng thưa, thiên đ́nh cao, râu tốt, mắt vắn, tai dài, sóng mũi cao lớn như chẻ hai, trên trán có đường nhăn như 3 chữ Tam Thiên. Cội cây Lư, nơi giáng sanh của Đức Lăo Tử, ở tại xóm Khúc Nhơn, làng Lại, huyện Khổ, nước Sở, ngày nay thuộc tỉnh An Huy, tỉnh Hồ Nam.
Do đó, trong Kinh Tiên giáo có câu :
Nhị ngoạt thập ngũ,
Phân tánh giáng sanh.
Nghĩa là : Ngày 15 tháng 2,
Chiết chơn linh giáng sanh xuống cơi trần.
Đức Lăo Tử có giáng cơ cho biết năm giáng sanh của Ngài trong 4 câu thơ sau đây :
LƯ đào mầm tược tượng long lân,
LĂO luyện đơn thành nhị xác thân.
TỬ phủ ngồi tu lo nấu thuốc,
GIÁNG sanh Thương đợi Vơ Đinh quân.
Khoán thủ 4 chữ : Lư Lăo Tử giáng, và câu thơ chót có nghĩa là : Giáng sanh vào thời nhà Thương, đợi đến vua Vơ Đinh mới chào đời.
Hết thời nhà Thương, qua đến thời nhà Châu, đời vua Thành Vương (1115 trước Tây lịch), Lăo Tử có ra làm quan Trụ Hạ Sử tại Tàng Thư Viện nhà Châu để có cơ hội nghiên cứu Thái Cực Đồ. Ngài độ được Từ Giáp là người giữ Tàng Thư Viện, và sau đó, hai thầy tṛ từ chức để đi dạo các nước Thiên Trúc và Tây phương. Đến đời vua Châu Khương Vương, nối tiếp vua Thành Vương, Lăo Tử trở về, đặng 3 năm th́ Ngài lại đi giáo đạo miền Tây vức. Ngài ngồi xe trắng trâu xanh do Từ Giáp đánh xe, khi đến ải Hàm Cốc, quan Doăn giữ ải tên là Hỷ (nên thường gọi là Doăn Hỷ) coi Thiên văn biết có một vị Đại Thánh sắp đi qua ải, nên chuẩn bị mặc triều phục nghinh tiếp. Khi thấy Đức Lăo Tử tới, biết Ngài là Thánh nhân nên tôn Lăo Tử làm thầy, xin theo học đạo.
Nguyên Ông quan Doăn Hỷ nầy là chơn linh của Nguơn Thủy Thiên Tôn giáng trần. Khi Bà mẹ có nghén Ông th́ chiêm bao thấy một đoạn lụa đỏ từ Trời sa xuống vấn quanh ḿnh, sau sanh ra Doăn Hỷ th́ thấy sen mọc quanh nhà trổ bông. Ngài lớn lên, con mắt sáng như sao, râu dài, tướng tốt, có tài xem Thiên văn. Khi làm quan Doăn giữ ải Hàm cốc, Doăn Hỷ nh́n lên bầu Trời thấy một vầng mây tím bay ngang từ huớng Đông qua hướng Tây, Ngài biết đó là điềm có Thánh nhân sắp đi qua ải về hướng Tây, nên chuẩn bị chu đáo để nghinh tiếp.
Do đó, trong Kinh Tiên giáo có câu :
Tử khí đông lai,
Quảng truyền Đạo đức./
Nghĩa là : Vầng khí mây màu tím từ hướng Đông bay tới,
Rộng truyền Kinh Đạo Đức.
Nhắc lại, khi Lăo Tử đến ải Hàm Cốc, thấy Doăn Hỷ có ḷng thành nên bằng ḷng ở lại ải ngót 3 tháng để dạy đạo cho Doăn Hỷ. Khi thấy Đức Lăo Tử chuẩn bị ra đi th́ Doăn Hỷ bạch thầy xin cho biết danh tánh và t́nh nguyện đi theo thầy.
Đức Lăo Tử đáp :
- Ta sanh ra đă nhiều đời, tên họ có biết bao nhiêu mà kể. Hiện thời, người đời gọi Ta là Lăo Tử. Ngươi có ḷng muốn theo Ta, song ngươi mới tu luyện c̣n non, chưa từng biến hóa thần thông, th́ theo Ta sao đặng. Ngươi cứ tu hành theo phép đă dạy cho lâu th́ sau nầy cũng được như Ta, đi đâu cũng đặng.
Nói rồi, Đức Lăo Tử truyền cho Doăn Hỷ quyển sách Đạo Đức Kinh gồm 5363 chữ, dặn rằng :
- Ngươi cứ theo sách nầy mà học, tu đúng phép 1000 ngày, rồi đi qua nước Thục, t́m Ta tại chợ Thanh Dương.
Nói xong, Đức Lăo Tử lên xe trắng trâu xanh, Từ Giáp đánh xe, hiện hào quang đi về hướng Tây mất dạng. Doăn Hỷ ngó theo thầy, lạy tạ. Sau đó, Doăn Hỷ cứ học theo Đạo Đức Kinh mà tu, lâu ngày trở nên thông huệ, tự viết ra được một cuốn sách gồm 36 bài gọi là Kinh Tây Thăng.
Gần đến kỳ ước hẹn với thầy, Doăn Hỷ sửa soạn đi qua nước Thục để t́m thầy y như lời thầy đă dặn. Khi đến nước Thục, Doăn Hỷ hỏi thăm chợ Thanh Dương ở đâu th́ không một ai biết cả.
Lúc ấy, Đức Lăo Tử đă trở lại Thiên Cung, rồi lại xuống trần đầu kiếp vào nhà họ Lư ở nước Thục, là nhà đạo đức hiền lương. Khi vợ họ Lư sanh được bé trai ít tháng th́ có một con dê xanh (Thanh dương) đến chơi giỡn với bé. Đó là Đức Lăo Tử dặn con Thanh dương ở Thiên cung hiện xuống.
Ngày kia con dê xanh chạy đâu mất, cậu bé khóc hoài. Họ Lư phải sai đầy tớ đi khắp nơi t́m kiếm, bắt gặp dê xanh dẫn về, đi ngang qua một cái chợ. Doăn Hỷ đang lúc hỏi thăm để t́m chợ Thanh dương, bỗng thấy có người dắt con dê xanh đi qua chợ, liền chợt nghĩ rằng chắc thầy ḿnh đang ở chỗ nầy. Nghĩ vậy, Doăn Hỷ liền chạy theo người dắt dê xanh hỏi :
- Chú dắt con dê nầy đi đâu vậy ?
Người ấy đáp :
- Chủ tôi có sanh một cậu trai, cách ít tháng có con dê nầy tới chơi với cậu nhỏ. Bữa kia nó đi mất, cậu nhỏ cứ khóc hoài. Chủ tôi sai tôi đi t́m kiếm mà dắt về.
Doăn Hỷ đi theo người đầy tớ ấy đến nhà th́ bảo người đầy tớ :
- Chú vào thưa với cậu nhỏ là có Doăn Hỷ đến t́m.
Anh đầy tớ cười thầm : Cậu nhỏ chưa giáp thôi nôi, biết chi mà thưa với gởi, nhưng anh ta cũng vào nói :
- Có Doăn Hỷ đến t́m cậu.
Cậu bé nghe nói thế liền ngồi dậy đáp :
- Doăn Hỷ y lời, không đến trễ.
Kế đó Doăn Hỷ bước vào. Bỗng thấy cậu bé vùng lớn lên như người thường, ngồi trên ṭa sen, hào quang sáng ḷa. Cả nhà đều kinh hăi. Người ấy nói :
- Ta là Lăo Tử đầu thai một lần nữa.
Doăn Hỷ mừng rỡ, đến lạy thầy. Lăo Tử nói :
- Khi trước, Ta chẳng dắt ngươi theo v́ sợ ngươi tu không bền chí. Nay ngươi đă tu luyện kỹ lưỡng, hào quang ẩn ẩn muốn ḷa.
Nói rồi, Đức Lăo Tử niệm chú, truyền cho Thần Tiên xuống hầu, phong Doăn Hỷ phục chức Nguơn Thủy Chưởng giáo, cai trị 8 vạn Thần Tiên, lại truyền phép cho cả nhà họ Lư tu thành Tiên hết thảy. Về sau, đến đời vua Châu Kỉnh Vương, Đức Khổng Tử qua kinh đô nhà Châu học Lễ, nghe nói có Đức Lăo Tử tại đó, liền đến xin ra mắt và hỏi Đức Lăo Tử về Lễ. (Chuyện gặp gỡ nầy có chép trong sách Sử Kư của Tư Mă Thiên). Đức Khổng Tử chủ trương theo các nghi lễ của các vua đời trước, nhưng Đức Lăo Tử bác bỏ ư kiến đó, nói rằng :
- Những người mà Ông nói đó đều tan xương nát thịt cả rồi, chỉ c̣n lời nói của họ mà thôi. Vả lại, người quân tử gặp thời th́ xe ngựa nghinh ngang, không gặp thời th́ tay vịn nón lá mà đi chơn không. Tôi nghe nói : Người buôn giỏi th́ biết giấu của báu, khiến người ta thấy dường như không có hàng; người quân tử có đức tốt th́ diện mạo thường như ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái ḷng ham muốn nhiều , cái vẻ hăm hở cùng cái khí tham lam đi, những thứ ấy đều không ích chi cho Ông. Tôi chỉ nói với Ông có thế thôi.
Đến khi Đức Khổng Tử cáo từ, Đức Lăo Tử tiễn Đức Khổng Tử ra cửa và nói :
- Tôi nghe nói : Người giàu sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau. Tôi không thể làm người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức, xin có lời nầy tiễn Ông : Kẻ thông minh và sâu sắc là gần cái chết v́ họ khen chê người ta một cách đúng đắn; kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy hiểm đến thân ḿnh v́ họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách nào để giữ ḿnh, kẻ làm tôi cũng không có cách ǵ để giữ ḿnh.
Ư của Đức Lăo Tử, khi nói ra các lời trên với Đức Khổng Tử, là Ngài chống lại sự thông minh, sự Trung và sự Hiếu, là những nguyên lư mà Đức Khổng Tử đang chủ trương, bởi v́ : Có trí khôn th́ dễ nguy, nếu cứ theo Trung và Hiếu th́ cứ hoàn toàn bị lệ thuộc vào vua và vào cha mẹ, khó ḷng được sống tự do tự tại, ung dung thơ thới.
Đức Khổng Tử ra về, nói với các học tṛ :
- Con chim, ta biết nó bay; con cá ta biết nó lội, con thú ta biết nó chạy. Đối với loài chạy th́ ta có thể dùng lưới để săn, đối với loài lội th́ ta có thể dùng câu để bắt, đối với loài bay th́ ta có thể dùng cung tên mà bắn, đến như con rồng cỡi mây cỡi gió lên Trời, ta không sao biết được. Hôm nay, gặp được Lăo Tử, Ông ta có lẽ là con rồng chăng ?
Kể từ đó về sau, Đức Lăo Tử không đầu thai xuống trần nữa. Khi biết người nào có duyên phần th́ Ngài dùng thần thông hiện xuống cơi trần để dạy đạo cho người ấy tu luyên, rồi Ngài trở lại Cung Tiên.
Đến đời nhà Tấn, Đức Lăo Tử có hiện xuống xưng là Hà Thượng Công dạy An Kỳ học đạo.
Đến đời vua Hán Văn Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống trần, xưng là Quảng Thành Tử. Hán Văn Đế rất mộ đạo, sai sứ đến rước về triều. Quảng Thành Tử nói :
- Lẽ nào không đích thân tới rước mà lại sai sứ đến ?
Sứ giả về tâu lại, Hán Văn Đế đến gặp Quảng Thành Tử, nhà vua nói :
- Ở trong nước là bề tôi của vua, Thầy tuy có đạo mặc dầu, song cũng là dân của Trẫm, sao không chịu sụt lại một chút mà làm kiêu như vậy ? Hay là Trẫm không làm được họa phước cho thầy chăng ?
Quảng Thành Từ nghe vua nói như vậy, liền cất ḿnh bay lên cao độ 100 thước, ngồi trên thinh không, ngó xuống nói với vua Hán Văn Đế rằng :
- Nay, trên chẳng tới Trời, dưới chẳng tới Đất, Bệ hạ làm họa phước cho ta sao đặng.
Vua Hán Văn Đế biết lỗi, liền bước xuống xe làm lễ, xin thọ giáo. Quảng Thành Tử đưa cho nhà vua một cuốn kinh bảo cứ học theo đó mà tu luyện. Qua đến đời vua Hán Thành Đế, Đức Lăo Tử lại hiện xuống tại suối Khúc Dương , truyền đạo cho Vu Kiết. Đời vua Hán An Đế, Đức Lăo Tử truyền Kinh Tội Phước Tân Khoa cho Lưu Tiên. Đời vua Hán Trinh Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống truyền kinh Bắc Đẩu cho Trương thiên Sư. Đời vua Hán Hoàn Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống núi Thiên Thai truyền kinh Bác Động cho Vạn Niên Tiên sinh. Đời vua Hán Linh Đế, Đức Lăo Tử hiện xuống truyền kinh cho Trương thiên Sư một lần nữa.
Qua đời nhà Đường, Đức Lăo Tử hiện xuống tại núi Dương Giác, truyền đạo cho Đường Công. Đời vua Đường Cao Tổ, có người ở Phổ Châu, tên là Thiện Hành, đi ngang qua núi Dương Giác, gặp một Ông già mặc áo trắng, gọi đến nói rằng :
- Ngươi về tâu lại với Đường Thiên tử : Thái Thượng Lăo Quân là Ông nội.
Đường Cao Tổ hay tin, liền lập miếu thờ tại núi Dương Giác, và tôn Đức Lăo Tử là " Huyền Nguơn Hoàng Đế ".
Hồi thời nhà Châu, Đức Lăo Tử có hiện xuống truyền đạo cho Ông Lư Ngưng Dương, tu hành đắc đạo thành Tiên, hiệu là Lư Thiết Quày (thường gọi là Lư Thiết Quả), đứng đầu Bát Tiên. (Xem sự tích Bát Tiên trong Phần thứ 6).
Đức Thái Thượng Đạo Tổ có một kiếp giáng sanh xuống trần là Lăo Tử, nên Ngài cũng được gọi là Thái Thượng Lăo Quân. Tóm lại, từ thời tạo dựng Trời Đất và có nhơn loại đến nay, không có thời nào mà Đức Thái Thượng Đạo Tổ không giáng trần để độ những người có căn lành tu hành đắc đạo.
Ngài do Khí Tiên Thiên hóa sanh, nên Ngài có pháp thuật vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cơi trần, khi trở về cơi Thượng Thiên, khi đầu thai xuống trần mang xác phàm để dễ truyền đạo và giáo hóa nhơn sanh.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thái Thượng Đạo Tổ không giáng sanh nữa, mà Ngài chỉ dùng huyền diệu cơ bút để giáng cơ dạy đạo. Ngài giao cho Đức Đại Tiên Trưởng Lư Thái Bạch thay mặt Ngài cầm quyền Tiên giáo.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, có một bài Thánh giáo rất hay của Ngài dạy Ông Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu, Đạo hiệu Mỹ Ngọc, xin trích ra vài đoạn :
" Cơ Trời mầu nhiệm đối với Đời mà máy Thiên cơ đối với Đạo, lại c̣n huyền vi thậm trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao kiến đến đâu cũng chưa đạt thấu được. Những vai tuồng của Chí Tôn sắp đặt trên sân khấu Đạo, nếu so sánh lại chẳng khác chi những bậc nguyên nhân lănh phận sự d́u đời từ xưa đến nay mà thôi.
Muốn an tâm tĩnh trí và đè nén lửa ḷng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, th́ mới khỏi bực tức với những tṛ đă v́ mạng lịnh thiêng liêng phô diễn nơi thâm hiểm nặng nề nầy. . . . .
Cười . . . Trách nhậm là trách nhậm, muốn làm th́ dầu bao nhiêu cũng gọi là thiếu, dẫu ngày nào cũng gọi là chẳng sớm, sớm là sớm nơi cái tâm bất định mà thôi. Chí Tôn đă v́ nỗi con cái của Ngài mà sửa chỉnh bước đường, th́ Hiền hữu lại há không v́ sự yêu đương quí hóa ấy mà sửa đổi tâm trí cho quảng đại sao ?
Tà Chánh, Cười . . . Bần đạo nói thiệt, cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có sự may, trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường được. Điều cần là nên làm mà thôi. Nếu luận Tà Chánh th́ chưa một ai dám, c̣n mang xác phàm, xưng tụng ḿnh là Chánh. Cái Tà, v́ Thiên thơ xử dụng, Tà v́ cơ thử thách của Tam Giáo Ṭa, Tà v́ những quỉ xác ma hồn lẫn lộn của Quỉ vương để làm cho công phu lỡ dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy, ngày sau đều có sự biến đổi thiêng liêng, hoặc có một kết quả.
Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ TÂM và những công nghiệp đă gây thành cho sanh chúng."(TNHT. II. 94)
TIỂU SỬ ĐỨC KHỔNG PHU TỬ
(Giáo chủ Nho giáo)
Đức Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sanh ngày 27 tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất (551 trước Tây lịch), đời vua Châu Linh Vương năm thứ 21 nhà Châu, tương ứng với đời vua Lỗ Tương Công nămthứ 22, tại làng Xương B́nh, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, bây giờ là Tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa. Đức Khổng Tử là ḍng dơi của Vi Tử Khải và Vi Tử Diễn, 2 người nầy là anh ruột của vua Trụ, con của vua Đế Ất nhà Thương (cũng c̣n gọi là nhà Ân).
Sau khi Châu Vơ Vương diệt vua Trụ, mở ra nhà Châu, Ông Châu Công Đán cho Vi Tử Khải làm vua nước Tống, gọi là Tống Công, để trông nom việc tế tự các vua nhà Thương. Vi Tử Khải mất, em là Vi Tử Diễn lên thay.
Cháu 13 đời của Vi Tử Diễn là Thúc Lương Ngột, làm quan Đại phu nước Lỗ, là thân phụ của Đức Khổng Tử. Ngài lấy họ Khổng, bởi v́ Thúc Lương Ngột là ḍng dơi của Khổng Phùng Thúc, biệt lập ra họ Khổng kể từ Khổng Phụ Gia, sau 5 đời Công Khanh thế tập ở nước Tống. Thúc Lương Ngột có người vợ cả họ Thi, sanh được 9 người con gái, một người vợ lẽ sanh được một con trai nhưng bị què một chân, tên là mạnh B́, tự là Bá Ni. Năm Thúc Lương Ngột 70 tuổi, sợ không có người kế tự, mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn.
Họ Nhan có 5 người con gái đều chưa gả chồng, có ư chê Thúc Lương Ngột quá già, mới bảo với các con rằng :
- Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan Đại phu ở Châu Ấp đó không?
Bốn người con gái lớn đều làm thinh, người con gái út là Trưng Tại đứng dậy thưa rằng :
- Phép làm con gái, khi c̣n ở nhà th́ theo lời cha, cha đặt đâu con xin ngồi đó.
Họ Nhan nghe con gái út nói thế th́ lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột. Trưng Tại đă kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi không có con trai nối dơi, nên cùng nhau vào núi Ni Sơn cầu tự. Khi Trưng Tại trèo lên núi Ni sơn, bao nhiêu lá cây đều rung động lên cả.
Khi làm lễ cầu tự xong, đi trở xuống th́ lá cây lại rủ xuống như cũ. Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy Thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng :
- Sau nầy, nàng sẽ sanh con Thánh, nhưng khi nào lâm sản th́ nên vào ở trong hang núi Không Tang. Đến khi nàng thức giấc tỉnh dậy th́ biết ḿnh có thai.
Một hôm khác, Trưng Tại mơ mơ màng màng như người chiêm bao, chợt thấy một Ông già đến đứng ở sân, tự xưng là Ngũ Tinh, dắt theo một con thú giống như con trâu con mà lại có một sừng, ḿnh có vằn. Con thú ấy trông thấy Trưng Tại th́ nằm phục xuống và nhả ra một cái ngọc xích, trên đó có thấy đề chữ : "Con nhà Thủy Tinh, nối đời Suy Châu mà làm vua không ngôi". Trưng Tại biết là điềm lạ, liền lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy.
Khi tỉnh dậy, Trưng Tại thuật điềm chiêm bao ấy cho chồng nghe. Thúc Lương Ngột nói :
- Con thú ấy là con kỳ lân.
Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi hang núi Không Tang ở đâu ?
Thúc Lương Ngột nói :
- Núi Nam sơn có một cái hang đá, tục gọi là hang Không Tang.
Trưng Tại liền sửa soạn đến đó ở và sanh đẻ trong hang Không Tang đúng theo lời Thần nhân mách bảo. Đêm hôm sanh ra Khổng Tử, có 2 con rồng xanh từ trên Trời bay xuống nằm phục ở 2 bên sườn núi và có 2 vị Thần Nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại. Gội xong th́ biến đi. Khi Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một suối nước nóng chảy ra để cho Trưng Tại tắm. Tắm xong th́ suối cạn ngay.
Thúc Lương Ngột nói :
- V́ ta cầu tự nơi núi Ni sơn mà được đứa bé nầy, nên ta đặt tên cho nó là Khâu, tự là Trọng Ni.
Trưng Tại biết đứa con nầy sẽ làm nên việc lớn, nên hết sức nuôi nấng và chăm sóc con. Ông Khổng Tử có tướng lạ lắm : Môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng và cao, khi lớn, ḿnh cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), có tánh ham học.
Năm Khổng Tử lên 3 tuổi th́ cha mất. Ngài sống với mẹ trong cảnh nhà nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học, Ngài chơi với trẻ hàng xóm, thích bày tṛ cúng tế.
Năm 15 tuổi, lập chí học tập.
Năm 19 tuổi, Ngài cưới vợ, vợ của Ngài là con của họ Thượng Quan nước Tống.
Năm 20 tuổi, vợ Ngài sanh đặng một con trai. Hôm đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lư ngư), nên nhân đó, Ngài đặt tên con là Lư tự là Bá Ngư, để tỏ ḷng tôn trọng vật của vua ban tặng. Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư, sau theo học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung.
1. Đức tánh của Đức Khổng Tử :
Đức Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc ǵ, Ngài cũng để ư xem xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng tận mới thôi. Tánh Ngài ôn ḥa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc ǵ cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào Thiên mệnh.
2. Thời kỳ tham chánh và dạy học :
Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và gạt lúa. Sau đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi ḅ, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.
Năm Ngài 25 tuổi th́ chịu tang mẹ.
Năm 29 tuổi, Ngài học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ. Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng Đức Khổng Tử đă nổi tiếng là người học rộng, biết nhiều, nên quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ, cho 2 người con trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo Ngài học Lễ.
Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô nhà Châu, để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, nhưng v́ nhà nghèo, không đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thôi. Học tṛ Ngài là Nam Cung Quát nghe vây, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền ban cho Ngài một cổ xe song mă và vài tên quân hầu cận để đưa Ngài và Nam Cung Quát đi Lạc Dương. Đến nơi, Đức Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xă đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ.
Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ th́ Ngài đến quan sát và hỏi han cho tường tận. Ngài đến gặp Trành Hoành để hỏi về Nhạc. Khi ở Lạc Dương, Đức Khổng Tử c̣n t́m đến gặp Đức Lăo Tử để hỏi về Lễ. (Xem trở lại Tiểu sử của Đức Lăo Tử để biết việc đối đáp của 2 vị Thánh nhân). Đức Khổng Tử ở Lạc Dương khảo sát các việc xong th́ trở về nước Lỗ. Từ đó, sự học của Ngài càng rộng hơn nhiều nên học tṛ xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng Ngài vào việc nước.
Được mấy năm, trong nước Lỗ, Quư B́nh Tử khởi loạn. Ngài theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Ở đây Ngài học được Nhạc thiều. Tề Cảnh Công mời Ngài tới để hỏi việc Chánh trị. Vua Tề rất khâm phục, muốn đem đất Ni Khê phong cho Ngài, nhưng quan Tướng Quốc nước Tề là Yến Anh ngăn cản không cho.
Năm sau, Ngài trở về nước Lỗ, thấy họ Quư dùng Dương Hổ để chuyên quyền, ư muốn tiếm đoạt. Ngài quay về quê lo việc dạy học, và nghiên cứu cho tường tận Đạo học của Thánh hiền. Lúc đó Ngài được 36 tuổi. Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định Công, Ngài được 51 tuổi, được vua Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở Ấp Trung Đô, tức là đất Kinh thành. Một năm sau, 4 phương lấy chính sự của Ngài làm khuôn mẫu.
Năm Lỗ Định Công thứ 10 (500 năm trước Tây lịch), Ngài pḥ vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Công ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ 3 khoảnh đất ở Quy Âm mà Tề đă chiếm của Lỗ từ mấy năm trước. Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi thăng lên Đại Tư Khấu (H́nh Bộ Thượng Thơ) coi việc h́nh án. Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn lộn, gian phi trộm cắp không c̣n nữa, xă hội được an b́nh thạnh trị.
Sau 4 năm, Lỗ Định Công phong Ngài lên làm Nhiếp Tướng Sự (Tướng Quốc), coi việc Chánh trị trong nước. Ngài cầm quyền được 7 ngày th́ tâu với vua Lỗ xin giết gian thần Thiếu Chính Măo để chỉnh đốn quốc chính.
Đức Khổng Tử giết Thiếu Chính Măo :
Thiếu Chính Măo là một nịnh thần rất nguy hiểm dưới trào Lỗ Định Công. Bấy giờ, Đức Khổng Tử đang làm quan Tướng Quốc nước Lỗ. Quư Tôn Tư, một vị Đại Thần quyền thế trong triều, nhưng luôn luôn hỏi ư kiến của Đức Khổng Tử mỗi khi có một quyết định trong công việc trị nước. Nhưng phần Thiếu Chính Măo, khi Đức Khổng Tử nói ra câu ǵ th́ liền gièm pha khiến cho người nghe phân vân và đôi khi bị mê hoặc.
Đức Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định Công :
- Nước Lỗ không cường thịnh lên được là v́ trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh. Thí dụ như muốn trồng lúa tốt tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt (dùng vào việc h́nh) trong nhà Thái miếu bày ra ở dưới Lưỡng quán để dùng vào việc h́nh. Lỗ Định Công thuận cho.
Sáng hôm sau, Lỗ Định Công truyền cho các quan triều đ́nh hội nghị để bàn việc phá thành ấp xem lợi hại thế nào. Các quan người nói nên phá, người nói không nên phá. Thiếu Chính Măo đón ư Đức Khổng Tử, nói rằng :
- Phá thành có 6 điều tiện :
1/. Để tôn trọng quyền vua không ai bằng.
2/. Để tôn trọng cái quyền thế Đô thành.
3/. Để ức quyền tư môn.
4/. Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không chỗ nương cậy.
5/. Để yên ḷng 3 nhà : Mạnh, Thúc, Quư.
6/. Để khiến cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm mà phải kính phục.
Đức Khổng Tử tâu với Lỗ Định Công :
- Thành ấp nay đă thế cô c̣n làm ǵ được, huống chi Công Liễm Dương vẫn có ḷng trung với vua, sao dám bảo là lộng quyền. Thiếu Chính Măo dùng lời nói khéo để làm loạn chánh trị, khiến vua tôi ly gián, cứ theo phép th́ nên giết.
Các quan trong triều tâu :
- Thiếu Chính Măo là người danh giá ở nước Lỗ ta, dầu có nói lầm đi nữa cũng chưa đến tội chết.
Đức Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định Công :
- Thiếu Chính Măo là người dối trá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi th́ việc chánh trị không thi hành nổi. Xin Chúa Công cho đem phủ việt ra để trị tội. Đức Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu Chính Măo đem đến Lưỡng quán mà giết đi. Các quan trong triều đều sợ hăi, xám xanh cả mặt. Ba nhà : Mạnh, Thúc Quư, trông thấy cũng đều kinh sợ.
Từ khi giết xong Thiếu Chính Măo, Lỗ Định Công và 3 nhà Mạnh, Thúc, Quư mới một ḷng nghe theo lời của Đức Khổng Tử. Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn kỷ cương trong nước, dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sĩ, nên dân không c̣n nhiễu loạn mà chánh trị mỗi ngày một hay.
Ba tháng sau, phong tục biến cải cả : Các nhà buôn gà và heo không dám nhồi cám để dối người mua; trong khi ra đường, trai gái đi phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi ngoài đường th́ không ai lượm, người nước khác du lịch đến nước Lỗ được tiếp đăi tử tế, không để cho thiếu thốn. Dân nước Lỗ có làm một bài ca để tán tụng công đức của Khổng Tử.
Bài ca ấy được truyền tụng sang nước Tề. Tề Cảnh Công lo ngại nói rằng :
- Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu ắt nên nghiệp Bá, tất họa đến nước Tề, ta biết làm thế nào ?
Quan Đại Phu Lê Di tâu rằng :
- Chúa Công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không lập cách ngăn đi. Tề Cảnh Công nói :
- Nước Lỗ giao quyền chánh trị cho Khổng Khâu, ta dùng cách ǵ mà ngăn trở được ?
Lê Di tâu:
- Tính con người ta, hễ được cường thịnh tất sanh ḷng kiêu mạn. Xin Chúa Công lập một Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Vua Lỗ mà nhận Bộ Nữ Nhạc tất sanh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ tất Khổng Khâu phải bỏ nước Lỗ mà đi, Chúa Công mới có thể ngồi yên được.
Quả vậy, Lỗ Định Công, không nghe lời can gián của Đức Khổng Tử, nhận Bộ Nữ Nhạc th́ mê say theo, bỏ bê việc triều chánh, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho Họ Quí. Đức Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, lại có thể bị hại v́ lời gièm siễm của bọn gian thần.
Do đó, trong ngày Lễ Tế Giao, vua Lỗ không nh́n đến, cũng không đem phần thịt tế biếu cho các quan Đại Phu. Đức Khổng Tử nhân việc lỗi nhỏ của vua Lỗ mà xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu.
3. Thời kỳ chu du các nước chư Hầu :
Đức Khổng Tử cùng các học tṛ đi qua các nước : Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, để mong thuyết phục các vua chư Hầu chịu đem cái Đạo của Ngài ra ứng dụng để đem lại thái b́nh thạnh trị cho dân chúng. Nhưng cái Đạo của Ngài là Vương Đạo nên đi ngược ư đồ Bá Đạo của các vua chư Hầu và quyền lợi của các quan Đại phu nên các vua chư Hầu đều không dám dùng Ngài.
Rốt cuộc, sau 14 năm đi chu du các nước không thành công, Ngài phải trở về nước Lỗ, có quan Đại Phu Quư Khang Tử sai Công Hoa ra đón Ngài. Phu nhân của Đức Khổng Tử là bà Thượng Quan đă mất trước đó một năm, nhằm năm Lỗ Ai Công thứ 10.
4. Thời kỳ soạn sách và dạy học tṛ :
Khi trở về nước Lỗ, Đức Khổng Tử đă 68 tuổi. Ngài trở lại quê nhà để mở mang việc dạy học và soạn sách. Tổng số môn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên tới 3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị Hiền. Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh Hiền đời trước như : Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.
Ngài ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trước, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, Ngài chú giải rất kỹ. Sau đó, Đức Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu, chép những việc của nước Lỗ và của nhà Châu (Chu) liên hệ với các nước chư Hầu từ đời Lỗ Ân Công nguyên niên (721 trước Tây lịch) đến đời Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), tổng cộng là 242 năm.
Xem h́nh thể bề ngoài th́ sách Xuân Thu chỉ là một cuốn sử biên niên, lời lẽ vắn tắt, lắm chỗ h́nh như không có ư nghĩa ǵ cả, nhưng xét rơ đến tinh thần th́ thật là một bộ sách triết lư về chánh trị. Mạnh Tử là người đă hiểu rơ nghĩa của Kinh Xuân Thu, nói : " Kinh Thi hết, nhiên hậu Kinh Xuân Thu mới làm ra. Việc ở trong sách Xuân Thu là việc Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tống, văn trong sách là văn sử, nghĩa th́ Đức Khổng Tử nói rằng : Khâu nầy trộm lấy đó vậy. Nghĩa là Ngài lấy truyện ở trong các sách nước Tấn, nước Sở, nước Tề, nước Lỗ mà biểu thị cái ư nghĩa của Ngài muốn bày tỏ ra. Thời Xuân Thu lúc bấy giờ, xă hội nước Tàu loạn lạc, vua các nước chư Hầu làm nhiều điều bạo ngược và ai cũng muốn lấn quyền Thiên Tử nhà Châu. Ngài không muốn để sự phê b́nh phán đoán của Ngài động chạm đến những người quyền thế đương thời, vả lại cái học sâu xa của Ngài là cái học Tâm truyền, nên Ngài mượn lối văn viết sử , nói việc đă qua để ngụ cái vi ư của Ngài."
Sách Trang Tử cũng có nói ở thiên Thiên Hạ rằng : " Xuân Thu dĩ Đạo danh phận" : Sách Xuân Thu nói về cái đạo Danh và Phận. Vậy, ư kiến của các nhà hiền triết đời Chiến quốc, th́ sách Xuân Thu là sách để Tâm truyền cái đại nghĩa Danh và Phận, về đường Luân lư và Chánh trị, chớ không phải là sách chép sử như người ta thường hiểu lầm.
Sách Xuân Thu có 3 chủ nghĩa là : - Chính danh tự. - Định danh phận. - Ngụ bao biếm. Chủ ư của Đức Khổng Tử là tôn nhà Châu, dẫu đời bấy giờ, các nước chư Hầu có khi không muốn biết đến nhà Châu nữa, nhưng Ngài vẫn chép ngay đầu sách là : "Xuân Vương Chánh nguyệt", nghĩa là : Mùa Xuân, tháng Giêng vua nhà Châu, để tỏ cái ư vẫn nhận nhà Châu làm chủ Thiên hạ. Đức Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhưng Ngài vẫn khiêm tốn không dám nhận ḿnh là Thánh nhân.
Đối với các môn đệ, Ngài rất dễ dăi. Hễ ai theo đúng lễ đến xin học th́ Ngài không bao giờ từ chối. Ngài thâu nhận học tṛ, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Ngài mở ra một nền giáo dục b́nh dân đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài giỏi và có đức hạnh trong giới b́nh dân. Sự giáo hóa của Ngài chủ yếu là làm sao cho sáng tỏ cái đức sáng của người, chớ không gom vào trong sự truyền thụ kiến thức. Đây là một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của con người vậy.
5. Đức Khổng Tử tạ thế :
Mùa Xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què một chân bên trái phía trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc. Khi trở về, Ngài than rằng : " Ngô đạo cùng hỹ ! (Đạo của ta đến lúc cùng !). Sách Xuân Thu chép đến chuyện nầy th́ hết, nên đời sau c̣n gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh.
Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479 trước Tây lịch), một hôm Đức Khổng Tử chống gậy đi tản bộ trước nhà, vừa đi vừa hát : Thái sơn kỳ đồi hồ ! Lương mộc kỳ hoại hồ ! Triết nhân kỳ nuy hồ ! (Núi Thái sơn đổ ư ! Cây gỗ tốt hư hoại ư ! Triết nhân ṃn mỏi ư !) Học tṛ của Ngài là Tử Cống liền đến hỏi thăm Ngài. Ngài nói : " Ta biết ḿnh sắp chết."
Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi.
Mộ của Ngài ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Ba ngàn đồ đệ của Ngài đều thương tiếc và than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm. Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ để lo phụng tự trong 3 năm, riêng Tử Cống ở đó hết 6 năm mới thôi.
Chu vi đất quanh mộ của Đức Khổng Tử rộng chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học tṛ bảo nhau đi t́m các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.
6. Các triều đại phong tặng Đức Khổng Tử :
- Năm 739, vua Đường Huyền Tôn phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước : Công, Hầu, Bá.
- Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Ngài là : Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho thân phụ Ngài là Lỗ Công, phong cho thân mẫu Ngài là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị làm Vân Phu Nhân, và ra lịnh cho các tỉnh lập miếu thờ Ngài.
- Năm 1306, vua Minh Thế Tông phong tặng Ngài là Chí Thánh Tiên Sư .
- Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.
7. Văn miếu :
Văn miếu hay Văn Thánh miếu là ṭa nhà dựng lên để làm Đền thờ Đức Khổng Tử và các môn đệ của Ngài cùng với các Tiên hiền, Tiên nho qua các thời đại gồm :
a. Tứ Phối : Bốn vị Thánh cùng được phối hưởng cúng tế với Đức Khổng Tử. Tứ Phối gồm - Phục Thánh Nhan Tử (Nhan Hồi)
- Tông Thánh Tăng Tử (Tăng Sâm)
- Thuật Thánh Tử Tư (Khổng Cấp)
- Á Thánh Mạnh Tử (Mạnh Kha)
b. Thập Triết : Mười vị Hiền triết, học tṛ tài giỏi nhứt của Đức Khổng Tử. Thập Triết gồm :
- Mẫn Tổn (Mẫn Tử Khiên)
- Bá Ngưu (Nhiễm Canh)
- Trọng Cung (Nhiễm Ung)
- Tể Dư (Tử Ngă)
- Đoan Mộc Tứ (Tử Cống)
- Nhiễm Cầu (Tử Hữu)
- Trọng Do (Tử Lộ)
- Ngôn Yển (Tử Du)
- Bốc Thương (Tử Hạ)
- Chuyên Tôn Sư (Tử Trương).
c. Thất thập nhị Hiền : 72 vị học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử, nhưng ở dưới Thập Triết một bực.
Nói là Thất thập nhị Hiền, chớ thật ra chỉ có 62 vị, v́ trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết, nên phải trừ ra 10 vị.
d. Tiên Hiền, Tiên Nho : gồm 120 vị, qua các triều đại từ xưa đến nay.
8. Đức Khổng Tử trong Đạo Cao Đài :
Đức Khổng Tử là một Đấng Giáo chủ trong Tam giáo thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nhờ Đức Khổng Tử mà Nho giáo mới được hưng hạnh, và trở thành một học thuyết triết học nhân sinh có hệ thống chặt chẽ và hoàn hảo, chủ yếu dạy về Nhơn Đạo (Đạo làm Người). Không có một giáo thuyết nào dạy Nhơn Đạo hoàn hảo bằng Nho giáo.
Trong Kinh Cúng Tứ Thời của Đạo Cao Đài có Bài Kinh Nho giáo để xưng tụng công đức của Đức Khổng Tử.Ngày Đại Lễ Vía Đức Khổng Tử được chọn là ngày giáng sanh của Đức Khổng Tử, đó là ngày 27 tháng 8 âm lịch. Hằng năm, khi đến ngày nầy, tại Toà Thánh và các Thánh Thất địa phương đều có thiết lễ Đại Đàn cúng Vía Đức Khổng Tử, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại Tiểu sử của Ngài, và nói về sự ích lợi của Nho giáo đối với sự ổn định trật tự trong gia đ́nh và ngoài xă hội.
Do đó, Đức Chí Tôn mới có chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, tức là dùng tinh hoa của Giáo lư Nho giáo để dạy dỗ người đời, tái lập trật tự và đạo đức trong xă hội. Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Đức Khổng Tử có giáng cơ dạy Đạo. Sau đây, xin chép lại bài Thánh giáo nầy :
Ngày 17 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1932).
THI :
NGĂ dĩ từ chương giáo nghĩa phương,
KHỔNG văn hoằng hóa sự luân thường.
PHU thê, phụ tử, quân thần Đạo,
TỬ đệ phùng thời độ thiện lương.
DIỄN DỤ : Các sĩ cùng chư khanh nghe cho rơ : Việc Tam giáo hiệp nhứt. Từ mới mở mang Trời Đất đă có Đại Đạo. Tam giáo vốn một nhà, đời sau chia làm ba, chớ kỳ trung một bổn, kẻ thế không thông hiểu nên tranh luận giành điều chơn giả với nhau hoài. Những người xưng ḿnh là Minh Sư, thọ truyền cho đồ đệ, th́ mỗi người cũng muốn khoe tài ḿnh mà truyền khẩu với chúng sanh rằng, đạo ḿnh chánh, đạo khác th́ tà : Té ra, ḿnh là Manh Sư gạt chúng.
Nếu Đạo Tiên, Đạo Phật mà không dùng văn chương th́ lấy chi mà tả kinh diễn kệ. C̣n học Nho mà không học Đạo th́ ra người cuồng sĩ kiêu căng. Vậy khuyên mấy sĩ Ba Đạo cũng đồng t́m kiếm gốc cho minh chơn lư, đặng trước độ ḿnh, sau độ chúng. Vậy mới gọi là Chánh kỷ hóa nhơn.
Thi rằng :
THI :
Tam giáo từ xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng, vọng chia ba.
Minh tâm may hiểu đường chơn giả,
Mẫn tánh mới thông nẻo chánh tà.
Thích, Đạo tỷ như hành bộ khách,
Nền Nho ví tợ chiếc đ̣ qua.
Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
Tam giáo từ xưa vốn một nhà.
__________________ Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|